Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

Tín dụng Ngân hàng và chất lượng của tín dụng trong nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội Chủ Nghĩa .

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (147.32 KB, 29 trang )

Chơng I
Tín dụng ngân hàng và chất lợng tín dụng trong nền
kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa
I . tín dụng và vai trò của tín dụng tong nền kinh tế thị
trờng.
1. khái niệm về tín dụng và sự cần thiết của tín dụng.
1.1.khái niệm và đặc điểm của tín dụng.
1.1.1. Khái niệm .
Trong nền kinh tế hàng hoá tiền là phơng tiện thanh toán chủ yếu trong tất cả
các muối quan hệ kinh tế, nền kinh tế hàng hoá càng phát triển bao nhiêu thì tốc độ
quay vòng của đồng tiền càng nhanh bấy nhiêu, lúc này bản thân mỗi chủ thể kinh tế
không thể tự đáp ứng đợc nhu cầu về vốn của mình mà họ phải dựa vào các chủ thể
kinh tế khác đặc biệt là Các tổ chức tín dụng thông qua quan hệ tín dụng mới có thể
đáp ứng đợc nhu cầu vốn của mình. Chính vì thế ta có thể nói cơ sở hình thành và
phát triển của quan hệ tín dụng chính là sự tin tởng và nhu cầu về vốn trong nền kinh
tế hàng hoá. Từ cơ sở hình thành đó ta có thể đu ra một khái niệm chung về quan hệ
tín dụng nh sau :
Tín dụng là quan hệ vay mợn, sử dụng vốn của lẫn nhau một cách tạm thời và dựa
trên nguyên tắc hoàn trả tin tởng.
Từ khái niệm trên ta có thể thấy tín dụng không phải là quan hệ mua bán , chỉ xảy
ra trong thời gian nhất định và phải đợc xác định trên cơ sở tin tởng lẫn nhau. Nói
chung đứng trên mỗi góc độ khác nhau ngời ta sẽ có cách hiểu khác nhau về tín dụng
, chính vì thế mà theo Luật các tổ chức tín dụng của Việt nam đã đa ra định nghĩa về
hoạt động tín dụng nh sau:
Hoạt động tín dụng là việc tổ chức tín dụng sử dụng vốn tự có, vốn huy động để
cấp tín dụng . Trong đó cấp tín dụng là việc tổ chức tín dụng thoả thuận để khách
hàng sử dụng khoản tiền với nguyên tắc có hoàn trả bằng nghiệp vụ cho vay , chiết
khấu , cho thuê tài chính , bảo lãnh Ngân hàng và các nghiệp vụ khác .
Dù đứng trên quan điểm nh thế nào chăng nữa thì bản chất hoạt động tín dụng
không hề thay đổi: Trong quan hệ tín dụng ngờn cho vay chỉ nhờng quyền sử dụng
vốn cho ngời đi vay trong một thời gian nhất định chứ không nhờng quyền sở hữu và


