Tải bản đầy đủ (.pdf) (117 trang)

Thế giới nhân vật trong Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh và trong Giã từ vũ khí của Hemingway

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.1 MB, 117 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2

ĐẶNG THỊ THẠCH

THẾ GIỚI NHÂN VẬT
TRONG NỖI BUỒN CHIẾN TRANH CỦA BẢO NINH
VÀ TRONG GIÃ TỪ VŨ KHÍ CỦA HEMINGWAY

Chuyên ngành: Lí luận văn học
Mã số: 60 22 01 20

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HOÁ VIỆT NAM
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS. PHÙNG GIA THẾ

HÀ NỘI, 2017


LỜI CẢM ƠN
Trong thời gian thực hiện luận văn tốt nghiệp, tôi đã nhận đƣợc rất
nhiều sự quan tâm, giúp đỡ của các thầy cô giáo và các anh chị học viên K19
lí luận văn học - Trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội 2.
Tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới thầy giáo PGS.TS. Phùng Gia Thế,
ngƣời đã trực tiếp tận tình hƣớng dẫn để tôi có thể hoàn thành luận văn này.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong khoa Ngữ văn, đặc
biệt là các thầy cô trong Tổ bộ môn Lý luận văn học đã tạo điều kiện thuận lợi
để luận văn của tôi đƣợc hoàn thành.
Hà Nội, ngày 10 tháng 7 năm 2017
Tác giả luận văn


Đặng Thị Thạch


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan những nội dung đã trình bày trong luận văn này là kết
quả nghiên cứu của bản thân tôi dƣới sự hƣớng dẫn trực tiếp của PGS.TS.
Phùng Gia Thế. Những nội dung này không trùng lặp với kết quả nghiên cứu
của các tác giả khác.
Hà Nội, ngày 10 tháng 7 năm 2017
Tác giả luận văn

Đặng Thị Thạch


MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ........................................................................................ 1
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................ 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên .................................................................... 6
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.............................................................. 6
5. Phƣơng pháp nghiên cứu ........................................................................... 7
6. Đóng góp của luận văn .............................................................................. 7
7. Bố cục của luận văn ................................................................................... 8
NỘI DUNG .................................................................................................... 9
CHƢƠNG 1. SÁNG TÁC CỦA BẢO NINH VÀ HEMINGWAY
TRONG DÒNG CHẢY VĂN HỌC VIẾT VỀ CHIẾN TRANH .................. 9
1.1. Về hành trình sáng tác của Bảo Ninh và Hemingway ............................. 9

1.1.1. Hành trình sáng tác của Bảo Ninh....................................................... 9
1.1.2. Hành trình sáng tác của Hemingway ................................................. 10
1.2. Nỗi buồn chiến tranh và Giã từ vũ khí trong dòng chảy văn học về
chiến tranh ................................................................................................... 12
1.2.1. Đề tài chiến tranh trong văn học Việt Nam và vị trí của Nỗi buồn
chiến tranh................................................................................................... 12
1.2.2. Hemingway với đề tài chiến tranh và vị trí của Giã từ vũ khí trong
dòng chảy văn học ....................................................................................... 17
CHƢƠNG 2. THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG NỖI BUỒN CHIẾN
TRANH VÀ GIÃ TỪ VŨ KHÍ –NHÌN TỪ NHỮNG ĐIỂM TƢƠNG
ĐỒNG .......................................................................................................... 22


2.1. Nhân vật ngƣời lính .............................................................................. 22
2.1.1. Con ngƣời cô đơn lạc lõng................................................................. 23
2.1.2. Con ngƣời tự nhiên, bản năng ........................................................... 27
2.1.3. Con ngƣời chấn thƣơng ..................................................................... 29
2.1.4. Bi kịch tình yêu .................................................................................. 39
2.2. Nhân vật ngƣời phụ nữ ......................................................................... 46
2.2.1. Ngƣời phụ nữ “vết thƣơng” và cô đơn .............................................. 46
2.2.2. Ngƣời phụ nữ suy thoái thiên chức .................................................... 53
2.2.3. Ngƣời phụ nữ “nguồn sáng của thế giới” .......................................... 58
2.3. Nhân vật đám đông ............................................................................... 59
CHƢƠNG 3. NHỮNG ĐIỂM KHÁC BIỆT CỦA THẾ GIỚI NHÂN
VẬT TRONG NỖI BUỒN CHIẾN TRANH VÀ TRONG GIÃ TỪ VŨ KHÍ .. 65
3.1. Cảm quan của ngƣời lính: hai lí lẽ trái ngƣợc ....................................... 65
3.1.1. Ngƣời lính trong "Nỗi buồn chiến tranh": nhận thức nhƣ một lẽ sống .... 65
3.1.2. Ngƣời lính trong "Giã từ vũ khí" : áp lực chiến trận và lựa chọn
cá nhân ........................................................................................................ 68
3.2. Những khoảnh khắc thời gian khác biệt................................................ 71

3.2.1. Thời gian hai chiều của ngƣời lính trong“Nỗi buồn chiến tranh” .... 71
3.2.2. Thời gian hiện thực của ngƣời lính trong "Giã từ vũ khí" ................. 77
3.3. Không gian nghệ thuật – dấu ấn riêng của mỗi tác phẩm ..................... 81
3.3.1. Không gian trong Nỗi buồn chiến tranh: đa chiều, phức diện ........... 82
3.3.2. Không gian trong Giã từ vũ khí: hạn hẹp, sơ giản ............................. 88
3.4. Nghệ thuật miêu tả ................................................................................ 91
3.4.1. Nỗi buồn chiến tranh miêu tả qua chiều sâu tâm lí ........................... 91
3.4.2. Giã từ vũ khí miêu tả qua góc nhìn trực diện................................... 100
KẾT LUẬN ............................................................................................... 106
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................... 108


1

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Trong tác phẩm tự sự, đặc biệt là thể loại tiểu thuyết, việc kiến tạo
thế giới nhân vật luôn đƣợc xem là một trong những vấn đề quan trọng hàng
đầu. Nhân vật văn học là yếu tố không chỉ giúp bộc lộ chủ đề, tƣ tƣởng của
tác phẩm, mà còn thể hiện tập trung tài năng và phong cách nghệ thuật của
nhà văn. Sự thành công của một tác phẩm văn học đƣợc tạo ra bởi nhiều yếu
tố, trong đó nhân vật trở thành phƣơng diện chủ chốt, mang lại sức hấp dẫn
riêng cho các sáng tác văn học.
1.2. Ngƣời lính là hình tƣợng phổ biến trong các tác phẩm văn học Việt
Nam và thế giới, đặc biệt là những tác phẩm đƣợc viết trong thời kì chiến
tranh và viết về đề tài chiến tranh. Kiểu nhân vật ngƣời lính phản ánh cuộc
sống gian khổ và những khắc nghiệt do chiến tranh gây ra cho con ngƣời, nhất
là những ngƣời trực tiếp đứng trên chiến trận. Nhân vật ngƣời lính truyền tải
những thông điệp, cái nhìn, quan niệm của nhà văn về chiến cuộc nói riêng và
về cuộc đời nói chung.

