Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

Nghiên cứu đặc điểm tái sinh tự nhiên tại vùng đệm vườn quốc gia cát bà hải phòng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (824.33 KB, 87 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP
------------------------------

NGUYỄN THỊ TRANG

NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM TÁI SINH TỰ NHIÊN TẠI VÙNG ĐỆM
VƯỜN QUỐC GIA CÁT BÀ – HẢI PHÒNG

Chuyên ngành: Lâm ho ̣c
Mã số: 60.62.60

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. ĐỖ ANH TUÂN

Hà Nô ̣i, 2011


1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Ở nước ta, rừng và đất rừng chiếm 3/4 tổng diện tích lãnh thổ, song
thực tế rừng tự nhiên còn rất ít, chủ yếu là rừng thứ sinh ở những mức độ
thoái hoá khác nhau. Nguyên nhân chủ yếu là do ý thức tác động bất hợp lý
của con người như đốt nương làm rẫy, khai thác lạm dụng quá mức cho phép
hay nói đúng hơn là sự đói nghèo và thiếu hiểu biết của người dân. Từ năm


1992 trở lại đây nhờ vào các chính sách đúng đắn của Chính Phủ như giao đất
lâm nghiệp cho hộ gia đình, chương trình 327, dự án trồng mới 5 triệu ha
rừng... tốc độ phục hồi rừng đã tăng nhanh. Các giải pháp kỹ thuật dựa trên cơ
sở lợi dụng triệt để khả năng tái sinh, diễn thế tự nhiên của thảm thực vật
cùng với các giải pháp đúng đắn về chính sách đất đai, vốn, lao động đã góp
phần nâng cao độ che phủ rừng của cả nước. Điều đó chứng tỏ tái sinh tự
nhiên của thảm thực vật rừng có vai trò quan trọng trong phục hồi rừng. Thực
tiễn đã chứng minh rằng các giải pháp kỹ thuật lâm sinh nhằm phục hồi rừng,
quản lý rừng bền vững chỉ có thể giải quyết thoả đáng một khi có sự hiểu biết
đầy đủ về bản chất quy luật sống của hệ sinh thái rừng, trước hết là quá trình
tái sinh tự nhiên, sự hình thành và động thái biến đổi của rừng tương ứng với
những điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội khác nhau.
Tái sinh rừng tự nhiên nhiệt đới là một vấn đề rất đa dạng và phong
phú. Quá trình này, bị chi phối bởi rất nhiều yếu tố, như vị trí địa lý, biện
pháp tác động đến tầng cây cao, nguồn gốc hình thành rừng,…Chính vì thế
cho dù quá trình tái sinh có những quy luật nhất định, vốn có tồn tại khách
quan, nhưng do các tác động trên làm cho chúng trở nên rất phức tạp. Tái sinh
là vấn đề quan trọng, quyết định đến quá trình kinh doanh rừng bền vững, vì
thế nghiên cứu quá trình tái sinh là một việc làm không thể thiếu trong các
nghiên cứu về cấu trúc rừng tự nhiên.


2

Cát Bà là một Vườn quốc gia đặc biệt, với sự kết hợp của nhiều hệ sinh
thái khác nhau: hệ sinh thái rừng thường xanh trên núi đá vôi, hệ sinh thái
rừng ngập nước trên núi cao, hệ sinh thái rừng ngập mặn vùng duyên hải, hệ
sinh thái vùng biển với các rạn san hô gần bờ... Trong đó, lớn nhất là hệ sinh
thái rừng trên núi đá vôi với thảm thực vật thuộc kiểu rừng nhiệt đới thường
xanh và các loại rừng như rừng núi thấp và ven thung lũng, rừng trên núi đá

dốc, rừng trên đỉnh núi cao, rừng ngập nước nội địa. Rừng trên núi đá vôi ở
Cát Bà có cấu trúc và tổ thành phong phú trên địa hình phức tạp. Tuy nhiên
hiện nay phần lớn kiểu rừng này đã trở nên nghèo kiệt, khả năng tự phục hồi
thấp. Vì vậy việc phục hồi rừng dựa trên cơ sở triệt để lợi dụng khả năng tái
sinh tự nhiên của thảm thực vật rừng, phù hợp với điều kiện tự nhiên, kinh tế
xã hội tại đây là việc làm rất quan trọng. Xuất phát từ thực tiễn đó, tôi thực
hiện đề tài: “Nghiên cứu đặc điểm tái sinh tự nhiên tại vùng đệm Vườn
quốc gia Cát Bà - Hải Phòng” .


3

Chương 1
TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Trên thế giới
1.1.1. Nghiên cứu về tái sinh rừng
Tái sinh rừng là một quá trình sinh học mang tính đặc thù của hệ sinh thái
rừng, biểu hiện của nó là sự xuất hiện của một thế hệ cây con của những loài cây
gỗ ở những nơi còn hoàn cảnh rừng: dưới tán rừng, chỗ trống trong rừng, đất
rừng sau khai thác, đất rừng sau nương rẫy. Vai trò lịch sử của lớp cây con này là
thay thế thế hệ cây già cỗi. Vì vậy tái sinh từng hiểu theo nghĩa hẹp là quá trình
phục hồi thành phần cơ bản của rừng, chủ yếu là tầng cây gỗ.
Quá trình tái sinh tự nhiên ở rừng nhiệt đới vô cùng phức tạp và còn ít
được nghiên cứu. Phần lớn tài liệu nghiên cứu về tái sinh tự nhiên của rừng mưa
thường chỉ tập trung vào một số loài cây có giá trị kinh tế dưới điều kiện rừng đã
ít nhiều bị biến đổi.
Theo quan điểm của các nhà nghiên cứu thì hiệu quả tái sinh rừng được xác
định bởi mật độ, tổ thành loài cây, cấu trúc tuổi, chất lượng cây con, đặc điểm phân
bố. Sự tương đồng hay khác biệt giữa tổ thành lớp cây tái sinh và tầng cây gỗ lớn đã
được nhiều nhà khoa học quan tâm: Mibbre-ad (1930); Richards (1933 - 1939);

Aubreville (1938); Beard (1946); Lebrun và Gilbert (1954); Joné (1955 – 1956);
Schultz (1960); Baur (1964); Rollet (1969). Do tính chất phức tạp về tổ thành loài
cây, trong đó chỉ có một số loài có giá trị nên trong thực tiễn, người ta chỉ khảo sát
những loài cây có ý nghĩa nhất định.
Nghiên cứu tái sinh ở rừng nhiệt đới Châu Phi, A.Obrevin (1938) nhận
thấy cây con của các loài cây ưu thế trong rừng mưa là rất hiếm. A.Obrevin đã
khái quát hoá các hiện tượng tái sinh ở rừng nhiệt đới Châu Phi để đúc kết nên lý
luận bức khảm tái sinh, nhưng phần lý giải các hiện tượng đó còn bị hạn chế
chưa đưa ra được những đề xuất cụ thể. Vì vậy, lý luận của ông còn ít sức thuyết