ngời đi vay phải hoàn trả lại cho ngời cho vay khi đến hạn đã thoả thuận . Sự hoàn trả
này không chỉ là sự bảo tồn về mặt giá trị mà còn đợc tăng thêm dới hình thức lãi
suất.
1.1.2. Đặc điểm của quan hệ tín dụng
Xuất phát từ cơ sở hình thành cũng nh khái niệm về quan hệ tín dụng ta có thể
đa ra một số đặc điểm về quan hệ tín dụng nh sau:
- Trong quan hệ tín dụng không có sự vận động của quyền sở hữu mà chỉ thay đổi
quyền sử dụng trong một thời gian nhất định .
- Giá cả trong quan hệ tín dụng chính là lãi suất tín dụng.
- Ngời cho vay nhận đợc thu nhập dới hình thức lãi suất . Lãi suất là giá cả của
quyền sử dụng vốn trong một thời gian nhất định. Giá cả trong quan hệ tín dụng
không ngang bằng với giá trị mà giá cả trong quan hệ tín dụng là biểu hiện bằng
tiền của giá trị quyền sử dụng vốn trong một thời gian nhất định
- Thời gian đợc xác định trên cơ sở giữa ngời đi vay và ngời cho vay.
- Quan hệ tín dụng đợc dựa trên yếu tố tin tởng .
1.2.Sự cần thiết của tín dụng trong nền kinh tế thị trờng.
Khi nền kinh tế sản xuất hàng hoá ra đời thì quan hệ tín dụng cũng đợc hình
thành và phát triển . Nền kinh tế càng phát triển bao nhiêu thì kéo theo thị trờng tài
chính tiền tệ cũng phát triển một cách thích ứng. Trong nền kinh tế thị trờng tiền tệ
là một phạm trù kinh tế, mọi quan hệ kinh tế đều đợc tiền tệ hoá là yếu tố cần thiết
của quá trình sản suất . Trong nền kinh tế hàng hoá tiền tệ tham gia vào quá trình
tuần hoàn vốn . Trong quá trình đó phát sinh tình trạng tạm thời nhàn rỗi và tạm
thời thiếu vốn ở các doanh nghiệp cũng nh toàn bộ nền kinh tế .
Vậy tại sao quan hệ tín dụng lại cần thiết trong nền kinh tế thị trờng, điều này
đợc lý giải ở trên những khía cạnh sau:
1.2.1. Trong nền kinh tế thi trờng mỗi doanh nghiệp đều muốn đợc thể hiện và
khẳng định mình trên thơng trờng . Muốn thắng đợc đối thủ cạnh tranh đòi hỏi mỗi
doanh nghiệp cần phải có đợc ba yếu tố đó là : Vốn; Lao động; Khoa học công
nghệ, trong đố có thể nói Vốn là yếu tố nền tảng hình thành nên hai yếu tố còn lại.
Nếu có vốn thì mỗi doanh nghiệp sẽ mua đợc máy móc thiết bị , vây dựng nhà x-

ởng v.v.v. Đồng thời họ cũng thuê đợc lao động , đào tạo đợc đội ngũ cán bộ có
trình độ chuyên môn ngày càng cao hơn. Nhng rõ ràng là với số vốn tự có của
mình thì bản thân mỗi doanh nghiệp sẽ không thể đảm bảo đợc tất cả các mối quan
hệ kinh tế , chính vì thế mà trong nguồn vốn của doanh nghiệp luôn tồn tại hai
nguồn chính đó là Nợ và Vốn chủ sở hữu. Do đó quan hệ tín dụng đợc hình thành
một cách khách quan trong chính nhu cầu của các chủ thể kinh tế trong nền kinh tế
thị trờng , chỉ có quan hệ tín dụng ra đời mới đáp ứng đợc nhu cầu của nền kinh tế
nói chung , các doanh nghiệp nói riêng . Ngân hàng sẽ là tổ chức tài chính trung
gian cung cấp nghiệp vụ đó , đồng thời là ngời điều hoà vốn từ nơi thừa đến nơi
thiếu góp phần làm ổn định và phát triển nền kinh tế .
1.2.2. Trong nền kinh tế thị trờng ở bất kỳ thời điểm nào cũng xuất hiện tợng:
Tạm thời thừa vốn và Tạm thời thiếu vốn
1.2.2.1. Tạm thời thừa vốn.
Thừa ở đây với nghĩa là tổ chức , đơn vị đó có một lợng vốn nhàn rỗi trong một
thời gian nhất định. Điều nay đợc thể hiện cụ thể trong từng chủ thể của nền kinh
tế .
- Chính phủ :
Trong nền kinh tế quốc dân việc thu chi xảy ra không đồng thời, thông thờng
các khoản thu nhập thì tạp trung theo định kỳ còn các khoả chi thì đợc phân bổ dần
dần nên trong một khoảng thời gian nhất định sẽ xuất hiện số tiền nhàn rỗi từ Ngân
sách nhà nớc
- Các doanh nghiệp :
Nguồn thu của các doanh nghiệp và nguồn chi của các doanh nghiệp có sự
không thống nhất về mặt thời gian vì những lý do: Hàng hoá sản xuất ra đã tiêu thụ
đợc ; Lơng của các công nhân cha đến hạn trả; Tiền cha phải trả do mua chịu hàng
hoá; Dự trữ của doanh nghiệp ; Cha phải thực hiện nghĩa vụ tài chính và trả lãi suất
Ngân hàng ; Các quỹ cha đợc sử dụng ; Lợi nhuận của doanh nghiệp ... Điều này
dẫn đến các doanh nghiệp luôn có một lợng vốn nhàn rỗi trong một thời gian nhất
định.
- Cá nhân ngời tiêu dùng:

Trong hoạt động sản suất kinh doanh , các cá nhân trong xã hội sẽ nhận đợc
phần thu nhập của mình dới các hình thức : tiền lơng, tiền thởng, phụ cấp, lợi
nhuận thu đợc ... Một phần của các phần thu nhập này không chỉ tiêu dùng ngay
mà còn để dành tiêu dùng trong tơng lai . Phần tiền để dành này hình thành lợng
vốn tiền tệ nhàn rỗi rất lớn trong nền kinh tế
- Nguồn vốn nhàn rỗi từ nớc ngoài:
Mỗi quốc gia vì lí do nh là muốn tham gia vào các tổ chức quốc tế hay là để
đảm bảo an toàn cho nên kinh tế cũng nh ổn định đồng tiền trong nớc họ thờng giữ
một khoản tiền tại các Ngân hàng ở nớc ngoài để giao dịch hay một định chế tài
chính quốc tế hoặc có một lợng vốn dồi dào mà không đêm đầu t tiếp . Thơng mại
quốc tế ngày càng mở rộng dẫn đến mỗi quốc gia đều có một tài khoản của mình ở
nớc ngoài để giao dịch . Chính những lí do đó đã tạo nên một lợng vốn nhàn rỗi
không nhỏ có thể sử dụng trong một thời gian nhất định.
1.2.2.2. Tạm thời thiếu vốn.
Thiếu vốn ở đây với nghĩa là tổ chức đơn vị đó thiếu lợng tiền mặt tạm thời để
trang trải cho những hoạt động kinh tế trớc mắt đòi hỏi phải chi tiền mặt . Và điều
này đợc thể hiện cụ thể trong từng chủ thể của nền kinh tế .
- Chính phủ:
Đóng vai trò là một chủ thể lớn điều hành thúc đẩy sự phát triển của một đất n-
ớc , Chính phủ thờng đầu t vào các dự án lớn nh cơ sở hạ tầng , các công trình
mang tính sống còn đối với lợi ích của quốc gia mà t nhân không có đủ khả năng
và điều kiện thực hiện . Nguồn vốn đầu t chính phủ lấy từ Ngân sách nhà nớc
(NSNN), nhng đôi khi NSNN không đủ vì cha đến hạn thu thuế dẫn đến sự thiếu
vốn đấu t Chính phủ phải đi vay
- Các doanh nghiệp :
Nh ta đã biết các doanh nghiệp khác nhau về điều kiện sản xuất kinh doanh
dẫn đến tuần hoàn luôn chuyển vốn khác nhau . Đồng thời mỗi doanh nghiệp lại là
một thực thể sở hữu khác nhau cho nên luôn tồn tại hai nhóm doanh nghiệp này
thừa vốn thì doanh nghiệp khác thiếu vốn vì cha bán đợc hàng, cha thu đợc tiền nh-
ng đã đến thời hạn phải thanh toán các khoản nợ , phải trả lơng ... Dẫn đến các