Bên cạnh kiểu nhân vật ngƣời lính, hệ thống các nhân vật khác trong
sáng tác văn học về chiến tranh (nhân vật ngƣời phụ nữ, nhân vật đám
đông…) cũng có khả năng chuyển tải lại những giá trị tƣ tƣởng - thẩm mĩ
quan trọng cho tác phẩm văn học.
1.3. Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh và Giã từ vũ khí của
Hemingway là hai tác phẩm viết về đề tài chiến tranh rất tiêu biểu của nền
văn học Việt Nam và văn học Mĩ. Trƣớc nay, đã có rất nhiều bài viết, công
trình nghiên cứu với những hƣớng tiếp cận phong phú về hai tác phẩm này.
Tuy nhiên, các nghiên cứu đó chủ yếu mới xem xét chúng trong phạm vi
tách biệt, riêng lẻ, thực tế chƣa có công trình nào tìm hiểu hình tƣợng nhân
vật trong hai tác phẩm dƣới góc nhìn của văn học so sánh.


2

1.4. Trong chƣơng trình Ngữ văn ở bậc học trung học phổ thông, học
sinh đƣợc tiếp xúc nhiều tác phẩm viết về chiến tranh với các hệ thống nhân vật
phong phú. Thiết nghĩ, việc nghiên cứu thế giới nhân vật trong Nỗi buồn chiến
tranh và Giã từ vũ khí là một cách gợi mở hƣớng tiếp cận mới cho học sinh,
đồng thời cung cấp những tƣ liệu phục vụ cho giáo viên, học sinh trong quá
trình tìm hiểu, lý giải và phân tích các tác phẩm văn học về đề tài chiến tranh.
Với những lí do nêu trên, tác giả luận văn lựa chọn đề tài: “Thế giới
nhân vật trong Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh và trong Giã từ vũ khí của
Hemingway” với mục đích làm rõ những điểm tƣơng đồng và khác biệt về thế
giới nhân vật của hai tác phẩm.
2. Lịch sử vấn đề
Tính đến thời điểm hiện tại chƣa có một công trình nghiên cứu nào tập
trung đi sâu vào việc so sánh về thế giới nhân vật trong Nỗi buồn chiến tranh
của Bảo Ninh và Giã từ vũ khí của Hemingway. Rải rác đâu đó trong các
công trình nghiên cứu cũng nhƣ trong một số bài viết riêng lẻ từng tác phẩm

của từng nhà văn, một số nhà phê bình đã gặp gỡ nhau trong cách đánh giá sơ
bộ về nội dung tƣ tƣởng đƣợc thể hiện trong hai tác phẩm. Trong đó có thể kể
tới một số bài viết tiêu biểu nhƣ sau:
Trong bài giới thiệu về Nỗi buồn chiến tranh, nhà văn Nam Dao viết:
“Tác phẩm không hậu hiện đại qua những hình thức thời thƣợng. Tác phẩm cổ
điển từ cấu trúc đến văn phong. Tác phẩm nói về chiến tranh qua thân phận
thời hậu chiến, với cái đau đằng đẵng của con ngƣời cứ tƣởng chiến tranh
chấm dứt. Không, không nhƣ tiếng bom đạn thôi nổ trên đầu, nó nổ trong đầu.
Máu không chảy ra ngoài, nó chảy vào trong. Đã xảy ra, chiến tranh không
bao giờ thực sự kết thúc với những ngƣời sống xót sau cuộc chiến. Nó chỉ kết
thúc trên những trang sử biên niên, với ngày tháng trơ lỳ. Nhƣng trong văn
chƣơng đích thực, nó còn đó nhƣ những vết trầy trụa đớn đau chẳng bao giờ


3

lành, cảnh báo để những thế hệ mai hậu biết trân quí hòa bình…”[28]. Hay
trong cuộc thảo luận về Thân phận của tình yêu do báo văn nghệ tổ chức gày
24/8/1991, Từ Sơn cho rằng: “Âm hƣởng của tác phẩm còn đậm chất bi, âm
hƣởng hùng còn bị chìm lấp đâu đó, chƣa tạo nên đầy đủ nét bi hùng của một
thời đã qua”.
Bên cạnh một số nhận xét phủ định giá trị Nỗi buồn chiến tranh của
Bảo Ninh, nhìn chung cuốn tiểu thuyết này đƣợc đánh giá rất cao từ phía các
nhà nghiên cứu phê bình và độc giả. Đó cũng là xu hƣớng đánh giá chung của
các nhà nghiên cứu hiện thời.
Trong bài viết “Thân phận tình yêu của Bảo Ninh” (in trong Thi pháp
hiện đại), nhà nghiên cứu Đỗ Đức Hiểu cho rằng: “Thân phận tình yêu hay
Nỗi buồn chiến tranh là một hiện tƣợng ngôn từ lạ lùng mang tính đa thanh,
tính đối thoại..., là một cuộc phiêu lƣu muốn nhập vào văn học hiện đại thế
giới” [29, tr.271]. Tuy vậy, việc nhận xét của nhà nghiên cứu ở đây mới ở

mức khái quát, chƣa đi sâu vào phân tích cụ thể, chi tiết các yếu tố ngôn từ
của tác phẩm.
Nhà phê bình Nguyễn Đăng Điệp trong bài “Kĩ thuật dòng ý thức qua
Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh” (in trong sách Tự sự học - một số vấn đề lí
luận và lịch sử) đã có những nghiên cứu rất sâu về kĩ thuật dòng ý thức - một
thủ pháp trần thuật đặc sắc của Bảo Ninh ở tiểu thuyết này. Ông viết: “Ở Việt
Nam, cũng từng có một số nhà miêu tả dòng ý thức nhân vật nhƣng phải đến
“Nỗi buồn chiến tranh” thì kĩ thuật dòng ý thức đƣợc vận dụng triệt để trở
thành nguyên tắc nghệ thuật chi phối cách tổ chức của tác phẩm” [12, tr.121]
Bên cạnh đó, một số bài viết trong công trình hợp tuyển những bài
nghiên cứu văn học với tiêu đề Văn học Việt Nam sau 1975 - Những vấn đề
nghiên cứu và giảng dạy cũng quan tâm tới tác phẩm ở nhiều bình diện khác
nhau. Nguyên Ngọc trong bài Văn xuôi Việt Nam hiện nay - logic quanh co


