Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

Bài thảo luận triết 2: “Sản xuất hàng hóa và vận dụng vào nền kinh tế thị trường định hướng xã hôi chủ nghĩa”.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (215.79 KB, 29 trang )

BIÊN BẢN ĐÁNH GIÁ
Stt

Họ và tên

Chức
trách

Cơng việc

1

Nguyễn Thị
Dung
Nguyễn Tiến
Dũng

Thành
viên
Thành
viên

Giải pháp

2

3

Hồng Thị Hà Thành
viên


4

Đỗ Ngọc Hải

Thành
viên

5

Đỗ Việt Hằng

Nhóm
trưởng

6

Lê Thị Mỹ
Hằng

Thành
viên

7

Nguyễn Thị
Thanh Hằng
Nguyễn Thị
Thu Hằng
Nguyễn Thị
Hạnh


Thư kí

8
9

10
11

Nguyễn Thị
Hồng Hạnh
Trần Nguyên
Hạnh

Thành
viên
Thành
viên

Thực trạng nền sản
xuất hàng hóa Việt
Nam hiện nay, in bìa
đóng quyển
Điều kiện ra đời và tồn
tại, các giai đoạn hình
thành và phát triển của
sản xuất hàng hóa
Đặc điểm của sản xuất
hàng hóa Việt Nam
hiện nay

Kết luận chung đề tài,
giao việc và tổng hơp
bài viết của nhóm
Hạn chế của sản xuất
hàng hóa Việt Nam
hiện nay
Lời tựa, cảm ơn, cam
đoan, thu thập tài liệu
Phần mở đầu

Khái quát chung và
điều kiện ra đời của
sản xuất hàng hóa ở
Việt Nam
Thành
Đặc trưng và ưu thế
viên
của sản xuất hàng hóa
Thành Đánh giá thành tựu của
viên
sản xuất hàng hóa ở
Việt Nam

Tự
đánh
giá

Nhóm
đánh
giá


Kết luận


PHẦN MỞ ĐẦU
Lời tựa:
“ Sản xuất hàng hóa ra đời là bước ngoặt căn bản trong lịch sử phát triển
của xã hội lồi người, đưa lồi người thốt khỏi tình trạng “mơng muội”. Sản
xuất hàng hóa hoặc là nấc thang đưa nền kinh tế lên đến tầm cao hơn, hoặc
là nhân tố kìm hãm sự phát triển của cả xã hội.”

2


Lời cảm ơn
Sau một thời gian nghiên cứu, cuối cùng nhóm 2 cũng hồn thành sản phẩm
là bài tiểu luận này. Tuy nhiên, trong q trình hồn thành tiểu luận, cả nhóm đã
gặp một số vấn đề khó khăn. Điều may mắn của nhóm là ln nhận được sự giúp
đỡ tận tình của rất nhiều người.
Lời đâu tiên, nhóm 2 xin gửi lời cảm ơn chân thành tới giáo viên hướng
dẫn trực tiếp- thầy Phương Kỳ Sơn, hiện đang là PGS.TS- giảng viên trường Đại
học Thương Mại. Cảm ơn thầy đã ln hướng dẫn, giảng dạy tận tình cho chúng
em để chúng em hiểu rõ hơn bộ môn Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa
Mác-Lênin. Chúng em tự nhận thấy rằng mình vẫn cịn thiếu rất nhiều kiến thức
về môn học này. Nhưng sau mỗi tiết học thầy dạy, chúng em đã tích lũy thêm
được một chút kiến thức để từ đó dần lấp đẩy “ lỗ hổng kiến thức ” trước đó.
Thầy là người đã tận tình và trực tiếp hướng dẫn nhóm trong suốt q trình triển
khai và nghiên cứu đề tài, tạo điều kiện để chúng em hồn thành bài tiểu luận này.
Lời tiếp theo, nhóm xin gửi lời cảm ơn tới trường Đại học Thương Mại đã
luôn tạo điều kiện tốt nhất cho chúng em học tập, nghiên cứu để chúng em có thể

hồn thành tốt bài tiểu luận này.
Lời cuối cùng, xin cảm ơn sự đồn kết của tất cả các thành viên trong
nhóm. Các bạn từ những người xa lạ mà cùng nhau hợp tác vui vẻ, nhiệt tình để
cho ra sản phẩm ngày hơm nay.
Mặc dù đã cố gắng hồn thành bài tiểu luận trong phạm vi và khả năng cho
phép nhưng chắc chắn sẽ khơng tránh khỏi những thiếu sót. Nhóm rất mong nhận
được sự góp ý chân thành của thầy cơ và các bạn để chúng em hồn thiện bài luận
của mình.
Xin chân thành cảm ơn!

3


Lời cam đoan

Nhóm tác giả xin cam đoan với thầy giáo và cả lớp rằng bài tiểu luận là do
cả nhóm thực hiện và khơng sao chép cơng trình nghiên cứu của người khác để
làm sản phẩm riêng mình. Nhóm tự nhận trong q trình thảo luận và nghiên cứu,
nhóm đã tham khảo từ một số tài liệu khác nhau. Các thơng tin sử dụng trong bài
tiểu luận đều có nguồn gốc và được trích dẫn rõ ràng. Nhóm tác giả xin hồn tồn
chịu trách nhiệm về tính xác thực và nguyên bản của bài tiểu luận này

4


Mở đầu
1,Tổng quan tình hình nghiên cứu
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Đảng và nhà
nước ta có rất nhiều chủ trương, đường lối để phát triển nền kinh tế quốc dân.
Trong đó có việc phát triển nền kinh tế hành hóa là quan trọng nhất. Nước ta là

một nước có nền nơng nghiệp lạc hậu, kinh tế đi lên chủ yếu là sản xuất nhỏ, tự
cung tự cấp, ở một số vùng còn mang đậm dấu ấn của nền kinh tự nhiên. Lại trải
qua bao nhiệu năm chiến tranh, hứng chịu mưa bom lửa đạn của kẻ xâm lược, nền
kinh tế nước ta không thể vươn dậy nổi một cách vững chắc, hàng hóa sản xuất ra
khơng đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng của người dân. Hơn thế nữa kinh tế hàng hóa
của nước ta lại có một thời gian hoạt động theo cơ chế của nền kinh tế tập trung
chỉ huy. Do vậy việc xây dựng một quan hệ sản xuất mới tạo điều kiện cho lực
lượng sản xuất mới phát triển nhằm thúc đẩy nền sản xuất hàng hóa phát triển là
việc làm tối quan trọng của Đảng và Nhà nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội. Và từ đó, nền sản xuất hàng hóa đã trở thành nền tảng, động lực
thúc đẩy công nghiệp hóa hiện đại hóa và phát triển bền vững đất nước. Từ đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, Đảng ta cũng thể hiện quyết tâm phải chuyển nền
kinh tế cịn nhiều tính chất tự cung tự cấp sang nền kinh tế nhiều thành phần, sản
xất phải gắn liền với thị trường.
2, Tính cấp thiết của đề tài
Nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội đã cho ta kết luận rằng: Nền kinh tế quá
độ lên chủ nghĩa xã hội là nền kinh tế hàng hóa thị trường. Tầm quan trọng của đề
tài rất cấp thiết cho nền sản xuất hàng hóa của nước ta hiện nay nhằm thúc đẩy
hàng hóa phát triển.
Xuất phát từ nhận thức rõ về tầm quan trọng của việc phát triển nền kinh tế
hàng hóa ở Việt Nam,chính vì vậy nhóm em mạnh dạn lựa chọn đề tài: “Sản xuất
hàng hóa và vận dụng vào nền kinh tế thị trường định hướng xã hôi chủ nghĩa”.
3,Mục đích
Mục đích của bài thảo luận này là hiểu thế nào là nền sản xuất hàng hóa ở
Việt Nam, sự ra đời, cơ sở khách quan để tồn tại và phát triển của nền kinh tế sả
5


xuất hàng hóa ở Việt Nam và phương hướng phát triển nền sản xuất hàng hóa của
Việt Nam.