doanh nghiệp có nhu cầu đợc vay vốn.
- Cá nhân:
Ngời tiêu dùng đôi khi có những khoản phải chi bất thờng hoặc những khoản
chi tiêu ngoài khả năng tài chính tạm thời của họ nhng họ có khả năng bù đắp
những thiếu hụt đó trong tơng lai . Điều này dẫn đến nhu cầu vay tiêu dùng của cá
nhân .
Từ sự phân tích ở trên ta thấy trong nền kinh tế luôn tồn tại hai nhu cầu cho
vay và đi vay . Hai nhu cầu này có đặc điểm chung là đều nhằm thoả mãn nhu cầu
hiện tại của các chủ thể kinh tế và nó xảy ra trong thời gian ngắn. Khác nhau ở cho
vay và đi vay là quyền sở hữu, ngời cho vay vẫn có quyền sở hữu đối với khoản tiền
cho vay còn ngời đi vay chỉ có quyền sử dụng đối với khoản tiền đợc vay trong
khoảng thời gian thoả thuận giữa hai bên. Để giải quyết vấn đề Tạm thời thừa
vốn và Tạm thời thiếu vốn thì quan hệ tín dụng ra đời và nó không thể thiếu
trong nền kinh tế hiện đại.
2. Chức năng và vai trò của tín dụng.
2.1. Chức năng của tín dụng.
Nhìn tổng thể tín dụng có hai chức năng:
- Huy động và phân phối nguồn vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi dới hình thức cho
vay.
- Giám đốc và kiểm soát bằng đồng tiền đối với các hoạt động sản xuất kinh
doanh. Dùng tiền để xây dựng các chỉ tiêu, thớc đo để tiến hành quản lý doanh
nghiệp với các mục tiêu: Sử dụng vốn hiệu quả , hợp pháp và hợp lệ.
2.2. Vai trò của tín dụng trong nền kinh tế thị trờng.
Thứ nhất. Tín dụng là điều kiện đảm bảo quá trình sản xuất kinh doanh diễn ra th-
ờng xuyên liên tục.
Trong một thời điểm trong nền kinh tế luân tồn tại hai nhóm doanh nghiệp:
Một nhóm tạm thời thừa vốn và muốn sử dụng số vốn nhàn rỗi này để kiếm lời
trong một thời gian nhất định. Một nhóm tạm thời thiếu vốn và muốn tìm kiếm
nguồn vốn nhàn rỗi khác để đáp ứng nhu cầu hiện tại. Nhờ hoạt động tín dụng mà
cả hai nhóm doanh nghiệp đều đợc thoả mãn về vốn và dẫn đến quá trình sản xuất

kinh doanh diễn ra một cách thơng xuyên, liên tục, nguồn vốn đợc sử dụng một
cách tối đa.
Thứ hai. Tín dụng huy động, tập trung vốn thúc đẩy sự phát triển kinh tế.
Bất kỳ một quốc gia nào muốn phát triển nền kinh tế cũng cần phải có một
nguồn vốn đầu t lớn để đổi mới công nghệ, tăng năng suất lao động, giảm giá thành
sản phẩm, chiến thắng trong cạnh tranh. Nhng để có lợng vốn đầu lớn nh vậy thì
chỉ có quan hệ tín dụng với đáp ứng đợc điều đó bởi quan hệ tín dụng sẽ tập trung
huy động mọi nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế và đáp ứng nhu cầu đó.
Thứ ba. Tín dụng góp phần nâng cao mức sống của dân c.
Một trong những ví dụ điển hình để minh chứng cho điều này là thông qua quan
hệ tín dụng mà những ngời có thu nhập thấp những ngời tàn tật đã có đợc nhà ở,
phơng tiện đi lại, điện thoại v.v. Bởi họ có thể sử dụng phơng thức vay trả góp.
Thứ t . Là công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nớc.
Nh ta đã biết cơ cấu kinh tế đợc quyết định bởi cơ cấu đầu t mà tín dụng lại
quyết định đến cơ cấu đầu t. Nhà nớc thông qua hoạt động của các Ngân hàng th-
ơng mại, chủ yếu là hoạt động tín dụng để điều chỉnh cơ cấu kinh tế.
3. Các hình thức tín dụng Ngân hàng.
Hoạt động tín dụng Ngân hàng bao gồm các nghiệp vụ: Cho vay, chiết khấu,
bảo lãnh, cho thuê tài chính.
3.1. Hoạt động cho vay.
Hoạt động tín dụng là hoạt động cơ bản của Ngân hàng thơng mại. Tuy nhiên
trong hoạt động tín dụng thì hoạt động cho vay đóng vai trò quan trọng và chiếm tỷ
trọng rất lớn trong tổng tài sản và nó cũng là hoạt động mang lại lợi nhuận chủ yếu
cho Ngân hàng.
ứng với mỗi tiêu thức khác nhau ngời ta phân loại cho vay khác nhau, ta có thể
dựa trên những tiêu thức sau:
- Theo kỳ hạn nợ.
- Theo mục đích sử dụng vốn.
- Theo hình thức đảm bảo tiền vay.
- Theo phơng pháp hoàn trả .