4

của các thể loại, những vấn đề đang đặt ra và triển vọng cho rằng: “Về mặt
nghệ thuật, Nỗi buồn chiến tranh là thành tựu cao nhất của văn học đổi
mới...” [31, tr.96]. Phạm Xuân Thạch trong bài Nỗi buồn chiến tranh viết về
chiến tranh thời hậu chiến - từ chủ nghĩa anh hùng đến nhu cầu đổi mới bút
pháp nhấn mạnh: “Riêng Bảo Ninh, anh đã đẩy khuynh hƣớng nghệ thuật của
nhà văn đi trƣớc một chiều kích mới. Anh quyết liệt từ bỏ hình thức tiểu
thuyết hiện thực truyền thống để theo đuổi tiểu thuyết tâm lý” [41, tr.34].
Tác phẩm Nỗi buồn chiến tranh, đúng nhƣ lời nhận xét của Đỗ Đức
Hiểu, “là cuộc phiêu lƣu muốn hòa nhập vào văn học thế giới” [19, tr.271].
Trên thực tế, tiểu thuyết của Bảo Ninh đã đƣợc dịch, giới thiệu ở nhiều nƣớc
trên thế giới và đƣợc chào đón nồng nhiệt. Tờ Independent, một trong những
nhật báo có uy tín của nƣớc Anh đã nhận xét về cuốn tiểu thuyết của Bảo
Ninh : “Vƣợt ra ngoài sức tuởng tƣợng của ngƣời Mỹ, Nỗi buồn chiến

tranh đi ra từ chiến tranh Việt Nam đã đứng ngang hàng với cuốn tiểu thuyết
chiến tranh vĩ đại của thế kỷ, Mặt trận phía Tây vẫn yên tĩnh của Erich Maria
Remarque (…). Một cuốn sách viết về sự mất mát của tuổi trẻ, cái đẹp, một
câu chuyện tình đau đớn…một thành quả lao động tuyệt đẹp” [41].
Trên một số tạp chí văn học và trang web cũng xuất hiện một loạt
những bài viết về tác phẩm này,chẳng hạn nhƣ: Thời gian trong Thân phận
tình yêu của Bảo Ninh của Đào Duy Hiệp (Tạp chí nghiên cứu văn học số 8 –
2007), Hiện tƣợng phân giã cốt truyện trong Phiên chợ Giát và Thân phận
tình yêu của Lƣu Thị Thu Hà, bài viết Về nhân vật Phƣơng, ngƣời phụ nữ Hà
Nội, và chủ đề văn học trong Nỗi buồn chiến tranh của Đoàn Cầm Thi trên
trang web Evan.com.vn...
Nhìn chung, có thể thấy, đã có nhiều ý kiến bình luận khác nhau, thậm
chí trái chiều về Nỗi buồn chiến tranh song về cơ bản, hầu hết các nhà nghiên
cứu đều khẳng định vị trí quan trọng của tác phẩm trong đời sống tiểu thuyết
đƣơng đại.


5

Giã từ vũ khí (A Farewell to Arms) là một tiểu thuyết bán tự truyện của
nhà văn Ernest Hemingway viết 1929. Phần lớn cuốn tiểu thuyết này đƣợc viết
tại nhà bố mẹ vợ Hemingway ở Piggott, Arkansas. Đƣợc nhiều nhà phê bình
xem là một trong những tiểu thuyết chiến tranh vĩ đại nhất mọi thời đại, câu
chuyện đƣợc thuật lại thông qua lời kể của trung úy Frederic Henry, một ngƣời
Mỹ nhƣng lái xe cứu thƣơng trong quân đội Ý vào thời Đệ nhất thế chiến.
Ở Việt Nam, từ năm 1985, Lê Đình Cúc đã đề cập đến đề tài chiến
tranh của E. Hemingway qua luận án Phó tiến sĩ: Tiểu thuyết về chiến tranh
của Hemingway [6]. Trong luận án của mình, Lê Đình Cúc đã khảo sát những
tiểu thuyết tiêu biểu của Hemingway nhằm làm rõ thái độ và quan niệm của
E. Hemingway về chiến tranh. Lê Đình Cúc nhận định: “Cùng đi song song

với đề tài chiến tranh là đề tài tình yêu và sức sống mãnh liệt của con ngƣời”.
Có thể xem đây là công trình công phu sớm nhất tại Việt Nam nghiên cứu về
đề tài chiến tranh trong sáng tác của Hemingway.
Nhìn nhận về Giã từ vũ khí có nhiều đánh giá khẳng định về giá trị của
tác phẩm, trong đó, có thể kể đến bài viết của Lê Hữu Huy trên trang
“VIETNAM GLOBAL NETWORK (Kết nối - phát huy giá trị Việt). Theo tác
giả, Giã từ vũ khí “đƣợc nhiều nhà phê bình xem là một trong những tiểu
thuyết chiến tranh vĩ đại nhất mọi thời đại” [21]. Giáo trình Văn học phƣơng
Tây của Đặng Anh Đào và một số tác giả đã dành mục từ viết về Giã từ vũ khí
với nhận xét: Giã từ vũ khí - Cuốn tiểu thuyết hiện đại về tình yêu, chiến tranh
và phản anh hùng”. Bên cạnh đó còn có một số bài viết về đề tài trong Giã từ
vũ khí hay sự thay đổi kết truyện tới 47 lần của tác phẩm,...
Từ trƣớc đến nay, Giã từ vũ khí đƣợc các tác giả nghiên cứu, đánh giá
trên nhiều phƣơng diện, nhƣng việc nghiên cứu tác phẩm trên tinh thần so
sánh, đối chiếu với các tác phẩm có cùng chủ đề, đề tài thì vẫn còn hạn chế.


6

Dựa trên đặc điểm của hai tác phẩm Nỗi buồn chiến tranh của Bảo
Ninh và Giã từ vũ khí của Hemingway, tác giả luận văn lựa chọn đề tài “Thế
giới nhân vật trong Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh và trong Giã từ vũ khí
của Hemingway” với mục đích làm rõ điểm tƣơng đồng và khác biệt trong
cách thiết tạo thế giới nhân vật của hai tác phẩm.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên
3.1. Mục đích nghiên cứu
3.1.1. Đối sánh hệ thống nhân vật đặc biệt là nhân vật ngƣời lính trong
hai tác phẩm để nhận biết những tƣơng đồng, ảnh hƣởng, sự khác biệt, đồng
thời thấy đƣợc nỗ lực sáng tạo riêng của mỗi nhà văn.
3.1.2. Góp phần vào việc khẳng định sự thành công về thế giới nhân vật

trong hai tác phẩm của hai nhà văn nổi tiếng ở các thời điểm lịch sử khác
nhau. Việc nghiên cứu đề tài này còn góp phần vào việc khẳng định vị trí, tầm
quan trọng của bộ môn Văn học so sánh trong bối cảnh nghiên cứu văn học
hiện nay.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
3.2.1. Tập hợp và trình bày những vấn đề lý luận liên quan đến đề tài.
3.2.2. Nghiên cứu so sánh thế giới nhân vật trong hai tác phẩm nói trên
ở cả trên hai bình diện tƣ tƣởng và thi pháp nghệ thuật.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Thế giới nhân vật trong hai tác phẩm Nỗi buồn chiến tranh của Bảo
Ninh và trong Giã từ vũ khí của Hemingway.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi khảo sát và phân tích của luận văn chủ yếu tập trung vào hai
tác phẩm:
- Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh, Nhà xuất bản Trẻ, 2012.