4

phục, chưa giúp ích cho thực tiễn sản xuất để điều khiển tái sinh rừng theo
những mục tiêu kinh doanh đã đề ra. Tuy nhiên, những kết quả quan sát của
Davit và P.W Risa (1933), Bơt (1946), Sun (1960), Role (1969) ở rừng nhiệt đới
Nam Mỹ lại khác hẳn với nhận định của A.Obrevin. Đó là hiện tượng tái sinh tại
chỗ và liên tục của các loài cây và tổ thành loài cây có khả năng giữ nguyên
không đổi trong một thời gian dài.
Van Steenis (1956) [24] khi nghiên cứu về rừng mưa đã nhận xét, đặc
điểm hỗn loài của rừng mưa nhiệt đới là nguyên nhân dẫn đến đặc điểm tái
sinh phân tán liên tục. đã nghiên cứu hai đặc điểm tái sinh phổ biến của rừng
nhiệt đới đó là tái sinh phân tán liên tục và tái sinh vệt (tái sinh lỗ trống). Hai đặc
điểm này không chỉ thấy ở rừng nguyên sinh mà còn thấy cả ở rừng thứ sinh một đối tượng rừng khá phổ biến ở nhiều nước nhiệt đới.
Vấn đề tái sinh rừng nhiệt đới được thảo luận nhiều nhất là hiệu quả các
cách thức xử lý lâm sinh liên quan đến tái sinh của các loài cây mục đích ở các
kiểu rừng. Từ đó các nhà lâm sinh học đã xây dựng thành công nhiều phương
thức chặt tái sinh. Công trình của Donis và Maudoux (1951, 1954) với công thức
đồng nhất hoá tầng trên ở Zaia; Nicholson (1958) ở Bắc Borneo; Gana Bernard
(1954, 1959); Barnarji (1959) với phương thức chặt dần nâng cao vòm lá ở

Andamann; Taylor (1954), Jones (1960) với phương thức chặt dần tái sinh dưới
tán ở Nijeria; Wyatt Smith (1961, 1963) [21] với phương thức rừng đều tuổi ở
Mã Lai. Nội dung chi tiết các bước và hiệu quả của từng phương thức đối với tái
sinh đã được Baur (1964) [2] tổng kết trong tác phẩm: Cơ sở sinh thái học của
kinh doanh rừng mưa.
Viện Lâm nghiệp Quảng Tây và Quảng Đông (Trung Quốc) đã tiến hành
nghiên cứu đặc điểm sinh trưởng của một số loài cây trên núi đá vôi như: Tông
dù, Mắc rạc (Dầu choòng), Xoan nhừ, Lát hoa, Nghiến,... trong thời kỳ 19851998. Những nghiên cứu đó đã được tổng kết sơ bộ sau nhiều hội thảo khoa học


5

ở Học viện Lâm nghiệp Bắc Kinh với sự tham gia của nhiều nhà khoa học lâm
nghiệp đầu ngành của nước này và những hướng dẫn tạm thời về kỹ thuật phục
hồi rừng trên núi đá vôi đã được xây dựng. Tuy nhiên, những nguyên lý về phục
hồi và phát triển rừng trên núi đá vôi chưa được tổng kết một cách có hệ thống
nên việc áp dụng những hướng dẫn này cho nhiều quốc gia khác, trong đó có
Việt Nam còn khiêm tốn và đang trong giai đoạn thử nghiệm.
1.1.2. Phương pháp nghiên cứu tái sinh rừng
Về phương pháp điều tra tái sinh, nhiều tác giả đã sử dụng cách lấy ô mẫu
hình vuông theo hệ thống do Lowdermilk (1972) đề nghị, với diện tích ô dạng
bản thông thường từ 1 : 4m2. Bên cạnh đó, cũng có nhiều tác giả đề nghị sử dụng
phương pháp điều tra dải hẹp với các ô đo đếm có diện tích biến động từ 10 
100m2. Phổ biến nhất là bố trí theo hệ thống trong các diện tích nghiên cứu từ
0,25  1,0 ha (Povarnixbun, 1934; Yurkevich, 1938). Phương pháp này trong
điều kiện tái sinh sẽ khó xác định được quy luật phân bố hình thái của lớp cây tái
sinh trên mặt đất rừng. Để giảm sai số trong khi thống kê, Barnard (1950) đã đề
nghị phương pháp “Điều tra chẩn đoán”, theo đó kích thước ô đo đếm có thể
thay đổi tuỳ theo giai đoạn phát triển của cây tái sinh ở các trạng thái rừng khác
nhau. Phương pháp này được áp dụng nhiều hơn vì nó thích hợp cho từng đối

tượng rừng cụ thể.
Về điều tra, đánh giá tái sinh tự nhiên trong rừng nhiệt đới M.
Loeschau (1977) đã đưa ra một số để nghị để đánh giá một khu rừng có tái
sinh đạt yêu cầu hay không phải áp dụng phương pháp điều tra ngẫu nhiên,
trừ trường hợp đặc biệt có thể dựa vào những nhận xét tổng quát về mật độ tái
sinh như nơi có lượng cây tái sinh rất lớn. Từ những tính toán về sai số cũng
như về mặt tổ chức thực hiện thì các ô được chọn là những ô vuông có diện
tích là 25m2 dễ dàng xác lập bằng gậy tre. Các ô đo đếm được xác lập theo
từng nhóm, mỗi nhóm gồm 4 ô bố trí liên tiếp theo kiểu phân bố hệ thống


6

không đồng đều. Như vậy, các ô vừa đại diện được đầy đủ toàn bộ khu vực
điều tra, và những nhân tố điều tra vừa có dạng gần với phân bố chuẩn.
1.1.3. Nghiên cứu ảnh hưởng của các nhân tố đến tái sinh rừng
Cho đến nay có nhiều công trình nghiên cứu tập trung xác định ảnh hưởng
của các nhân tố ngoại cảnh đến tái sinh dưới tán rừng và được chia làm 2 nhóm:
(i) Nhóm các nhân tố ảnh hưởng không có sự tác động của con người:
Quá trình sinh trưởng của cây rừng nói chung và cây tái sinh nói riêng chịu sự
tác động tổng hợp của các nhân tố sinh thái như ánh sáng, đất, lượng mưa... và
mỗi loài cây chỉ có thể tồn tại và sinh trưởng trong một giới hạn nhất định của
các nhân tố sinh thái trên. Khi một trong những nhân tố thay đổi sẽ làm cho môi
trường thay đổi và sinh trưởng của chúng sẽ bị ảnh hưởng. Để làm rõ mức độ
ảnh hưởng của các nhân tố và xác định được tổ hợp các nhân tố thích hợp cho
mỗi loài cây các nhà sinh thái học đã tập trung nghiên cứu các nhân tố có ảnh
hưởng chủ yếu như: ánh sáng, đất, cây bụi thảm tươi, nguồn hạt giống, thảm
mục, các nhân tố khí hậu, động vật và vi sinh vật rừng...
- Ánh sáng là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình tái sinh
rừng, cho đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu, đề cập đến vấn đề

này. Baur G.N. (1962) [2] cho rằng, sự thiếu hụt ánh sáng ảnh hưởng đến
phát triển của cây con còn đối với sự nảy mầm và phát triển của cây mầm,
ảnh hưởng này thường không rõ ràng. H. Lamprecht (1989) căn cứ vào nhu
cầu ánh sáng của các loài cây trong suốt quá trình sống để phân chia cây rừng
nhiệt đới thành nhóm cây ưa sáng, nhóm cây bạn chịu bóng và nhóm cây chịu
bóng. Kết cấu của quần thụ lâm phần có ảnh hưởng đến tái sinh rừng.
I.D.Yurkevich (1960) đã chứng minh độ tàn che tối ưu cho sự phát triển bình
thường của đa số các loài cây gỗ là 0,6 - 0,7.
- Đất không chỉ là giá thể cho cây đứng vững mà còn cung cấp nước, các
chất dinh dưỡng, muối khoáng và oxi cho cây sinh trưởng và phát triển. Khác