- Theo loại hình tiền tệ.
3.1.1. Theo kỳ hạn nợ.
Theo kỳ hạn nợ cho vay của Ngân hàng thơng mại(NHTM) đợc phân làm ba
loại: Cho vay ngắn hạn, cho vay trung hạn, cho vay dài hạn
- Cho vay ngắn hạn.
Là loại cho vay có kỳ hạn dới 1 năm và đợc sử dụng để bù đắp sự thiếu hụt
vốn lu động của các doanh nghiệp và các nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của cá nhân.
Khoản cho vay ngắn hạn chủ yếu tài trợ cho các hoạt động sau:
+ Cho vay mua hàng dự trữ.
Từ trớc tới nay, ngân hàng thờng cho các hãng vay ngắn hạn bổ xung tạm thời
vốn hoạt động. Trên thực tế cho tới sau chiến tranh thế giới thứ II, ngân hàng chủ
yếu tập trung cấp tín dụng cho các doanh nghiệp dới hình thức các khoản cho vay
mang tính tự thanh toán (self-liquidating loans). Các khoản cho vay này chủ yếu đ-
ợc sử dụng để tài trợ cho việc mua hàng dự trữ nh nguyên liệu thô ... Các khoản
cho vay nh vậy tận dụng đợc chu kỳ tiền mặt thông thờng trong một hãng kinh
doanh nh sau:
1. Tiền mặt đợc chi dùng mua dự trữ nguyên vật liệu và bán thành phẩm
hoặc thành phẩm.
2. Hàng hoá đợc sản xuất hoặc dữ trữ để bán.
3. Hàng đã bán(thờng là bán chịu).
4. Tiền mặt thu về( ngay khi bán hàng hoặc thu từ các khoản bán chịu)
và đợc dùng để trả các khoản vay ngân hàng.
Trong trờng hợp này, kỳ hạn của các khoản vay bắt đầu đợc tính từ khi hãng cần vốn
để đáp ứng yêu cầu mua hàng, kết thúc(có thể trong vòng từ 60 đến 90 ngày) khi
hãng thu đợc tiền bán hàng và nhập vào tài khoản để trả nợ cho Ngân hàng.
+ Cho vay vốn lu động.
Đây là những khoản cho vay ngắn hạn đối các hãng kinh doanh với kỳ hạn kéo
dài từ vài ngày đến 1 năm. Các khoản vay vốn lu động thờng đợc dùng để mua hàng
dự trữ hoặc mua nguyên vật liệu. Do đó chúng có những đặc điểm gần giống với các
khoản cho vay tự thanh toán nh đã đề cập ở trên.