4,Mục tiêu
Mục tiêu bài thảo luận hướng đến:
Thứ nhất, có thể hiểu được bản chất của nền kinh tế sản xuất hàng hóa và
các yếu tố tác động.
Thứ hai, đưa ra cái nhìn tổng quan về thực trạng nền sản xuất hàng hóa của
nước ta hiện nay.
Thứ ba, đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm giải quyết những vấn đề
hạn chế còn tồn đọng cũng như phát huy tối đa điểm mạnh của nền sản xuất hàng
hóa trong nước.
5, Phương pháp nghiên cứu
-Phương pháp thu nhập nghiên cứu tài liệu
-Phương pháp thống kê, tổng hợp
-Phương pháp phân tích đánh giá
6, Bố cục đề tài
Phần nội dung của tiểu luận gồm hai chương:
A,Chương một: Lý thuyết về sản xuất hàng hóa.
-Điều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hóa
-Các giai đoạn hình thành và phát triển của sản xuất hàng hóa
-Đặc trưng và ưu thế của hàng hóa
B,Chương hai: Vận dụng sản xuất hàng hóa vào nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa.
-Khái quát sản xuất hàng hóa ở nước ta hiện nay
-Điều kiện ra đời của sản xuất hàng hóa ở Việt Nam
-Thực trạng nền sản xuất hàng hóa ở nước ta hiện nay
-Đánh giá thành tựu
-Hạn chế
-Giải pháp

6



PHẦN NỘI DUNG
I.

Chương 1: Lí thuyết về sản xuất hàng hóa:
Khái niệm sản xuất hàng hóa: Sản xuất hàng hố là kiểu tổ chức sản xuất
mà trong đó sản phẩm làm ra không phải để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của
chính người sản xuất ra mà là để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của người khác,
thông qua việc trao đổi mua bán.
1) Điều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hóa:
Sản xuất hàng hố ra đời và tồn tại dựa trên hai điều kiện:
– Thứ nhất: Có sự phân cơng lao động xã hội :
+ Phân công lao động xã hội là sự chuyên môn hoá sản xuất, phân chia lao
động xã hội thành các ngành, các lĩnh vực sản xuất khác nhau.
+ Phân công lao động xã hội làm cho việc trao đổi sản phẩm trở thành tất
yếu: bởi vì mỗi ngành mỗi người chỉ sản xuất một vài thứ, trong khi đó nhu cầu
cuộc sống lại địi hỏi có nhiều loại khác nhau. Vì vậy, họ cần trao đổi với nhau.
Như vậy: phân công lao động là tiền đề là cơ sở của sản xuất hàng hố. Nhưng để
SXHH ra đời chỉ có phân cơng lao động xã hội thơi thì chưa đủ mà cần phải có
điều kiện nữa (điều kiện đủ) .
– Thứ hai: Có sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế giữa những người sản
xuất có nghĩa là những người sản xuất trở thành chủ thể sản xuất, độc lập nhất
định sản phẩm làm ra thuộc quyền sở hữu của họ. Vì vậy, người này muốn tiêu
dùng sản phẩm lao động của người khác phải thông qua trao đổi mua bán hàng
hoá.
+ Sự tách biệt này là do chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất quy định. Vì chế
độ tư hữu về tư liệu sản xuất làm cho tư liệu sản xuất thuộc sở hữu cá nhân, sản
phẩm làm ra thuộc quyền sở hữu của họ. Vậy người này muốn tiêu dùng sản
phẩm lao động của người khác cần phải thông qua trao đổi mua bán hàng hóa.
+ Trong điều kiện của nền sản xuất hiện đại, sự tách biệt này cịn do các

hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất và sự tách rời quyền sở hữu và
quyền sử dụng đối với tư liệu sản xuất quy định. Vậy điều kiện thứ hai cùng có
thể hiểu là: Có chế độ tư hữu và sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất.
7


Đó là hai điều kiện cần và đủ của sản xuất hàng hố. Thiếu một trong hai
điều kiện đó thì sản xuất hàng hố khơng thể ra đời và cũng khơng thể tồn tại.
2) Các giai đoạn hình thành và phát triển của sản xuất hàng hóa:
“Trong lịch sử phát triển của nền sản xuất xã hội, có hai hình thức kinh tế rõ
rệt là kinh tế tự nhiên và kinh tế hàng hố.”
Kinh tế tự nhiên là hình thức sản xuất mà sản phẩm lao động chỉ dùng để
thoả mãn nhu cầu của người sản xuất trong nội bộ đơn vị kinh tế. Đó là kiểu sản
xuất tự cấp, tự túc, khép kín trong từng đơn vị kinh tế nhỏ, không cho phép mở
rộng các quan hệ với đơn vị kinh tế khác trong xã hội. Nền sản xuất này thích ứng
với lực lượng sản xuất chưa phát triển, lao động thủ công chiếm địa vị thống trị,
năng suất lao động cịn rất thấp trong thời kỳ cơng xã nguyên thuỷ và tồn tại phổ
biến trong thời kỳ chiếm hữu nơ lệ. Trong thời kỳ phong kiến nó tồn tại dưới hình
thức điền trang, thái ấp và kinh tế nông dân gia trưởng. Đối lập với sản xuất tự
cấp, tự túc là sản xuất hàng hoá – sản xuất ra sản phẩm để bán. Đó là hình thức tổ
chức nền sản xuất xã hội, trong đó, mối quan hệ kinh tế giữa những người sản
xuất biểu hiện qua thị trường, qua việc mua bán sản phẩm lao động của nhau.
Hình thức đầu tiên của sản xuất hàng hố xuất hiện từ thời kỳ tan rã của chế độ
công xã nguyên thuỷ và chúng tiếp tục tồn tại và phát triển ở các phương thức sản
xuất tiếp theo.
Ở các xã hội trước chủ nghĩa tư bản, sản xuất hàng hoá chủ yếu là sản xuất
hàng hố giản đơn, cịn gọi là sản xuất hàng hoá nhỏ. Sản xuất hàng hoá giản đơn
là sản xuất hàng hố của nơng dân và thợ thủ công dựa trên chế độ tư hữu nhỏ về
tư liệu sản xuất và lao động cá nhân của người sản xuất. Sản xuất hàng hoá giản
đơn đã tạo khả năng phát triển lực lượng sản xuất, thiết lập nên các mối liên hệ

kinh tế giữa các đơn vị kinh tế vốn tách biệt nhau trong nền kinh tế (các công xã,
các điền trang của chủ nô, thái ấp của quý tộc, …). Quan hệ hàng hoá phát triển
nhanh chóng ở thời kỳ chế độ phong kiến tan rã và góp phần thúc đẩy q trình
đó diễn ra nhanh chóng hơn. Hình thức điển hình của sản xuất hàng hố là sản
xuất hàng hố tư bản chủ nghĩa (cịn gọi là sản xuất hàng hố với qui mơ lớn). Đó
là hình thức sản xuất hàng hố đã phát triển ở mức độ cao và phổ biến trong lịch
sử. Trong nền kinh tế này, quan hệ hàng hoá đã phát triển, thâm nhập vào mọi
lĩnh vực, mọi chức năng của nền sản xuất xã hội; hàng hoá trở thành tế bào của
nền sản xuất xã hội. Đặc điểm của sản xuất hàng hoá tư bản chủ nghĩa là dựa trên
sự tách rời tư liệu sản xuất với sức lao động, trên cơ sở bóc lột lao động làm th
dưới hình thức chiếm đoạt giá trị thặng dư.
8


Sản xuất hàng hoá tiếp tục tồn tại và phát triển dưới chủ nghĩa xã hội. Đặc
điểm của sản xuất hàng hố xã hội chủ nghĩa là nó khơng dựa trên cơ sở chế độ
người bóc lột người và nó nhằm mục đích thoả mãn nhu cầu vật chất, tinh thần
của mọi thành viên xã hội trên cơ sở sản xuất kinh doanh. Như vậy sản xuất hàng
hoá tồn tại và phát triển ở nhiều xã hội, là sản phẩm của lịch sử phát triển sản xuất
của lồi người. Nó có nhiều ưu thế và là một phương thức hoạt động kinh tế tiến
bộ hơn hẳn so với sản xuất tự cấp tự túc.
3) Đặc trưng và ưu thế của sản xuất hàng hóa:
Sản xuất hàng hố có những đặc trưng cơ bản sau:
- Sản xuất hàng hoá là sản xuất để trao đổi, mua-bán.
+ Trong lịch sử loài người tồn tại hai kiểu tổ chức kinh tế khác nhau: sản
xuất tự cung, tự cấp và sản xuất hàng hoá.
+ Sản xuất tự cung, tự cấp: sản phẩm được sản xuất ra nhằm đáp ứng nhu
cầu tiêu dùng của chính bản thân người sản xuất như sản xuất của người nơng dân
trong thời kì cơng xã ngun thuỷ, sản xuất của những nông dân gia trưởng dưới
chế độ phong kiến v.v.

