Tải bản đầy đủ (.pdf) (127 trang)

Nhân vật trong truyện ngắn Trần Thùy Mai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.25 MB, 127 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
======

NGUYỄN THỊ HỒNG SINH

NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN
TRẦN THÙY MAI
Chuyên ngành: Lí luận văn học
Mã số: 60 22 01 20

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN THỊ KIỀU ANH

HÀ NỘI, 2017


LỜI CẢM ƠN.
Với tình cảm chân thành, cho phép tôi được gửi lời cảm ơn đến các
thầy giáo, cô giáo trong khoa Ngữ văn, phòng Đào tạo sau đại học trường
Đại học Sư phạm Hà Nội 2. Xin trân trọng cảm ơn các Giáo sư, Tiến sỹ đã
nhiệt tình giảng dạy, giúp đỡ tôi trong khóa học.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS Nguyễn Thị Kiều
Anh, người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập
và hoàn thiện luận văn. Tôi cũng xin chân thành cảm ơn nhà văn Trần Thùy
Mai đã giúp tôi có được những tư liệu quý báu góp phần thực hiện đề tài này.
Tôi xin được cảm ơn tới Ban giám hiệu, tổ Ngữ văn trường THPT Mê
Linh – huyện Mê Linh – Thành phố Hà Nội. Xin được cảm ơn gia đình, người
thân, tất cả bạn bè đã tạo điều kiện tốt nhất cho tôi trong suốt thời gian học tập
và nghiên cứu.


Dù đã rất nỗ lực khi thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu, chúng tôi cũng
không sao tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong được sự góp ý, chỉ bảo của
các thầy cô giáo và những ý kiến trao đổi, nhận xét của các bạn để tôi có
thêm điều kiện học hỏi trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học.
Hà Nội, tháng 7 năm 2017
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Hồng Sinh


LỜI CAM ĐOAN
Thực hiện luận văn này, tôi xin cam đoan số liệu và kết quả nghiên cứu
trong luận văn là trung thực. Nội dung của luận văn không hề trùng lặp với
các đề tài khác. Tôi cũng xin cam đoan rằng, các thông tin trích dẫn trong
luận văn hoàn toàn chính xác, được trích dẫn có nguồn gốc rõ ràng, minh
bạch. Nếu sai xót, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Tôi xin đề nghị Hội đồng khoa học xem xét và ghi nhận kết quả quá
trình nghiên cứu và thực hiện luận văn này.
Xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, tháng 7 năm 2017
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Hồng Sinh


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 1
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 3
3. Mục đích nghiên cứu ................................................................................... 10

4. Nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................................. 11
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu............................................................... 11
6. Phƣơng pháp nghiên cứu............................................................................. 11
7. Đóng góp mới của luận văn ........................................................................ 12
8. Bố cục luận văn ........................................................................................... 12
PHẦN NỘI DUNG ......................................................................................... 13
CHƢƠNG I: KHÁI LƢỢC VỀ NHÂN VẬT VĂN HỌC VÀ HÀNH TRÌNH
SÁNG TÁC CỦA TRẦN THÙY MAI........................................................... 13
1.1. Khái lƣợc về nhân vật văn học ................................................................. 13
1.1.1. Khái niệm về nhân vật và thế giới nhân vật.......................................... 13
1.1.1.1. Khái niệm về nhân vật ....................................................................... 13
1.1.1.2. Khái niệm về thế giới nhân vật .......................................................... 15
1.1.2. Chức năng của nhân vật văn học trong tác phẩm văn học .................... 17
1.1.3. Các loại nhân vật văn học ..................................................................... 19
1.2. Hành trình sáng tác của Trần Thùy Mai .................................................. 22
1.2.1. Hành trình cuộc sống ............................................................................ 22
1.2.2. Hành trình sáng tác................................................................................ 23
CHƢƠNG II: QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT VỀ CON NGƢỜI VÀ CÁC
KIỂU NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA TRẦN THÙY MAI .. 26
2.1. Quan niệm nghệ thuật về con ngƣời trong truyện ngắn Trần Thùy Mai . 26
2.2. Các kiểu nhân vật trong truyện ngắn Trần Thùy Mai ............................. 34