Thông thờng các khoản vay vốn lu động đợc sử dụng để đáp ứng mức sản xuất
và nhu cầu tín dụng trong thời kỳ cao điểm của chu kỳ kinh doanh. Ví dụ một hãng
sản xuất quần áo dự đoán rằng nhu cầu đối với quần áo học sinh vào mùa thu và
quần áo ấm vào mùa đông là rất lớn. Do vậy hãng cần các khoản tín dụng ngắn hạn
vào cuối mùa xuân và mùa hạ để mua vải và thuê thêm công nhân nhằm tăng sản l-
ợng để đáp ứng hàng hoá cho ngời bán lẻ trong giai đoạn từ tháng 8 đến tháng 12 .
Ngân hàng của hãng lập ra một hạn mức tín dụng thời hạn từ 6 đến 9 tháng cho
phép hãng sản xuất quần áo có thể rút tiền trong suất giai đoạn này. Quy mô của
hạn mức tín dụng đợc xác định trên cơ sở dự tính về lợng vốn lớn nhất mà hãng có
thể sẽ cần tại bất cứ thời điểm nào trong suốt thời hạn của hợp đồng tín dụng.
Thông thờng các khoản cho vay vốn lu động đợc đảm bảo bằng các khoản phải
thu hoặc thế chấp bằng hàng tồn kho và khách hàng sẽ phải chịu lãi suất thả nổi
trên lợng tiền thực tế họ đã sử dụng. Khoản lệ phí cam kết đợc tính trên phần tín
dụng thuộc hạn mức không sử dụng và đôi khi tính trên toàn bộ giá trị của hạn
mức. Ngân hàng thờng yêu cầu khách hàng phải có số d bù tiền gửi. Số d bù tiền
gửi bao gồm lợng tiền gửi tối thiểu bắt buộc đợc xác định trên cơ sở quy mô hạn
mức tín dụng và một lợng tiền gửi bắt buộc bổ xung bằng một tỉ lệ phần trăm quy
định trên tổng lợng tín dụng mà khách hàng thực sử dụng.
+ Cho vay ngắn hạn các công trình xây dựng.
Một hình thức cho vay ngắn hạn có bảo đảm phổ biến trong ngân hàng thơng
mại là cho vay hỗ trợ các công trình xây dựng, nhà ở, các toà nhà văn phòng, trung
tâm thơng mai, các công trình khác. Mặc dù thời gian xây dựng công trình kéo dài
nhng các khoản cho vay lại mang tính tạm thời. Các khoản cho vay này cung cấp
vốn cho bên thi công để thuê công nhân, thuê thiết bị xây dựng, mua vật liệu xây
dựng và giải phóng mặt bằng. Khi giai đoạn xây dựng kết thúc, bên thi công thờng
vay thế chấp dài hạn từ các tổ chức tài chính khác, để lấy tiền thanh toán cho các
khoản vay xây dựng ngắn hạn. Trong thực tế chỉ khi Công ty xây dựng chắc chắn
có một cam kết cho vay thế chấp để tiếp tục tài trợ dài hạn cho các dự án sau khi
kết thúc giai đoạn xây dựng thì ngân hàng mới thực hiện các khoản cho vay xây
dựng ngắn hạn. Gần đây một vài ngân hàng đã cho vay với thời hạn khá dài 5 đến 7

năm, cung ứng vốn cho việc xây dựng và hoạt động trong giai đoạn đầu của công
trình.
+ Cho vay kinh doanh chứng khoán.
Những ngời kinh doanh chứng khoán Chính phủ và chứng khoán t nhân thờng
cần sự hỗ trợ vốn ngắn hạn để mua chứng khoán mới và duy trì danh mục đầu t
chứng khoán hiện có cho tới khi các chứng khoán này đợc bán hoặc đến hạn thanh
toán. Các ngân hàng lớn nhất thờng sẵn sàng cho vay đối với ngời kinh doanh
chứng khoán vì những khoản cho vay này có chất lợng cao, thờng đợc đảm bảo
bằng chứng khoán Chính phủ do nhà kinh doanh chứng khoán nắm giữ. Hơn nữa
nhiều khoản vay kinh doanh chứng khoán có kỳ hạn rất ngắn, chỉ là vay qua đêm
hoặc vài ngày. Nhờ vậy ngân hàng có thể nhanh chóng thu hồi vốn hoặc cho vay
các khoản mới với lãi suất cao hơn nếu thị trờng tín dụng trở nên căng thẳng.
Một hình thức tín dụng khác thuộc loại này là cho vay đối với các tổ chức ngân
hàng đầu t. Hỗ trợ cho hoạt động bảo lãnh phát hành trái phiếu , cổ phiếu công ty
và các giấy nợ của Chính phủ. Việc bảo lãnh phát hành chứng khoán thờng diễn ra
khi ngân hàng đầu t giúp đỡ khách hàng trong việc mua lại công ty khác, giúp đỡ
Công ty phát hành chứng khoán lần đầu, phát hành thêm cổ phiếu để tăng quy mô
vốn kinh doanh hiện có, hoặc hỗ trợ doanh nghiệp thực hiện hoạt động đầu t mới.
Khi ngân hàng bán chứng khoán mới cho các nhà đầu t trên thị trờng vốn thì khoản
vay cùng với lãi sẽ đợc hoàn trả.
+ Cho vay kinh doanh bán lẻ.
Các ngân hàng hỗ trợ ngời tiêu dùng trong việc mua trả góp xe máy, đồ dùng
gia đình, nội thất và các hàng hoá lâu bền khác bằng cách tài trợ cho các khoản
phải thu mà ngời bán những hàng hoá này sẽ nhận đợc sau khi họ ký hợp đồng bán
trả góp. Hợp đồng trả góp sẽ đợc ngân hàng của ngời bán lẻ xem xét. Nếu đáp ứng
các yêu cầu tín dụng, ngân hàng sẽ mua những hợp đồng này với một mức lãi suất
thay đổi tuỳ theo chất lợng tín dụng ngời vay vốn, chất lợng của vật thế chấp và
thời hạn của mỗi khoản vay.
Đối với ngời kinh doanh mô tô, ti vi, đồ nội thất và các hàng hoá lâu bền khác
Ngân hàng có thể tài trợ dự trữ tồn kho thông qua việc xác định kế hoạch sản xuất.