+ Sản xuất hàng hoá: để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của người khác, thông
qua việc trao đổi, mua-bán.
- Lao động của người sản xuất hàng hoá vừa mang tính tư nhân, vừa mang
tính xã hội.
+ Mang tính chất xã hội: sản phẩm làm ra để cho xã hội, đáp ứng nhu cầu
của người khác trong xã hội.
+ Nhưng tồn tại chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, thì lao động của người sản
xuất hàng hố đồng thời lại mang tính chất tư nhân, vì việc sản xuất cái gì, như
thế nào là cơng việc riêng, mang tính độc lập của mỗi người. Tính chất tư nhân đó
có thể phù hợp hoặc khơng phù hợp với tính chất xã hội, là cơ sở dẫn đến khủng
hoảng.
=>Mâu thuẫn giữa lao động tư nhân và lao động xã hội là cơ sở, mầm mống
của khủng hoảng trong nền kinh tế hàng hoá.
c. Ưu thế của sản xuất hàng hoá.
So với sản xuất tự cung, tự cấp, sản xuất hàng hố có những ưu thế sau đây:
- Sản xuất hàng hố ra đời trên cơ sở của phân cơng lao động xã hội,
chun mơn hố sản xuất.
9


=> Khai thác được những lợi thế: tự nhiên, xã hội, kỹ thuật của từng người,
từng cơ sở sản xuất cũng như từng vùng, từng địa phương.
=> Đồng thời, sự phát triển của sản xuất hàng hố lại có tác động trở lại,
thúc đẩy sự phát triển của phân công lao động xã hội, làm cho chun mơn hố
lao động ngày càng tăng, mối liên hệ giữa các ngành, các vùng ngày càng mở
rộng, sâu sắc. => Nó phá vỡ tính tự cấp, tự túc, bảo thủ, trì trệ, lạc hậu của mỗi
ngành, mỗi địa phương làm cho năng suất lao động xã hội tăng lên nhanh chóng,
nhu cầu của xã hội được đáp ứng đầy đủ hơn. Khi sản xuất và trao đổi hàng hoá
mở rộng giữa các quốc gia thì nó cịn khai thác được lợi thế giữa các quốc gia với
nhau.

- Trong nền sản xuất hàng hoá, quy mơ sản xuất khơng cịn bị giới hạn bởi
nhu cầu và nguồn lực mang tính hạn hẹp của mỗi cá nhân, gia đình, mỗi cơ sở,
mỗi vùng, mỗi địa phương, mà nó được mở rộng dựa trên cơ sở nhu cầu và nguồn
lực của xã hội. Điều đó lại tạo điều kiện thuận lợi cho việc ứng dụng những thành
tựu khoa học - kỹ thuật vào sản xuất, thúc đẩy sản xuất phát triển.
- Trong nền sản xuất hàng hố, sự tác động của quy luật vốn có của sản xuất
và trao đổi hàng hoá là quy luật giá trị, cung - cầu, cạnh tranh... buộc người sản
xuất hàng hố phải ln ln năng động, nhạy bén, biết tính tốn, cải tiến kỹ
thuật, hợp lí hố sản xuất, nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế, cải
thiện hình thức và chủng loại hàng hố, làm cho chi phí sản xuất hạ xuống đáp
ứng nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng ngày càng cao hơn.
- Trong nền sản xuất hàng hoá, sự phát triển của sản xuất, sự mở rộng và
giao lưu kinh tế giữa các cá nhân, giữa các vùng, giữa các quốc gia... không chỉ
làm cho đời sống vật chất mà cả đời sống văn hoá, tinh thần cũng được nâng cao
hơn, phong phú hơn, đa dạng hơn.
II.

Sự vận dụng sản xuất hàng hóa vào nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa
Việt Nam hiện nay:
1) Khái quát về sản xuất hàng hóa ở Việt Nam hiện nay:
Từ nền sản xuất hàng hóa giản đơn thời phong kiến tới nền kinh tế hàng hóa
sau này, nền sản xuất hàng hóa của nước ta đã khơng ngừng biến đổi và phát
triển.
Thời phong kiến, trình độ lao động, năng suất lao động nước ta chưa cao,
chính sách bế quan ở một số triều đại kìm hãm sự lưu thơng hàng hóa. Trong thời
10


kì bao cấp trước đổi mới, nền kinh tế hàng hóa đồng thời là nền kinh tế kế hoạch.
Biến hình thức tiền lương thành lương hiện vật, thủ tiêu động lực sản xuất, thủ

tiêu cạnh tranh và lưu thông thị trường. Sự nhận thức sai lầm của nước ta thời kì
này đã khiến nền kinh tế suy sụp, sức sản xuất hàng hóa xuống dốc khơng phanh.
Từ năm 1976 đến 1980, thu nhập quốc dân tăng rất chậm, có năm còn giảm.
Từ năm 1986 sau khi Đảng và Nhà nước đã kịp thời chuyển đổi nền kinh tế
sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế sản xuất
hàng hóa nước ta đã có bước phát triển mạnh mẽ. Thời kì này có thể chia thành 3
giai đoạn:
• Giai đoạn 1986 – 2000: giai đoạn chuyển tiếp của nền kinh tế Việt Nam từ
nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang vận hành theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước.
• Giai đoạn 2000 – 2007: đây là giai đoạn nền kinh tế hàng hóa ở nước ta
phát triển mạnh mẽ.
• Giai đoạn 2007 đến nay: kinh tế Việt Nam có dấu hiệu chững lại. Tăng
trưởng GDP giảm tốc và lạm phát kéo dài. Các chính sách đưa ra khơng đem lại
hiệu quả.
Trong khoảng thời gian gần đây, nền kinh tế hàng hóa Việt Nam có xu
hướng sụt giảm. Tuy khủng hoảng trong thời gian dài nhưng năm 2013, nền kinh
tế nước ta đã có những dấu hiệu phục hồi. Cơ cấu ngành kinh tế Việt Nam từ sau
khi đổi mới tới nay đã có nhiều thay đổi đáng mừng. Có sự chuyển đổi tích cực từ
khu vực I (nơng lâm nghiệp và thủy sản) sang khu vực II (công nghiệp và xây
dựng) và khu vực III (dịch vụ).
Cơ cấu thành phần kinh tế nước ta cũng đã có sự tiến bộ. Từ nền kinh tế
mang nặng tính cơng hữu, lấy kinh tế quốc doanh là hình thức cao nhất, đến nay,
nước ta đã có nền kinh tế nhiều thành phần với sự tham gia ngày càng mạnh mẽ
của kinh tế ngồi nhà nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Tuy đã đạt
được một số thành tựu nhất định nhưng nền kinh tế hàng hóa Việt Nam vẫn chưa
thể hiện được một cách triệt để những ưu thế của mình. Bên cạnh đó là sự tồn
đọng những hạn chế của nền sản xuất hàng hóa nước ta cần được sớm giải quyết:
• Về thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển: lực lượng sản xuất của Việt Nam
dù đã có sự phát triển lớn so với trước khi đổi mới, song hiện nay trình độ lao

động của Việt Nam cịn kém.
• Về đẩy mạnh q trình xã hội hóa sản xuất: năng suất lao động xã hội ở
Việt Nam còn thấp. Việc xuất khẩu hàng Việt Nam vẫn cịn gặp nhiều khó khăn
11


do giá thành cao, bị kiện bán phá giá hay bị kiểm soát ở thị trường một số nước
như Hoa Kì.
• Về đáp ứng nhu cầu đa dạng cho xã hội: nước ta đã đáp ứng khá tốt cả về
mẫu mã và chất lượng. Tuy nhiên sự xuất hiện của hàng giả, hàng nhái, hàng kém
chất lượng trên thị trường ngày càng nhiều. Giá các mặt hàng thiết yếu như điện,
nước liên tục tăng.
2) Điều kiện ra đời của sản xuất hàng hóa ở Việt Nam
Trong thời kì q độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng và Nhà nước đã có nhiều
chủ trương, đường lối để phát triển nền kinh tế quốc dân. Trong đó, việc phát
triển kinh tế hàng hóa là nhiệm vụ cơ bản nhất. Nước ta là một nước nông nghiệp
lạc hậu, kinh tế đi lên chủ yếu là sản xuất nhỏ, tự cung, tự cấp. Ở một số vùng núi
còn mang đậm dấu ấn của kinh tế tự nhiên. Lại trải qua nhiều năm chiến tranh,
nền kinh tế nước ta không thể vươn dậy nổi một cách vứng chắc, hàng hóa sản
xuất ra khơng đủ phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng của người dân. Hơn thế nữa,
kinh tế hàng hóa ở nước ta lại có một thời gian dài hoạt động theo cơ chế của nền
kinh tế tập trung chỉ huy. Do vậy, việc xây dựng một quan hệ sản xuất mới tạo
điều kiện cho lực lượng sản xuất phát triển nhằm thúc đẩy nền kinh tế hàng hóa
phát triển là một việc làm rất quan trọng của Đảng và Nhà nước ta. Nhận thức
mới về chủ nghĩa xã hội đã cho ta kết luận rằng: nền kinh tế quá độ lên chủ nghĩa
xã hội là nền kinh tế hàng hóa, thị trường.
Nước ta từ sản xuất nhỏ đi lên chủ nghĩa xã hội, mà xây dựng chủ nghĩa xã
hội xét về mặt kinh tế cũng phải xây dựng nền sản xuất lớn của xã hội chủ nghĩa.
Mà xây dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa thì khơng thể khơng phát triển
nền kinh tế hàng hóa. Từ sau Đại hội Đảng lần thứ VI, Đảng ta cũng thể hiện