2.2.1. Nhân vật ngƣời phụ nữ - Hình tƣợng nhân vật trung tâm, nổi bật nhất
trong truyện ngắn Trần Thùy Mai ................................................................... 35
2.2.1.1. Kiểu nhân vật bi kịch ......................................................................... 37
2.2.1.2. Nhân vật nữ chủ động kiếm tìm tình yêu, hạnh phúc gia đình .......... 53
2.2.1.3. Nhân vật nữ tự ý thức......................................................................... 57
2.2.2. Nhân vật nam – những hình bóng nhạt nhòa, thụ động ........................ 61
2.2.2.1. Kiểu nhân vật nam thụ động, biến chất, đớn hèn, tha hóa bởi hoàn

cảnh ................................................................................................................. 63
2.2.2.2. Kiểu nhân vật nam tẻ nhạt, hờ hững, không dám đối mặt với tình yêu
......................................................................................................................... 64
2.2.2.3. Kiểu nhân vật nam có nhân cách cao đẹp .......................................... 66
CHƢƠNG III: NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT TRONG
TRUYỆN NGẮN CỦA TRẦN THÙY MAI.................................................. 71
3.1. Nghệ thuật miêu tả nhân vật qua ngoại hình............................................ 71
3.2. Nghệ thuật khắc họa tâm lí nhân vật ........................................................ 77
3.3. Ngôn ngữ nghệ thuật ................................................................................ 85
3.3.1. Ngôn ngữ trần thuật .............................................................................. 85
3.3.2. Ngôn ngữ nhân vật ................................................................................ 90
3.3.2.1. Ngôn ngữ đối thoại............................................................................. 91
3.3.2.2. Ngôn ngữ độc thoại nội tâm ............................................................... 98
3.4. Giọng điệu nghệ thuật ............................................................................ 102
3.4.1. Giọng trữ tình, nhẹ nhàng, sâu lắng .................................................... 104
3.4.2. Giọng triết lí, suy ngẫm....................................................................... 107
3.4.3. Giọng ngậm ngùi, xót xa, thƣơng cảm................................................ 111
PHẦN KẾT LUẬN ....................................................................................... 115
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................. 118


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Nằm trong sự chuyển đổi nhiều mặt của xã hội sau khi chiến tranh
kết thúc, nền văn học Việt Nam cũng có sự vận động, biến đổi để đáp ứng nhu
cầu chung của con ngƣời thời đại. Văn học nói chung, văn xuôi nói riêng có
nhiều khởi sắc - đặc biệt là ở lĩnh vực truyện ngắn. Có thể khẳng định rằng:
với đặc trƣng của thể loại “tự sự cỡ nhỏ” năng động, thích hợp với đời sống

hiện đại, chƣa bao giờ truyện ngắn Việt Nam lại hƣng thịnh nhƣ hiện nay.
Trong những năm gần đây, việc nghiên cứu truyện ngắn nói chung,
truyện ngắn của các cây bút nữ nói riêng đƣợc quan tâm đặc biệt… Trần Thùy
Mai cũng có đƣợc những đón nhận nhƣ thế, nhất là khi một số truyện ngắn
của chị đƣợc chuyển thể thành phim. Đã có một số cây bút nghiên cứu phê
bình tiếp cận tác phẩm của chị nhƣng mới chỉ dừng lại ở những bài viết không
quá 6 trang; cũng có một số luận văn tốt nghiệp đại học và thạc sĩ lấy tác
phẩm của Trần Thuỳ Mai làm đối tƣợng nghiên cứu, song vẫn chƣa có đƣợc
cái nhìn toàn diện và xác đáng về sáng tác của nhà văn này. Truyện ngắn của
Trần Thuỳ Mai vì thế vẫn cần phải đƣợc chú ý hơn nữa.
1.2. Thuộc thế hệ thứ hai – những cây bút dò đƣờng đi tìm những đề tài
hậu chiến của truyện ngắn hiện đại, cùng với Nguyễn Huy Thiệp, Lê Minh
Khuê, Lý Lan, Nguyễn Minh Ngọc, Trần Thị Trƣờng... Trần Thuỳ Mai là nhà
văn nữ có lối đi riêng cho mình. Mặc dù chƣa đạt đến tầm cỡ nhƣ Nguyễn
Minh Châu, Ma Văn Kháng, cũng chƣa phải là một “hiện tƣợng” nhƣ Nguyễn
Huy Thiệp, và không ồn ào với những đề tài nóng bỏng nhƣ một số cây bút
trẻ gần đây, không thu hút ngƣời đọc bằng những cốt truyện lạ…Trần Thùy
Mai viết nhƣ để giãi bày. Có những truyện nhà văn nhƣ cúi xuống lòng mình
mà nhả chữ, để mặc cho ngòi bút trôi chảy theo trực cảm, cảm giác. Nhỏ nhẹ,
dịu dàng, với phƣơng thức tiếp cận cuộc sống nửa cổ tích, nửa thế sự. Truyện