Ngân hàng sẽ cấp tín dụng cho ngời bán lẻ để họ có thể yêu cầu hãng sản xuất
chuyển hàng. Lúc đầu hầu hết các khoản vay nh vậy có kỳ hạn 90 ngày và sau đó
nó có thể đợc tái gia hạn với thời gian một tháng hay vài tháng. Để có đợc khoản
tín dụng này ngời bán lẻ phải ký hợp đồng bảo đảm an toàn cho phép ngân hàng có
quyền sở hữu hàng hoá trong trờng hợp họ không thể thanh toán khoản vay. Sau đó,
nhà sản xuất sẽ có thể chuyển hàng cho ngời bán lẻ và gửi đơn thanh toán cho ngân
hàng. Định kỳ ngân hàng sẽ cử cán bộ đến kiểm tra hàng hoá trong kho của ngời
bán lẻ để xác đinh lợng hàng đã đợc bán và lợng hàng tồn kho. Sau khi bán đợc
hàng hoá, ngời bán lẻ sẽ gửi séc tới ngân hàng để thanh toán dần khoản nợ cho
ngân hàng.
Nếu cán bộ ngân hàng xác định thấy bất kỳ một hàng hoá nào đã đợc bán mà
ngân hàng không nhận đợc tiền thanh toán thì cán bộ ngân hàng sẽ yêu cầu ngời
bán lẻ viết ngay séc trả tiền cho số hàng hoá đó. Nếu ngời bán lẻ không thanh toán
đợc, ngân hàng có thể buộc thu hồi hàng và trả một phần hoặc toàn bộ số hàng đó
cho nhà sản xuất kinh doanh để thu hồi số vốn cho vay. Hợp đồng kế hoạch sàn th-
ơng bao gồm một khoản dự phòng tổn thất tín dụng, tích luỹ các khoản lãi thu đợc
khi ngời vay trả tiền.
Quy mô của quỹ dự phòng sẽ giảm nếu có bất cứ khoản vay nào không đợc hoàn
trả. Khi dự phòng tổn thất tín dụng đạt tới mức định trớc, ngời bán lẻ sẽ đợc giam
trừ một phần số lãi của hợp đồng trả góp.
+ Cho vay trên tài sản.
Trong những năm gần đây, những khoản cho vay trên tài sản là khoản tín dụng
đợc đảm bảo bằng các tài sản ngắn hạn của hãng đợc dự tính sẽ chuyển thành tiền
mặt trong tơng lai. Ngày càng chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng cho vay ngắn hạn.
Tài sản chủ yếu đợc dùng để bảo đảm cho các khoản vay bao gồm các khoản phải
thu, nguyên vật liệu hoặc thành phẩm tồn kho. Ngân hàng cho vay theo một tỷ lệ
phần trăm nhất định trên giá trị ghi sổ của tài khoản phải thu, hoặc trên giá trị hàng
tồn kho. Ví dụ ngân hàng có thể sẵn sàng cho vay một khoản tiền bằng 70% khoản
phải thu trên tài khoản thanh toán vãng lai của doanh nghiệp. Một cách khác ngân
hàng có thể cho vay tới 40% giá trị hàng tồn kho hiện tại của doanh nghiệp gồm

hàng hoá đang bán hoặc hàng hoá trong kho. Khi thu hồi đợc các khoản phải thu

×