quyết tâm phải chuyển nền kinh tế cịn nhiều tính chất tự cung, tự cấp sang nền
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, sản xuất phải gắn liền với thị trường.
3) Đặc điểm của sản xuất hàng hóa ở Việt Nam hiện nay:
Nước ta tiến lên CNXH từ một nền kinh tế tiểu nông lạc hậu, lực lượng sản
xuất chưa phát triển, lại bỏ qua giai đoạn TBCN nên nền sản xuất hàng hoá của ta
khơng giống với nền sản xuất hàng hố của các nước khác trên thế giới với những
đặc trưng tiêu biểu:
Thứ nhất: Nền kinh tế nước ta đang trong quá trình chuyển biến từ một nền
kinh tế hàng hoá kém phát triển mang nặng tính tự cấp tự túc sang một nền kinh
tế hàng hoá phát triển từ thấp đến cao.
12


Xuất phát từ thực trạng có thể nói là rất tiêu điều của nền kinh tế nước ta:
Kết cấu hạ tầng vật chất và xã hội kém, trình độ cơ sở vật chất và công nghệ trong
các doanh nghiệp lạc hậu, khả năng cạnh tranh gần như khơng có, đội ngũ nhà
doanh nghiệp tầm cỡ thiếu trầm trọng, bên cạnh đó thì thu nhập của người làm
cơng ăn lương cũng như của nông dân thấp kém khiến dung lượng hàng hố trên
thị trường có sự thay đổi rất chậm chạp, khả năng cạnh tranh của hàng hoá trên
thị trường thấp. Từ sự thật không mấy sáng sủa này, buộc ta phải có chiến lược
phát triển để vượt qua thực trạng của nền kinh tế, đưa nền kinh tế hàng hoá phát
triển cả về số lượng lẫn chất lượng và nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh
tế hàng hoá ở nước ta.
Thứ hai: Nền kinh tế hàng hoá dựa trên cơ sở nền kinh tế tồn tại nhiều thành
phần. Từ thực trạng nền kinh tế hàng hoá kém phát triển do nhiều nhân tố song
nhân tố gây hậu quả nặng nề nhất là sự nhận thức không đúng đắn dẫn đến nơn
nóng xố bỏ nhanh các thành phần kinh tế, thực chất là xoá bỏ điều kiện tồn tại và
phát triển kinh tế hàng hoá, làm mất khả năng cạnh tranh và tác dụng tích cực của
nền kinh tế hàng hoá. Nền kinh tế nhiều thành phần là nguồn lực tổng hợp to lớn
về nhiều mặt có khả năng đưa nền kinh tế vượt khỏi thực trạng thấp kém. Cơ cấu

ngành theo hướng phát triển kinh tế dịch vụ đang dần chiếm ưu thế cao trong nền
kinh tế hàng hoá thu hút một số lượng lớn lao động. Từ đó cơ cấu cơng- nơng
nghiệp và dịch vụ sớm hình thành theo định hướng chuyển dịch kinh tế mà Đại
hội Đảng VIII đã đề ra. Nó đảm bảo cho mọi người, mọi doanh nghiệp ở mọi
thành phần kinh tế đều được tự do kinh doanh theo pháp luật và được pháp luật
bảo hộ quyền sở hữu và quyền thu nhập hợp pháp. Nó cịn làm cho các chủ thể
kinh tế được hoạt động theo cơ chế tự chủ, hợp tác cạnh tranh và bình đẳng trước
pháp luật.
Thứ ba: Nền kinh tế hàng hoá theo cơ cấu kinh tế “mở” giữa nước ta với các
nước trên thế giới. Trước kia với cơ cấu kinh tế “khép kín”, với tình trạng “bế
quan toả cảng”, luẩn quẩn sau luỹ tre làng nên kinh tế nước ta lâm vào bế tắc,
kém phát triển có thể nói là lạc hậu nhất thế giới. Vì vậy sự ra đời của nền kinh tế
hàng hoá TBCN đã làm cho thị trường dân tộc hoạt động trong sự gắn bó với thị
trường thế giới. Do sự phân bố phát triển không đều về tài nguyên thiên nhiên,
sức lao động và thế mạnh giữa các nước từ quy luật phân công và hợp tác lao
động quốc tế, đời sống mang tính quốc tế hố …dẫn đến nhu cầu khách quan là
mở cửa nền kinh tế hàng hoá để đạt được hiệu quả cao và phát triển với tốc độ
nhanh nền kinh tế.
13


Thứ tư: Phát triển kinh tế hàng hoá theo định hướng XHCN với vai trò chủ
đạo của kinh tế Nhà nước và sự quản lý kinh tế vĩ mô của nhà nước. Trong các
thành phần kinh tế thì kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo do bản chất vốn có và
lại nắm giữ các ngành, lĩnh vực then chốt và trọng yếu, nên đảm bảo cho các
thành phần kinh tế khác phát triển theo định hướng XHCN. Tuy nhiên vai trị của
nó chỉ được khẳng định khi nó phát huy được sức mạnh tổng hợp của các thành
phần kinh tế khác, nó sớm chuyển đổi cơ chế quản lý theo hướng năng suất, chất
lượng và hiệu quả để đứng vững và chiến thắng trong môi trường hợp tác và cạnh
tranh giữa các thành phần kinh tế. Nền kinh tế hàng hố bên cạnh mặt tích cực là

làm thay đổi bộ mặt của đất nước không tránh khỏi những khuyết điểm nhất định
về mặt xã hội như: phá sản, khủng hoảng, áp bức bất công, tàn phá môi trường,
phân hố giàu nghèo... Chính vì vậy cần phải có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước.
Nhận xét: Các đặc điểm của nền sản xuất hàng hố ở trên có quan hệ mật
thiết với nhau phản ánh kết quả của sự phân tích thực trạng và xu hướng vận động
nội tại của quá trình hình thành và phát triển nền sản xuất hàng hoá ở nước ta hiện
nay và tương lai. Các đặc điểm này bắt nguồn từ sự chi phối của các quy luật kinh
tế nền kinh tế hàng hoá ( quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh
và quy luật lưu thông tiền tệ ) bắt nguồn từ vai trò định hướng của kinh tế nhà
nước và vai trò quản lý của Nhà nước ở nước ta. Nhà nước là của dân và vì dân
quyết định.
4) Thực trạng nền sản xuất hàng hóa ở Việt Nam hiện nay:
Một câu hỏi được đặt ra là: “ Hiện nay, hàng hóa Việt Nam đi vào thế giới
còn kém về năng suất, chất lượng, sức cạnh tranh... Vì sao vậy?”
Có nhiều lý do, nhưng có một lý do chính là, nền kinh tế hàng hóa nước ta
chưa thật sự trở thành nền kinh tế hàng hóa lớn. Lấy việc xuất khẩu nơng, thủy
sản làm ví dụ. Cơ sở sản xuất, chế biến nông, thủy sản ở nước ta, nói chung cịn
lạc hậu, trong khi thị trường quốc tế lại khó tính, địi hỏi rất cao về chất lượng,
quy cách và mẫu mã sản phẩm. Không tiến lên trình độ sản xuất lớn, hiện đại thì
nền kinh tế thị trường nước ta sẽ không thể khắc phục được sự lạc hậu. Chúng ta
sẽ không đi lại con đường từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa kiểu
tập trung, quan liêu, bao cấp trước đây. Tuy rằng việc xây dựng những tổ hợp sản
xuất, chế biến quy mô lớn nào đấy chuyên để xuất khẩu là cần thiết, nhưng sản
xuất lớn khơng có nghĩa là quy mô mọi thứ phải lớn.
Con đường đi lên sản xuất lớn của chúng ta hiện nay là con đường thị
trường, một con đường mà chúng ta phải tìm tịi, khai phá ra. Vẫn là kinh tế gia
14