2

ngắn của nữ nhà văn ngƣời Huế này “lúc nào cũng đầy ắp dư vị của tuổi 20
đầy sức sống, của những rung cảm sâu nặng” (theo Người đẹp Việt Nam số 7,
2004).
Có thể thấy, thế giới nhân vật trong truyện ngắn của Trần Thùy Mai
không đa dạng lắm nhƣng khá sinh động. Dẫu Trần Thùy Mai có dàn dựng
nhiều kiểu dạng nhân vật ( phƣơng Đông – phƣơng Tây; huyền thoại – lịch sử

- hiện đại…), thì rốt cục thế giới nghệ thuật của tác giả cũng hiện lên đậm nét
một cái tôi phụ nữ buồn, nhiều khát vọng. Đi vào thế giới nhân vật của Trần
Thùy Mai, cảm giác về sự hóa thân thật đậm nét. Sự hóa thân ấy có lúc thể
hiện ở nhân vật ngƣời kể chuyện ngôi thứ nhất. Tôi kể chuyện mình, chuyện
ngƣời, chuyện nhân thế bằng nhiều giọng điệu. Tôi nhìn đời, nhìn ngƣời qua
cặp mắt rất phụ nữ. Tôi hóa thân đồng cảm. Tôi phân thân trải lòng. Tôi
chênh chao giữa những bến bờ hạnh phúc. Cũng có lúc là cái tôi huyền bí đi
tìm những dƣ âm cuộc sống, có khi quay về với cổ tích nửa thực, nửa hƣ…
Nhƣng đa phần cái tôi ấy ẩn đằng sau là những đam mê, khát khao, là tâm hồn
tinh tế, nhạy cảm, trải đời và trải lòng.
Là độc giả yêu thích truyện ngắn Trần Thuỳ Mai, chúng tôi
mong muốn tìm hiểu sâu tác phẩm của chị để học tập, chỉ ra và khẳng định
một phong cách riêng, độc đáo trong cách xây dựng nhân vật; nhìn nhận
những đóng góp của Trần Thuỳ Mai cho truyện ngắn Việt Nam hiện đại.
1.3. Nghiên cứu truyện ngắn Trần Thuỳ Mai góp phần vào việc tìm
hiểu phong cách truyện ngắn của một nhà văn nữ sau 1975. Chúng tôi hi vọng
sẽ góp thêm một góc nhìn mới về hƣớng tiếp cận, khả năng phản ánh đời
sống, giá trị nhân văn... Từ đó, góp thêm tƣ liệu đi sâu vào giảng dạy, học tập
truyện ngắn Việt Nam sau 1975. Đó là lí do khiến chúng tôi chọn đề tài:
Nhân vật trong truyện ngắn Trần Thuỳ Mai.


3

2. Lịch sử vấn đề
Là một trong những thế hệ cây bút dò đƣờng đi tìm những đề tài hậu
chiến, Trần Thùy Mai, một nhà văn nữ viết khỏe, khá đều tay hiện nay. Tính
từ truyện ngắn đầu tay Một chút màu xanh in trên Tạp chí Sông Hƣơng đến
nay, nữ nhà văn ngƣời Huế này đã có hàng trăm tác phẩm truyện ngắn đƣợc
nhiều thế hệ bạn đọc yêu mến, quan tâm, đón đợi. Ngƣời ta tìm thấy trong