7

- Giã từ vũ khí của Hemingway, Nhà xuất bản Văn học, 2015.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài này, ngƣời viết sử dụng một số phƣơng
pháp nghiên cứu cụ thể sau:
Phƣơng pháp hệ thống, cấu trúc: Luận văn sử dụng phƣơng pháp này
nhằm mục đích tạo sự liên kết chặt chẽ, logic khoa học.
Phƣơng pháp so sánh – đối chiếu: Phƣơng pháp này chúng tôi sử
dụng nhằm mục đích so sánh, đối chiếu các luận điểm trong vấn đề nghiên
cứu hay giữa vấn đề nghiên cứu trong tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh với
Giã từ vũ khí. Qua đó sẽ khẳng định đƣợc nét đặc sắc về thế giới nhân vật

trong hai tác phẩm.
Phƣơng pháp phân tích – tổng hợp: Sử dụng phƣơng phân phân tích
– tổng hợp chủ yếu là để đi sâu khám phá từng yếu tố, khía cạnh trong việc
kiến tạo thế giới nhân vật, nhƣng đồng thời cũng có cái nhìn tổng quát về
nghệ thuật tự sự của nhà văn.
Phƣơng pháp tiểu sử: Khi nghiên cứu đề tài này, chúng tôi sử dụng
phƣơng pháp tiểu sử để tìm hiểu về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác văn
chƣơng của nhà văn Bảo Ninh và Hemingway. Đồng thời, đó còn là vị thế của
nhà văn trong lịch sử đời sống - xã hội của thời đại.
Ngoài ra, khi nghiên cứu đề tài này chúng tôi còn sử dụng các thao tác
tƣ duy bổ trợ cần thiết cho các phƣơng pháp nghiên cứu chính nhƣ: phân tích,
tổng hợp, chứng minh, giải thích, hệ thống…nhằm mục đích làm sáng tỏ vấn
đề một cách rõ ràng, thuyết phục.
6. Đóng góp của luận văn
6.1. Góp phần làm rõ đặc trƣng của thế giới nhân vật trong hai tác
phẩm viết về đề tài chiến tranh.


8

6.2. Trên cơ sở so sánh thế giới nhân vật trong Nỗi buồn chiến tranh
của Bảo Ninh và trong Giã từ vũ khí của Hemingway, luận văn chỉ ra những
nét tƣơng đồng cũng nhƣ điểm khác biệt trong thế giới nhân vật và trong cách
xây dựng hình tƣợng nhân vật của hai tác giả.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung luận văn đƣợc cấu trúc thành 3 chƣơng:
Chƣơng 1: Sáng tác của Bảo Ninh và Hemingway trong dòng chảy văn
học viết về chiến tranh.
Chƣơng 2: Thế giới nhân vật trong Nỗi buồn chiến tranh và Giã từ vũ

khí –nhìn từ những điểm tƣơng đồng.
Chƣơng 3: Những điểm khác biệt của thế giới nhân vật trong Nỗi buồn
chiến tranh và trong Giã từ vũ khí.


9

NỘI DUNG
CHƢƠNG 1. SÁNG TÁC CỦA BẢO NINH VÀ HEMINGWAY
TRONG DÒNG CHẢY VĂN HỌC VIẾT VỀ CHIẾN TRANH
1.1. Về hành trình sáng tác của Bảo Ninh và Hemingway
1.1.1. Hành trình sáng tác của Bảo Ninh
1.1.1.1. Tiểu sử
Bảo Ninh tên thật là Hoàng Ấu Phƣơng, sinh tại huyện Diễn Châu,
tỉnh Nghệ An, quê ở xã Bảo Ninh, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình, Việt
Nam. Ông là con trai của Giáo sƣ Hoàng Tuệ (1922 - 1999), nguyên Viện
trƣởng Viện Ngôn ngữ học. Ông vào bộ đội năm 1969. Thời chiến tranh, ông
chiến đấu ở mặt trận B-3 Tây Nguyên, tại tiểu đoàn 5, trung đoàn 24, sƣ đoàn
10. Năm 1975, ông giải ngũ. Từ 1976-1981 học đại học ở Hà Nội, sau đó làm
việc ở Viện Khoa học Việt Nam. Từ 1984-1986 học khoá 2 Trƣờng viết văn
Nguyễn Du. Làm việc tại báo Văn nghệ Trẻ. Là hội viên Hội Nhà văn Việt
Nam từ 1997.
1.1.1.2. Sự nghiệp sáng tác
Trong giới hạn bài viết, tác giả luận văn xin điểm qua một vài tác phẩm
tiêu biểu của Bảo Ninh và tập trung vào tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh.
Năm 1987 tác giả xuất bản truyện ngắn Trại bảy chú lùn. Năm 1991, tiểu
thuyết Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh (in lần đầu năm 1987 tên là Thân
phận của tình yêu), đƣợc tặng Giải thƣởng Hội Nhà văn Việt Nam và đã đƣợc
đón chào nồng nhiệt. Đó là câu chuyện một ngƣời lính tên Kiên, đan xen giữa
hiện tại hậu chiến với hai luồng hồi ức về chiến tranh và về mối tình đầu với

cô bạn học Phƣơng. Khác với những tác phẩm trƣớc đó mang tính sử thi,
miêu tả chiến tranh từ góc độ cộng đồng, hùng tâm tráng chí của ngƣời lính


10

chiến đấu vì vận mệnh đất nƣớc, Bảo Ninh đã miêu tả chiến tranh từ một góc
độ khác, góc độ cá nhân, thân phận con ngƣời, đi sâu vào những nỗi niềm cá
nhân. Nhà văn Nguyên Ngọc ca ngợi: "Về mặt nghệ thuật, đó là thành tựu
cao nhất của văn học đổi mới". Tuy nhiên, trong hơn 10 năm sau đó tác phẩm
đã bị cấm, không đƣợc in lại, có lẽ do quá nhạy cảm; mặc dù vậy, với làn
sóng đổi mới ở Việt Nam, cuốn sách vẫn rất đƣợc ƣa thích.
Cuốn sách đƣợc dịch sang tiếng Anh bởi Frank Palmos và Phan Thanh
Hảo, xuất bản năm 1994 với nhan đề "The Sorrow of War", đƣợc ca tụng rộng
rãi, và một số nhà phê bình đánh giá là một trong những tiểu thuyết cảm động
nhất về chiến tranh. Bản dịch này đƣợc photo bán rộng rãi cho du khách nƣớc
ngoài. Đây là một cuốn sách đƣợc đọc rộng rãi ở phƣơng Tây, và là một trong
số ít sách nói về chiến tranh từ quan điểm phía Việt Nam đƣợc xuất bản ở
đây. Một điều đáng khâm phục là Bảo Ninh đã trình bày quan điểm này mà
không hề lên án phía bên kia.
Năm 2005, tác phẩm này đƣợc tái bản với nhan đề ban đầu là Thân
phận của tình yêu; năm 2006 tái bản với nhan đề đã trở thành nổi tiếng: Nỗi
buồn chiến tranh.
Bảo Ninh còn viết một số truyện ngắn về đề tài chiến tranh, trong đó
truyện “Khắc dấu mạn thuyền” đã đƣợc dựng thành phim. Truyện ngắn "Bội
phản" trong tập "Văn Mới" do Nhà xuất bản Văn học xuất bản, cũng đã đƣợc
ông gửi gắm nhiều tình cảm và suy nghĩ vào trong các nhân vật.
1.1.2. Hành trình sáng tác của Hemingway
1.1.2.1. Tiểu sử
Ernest Hemingway (1899 - 1961) là nhà văn, nhà báo ngƣời Mỹ. Ông

từng tham gia chiến đấu trong Chiến tranh thế giới lần thứ Nhất, sau đó ông
đƣợc biết đến qua "Thế hệ đã mất", nhận đƣợc giải thƣởng báo chí Pulitzer
năm 1953 với tiểu thuyết Ông già và biển cả, và giải Nobel văn học năm 1954.


