Tải bản đầy đủ (.pdf) (72 trang)

Nghiên cứu ảnh hưởng của việc bổ sung selen hữu cơ và dầu đậu nành đến khả năng sản xuất trứng và tỷ lệ Omega 3 trong trứng gà Lương Phượng (LV thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.13 MB, 72 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM

HOÀNG THỊ MINH

“NGHIÊN

CỨU ẢNH HƢỞNG CỦA VIỆC
BỔ SUNG SELEN HỮU CƠ VÀ DẦU ĐẬU NÀNH
ĐẾN KHẢ NĂNG SẢN XUẤT TRỨNG VÀ TỶ LỆ
OMEGA 3 TRONG TRỨNG GÀ
LƢƠNG PHƢỢNG”.

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP
Chuyên ngành: Chăn nuôi

Thái Nguyên, năm 2015

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM

HOÀNG THỊ MINH

“NGHIÊN

CỨU ẢNH HƢỞNG CỦA VIỆC


BỔ SUNG SELEN HỮU CƠ VÀ DẦU ĐẬU NÀNH
ĐẾN KHẢ NĂNG SẢN XUẤT TRỨNG VÀ TỶ LỆ
OMEGA 3 TRONG TRỨNG GÀ
LƢƠNG PHƢỢNG”.
Chuyên ngành: Chăn Nuôi
Mã số: 60.62.01.05

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Mai Anh Khoa
TS. Nguyễn Văn Đại

Thái Nguyên, năm 2015

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan: các kết quả nghiên cứu được trình bày trong luận
văn này là từ đề tài do bản thân tôi thực hiện, chưa từng được ai công bố dưới
bất kỳ hình thức nào ở trong và ngoài nước. Các thông tin, tài liệu trích dẫn
trong luận văn này đã được ghi rõ nguồn gốc.
Tác giả

Hoàng Thị Minh



ii

LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này tôi đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của
các tập thể và cá nhân trong suốt quá trình thực hiện đề tài.
Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc về sự giúp đỡ tận tình của
thầy giáo hướng dẫn khoa học: TS. Mai Anh Khoa, TS Nguyễn Văn Đại là
người đã trực tiếp hướng dẫn tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn
thành luận văn này.
Tôi xin cảm ơn sự giúp đỡ quý báu của Ban giám hiệu, thầy, cô và bạn
bè Khoa Chăn nuôi thú y, trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, các cán
bộ, nhân viên Trung tâm nghiên cứu và phát triển chăn nuôi miền núi đã động
viên, khuyến khích và tạo mọi điều kiện cho tôi trong suốt quá trình học tập
và nghiên cứu.
Cuối cùng, tôi xin cảm ơn gia đình, bạn bè và các đồng nghiệp đã quan
tâm, chia sẻ, động viên giúp đỡ tôi trong quá trình hoàn thành luận văn này.
Thái Nguyên, ngày...tháng...năm 2015
Tác giả

Hoàng Thị Minh


iii

MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................... i
LỜI CẢM ƠN ................................................................................................ ii
MỤC LỤC .................................................................................................... iii

DANH MỤC CÁC BẢNG ............................................................................. v
DANH MỤC CÁC HÌNH ............................................................................. vi
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
1. Đặt vấn đề .............................................................................................. 1
2. Mục đích của đề tài................................................................................. 2
3. Ý nghĩa của đề tài ................................................................................... 2
1.1.Cơ sở khoa học ..................................................................................... 3
1.1.1. Cở sở khoa học về khả năng sinh sản của gia cầm ........................ 3
1.1.2. Khả năng sinh sản của gia cầm và các yếu tố ảnh hưởng. ................. 6
1.1.3. Đặc điểm sinh học của trứng gia cầm ......................................... 14
1.1.4. Nhu cầu dinh dưỡng của gà đẻ trứng........................................... 22
1.2. Một số đặc điểm của giống gà Lương Phượng ................................... 25
1.3. Lipit trong thức ăn chăn nuôi ............................................................. 26
1.3.1. Nguồn gốc .................................................................................. 26
1.3.2. Đặc điểm cấu tạo. ....................................................................... 27
1.3.3. Tính chất lý hóa học ................................................................... 27
1.3.4. Vai trò của lipit với cơ thể động vật ............................................ 28
1.4. Những hiểu biết về dầu đậu nành ....................................................... 29
1.5. Thông tin về chế phẩm Selenium yeast .............................................. 31
1.5.1. Những hiểu biết chung về selen .................................................. 32
1.5.2.Vai trò của selen .......................................................................... 32
1.5.3. Nhu cầu selen của vật nuôi ......................................................... 33


iv

1.6 Tình hình nghiên cứu trên thế giới và trong nước ............................... 34
1.6.1 Tình hình nghiên cứu chế phẩm Selen trên thế giới ..................... 34
1.6.2 Tình hình nghiên cứu chế phẩm chứa selen trong nước ............... 35
Chƣơng 2: ĐỐI TƢỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.. 36

2.1. Đối tượng, địa điểm, thời gian nghiên cứu ......................................... 36
2.2. Nội dung nghiên cứu ......................................................................... 36
2.3. Phương pháp nghiên cứu ................................................................... 37
2.3.1 Bố trí thí nghiệm .......................................................................... 37
2.3.2 Các chỉ tiêu và phương pháp theo dõi .......................................... 46
Chƣơng 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN ....................... 48
3.1. Khối lượng gà trước và sau thí nghiệm .............................................. 48
3.2. Năng suất trứng ................................................................................. 50
3.3. Tỷ lệ đẻ.............................................................................................. 50
3.4. Khả năng tiêu thụ thức ăn của gà thí nghiệm ..................................... 51
3.5. Một số chỉ tiêu lý, hóa học của trứng ................................................. 51
3.6. Hàm lượng Omega 3 và selen trong trứng gà thí nghiệm ................... 53
3.6.1 Hàm lượng omega 3 trong trứng gà thí nghiệm............................ 53
3.6.2. Hàm lượng selen trong trứng gà thí nghiệm ................................ 55
3.7. Ảnh hưởng của bổ sung selen và dầu đậu nành đến chất lượng trứng 56
3.8. Ảnh hưởng của bổ sung selen đến thời gian bảo quản của trứng gà
thông qua chỉ tiêu pH ............................................................................... 58
3.9. Hiệu quả sử dụng và chuyển hóa thức ăn .......................................... 60
3.10. Hiệu quả kinh tế............................................................................... 63
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ ........................................................................ 66
1. Kết luận ................................................................................................ 66
2. Đề nghị ................................................................................................. 66
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................... 67


v

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 1.1: Thông tin dinh dưỡng của dầu đậu nành. ....................................... 31