7

với tầng cây cao, bộ rễ của cây tái sinh chủ yếu tập trung ở tầng đất mặt. Do vậy,
khi định lượng mối quan hệ giữa cây rừng và đất, các nhà khoa học không chỉ
tập trung vào các tính chất của đất mà còn chú trọng nghiên cứu biến động nhiệt
độ và độ ẩm tầng đất mặt bởi chúng có liên quan trực tiếp tới khả năng hấp thụ
nước, muối khoáng và các chất dinh dưỡng khác trong đất của cây.
- Cây bụi, thảm tươi: Thảm cỏ, cây bụi có ảnh hưởng đến sinh trưởng
của cây tái sinh. Ở những quần thụ kín tán, thảm cỏ và cây bụi kém phát
triển nhưng chúng vẫn có ảnh hưởng đến cây tái sinh. Trong nghiên cứu tái
sinh rừng người ta nhận thấy rằng tầng cỏ và cây bụi qua thu nhận ánh sáng, độ
ẩm và các nguyên tố dinh dưỡng khoáng của tầng đất mặt đã ảnh hưởng xấu đến
cây con tái sinh của các loài cây gỗ. Những quần thụ kín tán, đất khô và nghèo
dinh dưỡng khoáng do đó thảm cỏ và cây bụi sinh trưởng kém nên ảnh hưởng
của nó đến các cây gỗ tái sinh không đáng kể. Ngược lại, những lâm phần thưa,
rừng đã qua khai thác thì thảm cỏ có điều kiện phát sinh mạnh mẽ. Trong điều
kiện này chúng là nhân tố gây trở ngại rất lớn cho tái sinh rừng (Xannikov, 1967;
Vipper, 1973) (dẫn theo Nguyễn Văn Thêm, 1992) [17].

- Nguồn hạt giống: khi đánh giá ảnh hưởng của nguồn hạt giống đến tái
sinh rừng các tác giả đều nhấn mạnh 3 yếu tố: các nhân tố ảnh hưởng đến nguồn
hạt; đặc điểm phát tán nguồn hạt giống của cây rừng; mức độ phong phú của
nguồn hạt. Theo Matthew (2000), tại những vùng đất thấp của Costa Rica các
khúc gỗ mục nhỏ và những đám cây dương xỉ có ảnh hưởng rất lớn tới sự tồn tại
của hạt giống sau khi được phát tán và sự phát tán của hạt giống trên những
vùng đất bỏ trống là những nhân tố chính góp phần vào thành công của phục hồi
rừng. Trong khi Holl và các cộng sự lại khẳng định, sự thiếu hụt về nguồn hạt
giống và cạnh tranh của cỏ dại như là những nhân tố rào cản của quá trình này.
- Các yếu tố khí hậu như gió, lượng mưa, nhiệt độ cũng được đánh giá có
ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình phát tán, nảy mầm của hạt giống. Nghiên


8

cứu của Nathan và Muller-Landau (2000) về khả năng phát tán nhờ gió của
1.500 loài hạt giống trong phạm vi 100m tính từ gốc các cây mẹ cho thấy cường
độ phát tán giảm xuống khi khoảng cách tăng lên. Khả năng phát tán này không
chỉ phụ thuộc vào cường độ gió mà còn phụ thuộc vào đặc điểm cấu tạo hạt.
Điều này đồng nghĩa với việc hạt có kích thước nhỏ và có cánh thì cự li phát tán
xa hơn so với các hạt có kích thước lớn và không có cánh.
Khi hạt giống tiếp xúc với đất, bên cạnh dưỡng khí điều kiện nảy mầm
tiên quyết bao gồm nước, nhiệt độ. Chính cường độ mưa và tổng lượng bức xạ
mặt trời lớn tại các vùng nhiệt đới đã hình thành nên hệ thực vật đa dạng về loài,
cấu trúc phức tạp so với các vùng ôn đới.
- Động vật rừng: bao gồm côn trùng rừng, động vật ăn quả, động vật và vi
sinh vật đất có vai trò thụ phấn làm tăng lượng quả, hạt giống, góp phần phát tán
hạt giống và phân giải các chất hữu cơ trong đất thúc đẩy khả năng sinh trưởng
của cây tái sinh. Một số loài động vật trong quá trình đào bới đất để kiếm thức ăn
hoặc loài giun đất đã đưa hạt giống từ các tầng đất sâu hơn lên phía trên , từ đó

hat có thể nảy mầm.
(ii) Hiệu quả của xử lí lâm sinh: Đây là vấn đề được nhiều tác giả quan
tâm nghiên cứu. Kết quả đã cho ra nhiều phương thức tái sinh và phục hồi rừng
được áp dụng rộng rãi ở các nước vùng nhiệt đới. Điển hình trong số đó là
phương thức đều tuổi ở Mã Lai (Bernard, 1954, 1959; Wyatt, 1961, 1963) (dẫn
theo Baur, 1964) hay hệ thống các biện pháp phục hồi rừng sau cháy rừng
(Melekhop,1966), sau khai thác (Maslacop, 1981) (dẫn theo Vũ Tiến Hinh và
cộng sự, 2005) [9].
Qua việc tìm hiểu ta thấy rằng, trên thế giới các công trình nghiên cứu về
tái sinh rừng nói chung và rừng nhiệt đới nói riêng rất phong phú, đa dạng, có
nhiều công trình nghiên cứu công phu và đã đem lại hiệu quả cao trong kinh
doanh rừng. Tuy nhiên, chưa thấy một công trình nào nghiên cứu đầy đủ về đặc