11

1.1.2.2. Sự nghiệp sáng tác
Hemingway để lại ấn tƣợng sâu sắc đối với bạn đọc qua nguyên lý tảng
băng trôi, văn phong của ông đƣợc mô tả bởi sự kiệm lời nhƣng có nhiều tầng
ý nghĩa, phải suy nghĩ thật sâu mới có thể hiểu hết đƣợc những gì tác giả gửi
gắm. Nhiều tác phẩm của ông hiện nay đƣợc coi là những tác phẩm kinh điển
của nền văn học Mỹ.
Từ nhỏ Hemingway đã không thích học đàn mà thích đấu võ quyền
Anh, bản tính chuộng chủ nghĩa cá nhân đã thể hiện nơi con ngƣời
Hemingway bằng các phản kháng nhỏ nhặt, để rồi trong cuộc đời sau này, đã
hiện ra bằng các hành động trên tầm vóc lớn hơn.
Ngay từ khi còn học ở trƣờng trung học, ông đã bắt đầu viết văn và
tham gia vào các hoạt động báo chí của trƣờng. Năm 1917, ông rời trƣờng
trung học và thay vì đi học đại học ông tới thành phố Kansas làm phóng viên
cho tờ báo Star. Nhƣng nghề phóng viên không hấp dẫn ông đƣợc lâu, do ƣa
thích mạo hiểm Hemingway đã tình nguyện đăng ký vào Hội đồng thập tự
Hoa Kỳ và qua miền bắc nƣớc Ý là tài xế xe cứu thƣơng.
Năm 1918, khi chƣa tròn 19 tuổi ông bị thƣơng nặng ở chân trong khi
đang cõng một ngƣời lính Ý mang tới địa điểm chỉ huy. Ông đƣợc chữa trị tại
bệnh viện Milan và đƣợc tƣởng thƣởng huy chƣơng anh dũng. Những trải
nghiệm trong cuộc chiến này đã cung cấp cho ông những hiểu biết để viết nên
tác phẩm Giã từ vũ khí (1929), một tiểu thuyết nổi danh nhất đề cập tới chiến
tranh.
Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, ông trở lại Hoa Kỳ sinh sống và tiếp

tục viết văn. Nhƣng ông cùng một số nhà văn khác tự nhận mình là "thế hệ lạc
lõng" - từ để ám chỉ một thế hệ sau chiến tranh, đặc biệt là các nhà văn trẻ khi
cuộc sống và niềm tin của họ đã bị tổn thƣơng vì chiến cuộc, vì các tham lam
vật chất đang dần dần trở nên một thực tại khiến cho cuộc sống hóa vô nghĩa.


12

Trong thời gian làm phóng viên tại Paris, Ernest Hemingway đã đi khắp
châu Âu, phỏng vấn các nhân vật danh tiếng nhƣ Lloyd George, Clemenceau
và Mussolini… rồi vào năm 1925, cuốn tiểu thuyết quan trọng đầu tiên của
Hemingway đƣợc xuất bản tại New York với tên là "Trong thời đại của chúng
ta" (In Our Time). Cũng vào thời gian này, nhiều thú vui nhƣ trƣợt tuyết, coi
đấu bò rừng, đi câu cá và đi săn… đã là từng phần của cuộc sống của ông và
từ đó tạo nên nền móng của các cuốn tiểu thuyết sau này.
Năm 1950, Hemingway xuất bản cuốn sách "Qua sông và vào trong
rừng " nhƣng không gây dấu ấn với độc giả. Năm 1952, cuốn tiểu thuyết
"Ông già và biển cả" đã mang lại ngôi vị cho ông trên văn đàn, giúp ông nhận
đƣợc giải thƣởng báo chí danh giá Pulitzer năm 1953.
Năm 1954 ông đƣợc viện Hàn lâm Thụy Điển trao tặng giải Nobel văn
học "vì thể văn mạnh mẽ dùng trong nghệ thuật kể chuyện mới lạ và đƣợc
ông từng thể hiện trong tác phẩm "Ông Già và Biển Cả".
1.2. Nỗi buồn chiến tranh và Giã từ vũ khí trong dòng chảy văn học
về chiến tranh
1.2.1. Đề tài chiến tranh trong văn học Việt Nam và vị trí của Nỗi buồn
chiến tranh
1.2.1.1. Đề tài chiến tranh trong văn học Việt Nam
Văn học Việt Nam một phần lớn là nền văn học của những cuộc chiến
tranh vệ quốc vĩ đại. Cho nên đề tài xuyên suốt của văn học Việt Nam là đề
tài về chiến tranh. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, hình

ảnh những ngƣời lính luôn là hình ảnh đẹp nhất, đáng ca ngợi nhất và lý
tƣởng nhất. Cái nhìn về ngƣời lính giai đoạn này không đƣợc phép bi lụy, nếu
có buồn thì phải bi hùng, bi tráng. Cảm hứng chủ yếu của văn học viết về
chiến tranh giai đoạn này chủ yếu là cảm hứng sử thi, anh hùng ca.


13

Do vậy, hình ảnh ngƣời lính trong văn học thời kháng chiến chống Pháp
và chống Mỹ về cơ bản đã thể hiện đƣợc tinh thần của thời đại, nó có vai trò
cổ vũ và động viên rất lớn cho các thế hệ nối tiếp nhau ra chiến trƣờng.
Nhƣng mặt khác nó cũng có phần nào thiếu sự sinh động và có phần phiến
diện. Hình ảnh ngƣời lính hiện lên phần nhiều là những con ngƣời lý tƣởng,
không có những biến động lớn về nội tâm. Tuy nhiên trong điều kiện chiến
tranh, vấn đề quan trọng là vận mệnh của dân tộc và sinh mệnh của nhân dân
chứ không phải là số phận của từng cá nhân nên ngƣời nghệ sĩ phải biết hi
sinh nghệ thuật vì lợi ích chung của dân tộc là việc nên làm. Khi cuộc chiến
tranh đã qua đi, văn học bƣớc vào thời kì mới thì vấn đề giữa văn học và hiện
thực, quan niệm về con ngƣời cần phải xem xét lại. Từ sau đại hội Đảng lần
thứ VI (1986), văn học thực sự bƣớc vào thời kỳ đổi mới. Văn nghệ sĩ thực sự
đƣợc cởi trói, họ đƣợc quyền “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật,
nói rõ sự thật”. Vấn đề mối quan hệ giữa văn học và hiện thực đƣợc nhìn cởi
mở hơn, và đặc biệt có những thay đổi lớn trong quan niệm về con ngƣời, vấn
đề về ngƣời lính cũng đƣợc nhìn lại với một điểm nhìn mới.
Trong công cuộc đổi mới ấy nhiều nhà văn đã thể hiện sự nhạy bén của
mình khi đã khám phá ra những vấn đề mới của cuộc sống và những quan
điểm về con ngƣời. Nguyễn Minh Châu với Ngƣời đàn bà trên chuyến tàu tốc
hành, Cỏ lau; Lê Lựu với Thời xa vắng; Dƣơng Hƣớng với Bến không chồng;
Chu Lai với Ăn mày dĩ vãng,…đã thể hiện những sự đổi mới đó. Đặc biệt Bảo
Ninh với tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh đã thể hiện một cách rất mới về