truyện ngắn của chị cuộc sống với đầy đủ sắc màu của nó: những hạnh phúc
mong manh, những lo toan dằn vặt đời thƣờng, những mâu thuẫn giữa giới
hạn của hiện thực và khát vọng vô bờ, những rung cảm sâu sắc và lãng mạn
của tình yêu... Điều đáng nói là đằng sau những cay đắng, khổ đau, con ngƣời
vẫn giữ đƣợc niềm tin và tình yêu để sống bao dung và nhân ái với nhau trong
cuộc đời. Cho đến nay, với hơn 30 năm cầm bút, Trần Thuỳ Mai đã cho ra đời
12 tập truyện ngắn. Chị cũng đã đạt đƣợc nhiều giải thƣởng cao của Hội nhà
văn và của Liên hiệp các hội văn học nghệ thuật Việt Nam. Giải B, giải
thƣởng Văn học nghệ thuật Cố đô lần thứ hai, (1998) cho tập truyện ngắn Thị
trấn hoa quỳ vàng. Giải C, giải thƣởng Văn học thiếu nhi “Vì tƣơng lai đất
nƣớc” của nhà xuất bản Trẻ (2002) cho truyện dài thiếu nhi Người khổng lồ
núi Bạc. Giải B, Hội nhà văn Việt Nam (2002, không có giải A) và giải A,
giải thƣởng văn học Cố đô lần ba (2005), cho tập truyện ngắn Qủy trong
trăng. Giải thƣởng Uỷ ban toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật
Việt Nam (2003) và giải A, giải thƣởng Văn học nghệ thuật Cố đô lần thứ tƣ (
2008) cho tập truyện ngắn Thập tự hoa. Giải thƣởng của Hội liên hiệp Văn
học nghệ thuật Thừa Thiên Huế (2008) cho tập truyện ngắn Một mình ở
Tokyo. Giải cống hiến vì cộng đồng năm 2011 do Uỷ ban kết nghĩa thành phố
SanFrancisco – Thành phố Hồ Chí Minh trao tặng. Truyện ngắn Trần Thuỳ
Mai cũng đã nhận đƣợc sự quan tâm của những ngƣời nghiên cứu phê bình.
Tuy nhiên, vì nhiều lẽ, vấn đề nghiên cứu về truyện ngắn của nhà văn này còn


4

khá khiêm tốn và rời rạc. Hầu hết những bài viết về Trần Thuỳ Mai mới chỉ
dừng lại ở nhận xét khái quát, sơ bộ và bộc bạch ấn tƣợng, cảm xúc về một
tập truyện hay một tác phẩm cụ thể nào đó. Dù sơ lƣợc, nhƣng cũng đã có
những bài viết chỉ ra đƣợc dấu ấn riêng trong sáng tác của nữ nhà văn này.
Chúng tôi tạm chia lịch sử nghiên cứu truyện ngắn Trần Thuỳ Mai làm hai

phần:
2.1. Những đánh giá chung về truyện ngắn Trần Thuỳ Mai
Nhìn nhận về những sáng tác của Trần Thùy Mai từ trƣớc đến nay có
nhiều bài viết, ý kiến nhìn nhận, đánh giá. Hầu hết các bài viết đó đều chỉ ra
nét riêng, đặc trƣng của nhà văn. Đáng chú ý là bài viết của PGS, Tiến sĩ Văn
học Hồ Thế Hà: “… Những nhân vật của Trần Thùy Mai thường không bình
lặng. Họ cô đơn, hẫng hụt, tiếc nuối nhưng không bao giờ từ bỏ khát vọng
sống của mình bằng cách bơi ngược dòng sông kí ức để làm sống lại những
điều tốt đẹp… Đọc Trần Thùy Mai, tôi bị cuốn hút bởi chất nhân ái, triết lí
này. Con người dù giận hờn, hằn học nhưng trong tận cùng sâu thẳm của ý
thức cộng đồng, họ âm thầm sẻ chia và nhận nỗi đau về mình để được kéo dài
ra trong niềm vui của người khác, để được yêu trong trắc ẩn dù có khi không
tránh khỏi sự đối xử thờ ơ, nguội lạnh của tha nhân…” [15]. Cũng trong bài
viết này, khi đề cập đến nội dung của các tác phẩm, Hồ Thế Hà đã nhận xét:
“Truyện ngắn Trần Thuỳ Mai thường là những ghi nhận đời thường với bao
lo toan dằn vặt, với những mâu thuẫn có lúc âm thầm, có lúc dữ dội giữa khát
vọng tình yêu và khả năng không đạt được của con người, để rồi sau những
va chạm “dễ thương”, niềm hi vọng, sự sẻ chia, lòng nhân ái bao dung lại
được xoa dịu, thanh lọc” [15].
Nguyễn Thế Thịnh với bài viết Trần Thuỳ Mai với những hoài niệm
đẹp như cổ tích đã khẳng định: “Đọc những truyện ngắn của chị (...) người
đọc nhận ra chị vẫn cái giọng tâm tình thủ thỉ, duyên dáng và quyến rũ nhưng