9

điểm tái sinh rừng tự nhiên trên núi đá vôi. Do đó, cơ sở khoa học cho việc đề
xuất các biện pháp kỹ thuật cho rừng trên núi đá vôi vẫn còn nhiều vấn đề chưa
được làm sáng tỏ.
1.2. Ở Việt Nam
1.2.1. Phân bố thảm thực vật rừng trên núi đá vôi
Diện tích rừng núi đá (chủ yếu là núi đá vôi) ở Việt Nam có 1.152.200 ha,
trong đó diện tích rừng che phủ 396.200 ha (34,45%) (theo Viện Điều tra Quy
hoạch rừng, 1999). Núi đá vôi phân bố trong 24 tỉnh và thành phố nhưng chủ
yếu tập trung ở các tỉnh phía Bắc và Bắc Trung Bộ. Các tỉnh có núi đá vôi là:
Điện Biên, Lai Châu, Sơn La, Hòa Bình, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng
Ninh, Hải Phòng, Ninh Bình, Thanh Hóa, Thái Nguyên, Nghệ An, Hà Tĩnh,
Quảng Bình.
Nguyễn Huy Phồn và cộng sự (1999) đã phân vùng núi đá vôi thành 5
vùng như sau:

- Vùng Cao Bằng - Lạng Sơn
- Vùng Tuyên Quang - Hà Giang
- Vùng Tây Bắc - Tây Hoà Bình - Thanh Hoá
- Vùng Trường Sơn Bắc
- Vùng quần đảo
Trong quá trình phân loại thảm thực vật rừng Việt Nam, Thái Văn Trừng
(1978) [21] đã xem xét loại hình thực vật trên núi đá vôi. Theo đó rừng trên núi
đá vôi được xác định thuộc kiểu phụ thổ nhưỡng kiệt nước trên đất đá vôi xương
xẩu (Đk) và nằm trong các kiểu thảm thực vật sau:
- Kiểu rừng kín thường xanh, mưa ẩm nhiệt đới (Rkx).
Đây là kiểu thảm thực vật chủ yếu của rừng trên núi đá vôi với ưu hợp
Nghiến + Trai lý (Burretiodendron hsienmu + Garcinia fragraoides) xuất hiện ở


10

những lèn, sườn núi đá vôi có độ dốc lớn, đặc trưng của những cảnh quan Karst,
có nhiều khoảng trống lớn để lộ đá gốc, sườn núi thường lởm chởm thấp dưới
700m thuộc một số tỉnh miền Bắc Việt Nam (Cao Bằng, Lạng Sơn, Hà Giang,
Tuyên Quang, Bắc Cạn, Ninh Bình). Tuy nhiên do quá trình khai thác và sử
dụng quá mức nên diện tích rừng nguyên sinh hoặc ít bị tác động còn lại rất ít,
thường nằm ở các VQG và các KBTTN như Cúc Phương, Pù Luông,... Loại
thực bì này niện nay chủ yếu là những khu rừng thứ sinh trên núi đá vôi, phân bố
chủ yếu ở vùng gần dân cư, ven các trục đường, nơi mà việc khai thác vận
chuyển gặp nhiều thuận lợi. Tại nhiều nơi, do khai thác mạnh và cháy, rừng đã
trở nên nghèo kiệt, còn ít những loài cây gỗ, tổ thành rừng đã thay đổi, các loài
cây mọc nhanh chiếm ưu thế như Mạy tèo, Ô rô, Ba bét, Ràng ràng mít, Chẩn,...
Do vậy, kiểu thảm thực vật này còn được xác định là kiểu phụ thứ sinh nhân tác
trên đất đá vôi xương xẩu.
- Kiểu rừng kín nửa rụng lá, ẩm nhiệt đới (Rkn):

Rừng trên núi đá vôi ở đây có sự kết hợp của nhiều loài cây khác nhau như
Nghiến + Trai lý + Chò nhai + Ô rô cùng các loài rụng lá như Trường sâng, Xoan
nhừ, Gạo, Dâu da xoan, Lòng mang, Cui rừng… ở một số nơi thuộc các tỷnh Cao
Bằng, Lạng Sơn, Bắc Cạn và Quảng Bình. Loại thảm thực vật này thường gặp
trên những sườn núi đá vôi dốc đứng hoặc tại các thung lũng núi đá vôi với đất
dốc tụ, thấp ẩm, thực vật phát triển cao, lớn gần giống với thực vật trên núi đất.
- Kiểu rừng kín thường xanh, mưa ẩm á nhiệt đới núi thấp (Rka):
Kiểu rừng này phân bố ở đai cao trên 700m: Chợ Rã (Bắc Cạn), Nguyên
Bình (Cao Bằng), Quản Bạ, Đồng Văn (Hà Giang), và vùng Tây Bắc... Đặc điểm
nổi bật là thực vật thuộc ngành Hạt trần có tỷ lệ tương đối lớn và tập trung, có các
loài như Thông Pà cò, Sam kim hỷ, Trắc bách Quản bạ,... ở độ cao 1000m thuộc
vùng Tây Bắc, xuất hiện ưu hợp Kiêng + Heo (Burretiodendron brilletti + Croton


11

pseudoverticillata) thuộc kiểu phụ thổ nhưỡng kiệt nước trên đất rendzina giàu
chất dinh dưỡng.
- Kiểu rừng kín hỗn hợp cây lá rộng, lá kim ẩm á nhiệt đới núi thấp (Rkh)
ở Hà Giang, Tuyên Quang và Ninh Bình ở độ cao dưới 700m, với ưu hợp
Nghiến + Kim giao + Hoàng đàn (Burretiodendron hsienmu + Podocarpus
latiofolia + Cupressus terulus) cùng một số loài cây thuộc các họ Thích, Dẻ,...
Ngoài ra, tại những khu vực sau hoạt động nương rãy hoặc những khu
rừng đã bị khai thác nhiều lần đến cạn kiệt ở nhiều tỉnh như Lạng Sơn, Cao
Bằng, Hà Giang, Hoà Bình, Quảng Bình..., xuất hiện một dạng thực bì có diện
tích tương đối lớn với những loài cây bụi, cây gỗ nhỏ như Ô rô, Mạy tèo, Xẻn
gai,... Dạng thực bì này được gọi là Quần lạc cây bụi, cây gỗ rải rác trên núi đá
vôi.
1.2.2. Nghiên cứu về tái sinh rừng
Nghiên cứu về tái sinh rừng ở Việt Nam cũng chỉ mới bắt đầu từ những

năm 1960. Các kết quả nghiên cứu về tái sinh mới chỉ đề cập trong các công
trình nghiên cứu về thảm thực vật, trong các báo cáo khoa học hoặc công bố
trên các tạp chí lâm nghiệp. Nổi bật có công trình của Thái Văn Trừng (1963,
1978) về “Thảm thực vật rừng Việt Nam”. Ông đã nhấn mạnh ánh sáng là
nhân tố sinh thái khống chế và điều khiển quá trình tái sinh tự nhiên ở cả rừng
nguyên sinh và thứ sinh.
Vũ Đình Huề (1975) [10] kết luận: Tái sinh tự nhiên rừng Miền Bắc
Việt Nam có đặc điểm của rừng nhiệt đới. Trong rừng nguyên sinh tổ thành
cây tái sinh tương tự như tầng cây gỗ, ở rừng thứ sinh tồn tại nhiều cây gỗ
mềm kém giá trị. Hiện tượng tái sinh theo đám tạo nên sự phân bố số cây
không đều trên mặt đất rừng. Từ kết quả đó, tác giả xây dựng tiêu chuẩn đánh
giá tái sinh tự nhiên áp dụng cho các đối tượng rừng lá rộng ở Miền Bắc nước
ta.