Bảng 2.1: Sơ đồ bố trí thí nghiệm: ................................................................. 40
Bảng 3.1 Khối lượng gà trước và sau khi kết thúc thí nghiệm ....................... 48
Bảng 3.2 Năng suất trứng .............................................................................. 50
Bảng 3.3 Tỷ lệ đẻ của gà thí nghiệm ............................................................. 51
Bảng 3.4 Một số chỉ tiêu lý, hóa học của trứng.............................................. 52
Bảng 3.5: Ảnh hưởng của việc bổ sung dầu đậu nành đến tỷ lệ Omega-3
trong trứng gà .................................................................................... 53
Bảng 3.6 Hàm lượng selen trong trứng gà thí nghiệm ................................... 55
Bảng 3.7: Một số chỉ tiêu chất lượng trứng gà thí nghiệm ............................. 57
Bảng 3.8 Chỉ tiêu pH của lòng đỏ và lòng trắng trứng sau thời gian bảo quản ...... 59
Bảng 3.9 Ảnh hưởng của việc bổ sung dầu đậu nành và selen đến tiêu
tốn, chi phí thức ăn cho 10 quả trứng ................................................. 61
Bảng 3.10 Hiệu quả kinh tế trong thời gian làm thí nghiệm ........................... 64


vi

DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 3.1:Ảnh hưởng của việc bổ sung dầu đậu nành đến tỷ lệ Omega3 trong trứng gà ............................................................................. 55
Hình 3.2: Hàm lượng selen trong trứng gà thí nghiệm ................................... 56


1

MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Những năm gần đây, cùng với sự phát triển của nền kinh tế đất nước,
ngành chăn nuôi đã có những bước phát triển vượt bậc cả về số lượng và chất
lượng, trong đó góp phần không nhỏ là khoa học dinh dưỡng, thức ăn cho vật
nuôi. Ngành chế biến thức ăn chăn nuôi gia súc, gia cầm cũng ngày càng phát

triển, sản xuất ra nhiều chủng loại thức ăn: thức ăn tổng hợp, thức ăn đậm
đặc, thức ăn viên, premix khoáng sinh tố…
Việc thay thế chất béo động vật bằng nguồn chất béo từ thực vật giầu
chất béo không sinh Cholesterone như dầu hoa hướng dương, dầu đậu nành,
dầu hạt lanh… kết quả làm giảm lượng mỡ bụng tích lũy ở gà thịt (theo
Newman và cs, 2002 [40]; Wongsuthavas và cs, 2008 [46].
Tuy vậy vẫn không đáp ứng được yêu cầu của người chăn nuôi. Hiện
nay, yêu cầu đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm đang là vấn đề được quan
tâm hàng đầu, chính vì vậy chúng ta không chỉ quan tâm đến số lượng mà còn
phải đặc biệt quan tâm đến chất lượng của sản phẩm chăn nuôi.
Omega 3 là axit béo không no dễ bị oxy hóa, ôi thiu. Để ngăn ngừa
hiện tượng này chúng tôi thấy selen với vai trò chống oxy hóa có thể giúp
nâng cao hàm lượng omega 3 trong sản phẩm trứng. Ngoài ra selen với
hàm lượng hợp lý trong sản phẩm có thể là nguồn bổ sung selen đối với
người tiêu dùng.
Vì vậy để nâng cao năng suất trứng và hàm lượng dinh dưỡng trong
trứng, đặc biệt là hàm lượng selen, acid omega 3 trong trứng, chúng tôi tiến
hành nghiên cứu đề tài :“Nghiên cứu ảnh hưởng của việc bổ sung selen hữu
cơ và dầu đậu nành đến khả năng sản xuất trứng và tỷ lệ Omega 3 trong
trứng gà Lương Phượng”.


2

2. Mục đích của đề tài
- Đánh giá được ảnh hưởng của các tỷ lệ bổ sung selen hữu cơ và dầu đậu
nành khác nhau đến khả năng sản xuất trứng và tỷ lệ omega 3 trong trứng gà.
- Đánh giá được vai trò của selen trong việc nâng cao hàm lượng
omega 3 trong trứng.
- Nâng cao tỷ lệ omega 3 trong trứng gà khi bổ sung selen hữu cơ và

dầu đậu nành 3-5 lần so với trứng gà nuôi bình thường.
3. Ý nghĩa của đề tài
- Ý nghĩa khoa học
Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ cung cấp cho ngành khoa học thức
ăn và dinh dưỡng gia cầm những thông tin cơ bản về việc sử dụng selen
hữu cơ và dầu đậu nành trong thức ăn hỗn hợp để chăn nuôi gà đẻ trứng
thương phẩm.
- Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần giải quyết các vấn đề khó
khăn trong chăn nuôi hiện nay như: góp phần sản xuất ra những sản phẩm
chăn nuôi sạch, có giá trị dinh dưỡng cao, an toàn vệ sinh thực phẩm.
Cân đố i khẩ u phầ n selen hữu cơ và dầu đậu nành vào công thức thức ăn
hỗn hợp của gà đẻ sẽ nâng cao hiệu quả năng suất và chất lượng trứng gà,
phần nào làm giảm thiểu ô nhiễm môi trường.