đình, nhưng nếu biết biến các cơ sở nhỏ lẻ của nó thành những mắt khâu của nền

kinh tế thị trường lớn, một nền kinh tế có sự liên kết các cơ sở sản xuất, khoa học
và quản lý, các cơ sở sản xuất lớn, vừa và nhỏ thành một hệ thống thống nhất để
tạo ra những sản phẩm ổn định, có chất lượng và sức cạnh tranh cao, thì đó chính
là cách sản xuất lớn của nền kinh tế thị trường hiện đại.
Thực tế nền kinh tế nước ta khi chuyển sang kinh tế thị trường là nền kinh tế
hàng hóa kém phát triển, cịn mang nặng tính tự cấp tự túc và chịu ảnh hưởng của
cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Do hệ thống công cụ cịn lạc hậu, lao động thủ
cơng cịn nhiều cho nên chất lượng sản phẩm của hầu hết các doanh nghiệp cịn
thấp kém, khả năng của nó trên thị trường quốc tế và ngay cả thị trường trong
nước còn kém. Trước đây khi cịn quan điểm khơng đúng: Đối lập chủ nghĩa xã
hội với kinh tế hàng hóa, kinh tế thị trường ( vì cho rằng kinh tế hàng hóa, kinh tế
thị trường gắn với chủ nghĩa tư bản) thì nhiều người nhận thức và hiểu rằng dưới
chủ nghĩa xã hội khơng cịn kinh tế hàng hóa, kinh tế thị trường mà nếu còn tồn
tại chỉ là một kiểu kinh tế hàng hóa đặc biệt (chỉ có tư liệu tiêu dùng là hàng hóa
cịn tư liệu sản xuất, sức lao động, vốn … khơng phải là hàng hóa). Muốn tiến lên
CNXH phải xóa bỏ chế độ tư hữu, thiết lập chế độ cơng hữu về tư liệu sản xuất
do đó CNXH tất yếu cũng khơng cịn kinh tế hàng hóa, kinh tế thị trường.Như
vậy mâu thuẫn với thực tế khách quan: CNXH vẫn sẽ cịn kinh tế hàng hóa ngay
cả khi nền kinh tế dựa trên chế độ công hữu và tư liệu sản xuất.
Ta có thể chia sự phát triển của yếu tố hàng hóa ra thành 2 giai đọan: Trước
đổi mới (1986) và sau đổi mới để thấy rõ sự phát triển mạnh mẽ ,rõ rệt của yếu tố
hàng hóa qua từng giai đoạn:
- Giai đọan trước 1986: Nền kinh tế Việt Nam theo mơ hình kế hoạch hóa tập
trung, các đơn vị sản xuất, kinh doanh họat động theo những chỉ tiêu được giao
và những mệnh lệnh từ cấp trên. Trong giai đọan này này khơng có sự phân biệt
giữa quản lý nhà nước và quản lý các đơn vị kinh tế. Các đơn vị sản xuất, kinh
doanh rất ít quyền chủ động. Các nhà máy được cung cấp nguyên vật liệu, vật tư
kỹ thuật và bao tiêu sản phẩm. Việc phân phối, tiêu thụ hàng hóa do các đơn vị
thương nghiệp thực hiện. Người tiêu dùng tiếp nhận hàng hóa một cách thụ động
khơng có quyền lựa chọn. Do nhiều nguyên nhân khác nhau chúng ta luôn ở trong

tình trạng khan hiếm hàng hóa. Hàng hóa sản xuất ra bất kể xấu tốt thế nào đều
tiêu thụ hết. Hàng hóa xuất khẩu thường bị khiếu nại về chất lượng. Chủng loại,
cơ cấu hàng hóa ngày càng nghèo nàn. Hàng hóa khơng được đổi mới cải tiến, lạc
hậu thấp kém so với hàng hóa ngoại. Tình trạng này ảnh hưởng nghiêm trọng đến
kinh tế, xã hội.
15


- Giai đọan từ 1986 đến nay: Đại hội Đảng lần thứ VI đã đề ra đường lối đổi mới
nền kinh tế, thực hiện kinh tế mở, nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị
trường có sự điều tiết của nhà nước, các doanh nghiệp được trao quyền chủ động
trong mọi họat động, xóa bỏ bao cấp. Các doanh nghiệp phải chấp nhận sự cạnh
tranh để tồn tại và chất lượng hàng hóa, dịch vụ trở thành vấn đề quyết định. Do
đó, các đơn vị sản xuất, kinh doanh khơng ngừng đưa ra thị trường nhiều lọai
hàng hóa với mẫu mã, chủng loại khác nhau và chất lượng ngày càng nâng cao.
Vì vậy khả năng cạnh tranh trên thị trường của hàng hóa sẽ tốt hơn và người tiêu
dùng có nhiều sự lựa chọn hơn khi mua hàng hóa.
Một số ví dụ so sánh tình hình phát triển hàng hóa thời kì trước và sau đổi
mới. Trước thời kì đổi mới (thời bao cấp) giáo dục không phải là hàng hóa người
ta thường bị dị ứng khi nghe các loại hình dịch vụ về giáo dục, nhìn chung khi đó
chỉ có khối hệ thống trường học của các trường công lập ( trường do nhà nước mở
). Nhưng cùng với sự phát triển của kinh tế thị trường, giáo dục cũng bị tác dụng
của quy luật cung cầu và nó cũng là một loại hàng hóa. Bên cạnh các trường công
lập, hiện nay hệ thống các trường dân lập (trường do tư nhân mở) cũng phát triển
không kém về chất lượng giảng dạy, số lượng học sinh. Đã có rất nhiều dịch vụ
về giáo dục được mở ra ở các trường dân lập nhằm thu hút học sinh theo học và
cạnh tranh thật sự với các trường công lập.
Hay như trong ví dụ về việc sử dụng tư liệu sản xuất của người nông dân:
Trước đây ,tư liệu sản xuất đều là của công thuộc quyền sở hữu của họ (ruộng đất,
hồ ao, các cơng trình thủy lợi, thủy điện, kể cả sức lao động) nhưng trong nền

KTHH nhiều thành phần nước ta hiện nay, thì các TLSX đó cũng được trao đổi,
mua bán như một loại hàng hóa. Rõ hơn nữa là ví dụ thực tế về việc sử dụng đối
với TLSX quan trọng như đất đai. Vào giai đoạn trước khi đổi mới, đất đai được
nhà nước khoán cho người dân canh tác với từng loại cây trồng cụ thể dẫn đến
năng suất cũng như phẩm chất đều kém. Trong giai đoạn hiện nay, trước những
tác động của cơ chế thị trường trong việc điều chỉnh phân bố lại tài nguyên đất
trong nông nghiệp. Tác động của cơ chế cạnh tranh, các thửa ruộng mới được
những nông dân thích hợp canh tác dưới phương thức sử dụng đất đai có lợi nhất
cho đến nay thị trường đất đai ngồi phát triển trong nơng nghiệp thì nó cịn phát
triển một cách mạnh mẽ và hình thành một thị trường hàng hóa rất sơi động đó là
“ thị trường bất động sản”.
Đặc biệt, KTTT phát triển hiện nay đã tạo ra nhiều loại hàng hóa mà trước
thời kì đổi mới khơng có hoặc hầu như khơng phát triển nổi bật như chứng
khốn.Tuy cịn mới phơi thai, qua hơn một năm hoạt động với hàng hóa cịn
16


nghèo nàn mặc dù chưa phát triển thành phong phú nhưng nó dự báo một tương
lai rộng mở cho thị trường chứng khốn nói riêng và nền kinh tế nước ta nói
chung.
Dựa vào đặc điểm của từng loại HH và mục đích sử dụng chúng ta có thể
chia HH hiện nay ra thành 3 loại: hàng công nghiệp, hàng nông, lâm,thủy sản và
hàng dịch vụ.
Tuy nhiên, khi nói đến hàng hóa mà chỉ chăm chú vào phát triển sản lượng
thì HH của nước ta không thể đứng vững trên thị trường được, muốn tồn tại và
phát triển ta cần phải nâng cao chất lượng HH. Chất lượng chính là sự đáp ứng
yêu cầu của người sử dụng tức là HH sản xuất ra phải phù hợp với mục đích và
điều kiện sử dụng trong những hoàn cảnh cụ thể. Hiện nay chất lượng được đánh
giá thông qua ISO ( từ vựng chất lượng).
Thông qua hoạt động ngoại thương HH được vận chuyển và lưu thơng ra

nước ngồi được gia tăng. Do đó, HH xuất khẩu (XK) cũng có sự biến đổi lớn về
tất cả các mặt. Giữa HHXK và hàng nội địa đều có có những yêu cầu chất lượng
giống nhau nhưng trong hoàn cảnh hiện nay, kinh tế chưa phát triển, hàng tiêu thụ
nội địa và hàng XK còn có sự phân biệt. Hàng XK bao giờ cũng có những đói hỏi
cao hơn hàng nội địa về chất lượng và mẫu mã. Tuy vậy, nhờ việc áp dụng khoa
học kỹ thuật tiên tiến nước ta đã tăng được sản lượng HHXK trong những năm
qua, đây là một dấu hiệu khả quan phản ánh sự phát triển ngày càng cao của yếu
tố HH trong nền KTTT nước ta hiện nay.
5) Đánh giá thành tựu:
Hiện nay trong thời kì hội nhập, phát triển và tồn cầu hóa đã tạo điều kiện
cho thương mại phát triển mạnh mẽ. Gắn liền với nó là sự phát triển của hàng
hóa. Trong bối cảnh đó, Việt Nam đã cam kết hội nhập kinh tế thông qua các hiệp
định song phương như: Hiệp định Việt Nam – Hoa Kì, khu vực tự do như:
ASEAN, AFTA…Bên cạnh đó cịn đàm phán để hội nhập đa phương, gia nhập tổ
chức thương mại thế giới như WTO. Hội nhập kinh tế tạo điều kiện mở rộng thị
trường hàng hóa Việt Nam, giúp nền sản xuất hàng hóa Việt Nam đạt được những
thành tựu nhất định. Được thể hiện qua các phương diện sau:
• Phương diện xuất khẩu và lưu thơng hàng hóa trên thị trường thế giới.