12

Theo tài liệu của Viện điều tra quy hoạch rừng (1983) thì tại khu vực
lâm trường Sông Đà, Hoà Bình xuất hiện một số loài cây có giá trị như Dến,
Dẻ, Re, Táu … Nhưng do quá trình khai thác không hợp lý, đốt nương rẫy của
đồng bào dân tộc, những loài cây này dần dần bị mất đi mà thay vào đó là
cây ưa sáng mọc nhanh, ít có giá trị kinh tế. Theo nghiên cứu của Ngô Kim
Khôi (1996) tổ thành loài cây phục hồi sau nương rẫy ở Bình thanh – Lâm
trường Sông Đà gồm các loài: Re, Dẻ, Trảm, Kháo.
Nguyễn Hồng Quân (1984) [14] đã nghiên cứu kết hợp chặt chẽ khai
thác với tái sinh nuôi dưỡng rừng. Tác giả cho rằng để đáp ứng yêu cầu khai
thác bảo đảm tái sinh và nuôi dưỡng rừng, đối với rừng không đồng tuổi cần
thực hiện cả 4 nội dung chủ yếu là thu hoạch cây thành thục, chặt tái sinh,
chặt nuôi dưỡng và chuẩn hoá cấu trúc rừng về trạng thái mong muốn.
Hiện tượng tái sinh lố trống ở rừng thứ sinh vùng Hương Sơn – Hà

Tĩnh được Phạm Đình Tam (1987) [15] nghiên cứu và kết luận: Những loài
cây trong giai đoạn non, cây chịu bóng dưới tán rừng có số lượng tái sinh lớn
nhưng chỉ có cây con chiều cao thấp hơn 50cm và ít có cây lớn hơn. Mật độ
cây tái sinh và phân bố số cây tái sinh theo cấp chiều ao thay đổi, rừng sau
khai thác số cây tái sinh có chiều cao trên 1,5m tăng lên.
Vũ Tiến Hinh (1991) [8] đã đề cập đến đặc điểm tái sinh theo thời gian
của cây rừng và ý nghĩa của nó trong điều tra cũng như trong kinh doanh
rừng. Tác giả đã sử dụng phương pháp chặt hết cây gỗ ở 2 ÔTC (lâm phần
Sau Sau phục hồi trên đất rừng tự nhiên sau khai thác kiệt và một ô thuộc
trạng thái rừng IIIA3). Kết quả nghiên cứu cho thấy, với đối tượng rừng Sau
Sau phục hồi, phân bố số cây theo đường kính và tuổi đều là dạng phân bố
giảm. Điều này chứng tỏ Sau Sau mặc dù là loài cây ưa sáng mạnh, vẫn có
đặc điểm tái sinh liên tục qua nhiều thế hệ, càng về sau tốc độ càng mạnh. Đối
với rừng tự nhiên thứ sinh hỗn giao thì phân bố số cây theo tuổi của cây cao


13

và cây tái sinh đều có dạng phân bố giảm và nhìn chung lâm phần tự nhiên
cây rừng tái sinh liên tục và càng ở tuổi nhỏ số cây càng tăng. Tác giả còn cho
biết hệ số tổ thành tính theo phần trăm (%) số cây của tầng tái sinh và tầng
cây cao có sự liên quan hệ chặt chẽ. Đa số các loài có hệ số tổ thành tầng cây
cao lớn thì hệ số tổ thành tầng tái sinh cũng vậy. Do khó nhận biết tên cây của
tầng tái sinh, nên có thể sử dụng quan hệ giữa hệ số tổ thành tầng tái sinh và
tầng cây cao để xác định hệ số tổ thành tầng tái sinh. Từ đó, nếu biết mật độ
chung của những cây tái sinh có triển vọng của lâm phần, sẽ xác định được số
lượng tái sinh của từng loài. Trong điều chế rừng có thể sử dụng kết quả này
để sư bộ xem xét những loài cây mục đích nào chưa đủ số lượng tái sinh cần
phải tra dặm hạt và những loài nào chỉ cần thông qua biện pháp xúc tiến tái
sinh là đủ.

Đinh Quang Diệp (1993) [5] khi nghiên cứu về tái sinh tự nhiên ở rừng
Khộp vũng Easup - Đắc Lắc đã kết luận: Độ tàn che,thảm mục, độ dày tầng
thảm mục, điều kiện lập địa … là những nhân tố ảnh hưởng đến số lượng và
chất lượng cây con tái tính dưới tán rừng. Qua nghiên cứu tác giả cho thấy, tái
sinh trong khu vực có dạng phân bố cụm.
Trần Xuân Thiệp (1995) [18] nghiên cứu vai trò của tái sinh và phục
hồi rừng tự nhiên ở các vùng thuộc miền Bắc. Kết quả nghiên cứu cho thấy:
ở cùng Tây Bắc, dù vùng thấp hay vùng cao tái sinh tự nhiên khá tốt về số
lượng cây từ 500 – 8.000 cây/ha. Rừng Tây Bắc thể hiện rõ các mặt ảnh
hưởng đến chất lượng tái sinh nghèo về trữ lượng, diễn thế ở nhiều vùng xuất
hiện nhóm cây ưa sáng chịu hạn hoặc rụng lá, kích thước nhỏ và chủ yếu,
nhóm loài cây rất khó tái sinh phục hồi trở lại do thiếu lớp cây mẹ. Vùng
trung tâm tác giả cho biết sự nghèo kiệt nhanh chóng của rừng đưa đến số
lượng và chất lượng tái sinh tự nhiên thấp. Vùng Đông Bắc, số lượng cây tái


14

sinh trong rừng tự nhiên biến động bình quân từ 8.000 đến 12.000 cây/ha. So
với các vùng khác, vùng này khả năng tái sinh tự nhiên tốt.
Hoàng Văn Tuấn (2007) [22], khi nghiên cứu về đặc điểm tái sinh và
động thái tái sinh của hệ sinh thái rừng lá rộng thường xanh vùng Tây bắc đã
chỉ ra rằng: có một sự tích luỹ số loài ở các lớp cây có kích thước lớn hơn so
với các lớp cây dưới đó. Thực tế này phản ánh kết quả của sự khác nhau về
tốc độ sinh trưởng của các loài cây tái sinh và tuỳ vào kích thước của lỗ trống
được tạo ra trong tán rừng làm tiền đề cho quá trình tái sinh.
1.2.3. Một số nghiên cứu về rừng trên núi đá vôi
Viện Điều tra - Quy hoạch rừng (1965) cùng với Viện sinh thái tài nguyên
sinh vật, Viện Dược liệu,... đã tiến hành nghiên cứu mức độ đa dạng sinh vật,
công tác quản lý bảo vệ và sử dụng tài nguyên rừng trên núi đá vôi ở Cao Bằng