3

Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1.Cơ sở khoa học
1.1.1. Cở sở khoa học về khả năng sinh sản của gia cầm
1.1.1.1.Cấu tạo cơ quan sinh dục gia cầm
*) Cơ quan sinh dục cái của gia cầm:
Gồm một buồng trứng và ống dần trứng. Buồng trứng có chức năng tạo
lòng đỏ, còn ống dẫn trứng có chức năng tạo ra lòng trắng đặc, lòng trắng
loãng, màng vỏ, vỏ mỏng và lớp keo mỡ bao quanh ngoài vỏ trứng. Thời gian
trứng lưu lại trong ống dẫn trứng từ 20 - 24 giờ.
+) Buồng trứng:
Buồng trứng nằm phía trái xoang bụng, thấp hơn thận trái, kích thước và

hình dạng buồng trứng khác nhau tùy theo tuổi gia cầm. Gà con 10 ngày tuổi
buồng trứng có hình phiến mỏng, kích thước từ 1 - 2 mm, khối lượng 0,03 g
đến 4 tháng tuổi buồng trứng có dạng hình thoi, khối lượng 2,66g, đến thời kỳ
đẻ trứng buồng trứng giống như chùm nho với khối lượng 55g, ở thời kỳ gà
nghỉ đẻ thay lông thì khối lượng buồng trứng giảm xuống 5g.
Theo Nguyễn Duy Hoan và cs, (1998) [8] xác định ở giai đoạn phôi thai,
hai phía trái và phải của gà mái đều có buồng trứng phát triển nhưng sau khi
nở thì buồng trứng bên phải tiêu biến chỉ còn lại buồng trứng bên trái.
Sự phát triển của mỗi tế bào trứng gồm 3 giai đoạn:
Thời kỳ tăng sinh của các tế bào trứng bắt đầu xảy ra ngay trong thời kỳ
phát triển phôi thai và kết thúc ở giai đoạn gà con nở ra.
Thời kỳ sinh trưởng gồm có:


4

Thời kỳ sinh trưởng nhỏ: từ khi gia cầm nở ra đến khi thành thục về sinh dục.
Thời kỳ sinh trưởng lớn: chỉ từ 4 đến 13 ngày, đây là thời kỳ tích lũy lớn
nhất 90 – 95% khối lượng trứng được tích lũy trong giai đoạn này. Vào thời
kỳ đẻ đường kính của tế bào trứng là 35 - 45mm.
Số lượng tế bào trứng của gà mái có thể đến hàng triệu. Theo Frege.
H.A. (1978) xác định số lượng trứng lúc gà bắt đầu đẻ từ 900 – 3600 nhưng
chỉ có một số lượng hạn chế trứng chín và rụng (dẫn theo Phạm Thị Minh
Thu, 2002 [25]). Trong thời gian phát triển, lúc đầu các tế bào trứng được bao
bọc bởi một tầng tế bào không có liên kết với biểu bì phát sinh, tầng tế bào
này phát triển trở thành nhiều tầng và sự tạo thành tiến tới bề mặt buồng
trứng, cấu tạo này gọi là follicun. Bên trong follicun có một khoảng trống
chứa đầy dịch, bên ngoài follicun giống như một cái túi. Trong thời kỳ đẻ
trứng nhiều follicun chín dần làm thay đổi hình dạng buồng trứng trông giống
như chùm nho. Sau thời kỳ đẻ trứng, buồng trứng trở về hình dạng ban đầu,

các follicun trứng vỡ ra, quả trứng chín chuyển ra ngoài cùng với dịch của
follicun và rơi vào phễu ống dẫn trứng. Sự rụng trứng đầu tiên báo hiệu sự
thành thục sinh dục, đó là quá trình đi ra của tế bào trứng chín. Từ buồng
trứng, sự rụng trứng chỉ xảy ra một lần trong ngày, có những trường hợp đặc
biệt có thể hai hoặc ba tế bào cùng rụng một lúc, trường hợp quả trứng của
ngày hôm trước đẻ sau 4 giờ chiều thì phải sang ngày hôm sau mới xảy ra quá
trình rụng trứng. Tính chu kỳ của sự rụng trứng phụ thuộc vào nhiều yếu tố
khác nhau như: điều kiện nuôi dưỡng chăm sóc, lứa tuổi, trạng thái sinh lý
của gia cầm. Song điều kiện chung nhất là sự rụng trứng của gia cầm chịu ảnh
hưởng của thần kinh và thể dịch (Nguyễn Duy Hoan và cs, 1998) [8].
+) Ống dẫn trứng là một ống dài có nhiều khúc cuộn, tại đây xảy ra quá
trình thụ tinh và hình thành trứng của gia cầm. Tùy thuộc vào hình dạng và


5

chức năng của ống dẫn trứng mà người ta chia thành các loại khác nhau. Kích
thước và hình dạng ống dẫn trứng thay đổi theo lứa tuổi và các hoạt động của
cơ quan sinh dục. Trước khi đẻ quả trứng đầu tiên ống dẫn trứng dài ra, khối
lượng tăng lên rất nhiều và nó chia thành từng phần khác nhau: ở gà không đẻ
trứng (trưởng thành) chiều dài ống dẫn trứng: 1-18cm. Ở gà đẻ trứng (lúc
trưởng thành) chiều dài ống dẫn trứng: 55 - 68cm. Ở thời kỳ thay lông chiều
dài ống dẫn trứng chỉ còn khoảng 7cm.
Theo đặc điểm hình thái và chức năng sinh lý ống dẫn trứng chia thành 5
phần: loa kèn, phần tiết lòng trắng, phần eo, tử cung, âm đạo.
- Loa kèn: bề mặt niêm mạc của loa kèn thì không có ống tuyến chỉ phần
cổ phễu có ống tuyến tiết ra một phần lòng trắng đặc hình thành dây chằng
lòng đỏ. Tại đây trứng được thụ tinh nếu gặp tinh trùng, trứng chỉ dừng ở đây
từ 15 đến 20 phút.
- Phần tiết lòng trắng: là bộ phận dài nhất của ống dẫn trứng. Ở thời

kỳ gia cầm đẻ với tỷ lệ cao, chúng có thể dài từ 20 - 30cm, niêm mạc phần
này có nhiều tuyến hình ống giống như cổ phễu để tiết ra lòng trắng đặc
hình thành dây chằng lòng đỏ và tiết ra lòng trắng loãng, trứng dừng ở đây
khoảng 3 giờ.
- Phần eo: là phần hẹp hơn của ống dẫn trứng, dài khoảng 8cm, các
tuyến ở đây tiết ra một phần lòng trắng và tiết ra một chất hạt hình thành nên
tấm màng dưới vỏ gồm 2 lớp, 2 lớp này tách nhau tại đầu lớn của vỏ trứng
hình thành nên buồng khí. Các dung dịch muối và nước có thể thấm qua màng
này đi vào lòng trắng. Trứng dừng ở đây 60 - 70 phút.
- Tử cung: là phần tiếp theo của quá trình tạo vỏ là phần mở to ra tạo
thành tử cung dài từ 8 -12cm, tuyến vách tử cung tạo thành một lớp dịch lỏng,
chất dịch thẩm thấu qua màng vỏ đi vào lòng trắng làm cho tăng khối lượng