17


Biểu đồ: Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa từ năm 2006 – 2016
Theo số liệu thống kê sơ bộ phổ biến ngày 17/01/2016 của Tổng cục Hải
quan, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu tháng 12/2016 của cả nước đạt hơn 33,66 tỷ
USD, tăng 3,5% tương ứng tăng hơn 1,15 tỷ USD so với tháng trước. Trong đó,
xuất khẩu đạt hơn 16,58 tỷ USD, tăng 2,8%, tương ứng tăng 451 triệu USD so với
tháng trước; nhập khẩu đạt gần 17,08 tỷ USD, tăng 4,3% tương ứng tăng 702
triệu USD.
Tính đến hết 12 tháng/2016 tổng kim ngạch xuất nhập khẩu cả nước đạt hơn

350,74 tỷ USD, tăng 7,1%, tương ứng tăng gần 23,16 tỷ USD so với cùng kỳ năm
trước. Trong đó, xuất khẩu đạt hơn 176,63 tỷ USD, tăng 9%, tương ứng tăng gần
14,62 tỷ USD; nhập khẩu đạt hơn 174,11 tỷ USD, tăng 5,2%, tương ứng tăng hơn
8,54 tỷ USD.
Kim ngạch xuất nhập khẩu của khu vực FDI trong tháng 12/2016 đạt kim
ngạch hơn 20,94 tỷ USD, giảm 0,7%, tương ứng giảm 145 triệu USD so với
tháng trước. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu đạt gần 11,47 tỷ USD, giảm 1,2%
(tương ứng giảm 139 triệu USD); kim ngạch nhập khẩu đạt gần 9,48 tỷ USD,
giảm 0,1% (tương ứng giảm 6 triệu USD).
18


Tính đến hết năm 2016 xuất nhập khẩu của khối doanh nghiệp FDI đạt hơn
226,21 tỷ USD, tăng 8,9%, tương ứng tăng gần 18,43 tỷ USD so với cùng kỳ năm
2015. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu gần 123,93 tỷ USD, tăng 12,1%, tương ứng
tăng hơn 13,37 tỷ USD. Kim ngạch nhập khẩu là hơn 102,28 tỷ USD, tăng 5,2%,
tương ứng tăng gần 5,06 tỷ USD. Cán cân thương mại hàng hóa của khối doanh
nghiệp FDI trong tháng 12/2016 thặng dư hơn 1,99 tỷ USD, đưa mức thặng dư
của khối này trong 12 tháng/2016 lên hơn 21,64 tỷ USD.
Thị trường xuất khẩu: Thị trường xuất khẩu năm 2016 của Việt Nam vẫn
chủ yếu tập trung ở khu vực Châu Á với kim ngạch hơn 85,28 tỷ USD, chiếm
48,3% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Trong đó nổi bật như: thị trường
Trung Quốc với kim ngạch hơn 21,97 tỷ USD, tăng 28,4% so với cùng kỳ năm
trước, chiếm tỷ trọng 12,4% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước; thị trường
Nhật Bản đạt gần 14,68 tỷ USD, tăng 3,9%, chiếm tỷ trọng 8,3%; Hàn Quốc đạt
gần 11,42 tỷ USD, tăng 28%, chiếm tỷ trọng 6,5%; ...
Thị trường Châu Mỹ đạt kim ngạch hơn 47,38 tỷ USD, chiếm tỷ trọng
26,8% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Trong đó, Hoa Kỳ là thị trường
xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch hơn 38,46 tỷ USD; tăng 14,9%,
chiếm tỷ trọng 21,78%; Thị trường Châu Âu với kim ngạch gần 37,84 tỷ USD,

chiếm tỷ trọng 21,4%. Trong đó, thị trường EU (28 nước) đạt gần 33,97 tỷ USD,
chiếm tỷ trọng 19,2%, là thị trường xuất khẩu lớn thứ 2 của Việt Nam sau Hoa
Kỳ. Châu Đại Dương đạt kim ngạch gần 3,39 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 1,9%; Châu
Phi đạt gần 2,74 chiếm tỷ trọng 1,6%.
 Hàng hóa xuất khẩu: Gồm 10 mặt hàng chủ lực
1.Theo số liệu của Tổng cục Hải quan, xuất khẩu điện thoại các loại & linh
kiện đóng góp nhiều nhất vào tăng kim ngạch xuất khẩu 8 tháng qua. Xuất khẩu
mặt hàng này đạt 20,18 tỷ USD, tăng 32,6% so với cùng kỳ năm 2014, đóng góp
gần 5 tỷ USD trong 9 tỷ USD của tăng xuất khẩu. Riêng tháng 8, trị giá xuất khẩu
nhóm hàng đạt 3,02 tỷ USD, tăng 19,1% so với tháng trước (tương ứng tăng 485
triệu USD).
EU là đối tác lớn nhất nhập khẩu nhóm hàng điện thoại các loại và linh kiện
từ Việt Nam với trị giá đạt 6,7 tỷ USD, tăng22,3% và chiếm 33,2% tổng trị giá
xuất khẩu nhóm hàng này của cả nước; tiếp theo là các thị trường: các Tiểu
Vương Quốc Arập thống nhất: 3,17 tỷ USD, tăng 23%; Hoa Kỳ: 1,78 tỷ USD,
tăng 109,5%; Đức: 1,2 tỷ USD, tăng 42,2%; Áo: 1,12 tỷ USD,giảm 1,2% so với
cùng kỳ năm 2014.
19


2, Xuất khẩu nhóm hàng dệt may trong tháng 8/2015 đạt gần 2,29 tỷ USD,
giảm nhẹ 3,5% so với tháng trước. Tính chung 8 tháng, trị giá xuất khẩu nhóm
hàng này là 14,9 tỷ USD, tăng 9,9% so với cùng kỳ năm 2014.
Trong đó, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Hoa Kỳ đạt
7,34 tỷ USD, tăng 13,4%; sang EU đạt 2,72 tỷ USD,tăng 3,5%; sang Nhật Bản
đạt 1,77tỷ USD, tăng 5,9%. Như vậy, tổng kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này
sang 3 thị trường trên đã chiếm tới 77% tổng trị giá xuất khẩu hàng dệt may của
cả nước.
3, Máy vi tính, sản phẩm điện tử & linh kiện: kim ngạch xuất khẩu trong
tháng 8/2015 là 1,42 tỷ USD, tăng 16,7% so với tháng trước. Tính đến hết tháng