hình ảnh ngƣời lính. Hình ảnh ngƣời lính không còn đƣợc miêu tả bằng cảm
hứng sử thi, anh hùng với cái nhìn đơn giản nhƣ trƣớc nữa. Hình ảnh ngƣời
lính ở đây đƣợc tiếp cận ở phƣơng diện tàn khốc của chiến tranh, ở những góc
khuất của tâm hồn mà trƣớc đây ta chƣa hề đề nói tới hoặc không dám nói tới.
Không chỉ nói về hình ảnh ngƣời lính trong chiến tranh, tiểu thuyết Nỗi buồn


14

chiến tranh còn đi sâu vào khai thác đời sống của những ngƣời lính thời hậu
chiến với sự ám ảnh của một quá khứ đen tối luôn đeo đuổi họ, là cuộc đời đi
giữa hai mặt sáng - tối, giữa lạc quan và bi quan, không thể trở về sống với
quá khứ, không thể hòa nhập đƣợc với cuộc sống hiện tại, họ nhƣ là những
ngƣời đến từ một thế giới khác.
1.2.1.2. Vị trí của “Nỗi buồn chiến tranh” trong dòng chảy văn học viết về
chiến tranh
Nhƣ một luồng gió mới về đề tài chiến tranh, tác phẩm Nỗi buồn chiến
tranh của Bảo Ninh đã nhanh chóng chinh phục độc giả, gợi ra sự quan tâm
đặc biệt đối với ngƣời hâm mộ lẫn những ngƣời phản đối tác phẩm. Cuốn
sách đƣợc in lần đầu tiên vào năm 1987 với nhan đề Thân phận của tình yêu
do các biên tập viên nhà xuất bản Hội nhà văn lựa chọn. Chỉ một năm sau đó,
tác phẩm đƣợc tái bản với tiêu đề do chính tác giả đặt tên từ trƣớc Nỗi buồn
chiến tranh. Đó là câu chuyện một ngƣời lính tên Kiên đan xen giữa hiện tại
và hậu chiến với hai luồng hồi ức về chiến tranh và về mối tình đầu với cô
bạn học Phƣơng. Khác với những tác phẩm trƣớc đó mang tính sử thi, miêu tả
chiến tranh từ góc độ cộng đồng, hùng tâm tráng chí của ngƣời lính chiến đấu
vì vận mệnh đất nƣớc, Bảo Ninh đã miêu tả chiến tranh từ một góc độ khác,
góc độ cá nhân, thân phận con ngƣời, đi sâu vào những nỗi niềm cá nhân
Đến năm 1991, Nỗi buồn chiến tranh trở thành một trong ba tác phẩm
đƣợc giải văn xuôi của Hội nhà văn Việt Nam – một giải thƣởng danh giá

nhất của làng văn nghệ nƣớc ta trong nhiều năm qua. Nhà văn Nguyên Ngọc
– ngƣời lãnh đạo Hội nhà văn hồi đó đã từng đánh giá cao thành quả sáng tạo
của Bảo Ninh trong Nỗi buồn chiến tranh. Ông viết:
Đây là cuốn tiểu thuyết về một cuộc chiến đấu của một con ngƣời tìm lẽ
sống hôm nay. Bằng cách chiến đấu lại cuộc chiến đấu của đời mình. Cuốn
sách này không mô tả chiến tranh. Nó “mô tả” một cuộc kiếm tìm nặng nhọc


15

chính hôm nay. Hiện thực ở đây là hiện thực bên trong của một tâm hồn quằn
quại và đầy trách nhiệm, quằn quại vì đầy trách nhiệm. Trách nhiệm lƣơng
tâm. Cuốn sách nặng nề này không bi quan. Vẫn thấm sâu ở đâu đó trong
từng kẽ chữ của nó một âm hƣởng hy vọng tiềm tang, chính là vì thế. Anh đi
tìm, nghĩa là anh còn hy vọng…Về mặt nghệ thuật, đó là thành tựu cao nhất
của văn học đổi mới [32]. Còn Hoàng Ngọc Hiến đã viết: “Cách tiếp cận đề
tài của Bảo Ninh giống nhƣ một sự liều lĩnh. Có thể tác giả sẽ bị trả giá
nhƣng trong khi không ít ngƣời viết còn thiên viết về cách nghĩ bằng những
“thuận lí”, “một nghĩa”, “bảo đảm an toàn”, thì cuốn tiểu thuyết khác
thƣờng của Bảo Ninh là “cái đƣợc” của văn chƣơng”.
Và chỉ sau một thời gian ngắn, tác phẩm đã đƣợc đông đảo bạn đọc
trong và ngoài nƣớc yêu thích. Tác phẩm đƣợc thảo luận trên báo Văn Nghệ
với những lời khen ngợi nức lòng. Không đầy một năm sau khi xuất hiện,
cuốn sách đã đƣợc nhiều ngƣời tỏ ý muốn dịch ra tiếng nƣớc ngoài. Bản dịch
Anh ngữ The Sorrow of War (bản dịch tiếng Anh của Phan Thanh Hảo, Frank
Palmos hiệu đính) đƣợc xuất bản tại Úc năm 1993 có lẽ là bản dịch đầu tiên
của Nỗi buồn chiến tranh và từ đó, cuốn sách bắt đầu cuộc chu du trên khắp
thế giới, đƣợc dịch hơn 10 ngôn ngữ.
Nhƣng bên cạnh những lời ngợi khen lại là phong ba bão táp. Từ lẻ tẻ vài
lời chê bai đến bùng nổ một phong trào phê phán. Tiểu thuyết đầu tay của Bảo