6

lòng trắng, mặt khác một số tuyến ở tử cung tiết ra một chất dịch hình thành
nên vỏ cứng, quá trình hình thành của vỏ diên ra chậm chạp. Trứng dừng lại ở
đây khá lâu từ 18 - 20 giờ.
- Âm đạo: là đoạn cuối cùng của ống dẫn trứng, là cửa ngõ để trứng ra
ngoài cơ thể. Giữa âm đạo và tử cung có một van cơ dài 17 - 20cm, niêm mạc
nhăn nhưng không có các tuyến hình ống. Tại chính mép biểu mô của âm đạo
tiết ra một chất dịch tham gia hình thành lớp màng keo ở trên vỏ. Trứng đi
qua phần âm đạo rất nhanh.
*) Những trường hợp trứng dị hình:
- Trứng không có lòng đỏ: do trong cơ thể có những tế bào chết rơi vào
loa kèn và ống dẫn trứng không phân biệt được vì vậy vẫn có quá trình tạo
trứng và hình thành trứng nhỏ.
- Trứng 2 lòng đỏ: do 2 trứng cùng rụng một thời điểm hoặc cách nhau
không quá 20 phút vì vậy hình thành nên quả trứng rất to.

- Trứng trong trứng: thường ít gặp, do bị kích động đột ngột một quả
trứng hoàn chỉnh bị ống đẫn trứng co lại gây ra nhu động ngược lên phía trên
gặp tế bào trứng mới rụng, sẽ nắm cùng với lòng đỏ của trứng mới bên ngoài
được bao bọc bằng lòng trắng và vỏ cứng.
- Ngoài ra còn có trứng méo mó, không vỏ do thiếu khoáng, vitamin D,
do co bóp của ống dẫn trứng...
1.1.2. Khả năng sinh sản của gia cầm và các yếu tố ảnh hƣởng.
1.1.2.1. Khả năng sinh sản của gia cầm
Trong chăn nuôi gia cầm, để sản xuất giống, khả năng sinh sản của gia
cầm là rất quan trọng, còn trong chăn nuôi gà lấy thịt, để sản xuất được nhiều
thịt, cần tạo ra những dòng gia cầm có tốc độ sinh trưởng nhanh, năng suất


7

chất lượng thịt cao. Mặt khác cũng phải sản xuất ra nhiều gia cầm trong cùng
một thời gian. Để có nhiều gia cầm giống, con mái phải cho nhiều trứng
giống, tỷ lệ có phôi, tỷ lệ ấp nở phải đạt cao.
Các tính trạng của gia cầm sinh sản phần lớn là các tính trạng số lượng
nên ngoài tác động một phần do di truyền, chúng còn chịu ảnh hưởng rất lớn
của các điều kiện môi trường.
Để đánh giá khả năng sản xuất trứng của gia cầm người ta không thể
không chú ý đến sức đẻ trứng của gia cầm.
Theo Brandsch và Bilchel (1978) [4] thì sức đẻ trứng chịu ảnh hưởng
của 5 yếu tố chính:
1. Tuổi đẻ đầu hay tuổi thành thục.
2. Chu kỳ đẻ trứng hay cường độ đẻ trứng.
3.Tần số thể hiện bản năng đòi ấp.
4. Thời gian nghỉ đẻ, đặc biệt là nghỉ đẻ mùa đông.
5. Thời gian đẻ kéo dài hay chu kỳ đẻ (hay tính ổn định sức đẻ).

Các yếu tố trên có sự điều khiển bởi kiểu gen di truyền của từng giống
gia cầm.
Để đánh giá khả năng sinh sản của đàn gà hay của một dòng gà nào đó,
người ta dựa vào các chỉ tiêu sau:
- Tuổi đẻ đầu:
Tuổi đẻ quả trứng đầu là thời điểm đàn gà đã thành thục về tính. Tuổi đẻ
đầu phụ thuộc vào nhiều yếu tố như loài, giống, hướng sản xuất, kỹ thuật
chăm sóc, nuôi dưỡng, các yếu tố môi trường đặc biệt là thời gian chiếu sáng.
Thời gian chiếu sáng dài sẽ thúc đẩy gia cầm đẻ sớm. Sự thành thục về tính


8

sớm hay muộn còn liên quan chặt chẽ đến khối lượng cơ thể. Những giống gà
có tầm vóc nhỏ thường thành thục về tính sớm hơn những giống gia cầm có
tầm vóc lớn. Trong cùng một giống, cơ thể nào được nuôi dưỡng, chăm sóc
tốt, điều kiện thời tiết khí hậu và độ dài ngày chiếu sáng phù hợp sẽ có tuổi
thành thục sinh dục sớm hơn. Nhiều công trình nghiên cứu đã chứng minh
tuổi thành thục sinh dục sớm là trội so với tuổi thành thục sinh dục muộn.
Đối với một đàn gà cùng lứa tuổi thì tuổi đẻ quả trứng đầu tiên là thời
điểm tại đó đàn gà đạt tỷ lệ đẻ 5%. Tuổi đẻ quả trứng đầu rất quan trọng vì nó
có thể quyết định đến sản lượng trứng sau này của đàn gà.
Theo Hays (dẫn theo Brandsch và Bilchel, 1978 [4]) thì những gà có tuổi
đẻ quả trứng đầu lớn hơn 245 ngày cho sản lượng trứng thấp hơn những gà có
tuổi đẻ quả trứng đầu nhỏ hơn 215 ngày là 6,9 quả.
Khối lượng cơ thể và cấu trúc thành phần cơ thể là những nhân tố ảnh
hưởng đến tính thành thục của gà mái. Nhưng thực tế gà nặng cân lại đẻ ít
trứng. Hocking và cs (dẫn theo Chambers, 1990 [31]) giải thích rằng nguyên
nhân gây nên hiện tượng đẻ trứng ít của gà nặng cân là do tồn tại nhiều bao
noãn, chúng thường xuyên lấn át buồng trứng.