8/2015, trị giá xuất khẩu nhóm hàng này đạt 9,99 tỷ USD, tăng 53,5%. Trong đó,
xuất khẩu sang EU đạt 1,97 tỷ USD, tăng 57,9%, sang Hoa Kỳ: 1,74 tỷ USD, tăng
60,2%; Trung Quốc: 1,72 tỷ USD, tăng 31,3%; Hồng Kông: 1,15 tỷ USD, tăng
141,3%... so với cùng kỳ năm trước.
4, Giày dép các loại: kim ngạch xuất khẩu trong tháng đạt 983 triệu USD,
giảm 12,6% so với tháng 7/2015. Tính đến hết tháng 8/2015, xuất khẩu nhóm
hàng giày dép đạt 7,95 tỷ USD, tăng 19,1% so với cùng kỳ năm trước.Trong đó,
xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ đạt 2,72 tỷ USD, tăng 28% và chiếm 34,2%
kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này của cả nước; tiếp theo là xuất khẩu sang thị
trường EU đạt 2,66 tỷ USD, tăng 13,4%; sang Trung Quốc đạt 504 triệu USD,
tăng 51,2%; sang Anh đạt 458 triệu USD, tăng 23,8% so với cùng kỳ năm 2014.
5, Máy móc, thiết bị, dụng cụ & phụ tùng: Tổng trị giá xuất khẩu nhóm hàng
này trong 8 tháng/2015 lên 5,17 tỷ USD, tăng 9,7% so với cùng kỳ năm 2014.
Tuy nhiên, tính riêng trong tháng 8/2015, xuất khẩu chỉ đạt gần 685 triệu USD,
giảm 1,9% so với tháng trước.Tính đến hết tháng 8/2015, xuất khẩu nhóm hàng
này sang Hoa Kỳ là hơn 1 tỷ USD, tăng 23,4%; sang Nhật Bản: 932 triệu USD,
tăng nhẹ 0,9%; sang Trung Quốc: 445 triệu USD, tăng 13,6% so với cùng kỳ năm
trước.
6, Gỗ & sản phẩm gỗ: xuất khẩu trong tháng đạt hơn 590 triệu USD, giảm
nhẹ 0,2% so với tháng trước, nâng tổng kim ngạch xuất khẩu trong 8 tháng/2015
lên hơn 4,35 tỷ USD, tăng 9,4% so với cùng kỳ năm 2014.Tính đến hết tháng
8/2015, nhóm hàng gỗ & sản phẩm gỗ xuất sang Hoa Kỳ đạt 1,69 tỷ USD, tăng
19,3%; sang Nhật Bản là 654 triệu USD tăng 3,2%; sang Trung Quốc: 575,8 triệu
USD giảm 1,9%; so với cùng kỳ năm 2014.
20


7, Xuất khẩu thủy sản của Việt Nam trong tháng đạt 593 triệu USD, tăng nhẹ
0,3% so với tháng trước, qua đó nâng tổng kim ngạch xuất khẩu trong 8 tháng lên
4,16 tỷ USD, giảm 17% so với cùng kỳ năm 2014.Trong 8 tháng/2015, xuất khẩu

thủy sản của Việt Nam chủ yếu sang các thị trường sau: Hoa Kỳ đạt 799 triệu
USD, giảm 30,1% so với cùng kỳ năm trước; EU: 751 triệu USD, giảm 17,3%;
Nhật Bản: 650 triệu, giảm 11,1%; Hàn Quốc: 356 triệu USD, giảm 12%.
8, Giá dầu thô trong tháng 8 tiếp tục giảm kéo kim ngạch xuất khẩu 8
tháng/2015 giảm 2,6 tỷ USD so với 8 tháng/2014.Trong tháng, lượng xuất khẩu
dầu thơ là 823 nghìn tấn, tăng 2,8% so với tháng trước. Tuy nhiên, giá xuất khẩu
bình quân mặt hàng này giảm 57 USD/tấn nên trị giá đạt gần 295 triệu USD,
giảm 11,3%. Tính đến hết tháng 8/2015, lượng dầu thô xuất khẩu của cả nước đạt
gần 6,3 triệu tấn, tăng nhẹ 0,6% và kim ngạch đạt 2,74 tỷ USD, giảm mạnh
48,6% (tương ứng giảm 2,6 tỷ USD) so với cùng kỳ năm trước.Dầu thô của Việt
Nam chủ yếu được xuất khẩu sang Singapo: 1,14 triệu tấn, gấp 3 lần, sang Nhật
Bản: 1,09 triệu tấn, giảm28,3%; sang Trung Quốc: 1,05 triệu tấn, giảm 6,4%;
sang Malaysia: 1,04 triệu tấn, tăng 49,1% so với cùng kỳ năm 2014.
9, Túi xách, ví, va li, mũ và ơ dù: trong tháng 8 xuất khẩu mặt hàng này đạt
hơn 251 triệu USD, tăng 3,5% so với tháng trước, nâng tổng trị giá xuất khẩu
nhóm hàng này trong 8 tháng/2015 lên 1,94 tỷ USD, tăng 15,6% so với cùng kỳ
năm trước.Hoa Kỳ là đối tác chính nhập khẩu túi xách, ví, vali mũ và ô dù của
Việt Nam trong 8 tháng/2015 với 821 triệu USD, tăng14,4% so với 8 tháng/2014,
tiếp theo là EU với trị giá xuất khẩu với 499 triệu USD, tăng 15,2%; Nhật Bản là
208,7 triệu USD, tăng 10,8% .
10, Lượng cà phê xuất khẩu trong tháng 8/2015 là 92 nghìn tấn, trị giá đạt
186 triệu USD, giảm 13,6% về lượng và giảm 14,5% về trị giá so với tháng trước.
Tính đến hết 8 tháng/2015, lượng cà phê xuất khẩu của nước ta đạt 879 nghìn tấn,
trị giá đạt 1,81 tỷ USD, giảm 32,2% về lượng và giảm 32,6% về trị giá so với
cùng kỳ năm 2014.
Ngồi ra, cịn phải kể đến một số mặt hàng: Gạo, tính đến hết tháng 8/2015,
lượng xuất khẩu gạo là hơn 4 triệu tấn, giảm 9,7% và trị giá đạt 1,74 tỷ USD,
giảm 14,3% so với cùng kỳ năm trước. Trong 8 tháng năm 2015, Trung Quốc vẫn
là thị trường tiêu thụ gạo lớn nhất của Việt Nam với 1,51 triệu tấn, giảm 2,6% so
với cùng kỳ năm trước và chiếm 37% tổng lượng xuất khẩu gạo của cả nước.

Xuất khẩu gạo sang Philipin giảm mạnh 41% về lượng, đạt 612 nghìn tấn; tiếp
theo là Malaixia: 371 nghìn tấn, tăng 35,8%; Ghana: 250 nghìn tấn, tăng 21,8%;
Cu Ba: 287 nghìn tấn, tăng 18% so với 8 tháng/2014.
21


Xơ, sợi dệt các loại: xuất khẩu mặt hàng này của cả tính đến hết tháng
8/2015, đạt hơn 638 nghìn tấn, tăng 16,2% và trị giá đạt 1,71 tỷ USD, tăng 3,2%
so với cùng kỳ năm trước. Trong 8 tháng đầu năm 2015, nhóm hàng xơ sợi dệt
các loại xuất khẩu sang Trung Quốc đạt gần 329 nghìn tấn tăng 37,5%; sang Hàn
Quốc đạt 47,7 nghìn tấn, tăng 8,4%, sang Thổ Nhĩ Kỳ đạt 65,8 nghìn tấn, giảm
6,9% so với cùng kỳ năm 2014.
• Cạnh tranh, lưu thơng hàng hóa trong nước.
Nhờ vào q trình hội nhập tồn cầu, hàng hóa Việt Nam ngày càng phát
triển và hồn thiện, đảm bảo về mặt chất lượng, ngày càng chiếm ưu thế trên thị
trường trong nước và quốc tế.
Gần 60% người tiêu dùng lựa chọn hàng Việt.Theo kết quả điều tra của Viện
Nghiên cứu dư luận xã hội, Ban Tuyên giáo Trung ương tiến hành điều tra về kết
quả 1 năm thực hiện cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt
Nam” cho thấy, có đến 59% người tiêu dùng “Tự xác định khi mua hàng hóa sẽ
ưu tiên dùng hàng Việt Nam”; 38% người tiêu dùng “Khuyên người thân trong
gia đình, bạn bè, người quen biết nên mua hàng Việt Nam” và 36% người tiêu
dùng cho rằng “Trước đây có thói quen mua hàng có nguồn gốc xuất xứ ở nước
ngồi, nay đã dừng mua (hoặc mua ít hơn), thay bằng mua hàng Việt Nam”…
Thực tế trên thị trường cho thấy, tại TPHCM, hàng hóa sản xuất trong nước
bày bán tại nhiều siêu thị chiếm tỷ lệ 95%. Trong 6 tháng đầu năm 2010, hệ thống
siêu thị Sài Gòn Co.op hàng Việt tiêu thụ tăng 55% so với cùng kỳ năm 2009;
trong đó 68% đợt bán hàng về nơng thôn của một số tỉnh, thành phố doanh thu
bán hàng hóa Việt Nam đã đạt 1.467 tỷ đồng.
Các hoạt động đưa hàng Việt về nông thôn, tổ chức các phiên chợ phục vụ

công nhân, tháng bán hàng khuyến mãi… đã thu được nhiều kết quả khả quan,
tạo ra những chuyển biến trong suy nghĩ và chi tiêu của người dân đối với hàng
hóa trong nước.
Đối với doanh nghiệp, nhà sản xuất, cuộc vận động góp phần thúc đẩy các
doanh nghiệp và giới doanh nhân chủ động hơn trong việc phát triển sản xuất
kinh doanh, nhằm phát huy tối đa lợi thế của doanh nghiệp trên thị trường, chú
trọng đổi mới công nghệ và quản lý để sản xuất ra nhiều sản phẩm có chất lượng
cao, hình thức đẹp, giá thành hạ… Nhiều sản phẩm mang thương hiệu Việt đã
được rất nhiều nhà chuyên môn quốc tế và người tiêu dùng Việt Nam đánh giá
cao về chất lượng và kiểu dáng, mẫu mã sản phẩm.