5

ẩn chứa sự dữ dội ngầm (...) Truyện ngắn của Trần Thuỳ Mai lôi cuốn người
đọc bằng những chi tiết vừa ảo vừa thực, có rất nhiều điều dường như mong
manh, sắp tan biến nhưng lại vĩnh hằng” [59].
Bùi Việt Thắng khi nhận xét về những cây bút truyện ngắn cũng nhận

định: “Là một cây bút nữ, có thể nói Trần Thuỳ Mai là một hiện tượng trong
đội ngũ sáng tác truyện ngắn hiện nay. Miệt mài với nghiệp văn và trở thành
cây bút có sức bền với thể loại truyện ngắn, truyện ngắn của chị đã vượt ra
ngoài giới hạn của mảnh đất cố đô để đến với bạn đọc cả nước” [57]. Tác
giả đánh giá những tập truyện đã xuất bản của Trần Thuỳ Mai (tính đến năm
2004) nhƣ “những dấu son đỏ của văn giới thừa nhận tiêu chuẩn đánh giá
chất lượng quốc gia của cây bút nữ”.
Tác giả Lê Thị Mỹ Ý trong bài viết Nhà văn dịu dàng và đa đoan đánh
giá về truyện ngắn Trần Thuỳ Mai: “Văn chương của chị như một trái cây
chín muộn, càng có thời gian vị càng ngọt, hương càng nồng, màu sắc càng
hấp dẫn, càng mang đến một dư vị riêng mà những cây bút cùng thời với chị
không có được” [67].
Tác giả Hoàng Nguyên Vũ trong bài viết đăng trên báo điện tử Văn
nghệ công an (http//www.vn.com) đã lý giải vì sao truyện của Trần Thùy Mai
lại có sức sống mãnh liệt chính là vì “chất đời” trong đó, “có những trang
viết của Trần Thùy Mai chứa đựng những cuộc đời nhỏ nhỏ, có cuộc đời
thoáng qua, có cuộc đời gặp một lần rồi hun hút, có cuộc đời về trong những
giấc mơ miên viễn. Nhưng vấn đề không phải nói ai, hay viết về ai, thấp
thoáng cuộc đời của ai mà là cái thông điệp đằng sau những cuộc đời ấy là
gì”. Tác giả bài viết khẳng định: “Tình yêu ngập tràn trong những trang viết
của. Dù buồn hay vui, cô đơn hay hạnh phúc thì với Trần Thùy Mai phải có
tình yêu mới khiến ngòi bút của chị chắp cánh… tình yêu là động lực của bút
lực… Tình yêu thúc đẩy cuộc sống tốt đẹp hơn và làm được nhiều việc có ích”


6

[66].
Tháng 11 năm 2002, báo “Kiến thức gia đình” có đăng bài Trần Thuỳ
Mai và bi kịch của người phụ nữ của Diệu Hiền. Trong đó, tác giả bài viết đã