- Sản lượng trứng
Sản lượng trứng gà số lượng trứng của gia cầm mái đẻ trong một chu kỳ
đẻ hoặc trong một thời gian nhất định có thể tính theo tháng hoặc năm. Đối
với gia cầm thì đây là chỉ tiêu quan trọng, nó phản ánh trạng thái sinh lý và
khả năng hoạt động của hệ sinh dục. Theo Brandsch và Bilchel, 1978 [4], sản
lượng trứng được tính theo năm sinh học 365 ngày, kể từ ngày đẻ quả trứng
đầu tiên. Nhiều hãng gia cầm khác ở Mỹ và Đức thì tính sản lượng trứng
trong vòng 500 ngày đẻ. Hiện nay, các hãng gia cầm lớn trên thế giới chỉ tính
sản lượng trứng gà bố mẹ hướng thịt đến 9 tháng đẻ (270 ngày đẻ) và gà


9

hướng trứng thương phẩm đến 18 tháng đẻ (540 ngày đẻ). Như vậy đánh giá
sản lượng trứng theo tỷ lệ phần trăm hoặc số lượng trứng gà đẻ trong một thời
gian nhất định là phương pháp thông dụng.
Sản lượng trứng là một tính trạng số lượng nên nó phụ thuộc nhiều vào
điều kiện ngoại cảnh. Theo Fairful và Gowe (1990), sản lượng trứng gà là kết
quả tác động của rất nhiều gen lên một số lượng lớn các quá trình sinh hóa
học. Khi điều kiện môi trường thích hợp (nhiệt độ, ánh sáng, dinh dưỡng), rất
nhiều gen tham gia điều khiển tất cả các quá trình liên quan đến sản xuất
trứng hoạt động cho phép gia cầm phát huy được đầy đủ tiềm năng di truyền
của chúng.
Sản lượng trứng được đánh giá qua cường độ đẻ và thời gian kéo dài sự đẻ.
+ Tỷ lệ đẻ là chỉ tiêu đánh giá sức đẻ trứng của gia cầm. Đỉnh cao của tỷ
lệ đẻ có mối tương quan với năng suất trứng. Giống gia cầm nào có tỷ lệ đẻ
cao và kéo dài trong thời kỳ sinh sản, chứng tỏ là giống tốt, nếu dinh dưỡng
mà đảm bảo thì năng suất sinh sản sẽ cao.
+ Cường độ đẻ trứng là sức đẻ trong một thời gian nhất định. Cường độ
này được xác định theo khoảng thời gian 30 ngày hoặc 60 ngày hoặc 100

ngày trong giai đoạn đẻ.
Theo Card (1977): cho biết quần thể gà mái cao sản đẻ theo quy luật.
Cường độ đẻ trứng cao nhất vào các tháng thứ 2, thứ 3, sau đó giảm dần cho
đến hết năm đẻ. Theo Mack (1991): đối với gà cao sản cường độ đẻ trứng
tăng nhanh từ khi bắt đầu đẻ đến hết tuần 24 đạt 50% và đỉnh cao từ tuần 27 28, đến tuần 35 đạt: trên 90%, sau đó giảm dần và giữ được 60 - 65% ở tuần
thứ 76. Khi cường độ đẻ giảm nhiều gà thường hay biểu hiện bản năng đòi ấp.
Sự xuất hiện bản năng đòi ấp phụ thuộc nhiều vào yếu tố di truyền, vì các
giống khác nhau có bản năng ấp khác nhau. Điều này chịu ảnh hưởng bởi


10

nhiều yếu tố như: nhiệt độ, ánh sáng, dinh dưỡng....Theo Brandsch và Bilchel
(1978) [4] thì nhiệt độ cao và bóng tối kích thích sự ham ấp, đồng thời yếu tố
gen chịu tác động phối hợp giữa các gen thường và cac gen liên kết giới tính.
Số lượng trứng có tương quan di truyền âm với khối lượng cơ thể nhưng
khối lượng trứng có tương quang dương với khối lượng cơ thể. Gà mới đẻ lần
đầu thường có khối lượng trứng nhỏ, sau đó tăng dần lên cùng với sự phát
triển của cơ thể gà trong thời gian đẻ.
+ Thời gian kéo dài sự đẻ có liên quan đến chu kỳ đẻ trứng. Chu kỳ đẻ
kéo dài hay ngắn phụ thuộc vào cường độ và thời gian chiếu sáng. Đây là cơ
sở để áp dụng chiếu sáng nhân tạo trong chăn nuôi gà đẻ.
Thời gian nghỉ đẻ ngắn hay dài có ảnh hưởng trực tiếp đến sản lượng
trứng cả năm. Gà thường hay nghỉ đẻ mùa đông do nguyên nhân giảm dần
cường độ thời gian chiếu sáng tự nhiên. Ngoài sự nghỉ đẻ này còn do khí hậu,
sự thay dổi thức ăn, chu chuyển đàn. Là một tính trạng số lượng có hệ số di
truyền cao, do đó người ta có thể cải thiện di truyền bằng cách chọn lọc
giống. Trong chọn lọc cần để ý tới số trung bình chung.
Theo Jull (1976) hệ số tương quan giữa sản lượng trứng và thời gian
nghỉ đẻ cả năm là rất chặt chẽ (r = 0,7 - 0,9). Levie và Tailor (1943) ( dẫn

theo Phạm Thị Minh Thu (2002) [25] ) cho rằng: Thời gian kéo dài đẻ
trứng là yếu tố quyết định sản lượng trứng. Tuy nhiên, mốc xác định thời
gian đẻ để tính sản lượng trứng còn nhiều ý kiến và nó phụ thuộc vào nhiều
nước khác nhau.
- Khối lượng trứng
Một tính trạng số lượng quan trọng là thành phần thứ hai cấu thành năng
suất trứng đó là khối lượng trứng. Khối lượng trứng phụ thuộc vào chiều đo
quả trứng, vào khối lượng lòng trắng, lòng đỏ và vỏ. Ngoài ra, khối lượng
trứng còn phụ thuộc vào giống, khối lượng cơ thể, tuổi đẻ và chế độ dinh