và một số địa phương khác.
Trong hai năm 1967 và 1968, Nguyễn Vạn Thường và đội 9 Lâm học Viện Điều tra Quy hoạch (Bộ Lâm nghiệp) thực hiện điều tra chuyên đề rừng núi
đá vôi tại một số khu vực thuộc tỉnh Hà Giang, Tuyên Quang, Hoà Bình, Cao
Bằng, Quảng Ninh. Kết quả điều tra đã đưa ra nhận xét khái quát: sự biến đổi
các đặc trưng lâm học của các quần hệ rừng trên núi đá vôi miền Bắc Việt Nam
có sự sai khác rõ rệt về cấu trúc (ngay cả trong trạng thái rừng nguyên sinh) trên
các dạng địa hình chủ yếu.
Báo cáo "Đặc điểm tự nhiên rừng núi đá vôi Na Hang, Tuyên Quang"
(1968) đã đưa ra số liệu về diện tích và trữ lượng tài nguyên rừng núi đá vôi
đồng thời xác định các đặc điểm chủ yếu của một số loài cây trên núi đá vôi như
Nghiến, Trai, Tre trinh, Đao, Báng,... và tình hình sâu bệnh hại trong vùng.
Ngoài ra, báo cáo này còn đưa ra một số nhận định về tái sinh của Nghiến, Trai
lý...


15

Nhìn chung các công trình nghiên cứu về rừng núi đá vôi trên đây chủ yếu
được thực hiện dưới dạng mô tả, thống kê tài nguyên và đưa ra một số kiến nghị
bảo vệ và kinh doanh rừng, chưa đi sâu phân tích đặc điểm cấu trúc và đánh giá
tái sinh cũng như chiều hướng diễn thế của rừng trên núi đá vôi ở từng địa
phương cụ thể. Mặt khác, những biến đổi theo chiều hướng tiêu cực của điều
kiện hoàn cảnh núi đá vôi sau khi rừng bị khai thác đã chỉ ra mức độ nghiêm
trọng của việc mất rừng và nhất thiết phải có biện pháp duy trì các diện tích rừng
hiện có và khôi phục diện tích rừng đá vôi đã mất.
Hoàng Kim Ngũ (1990-1998) đã tiến hành nghiên cứu đặc điểm sinh vật
học và khả năng gây trồng các loài cây như Nghiến, Mạy sao, Trai lý, Hoàng
đàn, Mắc rạc, Xoan nhừ, Mắc mật... trên núi đá vôi ở Hà Giang, Cao Bằng, Bắc
Cạn. Tác giả này đã xác định được một số đặc điểm sinh thái và đề xuất kỹ thuật
gây trồng các loài cây này ở các địa phương trên. Từ năm 1999 tác giả tiến hành

gây trồng thử nghiệm các loài cây này trên đất đá vôi ở một số nơi khác ở Cao
Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn và các tỷnh vùng Tây Bắc. Tuy nhiên, do còn đang
trong thời gian thử nghiệm nên đây chỉ là những khẳng định ban đầu về khả
năng thành công của các mô hình phục hồi rừng, đặc biệt là các mô hình ở vùng
Tây Bắc.
Bùi Thế Đồi (2002) [6] trong đề tài Nghiên cứu một số đặc điểm cấu trúc
và tái sinh tự nhiên quần xã thực vật rừng trên núi đá vôi tại ba địa phương ở
miền Bắc Việt Nam. Đã chỉ ra rằng, cấu trúc tổ thành và mật độ các quần xã thực
vật rừng ở ba địa phương cho thấy, tại mỗi địa phương xuất hiện nhóm loài cây
đặc trưng, các loài cây tham gia vào các quần xã phần lớn là những cây có giá trị
thấp. So với tổ thành tầng cây cao, tổ thành tầng cây tái sinh tại các QXTV nghiên
cứu nhìn chung khá đồng nhất, khẳng định vai trò kế tiếp của các thế hệ những
loài cây mục đích có giá trị.


16

1.2.4. Phương pháp điều tra tái sinh
Một số phương pháp điều tra tái sinh đã được các tác giả trong nước sử
dụng trong các đề tài của mình như sau:
Trần Xuân Thiệp (1996) [18] đã sử dụng phương pháp điều tra tái sinh
sau: Trên các ÔTC 2.000m2 thiết lập các ô 4m2 (2 x 2m) để đo đếm cây tái
sinh. Các ô đo tái sinh lập theo một tuyến chính giữa theo chiều dài của ô
(50m). Bố trí 2 dãy ô đo tái sinh 4m2 liên tục song song và cách tuyến 1m và
được đánh số 1 đến 50 từ trái sang phải tuyến.
Bùi Văn Chúc (1996) [3] trên các ÔTC điển hình tạm thời diện tích là
2.000m2 (40 x 50) đối với trạng thái rừng IIA, tổ thành rừng tương đối đơn
giản và diện tích 3.000m2 (50 x 60m) đối với trạng thái rừng IIIA1 tổ thành
rừng phức tạp hơn tiến hành lập 12 ÔDB, các ÔDB được bố trí so le cách đều
trên hai đường chéo của ÔTC, mỗi ÔDB có diện tích từ 4m2 (2 x 2m).

Ngô Văn Trai (1999) [20] trên các ÔTC sơ cấp 2.500m2 (25 x 25m) điều
tra tái sinh được tiến hành trên 30 ÔDB (đảm bảo dung lượng mẫu bằng 4 – 5%
diện tích ÔTC), diện tích mỗi ÔDB là 4m2 (2 x 2m) được bố trí trên các tuyến
song song cách đều, các ÔDB được bố trí so le trên.
Hoàng Thị Phương Lan (2004) [12], Mai Xuân Hoà (2003) [11] trên
mỗi ÔTC 1.000m2 lập 12 ô dạng bản (ÔDB), có diện tích 9m2 (3 x 3m) tiến
hành điều tra tái sinh. Phương pháp lập ô điều tra tái sinh như sau: Gao điểm
của các đường là tâm của ô dạng bản, từ tâm ô dạng bản láy sang hai bên
1,5m ta sẽ được một ô vuông có diện tích 9m2.
Vũ Tiến Hinh (2005) [9] trên mỗi ÔTC sơ cấp có diện tích 2.500m2 (50
x 50m) thiết lập một ÔTC thứ cấp bán định vị (gọi tắt là ÔTC bán định vị) có
diện tích 1.000m2 (40 x 25m). Trên mỗi ÔTC bán định vị tiếp tục thiết lập 12
ô dạng bản, mỗi ô dạng bản có diện tích 9m2 để điều tra tái sinh.