22


Mặc dù còn một số những mặt hạn chế, nhưng hàng hóa Việt Nam đã và
đang cố gắng hồn thiện và khắc phục, giành được vị trí đứng nhất định trên thị
trường hàng hóa thế giới và trong nước.
6) Những hạn chế của Nhà nước ta khi vận dụng sản xuất hàng hóa vào
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay:
Việc hoàn thiện thể chế kinh tế còn chậm, thiếu kiên quyết; hệ thống pháp
luật, cơ chế, chính sách chưa hồn chỉnh và đồng bộ, chất lượng còn hạn chế,
chưa đáp ứng được u cầu đổi mới mơ hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế,
thực hiện ba đột phá chiến lược.
Kết quả triển khai, thực thi thể chế kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ
nghĩa còn hạn chế, chưa tạo được đột phá lớn trong huy động, phân bổ và sử dụng
hiệu quả các nguồn lực phát triển. Quyền tự do kinh doanh chưa được tôn trọng
đầy đủ; môi trường đầu tư, kinh doanh không thật sự bảo đảm cạnh tranh lành
mạnh, bình đẳng giữa các doanh nghiệp. Giá cả một số hàng hóa, dịch vụ thiết
yếu chưa thật sự theo nguyên tắc thị trường.
Doanh nghiệp nhà nước hoạt động kém hiệu quả, chưa thể hiện vai trò là

lực lượng nòng cốt của kinh tế nhà nước. Hầu hết doanh nghiệp tư nhân quy mơ
cịn nhỏ, thiếu liên kết, khả năng ứng phó với các rủi ro yếu, nhiều doanh nghiệp
phải giải thể hoặc ngừng hoạt động. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi hoạt
động chủ yếu trong các ngành sử dụng nhiều lao động, khai thác tài ngun và
cịn hạn chế trong chuyển giao cơng nghệ và trình độ quản lý tiên tiến.
Trình độ phát triển của các loại thị trường thấp, vận hành chưa thật sự đồng
bộ, thơng suốt, trong đó thị trường lao động và thị trường dịch vụ công cơ cấu
chưa hợp lý; thị trường tài chính - tiền tệ và thị trường bất động sản tiềm ẩn nhiều
rủi ro; thị trường khoa học- công nghệ phát triển chậm.
Hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước chưa cao; kỷ luật, kỷ cương chưa
nghiêm; Nhà nước còn can thiệp trực tiếp, quá lớn trong nền kinh tế. Vẫn cịn tình
trạng bao cấp, xin - cho trong xây dựng và thực hiện một số cơ chế, chính sách.
Sự tham gia giám sát của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân
dân trong hoạt động quản lý nhà nước còn hạn chế.
Hội nhập kinh tế quốc tế chưa kết hợp và phát huy tốt nguồn lực bên ngoài
với nguồn lực trong nước để phát triển. Các nỗ lực đổi mới kinh tế trong nước
chưa thật sự đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế. Nhiều bộ, ngành, địa phương,
hiệp hội, doanh nghiệp thiếu chủ động xây dựng các chương trình, kế hoạch toàn
23


diện, cụ thể, chuẩn bị các điều kiện và năng lực về mọi mặt để khắc phục khó
khăn, thách thức, tận dụng cơ hội do hội nhập đem lại. Việc tự do hóa thương
mại, đầu tư trong một số thị trường, lĩnh vực chưa sát với thực tế phát triển kinh
tế. Chậm xây dựng hàng rào kỹ thuật cần thiết và hệ thống quản lý thị trường đủ
năng lực và hiệu quả để bảo vệ thị trường trong nước, duy trì mơi trường cạnh
tranh lành mạnh, bình đẳng, ngăn chặn gian lận thương mại, hàng giả, hàng lậu và
hàng độc hại.
Những hạn chế, yếu kém nêu trên chủ yếu là do nhận thức về nền KTTT
định hướng XHCN ở một số nội dung còn chưa đủ rõ. Quyền tự do kinh doanh

của người dân theo quy định của Hiến pháp, pháp luật chưa được phát huy đầy
đủ. Cơ chế thực thi và phối kết hợp giữa các bộ, ngành, địa phương trong quán
triệt, tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách và pháp luật cịn kém hiệu lực,
hiệu quả. Cơ chế kiểm tra, giám sát, kiểm soát và xử lý vi phạm cịn yếu; năng
lực phân tích, dự báo và điều chỉnh chủ trương, cơ chế, chính sách cịn hạn chế.
Trong quá trình triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XI của Đảng, Việt Nam
chịu tác động tiêu cực của khủng hoảng tài chính và suy thối kinh tế tồn cầu,
trong khi đó, trình độ, năng lực nội tại của nền kinh tế và năng lực xây dựng, thực
thi thể chế kinh tế còn nhiều bất cập.
7) Một số giải pháp cho nền sản xuất hàng hóa ở nước ta:
• Phát triển nền sản xuất hàng hóa cho xuất khẩu nhằm mở rộng thị trường:
Nước ta có vị trí địa lý thuận lợi cho việc giao thương. Nguồn lao động dồi dào,
giá rẻ. Điều này cho thấy lực lượng lao động của nước ta hồn tồn có đủ điều
kiện để sản xuất hàng hóa xuất khẩu. Hiện nay, nhiều mặt hàng xuất khẩu như
gạo, cá tra, cá basa đang đóng góp một phần khơng nhỏ cho GDP nước ta.
• Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần sở hữu trên nền tảng công hữu: Là
một quốc gia đi theo con đường xã hội chủ nghĩa nên việc coi trọng công hữu là
không thể bỏ qua. Nhưng với việc phát triển kinh tế nhiều thành phần sở hữu trên
nền tảng công hữu giúp chúng ta vừa phát triển được nền kinh tế thị trường vừa
phát triển được chính trị theo hướng xã hội chủ nghĩa.
• Hồn thiện thể chế thị trường chặt chẽ và phù hợp: chúng ta cần đặt ra
nhiệm vụ hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường chặt chẽ và phù hợp hơn với nền
kinh tế trong nước để giúp nước ta dễ dàng kiểm soát được tình hình, nhanh
chóng nắm bắt được thời cơ giúp nước ta kịp thời đưa ra các cách giải quyết phù
hợp để phát triển kinh tế. Đây là việc rất quan trọng trong quá trình phát triển nền
kinh tế hàng hóa.
24


• Tập trung đào tạo lực lượng lao động có trình độ cao: Tỷ lệ lao động thất

nghiệp ở Việt Nam rất cao nhưng lại không đủ số lao động có chất lượng.
• Phát triển các vùng kinh tế trọng điểm: Việc xây dựng các vùng kinh tế
trọng điểm giúp ta tận dụng lợi thế từng vùng để phát triển hợp lý. Hiện nay nước
ta đã có tới 24 vùng kinh tế trọng điểm với các cách phát triển kinh tế khác nhau.
Đây là cách nhanh chóng sẽ giúp đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế của nước ta.
• Hồn thiện cơng tác quy hoạch, kế hoạch và đầu tư phát triển. 14 Công tác
quy hoạch, kế hoạch, đầu tư phát triển là những cơng tác đóng vai trị quan trọng
điều tiết nền kinh tế. Hồn thiện những cơng tác này sẽ giúp nền kinh tế có một
chỗ dựa vững chắc, đẩy nhanh phát triển nền kinh tế hàng hóa.
• Kiểm sốt lạm phát và giá cả Việc giá cả leo thang và lạm phát kéo dài ảnh
hưởng lớn tới nền kinh tế và cuộc sống hàng ngày của người lao động. Nhà nước
cần kiểm sốt tình hình này. Đồng thời, áp giá sản cho các sản phẩm nông sản
mua tại vườn, tại ruộng để bảo vệ quyền lợi cho nơng dân, tránh tình trạng rớt giá
xuống q thấp khiến nhà nơng khốn đốn trong thời gian qua.
• Giải quyết vấn đề tiền lương
Vấn đề tiền lương một khi chưa được giải quyết sẽ còn gây ra nhiều hậu quả
nghiêm trọng cho nền kinh tế. Giải quyết vấn đề tiền lương hợp lý sẽ giúp tăng
sức lao động và kích cầu khiến nền kinh tế hàng hóa phát triển.

25


×