11

dưỡng. Nó là một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá chất lượng trứng giống, tỷ
lệ nở, chất lượng và sức sống của gà con.
Awang (1984) khối lượng trứng phụ thuộc trực tiếp vào chiều dài, chiều
rộng của quả trứng cũng như khối lượng lòng trắng, lòng đỏ và vỏ (dẫn theo
Trần Huê Viên, 2001) [27]: khối lượng trứng tương quan rõ rệt với khối
lượng lòng trắng (r = 0,86) khối lượng lòng đỏ (r = 0,72 ) và khối lượng vỏ (r
= 0,48). Ngoài ra khối lượng trứng còn phụ thuộc vào giống, khối lượng cơ
thể, tuổi đẻ và chế độ dinh dưỡng.
Theo Lochus và Starstikov (1979): trứng gia cầm khi bắt đầu đẻ nhỏ hơn
trứng gia cầm lúc trưởng thành (dẫn theo Trần Huê Viên, 2001) [27]. Theo
Nguyễn Duy Hoan và cs (1998) [8] trong cùng một độ tuổi thì khối lượng trứng
tăng lên chủ yếu do khối lượng lòng trắng lớn hơn nên giá trị năng lượng giảm
dần. Khối lượng gà con khi nở thường bằng 62-78% khối lượng trứng ban đầu.
Khối lượng trứng của những loại giống khác nhau thì khác nhau.
Ranch (1971) cho rằng: khối lượng trứng tăng dần đến cuối chu kỳ đẻ,
khối lượng trứng và sản lượng trứng thường có hệ số tương quan âm. Theo
JanVa (1967): xác định hệ số này là (-0,11). Khối lượng trứng cũng ảnh

hưởng đến tỷ lệ ấp nở. Theo OrLov (1974): thì trong số trứng của cùng một
gà mẹ đẻ ra, những trứng có khối lượng trung bình cho tỷ lệ nở cao hơn
những trứng có khối lượng quá lớn hoặc quá nhỏ.
1.1.2.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng sinh sản của gia cầm
Sức sản xuất trứng là đặc điểm phức tạp và biến động, nó chịu ảnh
hưởng bởi tổng hợp yếu tố bên trong và bên ngoài.
* Ảnh hưởng của các yếu tố bên trong
- Giống, dòng
Giống là nhân tố quan trọng ảnh hưởng tới khả năng sinh trưởng, sinh
sản của gà. Nó ảnh hưởng đến sức sản xuất trực tiếp. Về sản lượng trứng,


12

những dòng chọn lọc kỹ thường đạt chỉ tiêu cao hơn những dòng chưa được
chọn lọc kỹ khoảng 15-30% về sản lượng (Nguyễn Duy Hoan và cs, 1998 [8].
- Ảnh hưởng của tuổi gia cầm
Tuổi của gia cầm liên quan chặt chẽ tới sự đẻ trứng của nó. Như một quy
luật, ở gà sản lượng trứng giảm dần theo tuổi, trung bình năm thứ 2 giảm 1520% so với năm thứ nhất, còn vịt thì ngược lại, năm thứ hai cho sản lượng
trứng cao hơn 9-15%.
- Tuổi thành thục sinh dục
Tuổi thành thục về tính của gia cầm có ảnh hưởng rõ rệt đến sản lượng
trứng trong chu kỳ đẻ đầu và các chu kỳ đẻ tiếp theo. Theo Chamber (1990)
[31] thì gà thành thục về tính sớm sẽ đẻ nhiều trứng hơn trong một năm sinh
học. Nhưng nếu gà thành thục về tính quá sớm sẽ đẻ trứng nhỏ kéo dài.
- Ảnh hưởng của sự thay lông đến sản lượng trứng
Sự thay lông là một quá trình sinh lý học tự nhiên. Ở gia cầm hoang thì
sự thay lông thường phụ thuộc vào mùa. Thông thường, chúng thay lông vào
mùa thu. Thời gian thay lông càng dài thì sản lượng trứng càng thấp. Sự thay
lông là kết quả hoạt động tương tác phức tạp của các hormon Gonadotropin.

Các hormon khác như Thyroxine và Prolactin cũng hoạt động tương tác với
các hormon Gonadotropin (Rose, 1997) [43].
Ở điều kiện bình thường, thay lông lần đầu tiên là những điểm quan
trọng để đánh giá gia cầm đẻ tốt hay xấu. Gà thường ngừng đẻ trứng khi thay
lông cánh, nhưng vẫn có khả năng tiếp tục đẻ trong khi thay lông của những
phần khác của cơ thể.
- Ảnh hưởng của bệnh tật đến sản lượng trứng của gia cầm thông qua
việc làm giảm đầu con, giảm khả năng đẻ trứng.
* Ảnh hưởng của môi trường bên ngoài
- Ảnh hưởng của nhiệt độ đến sản lượng trứng