17

Đỗ Thị Ngọc Lệ (2007) [13], trên cơ sở nghiên cứu đặc điểm tái sinh
rừng tự nhiên tại xã Đú Sáng, huyện Kim Bôi, tỉnh Hoà Bình bằng các
phương pháp thu thập số liệu khác nhau đã kết luận trong điều tra cây tái sinh,
phương pháp tốt nhất là trong mỗi ô tiêu chuẩn điều tra lâm học, lập 5 ô dạng
bản với diện tích mỗi ô 25m2 bố trí ở 4 gốc và trung tâm của ô tiêu chuẩn.
1.2.5. Nghiên cứu về các nhân tố ảnh hưởng đến tái sinh rừng
- Ánh sáng: Thái Văn Trừng (1978) trong công trình nghiên cứu thảm
thực vật rừng Việt Nam đã kết luận ánh sáng là nhân tố sinh thái khống chế và
điều khiển quá trình tái sinh tự nhiên trong thảm thực vật rừng. Nếu các điều
kiện khác của môi trường như đất rừng, nhiệt độ, độ ẩm dưới tán rừng chưa
thay đổi thì tổ hợp các loài cây tái sinh không có những biến đổi lớn và cũng
không diễn thế một cách tuần hoàn trong không gian và theo thời gian mà
diễn thế theo những phương thức tái sinh có quy luật nhân quả giữa sinh vật

và môi trường.
- Độ tàn che: biểu thị mức độ che kín mặt đất của tầng cây cao, là nhân
tố quan trọng trong việc phân bố lượng ánh sáng lọt tán, hình thành tiểu hoàn
cảnh rừng nên có ảnh hưởng sâu sắc đến sinh trưởng của cây tái sinh.
Dưới tán rừng do nhu cầu ánh sáng của mỗi loài cây khác nhau, mật độ
và tổ thành của chúng biến đổi theo thay đổi của độ tàn che. Thông thường ở
giai đoạn cây mạ, mật độ cây tái sinh thường tương đối cao. Tuy nhiên chúng
giảm đi rất nhanh theo tuổi bởi trong điều kiện ánh sáng thiếu dưới tán rừng
thường yếu ớt và chỉ có một số ít trong số chúng có thể thoát khỏi giai đoạn
nguy hiểm này để tồn tại trong điều kiện ức chế sinh trưởng kéo dài để chờ cơ
hội vươn khi điều kiện thuận lợi. Tại Kon Hà Nừng, độ tàn che thay đổi sau
khi lâm phần bị khai thác ở hai cường độ 30% và 50% đã làm cho số cây tái
sinh giảm đi tương ứng rừ 3-5 loài và 8-12 loài so với trước khi chặt. Sau 20
năm, số loài bổ sung có tăng lên so với thời điểm sau khi khai thác nhưng số


18

lượng không đáng kể và vẫn thấp hơn so với trước khai thác. Tuy nhiên kết
quả của nhiều công trình nghiên cứu cho thấy, độ tàn che phù hợp cho cây tái
sinh tự nhiên dưới tán rừng nhiệt đới biến động trong khoảng 0,5  0,6.
- Một số nhân tố ngoại cảnh khác như tầng cây bụi thảm tươi là đối thủ
cạnh tranh dinh dưỡng và ánh sáng với cây tái sinh nên có ảnh hưởng rất lớn
tới mật độ, khả năng sinh trưởng và chất lượng của chúng đặc biệt là tái sinh
dưới tán những lâm phần sau khai thác chọn hay rừng Khộp thưa thớt ở Đăk
Lăk. Tuy nhiên lớp thảm thực vật này ảnh hưởng rất ít tới tái sinh dưới tán
trạng thái rừng tự nhiên trung bình IIIA2 và rừng giàu IIIA3 tại Hương Sơn,
Hà Tĩnh.
- Tác động của con người: được coi là nhân tố có ảnh hưởng mạnh mẽ
và rõ rệt nhất đến tái sinh rừng. Thông qua các xử lí lâm sinh, con người đã

khéo léo lợi dụng và điều khiển tự nhiên để tạo ra hoàn cảnh thuận lợi nhất
cho quá trình tái sinh của các loài cây mục đích, đảm bảo tái sinh rừng thành
công. Phương châm này đã được chú trọng đặc biệt trong khai thác rừng
thông qua các biện pháp chặt mở tán, chặt gieo giống trước khi khai thác và
vệ sinh rừng ngay sau khai thác.Tuy nhiên các hoạt động khai thác gỗ bất hợp
pháp, canh tác nương rẫy được lặp đi lặp lại nhiều lần trên một khu vực đã
dần biến những khu rừng bạt ngàn với các loài cây có giá trị thành những khu
rừng với cây ưa sáng mọc nhanh, ít giá trị kinh tế chiếm ưu thế và cuối cùng
thành đất trống đồi núi trọc (Viện điều tra quy hoạch rừng, 1983) (dẫn theo
Nguyễn Anh Dũng, 2000).
Tóm lại: Quá trình tái sinh của rừng tự nhiên là vấn đề hết sức quan
trọng trong nghiên cứu sinh thái rừng nhiệt đới. Quá trình đó diễn ra theo một
quy luật tất yếu của giới sinh vật. Đặc biệt, sự vận dụng các hiểu biết về quy
luật tái sinh để xây dựng các biện pháp kỹ thuật lâm sinh nhằm quản lý tài


19

nguyên rừng bền vững. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu đặc điểm tái sinh
tự nhiên và đề xuất các biện pháp kỹ thuật hợp lý chủ yếu cho đối tượng rừng
núi đất hoặc núi đá khác. Còn với rừng trên núi đá vôi, ít có công trình nào
nghiên cứu một cách đầy đủ và toàn diện. Núi đá vôi là hệ sinh thái rất đặc biệt
của nước ta, nó chứa đựng một nguồn tài nguyên sinh học vô cùng quí giá, một
khi đã bị tác động rất khó để phục hồi. Vì vậy cần những nghiên cứu một cách
sâu sắc và toàn diện hơn với loại rừng này, cần có những biện pháp bảo vệ,
tránh chặt phá bừa bãi gây ra mất rừng, hình thành núi trọc, ảnh hưởng lớn
đến tài nguyên rừng và môi trường.


20


Chương 2
MỤC TIÊU, ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
2.1.1. Mục tiêu chung
Nghiên cứu một số đặc điểm tái sinh tự nhiên của thảm thực vật rừng
trên núi đá vôi làm cơ sở khoa học cho việc khoanh nuôi phục hồi phát triển
rừng trên núi đã vôi tại vùng đệm vườn quốc gia Cát Bà.
2.1.2. Mục tiêu cụ thể
- Đánh giá được đặc điểm tái sinh tự nhiên và ảnh hưởng của các nhân tố
sinh thái đến tái sinh rừng tại vùng đệm VQG Cát Bà
- Đề xuất được một số giải pháp kĩ thuật cho việc khoanh nuôi xúc tiến
tái sinh, nâng cao khả năng phục hồi của hệ sinh thái rừng.
2.2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
2.2.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là cây tái sinh trong các trạng thái rừng
IIB, IIIA1, IIIA2 trên núi đá vôi thuộc vùng đệm tại vườn quốc gia Cát Bà.
2.2.2. Phạm vi nghiên cứu
* Về địa điểm: đề tài chỉ nghiên cứu đặc điểm tái sinh tự nhiên một số trạng
thái rừng tại vùng đệm Vườn quốc gia Cát Bà - Hải Phòng.
* Về nội dung:
- Đề tài chỉ nghiên cứu một số đặc điểm cấu trúc sau đối với tầng cây
cao: tổ thành, mật độ, tầng thứ, độ tàn che, phân bố số cây theo cỡ đường
kính.
- Đối lớp cây tái sinh nghiên cứu các đặc điểm sau: tổ thành, mật độ,
chất lượng, nguồn gốc, phân bố số cây tái sinh theo chiều cao; mạng lưới
phân bố cây tái sinh.