Ninh bị coi là tiêu cực, thể hiện cái nhìn sai lệch về cuộc kháng chiến chính
nghĩa của dân tộc. Nhiều tác giả cũng nhƣ nhà phê bình đã lên tiếng phản đối
và công kích tác phẩm. Tiêu biểu có thể lấy ý kiến của ông Đỗ Văn Khang,
Tiến sĩ mỹ học và Phó tiến sĩ Ngữ văn. “Ông Khang phẫn nộ vì Bảo Ninh đã
gọi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nƣớc là “cuộc chiến tranh Việt – Mỹ”, đã
thể hiện ngƣời lính quân đội nhân dân nhƣ một lũ thất trận chứ không phải
những ngƣời mang tinh thần “xẻ dọc Trƣờng Sơn đi cứu nƣớc” [32]. Thậm chí


16

có một số nhà văn trong ban giám khảo của Hội nhà văn đã lên tiếng phủ
nhận giải thƣởng cũng nhƣ những phát ngôn của mình trƣớc đó. Nhà nghiên
cứu Vƣơng Trí Nhàn từng cho rằng: “Nếu thời trƣớc thì cứ thế cuốn sách sẽ
chìm dần trong bóng tối và chỉ cần bị ném ra khỏi các thƣ viện nữa thôi là có
thể coi nhƣ bị xóa sổ hoàn toàn” [32] nhƣng may mắn, nó đƣợc ra mắt vào
đúng thời kì đổi mới.
Đến năm 2003, tác phẩm này đƣợc tiếp tục in lại ở Việt Nam với nhan
đề Thân phận của tình yêu, sau mới chính thức đổi thành Nỗi buồn chiến
tranh. Mới đây, tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh cũng lọt vào top 50 tác
phẩm văn học nƣớc ngoài dịch sang tiếng Anh hay nhất trong nửa thế kỷ qua.
ở vị trí thứ 37, cuốn sách đƣợc đứng chung với những kiệt tác lớn của thế giới
nhƣ Cái trống thiếc (Gunter Grass, Nghệ nhân và Margarita (Mikhail
Bulgakov), Chiến tranh và hòa bình (Lev Tolstoy), Trăm năm cô đơn
(Gabriel Garcia Marquez),… Gần đây nhất, tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh
đã đƣợc dịch và giới thiệu ở Iran và là cuốn tiểu thuyết Việt Nam đầu tiên
đƣợc dịch ra tiếng Ba Tƣ.
Tính đến nay, Nỗi buồn chiến tranh đã đoạt nhiều giải thƣởng lớn, đƣợc
dịch và giới thiệu ở nhiều quốc gia trên thế giới. Những giải thƣởng đƣợc trao
gần đây nhất là giải thƣởng Châu Á (Nikkei Asia Prizes) lần thứ 16 của báo

kinh tế Nhật Bản và giải sách hay (với 100% số phiếu đồng thuận của hội
đồng bình chọn) trong nƣớc năm 2011. Dịp này, vì lý do riêng, nhà văn Bảo
Ninh không vào Thành phố Hồ Chí Minh để nhận giải thƣởng đƣợc. Ông gửi
đến Ban tổ chức Diễn từ, trong đó có đoạn:
Tôi hàm ơn các thầy của tôi ở trƣờng viết văn Nguyễn Du là giáo sƣ
Hoàng Ngọc Hiến, nhà văn Nguyên Ngọc, nhà văn Nguyễn Minh Châu, giáo
sƣ Phạm Vĩnh Cƣ. Đối với riêng bản thân tôi, các thầy chính là hiện thân của
sự khai sáng và thức tỉnh trong đổi mới, nhờ các thầy mà tôi có đƣợc cho


17

riêng mình tinh thần nhân văn tự do trong sáng tạo văn học, một cách cụ thể
là nhờ các thầy mà tôi đã có thể viết cuốn Nỗi buồn chiến tranh [16].
Và kể từ tháng 5 năm 2011, nhà xuất bản Trẻ đã chính thức mua và độc
quyền tái bản tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh.
Cuốn tiểu thuyết của Bảo Ninh cũng đã lọt vào tầm ngắm của các nhà
làm phim trong nƣớc nhƣ Hải Ninh, Khánh Dƣ. Nhƣng vì vấp phải nhiều trở
ngại khác nhau, họ đành bỏ dở dự án chuyển thể cuốn sách thành phim. Đến
năm 2008, sau hơn 10 năm qua lại giữa Việt Nam và Mĩ, đạo diễn Nicolas
Simon cũng nhận đƣợc sự đồng ý của nhà văn Bảo Ninh và giấy phép của Bộ
Văn hóa Thể thao và Du lịch Việt Nam cho kịch bản phim Nỗi buồn chiến
tranh. Nhƣng đến nay bộ phim đƣợc chuyển tải từ Nỗi buồn chiến tranh vẫn
chƣa ra đời. Nhiều ý kiến cho rằng có sự trở ngại từ phía tác giả vì ông không
đồng ý kịch bản cũng nhƣ việc lựa chọn nhân vật để xây dựng linh hồn của bộ
phim.
Mặt khác hiện trạng nghiên cứu sáng tác của Bảo Ninh (có đề cấp tới
tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh) trong nhà trƣờng cũng diễn ra khá sôi động
trong nhiều năm trở lại đây đặc biệt là ở các trƣờng đại học phía Bắc qua một
số luận án, luận văn cao học, một số công trình nghiên cứu khoa học cấp

bộ,…
1.2.2. Hemingway với đề tài chiến tranh và vị trí của Giã từ vũ khí trong
dòng chảy văn học
1.2.2.1. Hemingway với đề tài chiến tranh.
Từ cuộc Đại thế chiến I, nƣớc Mỹ đã ở cái thế một cƣờng quốc, đến
mức thời kỳ sau 1918 đƣợc mệnh danh là “những năm hai mƣơi chói lọi”.
Tuy nhiên một lớp ngƣời trẻ tuổi từ chiến trận trở về hoàn toàn không chia sẻ
tâm lí thỏa mãn và than phục nƣớc Mỹ bấy giờ. Họ đại diện cho cả “thế hệ
vứt đi” - cái tên dùng để chỉ một bộ phận trí thức nghệ sĩ không chỉ của nƣớc


18

Mỹ mà của cả châu Âu từ sau Đại chiến I. Đó là Hemingway, Đôx Paxôx, …
và lịch sử văn học vẫn tìm thấy bóng dáng của “thế hệ vứt đi” ngay cả sau Đại
chiến II. Song ngƣời ta không thể duy danh định nghĩa để coi đây là một lớp
ngƣời chán chƣờng phủ nhận. từ quá trình sáng tác, hình tƣợng nghệ thuật, tới
ý đồ sáng tạo của họ, ta thấy toát lên một ý nghĩa phức tạp rộng lớn và lành
mạnh hơn thế. Bản thân ngƣời đã “nhặt lấy” cái tên này là Hemingway cũng
đã nhiều lần gợi lên những cách hiểu khác nhau về họ và đã tìm cách định
nghĩa ở nó.
Theo Hemingway, văn chƣơng của “thế hệ vứt đi” đó không đơn giản
chỉ là sự phanh phui tính chất phi nhân và phi lí của chiến tranh thế giới, cũng
không đơn giản chỉ là ẩn dụ về cuộc sống nhƣ một bi kịch, với kết thúc mang
tính tiền định. Thiên hƣớng sung bái sự kiện – và cả nỗ lực trí tuệ vƣợt qua
ngoài giới hạn của nó, một chủ nghĩa hiện thực toàn vẹn trong sự miêu tả cái
chết – và cả sự khƣớc từ chấp nhận thất bại nữa: đó chính là sự kết hợp hữu
cơ quan điểm đạo đức và nghệ thuật, khiến những cuốn sách xƣa cũ của một
chặng đƣờng lịch sử văn chƣơng biến thành một hiện tƣợng to lớn của đời
sống văn học thế kỉ XX. Cho tới thập kỉ 80, ngƣời ta vẫn đánh gia nhƣ vậy về