13

Nhiệt độ ảnh hưởng tới sản lượng trứng thông qua mức độ tiêu tốn thức
ăn. Ở điều kiện nước ta nhiệt độ chăn nuôi thích hợp với gia cầm đẻ trứng là
14-220C. Nếu nhiệt độ dưới giới hạn thấp thì gia cầm phải huy động năng
lượng chống rét, tiêu tốn thức ăn cho việc sản xuất một quả trứng cao. Nhiệt
độ cao sẽ làm giảm mức tiêu thụ thức ăn, lượng thức ăn ăn vào không đáp
ứng đủ nhu cầu sản xuất và như vậy sản lượng trứng sẽ giảm.
- Ảnh hưởng của độ ẩm đến sản lượng trứng của gia cầm
Khi độ ẩm quá cao làm cho chất độn chuồng bị ướt, tạo thành một lớp
hơi nước bao phủ không gian của chuồng nuôi. Nếu tình trạng này kéo dài sẽ
ảnh hưởng đến sự hô hấp của gia cầm và làm ảnh hưởng đến năng suất và tiêu
tốn thức ăn. Độ ẩm quá thấp (<31%) sẽ làm cho gia cầm mổ lông và rỉa thịt
nhau, ảnh hưởng đến tỷ lệ hao hụt và khả năng sản xuất.
- Ảnh hưởng của mùa vụ và ánh sáng đến sản lượng trứng
Mùa vụ ảnh hưởng tối sức đẻ trứng rõ rệt. Ở nước ta, về mùa hè sức đẻ
trứng giảm xuống rất nhiều so với mùa xuân và đến mùa thu lại tăng lên.
Trong tất cả các yếu tố bên ngoài ảnh hưởng đến sản lượng trứng thì yếu

tố về thời gian chiếu sáng đóng vai trò quan trọng. Nó được xác định qua thời
gian chiếu sáng và cường độ chiếu sáng.
Thời gian chiếu sáng được xem là nhân tố kích thích ngoại lai chủ yếu có
khả năng khởi đầu mùa sinh sản trong các vùng địa lý tuy thuộc những biến
động tự nhiên về độ dài ngày.
Yêu cầu của gà đẻ thời gian chiếu sáng 12-16 h/ngày, có thể sử dụng ánh
sáng tự nhiên, ánh sáng nhân tạo để đảm bảo giờ chiếu sáng 3-3,5 w/m2. Cụ
thể số gà đẻ 7-9 giờ đạt 17,7% so với tổng số gà đẻ trong ngày. Ở nước ta do
khí hậu khác với các nước, cho nên cường độ đẻ trứng ở gà cao nhất khoảng
từ 8-12 giờ chiếm 60% đến gần 70% so với gà đẻ trứng trong ngày.
- Ảnh hưởng của yếu tố dinh dưỡng đến sản lượng trứng


14

Theo Bạch Thị Thanh Dần, (1997) cho biết gà nội (gà Ri) đẻ 90-120
trứng/mái/năm. Đối với giống gà nội thì ảnh hưởng của yếu tố dinh dưỡng là
không lớn nhưng đối với gà nuôi nhốt thì nhu cầu dinh dưỡng cần được chú ý.
Theo Campell và cs (1969) [29]: đối với gà nuôi nhốt phải tăng gấp đôi về
protein, hydratcarbon, lipit và phải bổ sung thêm khoáng so với gà chăn thả.
Tác giả cũng cho biết hàm lượng protein, canxi, photpho và lipit trong máu gà
đang đẻ trứng cao gấp 2, 3 thậm chí đến 4 lần so với trong máu gà không đẻ
trứng. Sự tăng lên về hàm lượng các chất này trong máu chứng tỏ gà cần
protein để tạo noãn hoàng và lòng trắng; cần Ca, P để tạo vỏ trứng; cần L để
tạo noãn hoàng. Khi gà ngừng đẻ thì hàm lượng các chất này trong máu lại
giảm đi. Tỷ lệ Ca/P thích hợp ở gà đẻ trứng là 5/1.
Ngoài các yếu tố ảnh hưởng trên thì phương thức chăn nuôi khác nhau
cũng cho những sản lượng trứng khác nhau. Gà nuôi chuồng lồng thì sản
lượng trứng đạt 223 quả/năm, trong khi đó đối với gà nuôi nền chỉ đạt 201
trứng/năm, còn gà nuôi chăn thả chỉ đạt 170 trứng/năm.

1.1.3. Đặc điểm sinh học của trứng gia cầm
- Chất lượng trứng gia cầm:
Nhiều tác giả cho rằng chất lượng trứng gồm có 2 phần:
+ Chất lượng bên ngoài gồm: khối lượng, hình dạng, màu sắc, độ dày và
dộ bền vỏ trứng.
+ Chất lượng bên trong gồm các thành phần: lòng đỏ, lòng trắng, giá trị
dinh dưỡng, màu sắc và mùi vị, các chỉ số hình thái của lòng đỏ và lòng trắng.
- Hình thái của trứng
Trứng gia cầm thường có hình ôval hoặc hình elip: một đầu lớn và một
đầu nhỏ. Hình dạng trứng thường mang đặc điểm của từng cá thể. Chỉ số hình


15

thái của trứng thường có ý nghĩa lớn trong vận chuyển, đóng gói. Trứng càng
dài càng dễ vỡ.
Chỉ số hình thái ở mỗi loài gia cầm là khác nhau và được quy định bởi
nhiều kiểu gen. Theo Brandsh và Bilchell (1978) [4] thì tỷ lệ giữa chiều dài và
chiều rộng của quả trứng là một chỉ số ổn định 1:0,75. Hình dạng quả trứng
tương đối ổn định, sự biến động theo mùa cũng không có ảnh hưởng lớn. Nói
chung hình dạng quả trứng luôn có tính di truyền bền vững và có những biến dị
không rõ rệt.
- Chất lượng vỏ trứng
Vỏ trứng là lớp vỏ bọc ngoài cùng bảo vệ về mặt cơ học, lý học, hóa học
cho các thành phần khác bên trong trứng. Màu sắc của vỏ trứng phụ thuộc vào
giống, lá tai của từng loại gia cầm khác nhau. Bên ngoài nó được bao phủ bởi
một lớp keo dính do âm đạo tiết ra, có tác dụng làm giảm ma sát giữa thành
âm đạo và trứng, tạo sự thuận lợi cho việc đẻ trứng, hạn chế sự bốc hơi nước
của trứng ngăn cản sự xâm nhập của vi khuẩn.
Vỏ trứng có hai lớp màng đàn hồi tách nhau tạo thành buồng khí có ý