21

- Nghiên cứu ảnh hưởng của một số nhân tố sinh thái đến quá trình tái
sinh tự nhiên dưới tán rừng.
- Trên cơ sở nghiên cứu một số đặc điểm tái sinh dưới tán rừng tiến hành
đề xuất giải pháp lâm sinh phù hợp nhằm nâng cao khả năng tái sinh của
rừng.
2.3. Nội dung nghiên cứu
2.3.1. Một số đặc điểm địa hình tại khu vực nghiên cứu
2.3.2. Nghiên cứu một số đặc điểm của tầng cây cao
- Tổ thành tầng cây cao.
- Cấu trúc mật độ tầng cây cao
- Độ tàn che.
Phân bố số cây theo đường kính N/D1.3, phân bố số cây theo đường

-

cao N/Hvn.
2.3.3. Nghiên cứu đặc điểm tái sinh dưới tán rừng
- Cấu trúc tổ thành loài cây tái sinh.
- Cấu trúc mật độ cây tái sinh.
- Nguồn gốc cây tái sinh.
- Đánh giá chất lượng cây tái sinh.
- Phân bố số cây tái sinh theo cấp chiều cao.
- Nghiên cứu mạng lưới phân bố cây tái sinh
2.3.4. Ảnh hưởng của một số nhân tố đến khả năng tái sinh tự nhiên
- Nhân tố tầng cây cao: mật độ, độ tàn che, quan hệ giữa tổ thành tầng
cây cao và tầng cây tái sinh, phân bố, chiều cao trung bình của cây tái sinh.
- Nhân tố lập địa: độ cao, độ dốc, che phủ đến khả năng tái sinh tự
nhiên.

2.3.5. Đề xuất một số giải pháp nhằm xúc tiến khả năng tái sinh của rừng


22

2.4. Phương pháp nghiên cứu
2.4.1. Phương pháp luận
Khi nghiên cứu về những đặc điểm tái sinh dưới tán rừng ta vận dụng
quan điểm của Thái Văn Trừng (1978) về sinh thái phát sinh quần thể trong
thảm thực vật rừng nhiệt đới mà ông đã nhận định: “Thảm thực vật rừng là
tấm gương phản chiếu một cách trung thành nhất, mà lại tổng hợp được các
điều kiện của hoàn cảnh tự nhiên, đã thông qua sinh vật để hình thành những
quần thể thực vật”. Trong đề tài tác giả vận dụng triệt để quan điểm trên để
nghiên cứu và phân tích.
2.4.2. Phương pháp thu thập số liệu
2.4.2.1. Ngoại nghiệp
2.4.2.1.1. Phương pháp kế thừa số liệu
- Kế thừa các số liệu cơ bản về điều kiện tự nhiên, dân sinh kinh tế xã
hội của khu vực nghiên cứu, các tài liệu có liên quan đến đề tài của các tác giả
trong và ngoài nước.
2.4.2.1.2. Phương pháp điều tra thực tế
* Phân loại trạng thái rừng: Dựa vào hệ thống phân loại đứng trên
quan điểm đánh giá tài nguyên rừng của Loeschau (1963)
* Lập ô tiêu chuẩn (ÔTC):
Đề tài tiến hành lập ô tiêu chuẩn tạm thời, có tính đại diện cao cho khu
vực nghiên cứu. Mỗi trạng thái bố trí 3 OTC, diện tích mỗi ÔTC là 1000 m2
(50x20m).
* Điều tra tầng cây cao:
- Tại mỗi ÔTC tạm thời điển hình ta tiến hành mô tả các chỉ tiêu như vị
trí, độ dốc, hướng phơi, độ cao, sau đó xác định các chỉ tiêu sinh trưởng của

tầng cây cao.


23

- Đường kính ngang ngực (D1.3, cm), được đo bằng thước kẹp kính với
độ chính xác đến cm, đo theo hai hướng Đông - Tây và Nam - Bắc, sau đó
tính trị số trung bình.
- Chiều cao vút ngọt (HVN, m) và chiều cao dưới cành (Hdc, m) được đo
bằng thước có chia vạch. HVN của cây rừng được xác định từ gốc cây đến
đỉnh sinh trưởng của cây Hdc được tính từ gốc cây đến điểm phân cành đầu
tiên tạo lên tán cây rừng.
- Đường kính tán là (Dt, m) được đo bằng phương pháp điều tra rừng
chính xác đến cm, đo hình chiếu tán lá trên mặt phẳng ngang theo hai hướng
Đông Tây và Nam Bắc, sau đó tính trị số trung bình.
- Xác định độ tàn che:
Để điều tra độ tàn che cho từng ô tiêu chuẩn, tiến hành vạch các tuyến
điều tra có chiều dài bằng chiều dài của ô tiêu chuẩn (50m), khoảng cách giữa
các tuyến là 5m. Trên các tuyến điều tra 25 điểm, mỗi điểm cách nhau 2m.
Độ tàn che tại từng điểm được xác định bằng cách ước lượng tỷ lệ phần
trăm ánh sáng bị che bởi tán lá cây. Phương pháp ước lượng như sau:
+ Tại điểm mà thấy tán cây che kín toàn bộ ánh sáng mặt trời cho điểm là 1
+ Tại điểm mà thấy tán cây che 50% ánh sáng mặt trời cho điểm là 0,5
+ Tại điểm mà không thấy tán cây cho điểm là 0
Kết quả đo được thống kê đầy đủ và chi tiết vào phiếu điều tra tầng cây
cao.


24


Phiếu điều tra tầng cây cao
- Số hiệu OTC:

- Ngày điều tra:

- Người điều tra:

- Kiểu rừng:

- Độ dốc:

- Địa hình:

- Độ cao:

- Hướng dốc:

- Độ tàn che:

STT

Tên
loài

D1.3
ĐT

NB

DT

TB

ĐT

NB

H
TB

Sinh

HVN HDC trưởng

Ghi
chú

1
2
3

* Điều tra cây tái sinh:
Trên mỗi OTC, lập 5 ô dạng bản (ODB) 4 ô ở các góc OTC, 1 ô ở
chính giữa OTC, mỗi ODB có diện tích 25m2. Thống kê tất cả cây tái sinh vào
phiếu điều tra theo các chỉ tiêu:
+ Tên loài cây tái sinh, loài nào chưa rõ thì thu thập mẫu để xác
minh.
+ Đo chiều cao cây tái sinh bằng thước sào.
+ Chất lượng cây tái sinh
+ Xác định nguồn gốc cây tái sinh.
+ Điều tra số lượng cây tái sinh.

Kết quả thu thập được ghi vào phiếu điều tra cây tái sinh.


×