một bộ phận văn chƣơng quan trọng ở nửa đầu thế kỉ mà Hemingway là đại
diện xuất sắc nhất.
1.2.2.2.Vị trí của “Giã từ vũ khí” trong dòng chảy văn học
Giã từ vũ khí xuất bản vào năm 1929, đầu tiên in theo lối tiểu thuyết
nhiều kì đăng báo. Sau đó, tờ báo bị đình bản, truyện càng nổi tiếng hơn,
đƣợc in thành sách với số lƣợng rất cao ngay từ lần xuất bản đầu tiên (31000
bản) và sau đó lập tức đƣợc coi nhƣ một kiệt tác của Hemingway. Cuốn
truyện, sau khi in lập tức đƣợc dựng thành kịch và đã hai lần dựng thành
phim. Cuốn sách thuộc loại “dễ đọc” hơn một số truyện khác của
Hemingway, vừa dễ tiếp cận với đông đảo ngƣời đọc, lại vừa làm hài lòng


19

những độc giả tinh tế. Bởi đằng sau vẻ trong sáng ấy là những âm hƣởng phức
tạp trái ngƣợc của trái tim và số phận của một thế hệ trẻ, là khoảnh khắc đổ
vỡ của một thế kỷ sắt thép. Và một giọng nói giản dị, trần trụi nhƣng cũng rất
độc đáo mới mẻ không giống với lối viết đƣơng thời, lối khoa trƣơng trong
bút pháp cũng nhƣ trong tình cảm nay đang bắt đầu trở thành cũ kĩ với sự xuất
hiện của Hemingway.
Trong một bài tham luận về Hemingway mang tên Âm hƣởng thời đại
trong Hemingway, Lê Huy Bắc cho rằng: “Hemingway tập trung khắc họa hai
diện mạo: chết trong chiến tranh và sống trở về”, “chiến tranh hiện diện
trong tác phẩm của Hemingway trƣớc tiên không phải bằng bộ mặt thật với
đạn bom, xe tăng pháo binh,…mà nỗi ám ảnh ghê hồn” [1, tr.24-27]. Tuy ý
kiến của Lê Huy Bắc không mới và chƣa tập trung nhƣng đó là sự tái khẳng
định về đề tài chiến tranh trong sáng tác của Hemingway.
Xuất phát từ hai cuộc chiến với tính chất khác nhau (trong Nỗi buồn
chiến tranh – cuộc chiến tranh chính nghĩa, trong Giã từ vũ khí – cuộc chiến
tranh phi nghĩa), tuy nhiên mỗi tác phẩm đều đƣợc xây dựng dựa trên cái nhìn

của ngƣời tham chiến và chính bởi lẽ đó nên hệ thống nhân vật của mỗi tác
phẩm bên cạnh những nét riêng cũng có nhiều điểm nhìn chung.
Thế chiến thứ nhất cũng nhƣ cuộc chiến tranh ở Việt Nam đã qua đi
nhƣng cho đến nay đứa con tinh thần của các tác giả vẫn còn nhiều vấn đề
tranh cãi, gây xôn xao dƣ luận suốt mấy mƣơi năm qua. Có nhiều lời ngợi ca
dành cho tác phẩm, nhƣng cũng không ít bạn đọc công kích, phản đối nội
dung của câu chuyện. Nhờ những phân tích mổ xẻ trái chiều này, tiểu thuyết
của Bảo Ninh và Hemingway ngày càng đƣợc quảng bá rộng rãi hơn. Việc tạo
ra “sự thay đổi ngoài tầm đón đợi” [20, tr.3] từ phía công chúng trong bản
thân nội dung câu chuyện đã góp phần kiến tạo giá trị cho tác phẩm. Sáng tác
chỉ mới là quá trình vận động tƣ tƣởng. Phải kinh qua ngƣời đọc, giá trị, ý
nghĩa tiềm năng của văn bản mới trở thành hiện thực.


20

Nhìn chung, Nỗi buồn chiến tranh và Giã từ vũ khí là hai tác phẩm
thuộc loại “hiện tƣợng văn học”, trở thành những cuốn sách khá nổi tiếng về
đề tài chiến tranh. Bởi chúng không chỉ viết về “bom đạn và mƣu mô quân
sự” mà còn “viết về trái tim con ngƣời”. Sáng tác của Bảo Ninh và
Hemingway không những giá trị về nội dung tƣ tƣởng mà còn có tác dụng vô
cùng quan trọng trong việc giáo dục thẩm mĩ, mở rộng chân trời đón nhận từ
phía độc giả của ngày hôm qua, hôm nay và cả mai sau.
TIỂU KẾT CHƢƠNG 1
Nhƣ vậy qua nội dung chƣơng 1, có thể thấy việc dẫn dắt hành trình sáng
tác của Bảo Ninh và Hemingway trong dòng chảy văn học thời chiến là quá
trình giúp ngƣời đọc có thể tiếp cận có hệ thống và lí giải rõ hơn cảm quan
của hai nhà văn khi viết những tác phẩm về đề tài chiến tranh mà tiêu biểu
nhất là trong hai tác phẩm Nỗi buồn chiến tranh và Giã từ vũ khí.
Hai nhà văn Bảo Ninh và Hemingway là những cây bút đạt đƣợc thành

công lớn khi viết những tác phẩm về đề tài chiến tranh với cái nhìn mới mẻ và
sâu sắc. Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh là cuốn tiểu thuyết viết chiến
tranh ở thời hậu chiến. Bao trùm lên tất cả, Nỗi buồn chiến tranh là nỗi buồn
sâu xa gắn với từng mảnh đời riêng. Tác phẩm đã bƣớc ra khỏi lối mòn về
lòng tự hào dân tộc cùng những chiến công và vinh quang tập thể để nêu lên
thông điệp về sự ghê tởm, về tính chất hủy diệt của chiến tranh đối với con
ngƣời. Trong khi đó, Giã từ vú khí của Hemingway là một tiểu thuyết bán tự
truyện, xây dựng thành công với hình ảnh ngƣời lính với những suy nghĩ cá
nhân, đời thƣờng. Bản thân họ phải chứng kiến, trải qua hay đối mặt với lựa
chọn danh dự và sự sống.
Với nội dung chƣơng 1, ngƣời viết đã bao quát hành trình sáng tác của
Bảo Ninh và Hemingway cũng nhƣ vị trí của Nỗi buồn chiến tranh và Giã từ


×