nghĩa trong quá trình trao đổi khí với môi trường bên ngoài. Vỏ trứng được
cấu tạo gồm 94 % canxi carbonat, 1 % canxi phosphat, 1 % magie phosphat, 4
% hợp chất hữu cơ. Một phần hợp chất hữu cơ này là đường polisacharide.
Hàm lượng canxi trong vỏ trứng khoảng 2g. Trên bề mặt vỏ trứng có nhiều lỗ
khí, số lượng lỗ khí phụ thuộc vào nhiều yếu tố.
Theo Nguyễn Duy Hoan và cs (1998) [8], trên bề mặt vỏ trứng gà có
khoảng 10.000 lỗ khí, tính trên 1 cm2 có khoảng 150 lỗ, đường kính các lỗ khí
dao động 4 – 10 µm. Mật độ lỗ khí không đều, nhiều nhất ở đầu to giảm dần ở
2 bên và ít nhất ở đầu nhỏ.


16

Chất lượng vỏ trứng thể hiện ở độ dày và độ bền của vỏ trứng. Nó có ý
nghĩa trong vận chuyển và ấp trứng. Độ dày vỏ tương quan dương đối với độ
bền vỏ trứng và có ảnh hưởng đến tỷ lệ ấp nở. Thường những trứng có vỏ quá
dày hoặc quá mỏng đều có tỷ lệ ấp nở kém (Nguyễn Thị Bạch Yến, 1996). Vỏ
trứng quá dày hạn chế sự bốc hơi nước, cản trở quá trình phát triển của phôi,
gia cầm con khó đạp vỡ vỏ khi nở. Nếu vỏ trứng quá mỏng làm bay hơi nước
nhanh, khối lượng trứng gia cầm giảm nhanh, dễ chết phôi, sát vỏ, nở yếu và
tỷ lệ chết cao. Độ dày lý tưởng của vỏ trứng dao động từ 0.26 – 0.34 mm.
Theo Nguyễn Duy Hoan và cs (1998) [8] thì chất lượng vỏ trứng không
những chịu ảnh hưởng của các yếu tố như canxi (70% canxi cần cho vỏ trứng
là lấy trực tiếp từ thức ăn), ngoài ra vỏ trứng hình thành cần có phosphat,
vitamin D3, vitamin K, các nguyên tố vi lượng...., Khi nhiệt độ tăng từ 20 –
300C thì độ dày vỏ trứng giảm 6 – 10% khi đó gia cầm đẻ ra trứng không có
vỏ hoặc bị biến dạng.
- Chất lượng lòng trắng
Là phần bao bọc bên ngoài lòng đỏ và chiếm tỷ lệ lớn (khoảng 56%) so
với khối lượng trứng, nó là sản phẩm của ống dẫn trứng. Lòng trắng chủ yếu

là albumin giúp cho việc cung cấp khoáng và muối khoáng, tham gia cấu tạo
lông, da trong quá trình phát triển cơ thể ở giai đoạn phôi. Chất lượng lòng
trắng được xác định qua chỉ số lòng trắng và đơn vị Haugh. Hệ số di truyền
của tính trạng này khá cao.
Theo Nguyễn Duy Hoan và Trần Thanh Vân (1998) [8] cho biết: Khối
lượng trứng tương quan rõ rệt với khối lượng lòng trắng (r = 0.86), khối
lượng vỏ (r = 0.72) và khối lượng vỏ (r = 0.48).
Orlov (1974) (dẫn theo Ngô Giản Luyện, 1994 [12]) cho rằng: chỉ số
lòng trắng ở mùa Đông cao hơn mùa Xuân và mùa Hè. Trứng gà mái tơ và gà


17

mái già có chỉ số lòng trắng thấp hơn gà mái đang độ tuổi sinh sản. Trứng bảo
quản lâu, chỉ số lòng trắng cũng bị thấp đi. Chất lượng lòng trắng còn kém đi
khi cho gà ăn thiếu protein và vitamin nhóm B.
- Chất lượng lòng đỏ
Lòng đỏ là tế bào trứng của gia cầm, có dạng hình cầu, đường kính vào
khoảng 35 – 40 mm, chiếm khoảng 32% khối lượng trứng, được bao bọc bởi
màng lòng đỏ có tính đàn hồi, chất lượng của màng đàn hồi này phụ thuộc
vào thời gian bảo quản, ở giữa các hốc lòng đỏ nối với đĩa phôi lấy dưỡng
chất từ nguyên sinh chất để cung cấp cho phôi phát triển. Chất lượng lòng đỏ
phụ thuộc vào nhiều yếu tố: di truyền cá thể, lứa tuổi, giống, loài, điều kiện
nuôi dưỡng... Màu sắc của lòng đỏ phụ thuộc vào caroten trong thức ăn và sắc
tố trong cơ thể gia cầm.
Chỉ số lòng đỏ thể hiện chất lượng của lòng đỏ và được tính bằng tỷ số
giữa chiều cao và đường kính của lòng đỏ. Theo Ngô Giản Luyện (1994)
[12]: chỉ số lòng đỏ ít bị biến đổi hơn lòng trắng
- Chỉ số Haugh (Hu)
Là chỉ số đánh giá chất lượng trứng xác định thông qua khối lượng trứng

và chiều cao lòng trắng đặc. Chỉ số Haugh càng cao, chất lượng trứng càng
tốt, từ 80 - 100% là trứng rất tốt, 65 – 79% là trứng tốt, 55 – 65% là trứng
trung bình và nhỏ hơn 54% là xấu. Chỉ số này chịu ảnh hưởng của nhiều yếu
tố tác động: thời gian bảo quản trứng, tuổi gia cầm, bệnh tật, nhiệt độ môi
trường, sự thay lông, giống, dòng.
* Thành phần hóa học của trứng
Trứng gia cầm nói chung là một loại thực phẩm rất giàu dinh dưỡng, đặc
biệt là lòng đỏ nó cung cấp khoảng 50% protein và tất cả các chất béo của


×