có những cảm nhận bƣớc đầu về những bi kịch đau đớn của ngƣời phụ nữ trong
truyện ngắn Trần Thuỳ Mai. Từ việc dẫn ra một số truyện tiêu biểu, ngƣời viết
đã chỉ ra rằng: “Tất cả phụ nữ trong truyện ngắn của Trần Thuỳ Mai đều đẹp,
yêu hết mình, sống tốt hết mình, nhưng kết cục phần nhiều họ đều gặp bất
hạnh, đau khổ” [22].
Tại hội thảo khoa học của Khoa Văn - ĐHSP Huế, Thái Phan Vàng
Anh có bài viết khá ấn tƣợng với tựa đề: Tình yêu huyền thoại trong truyện
ngắn Trần Thuỳ Mai. Trong khuôn khổ sáu trang, tác giả đã đề cập đến việc
thể hiện đề tài tình yêu trong truyện ngắn Trần Thuỳ Mai: “Với chị, tình yêu
là biểu tượng của những khát vọng tuyệt đối, là hoài niệm để níu giữ niềm
tin”, là “những tình yêu huyền thoại lung linh như ảo ảnh” [1]. Đó là mối
quan hệ giữa hai bờ thực - ảo, giữa khát vọng mong manh với thực tại đầy
đắng cay và bất hạnh. Tác giả bài viết nhận xét: “Những nhân vật nữ (...) đều
gặp gỡ ở việc lấy tình yêu làm điểm tựa để “cứu rỗi linh hồn”, “đắm chìm
trong hoài niệm”. “Các mối tình, các sợi xích tình yêu (...) chưa bao giờ thôi
quấn riết, giằng níu trong nhân vật, và rồi biến thực tại thành dư âm của quá
khứ vừa bỏng rát, vừa dịu dàng” [1]. Một góc nhìn về truyện ngắn năm 2008
đăng trên Tạp chí Văn nghệ Quân đội nhận thấy nét nổi bật nhất trong những
tập truyện về sau của Trần Thùy Mai là chuyển hƣớng vào đề tài lịch sử với
một cách tiếp cận mới, với cái nhìn giải thiêng, thân mật hóa đối tƣợng. Tuy
mới chỉ khái quát nhƣng là nhận định rất chuẩn xác về mảng đề tài lịch sử, có
thể coi là một phong cách riêng của Trần Thùy Mai.
Trên đây là những nhận xét, đánh giá về truyện ngắn của Trần Thùy
Mai, ít nhiều đã làm rõ những phong cách sáng tác của chị về nội dung, nghệ


7

thuật… Các nhân vật trong sáng tác của chị tuy không đa dạng nhƣng khá
sinh động: có những nhân vật lịch sử, có những ngƣời nghệ sĩ, nhân vật tu

hành. Và đặc biệt về những ngƣời phụ nữ - họ bình thƣờng, bé nhỏ, họ quyền
quý, cao sang, đa đoan hoặc trong quá khứ, hiện đại… Dù là nhân vật nào thì
giọng văn của Trần Thùy Mai vẫn dịu dàng, đằm thắm, đậm chất âm hƣởng
của vùng đất cố đô.
2.2. Những đánh giá về các tập truyện và các tác phẩm cụ thể của Trần
Thuỳ Mai
Với hơn 30 năm cầm bút, Trần Thùy Mai đã có nhiều tập truyện ngắn.
Mỗi một tập truyện đƣợc xuất bản đều cuốn hút sự quan tâm từ phía độc giả,
và có nhiều bài viết mang tính chất giới thiệu, cảm nhận. Sau đây là những
đánh giá, nhận xét tiêu biểu:
Với tập truyện đầu tay Bài thơ về biển khơi, Phan Minh Ngọc đã nhận
xét nhƣ sau: “Một số truyện ngắn của Trần Thùy Mai có xu hướng đi vào
những đề tài mô tả đời sống sinh hoạt hàng ngày của con người với cả những
ý nghĩ, lo toan thầm lặng của họ... Với khả năng quan sát tinh tế, với thế
mạnh của cái nhìn từ góc độ một cây bút nữ, Thùy Mai đã chăm chú theo dõi
thái độ xử sự của con người trong những hoàn cảnh tưởng chừng như là “thử
thách”. Chị cũng đã lắng nghe được cả những nỗi băn khoăn, day dứt của
họ; để rồi từ đó phê phán những biểu hiện tiêu cực, khêu gợi những mặt tích
cực trong đời sống nội tâm của mỗi người, và làm nổi bật lên những yêu cầu
về nhân cách mà con người mới cần phải có” [51].
Viết về tập Trò chơi cấm, Hồ thế Hà có cái nhìn bao quát qua bài viết
Thế giới truyện ngắn Trần Thuỳ Mai qua Trò chơi cấm. Trong bài này, tác giả
đã trình bày một cách khá hệ thống và chi tiết các khía cạnh trong thế giới
nghệ thuật của tập truyện nhƣ: kết cấu, cốt truyện, nhân vật. Có thể nói, bƣớc
đầu bài viết đã nêu lên đƣợc một số đặc điểm làm nên phong cách truuyện


8

ngắn Trần Thuỳ Mai. Tác giả nhận xét: “Giọng văn tâm tình, mềm mại gắn

với những phản ứng tâm thức kín đáo của nhân vật đã tạo nên giá trị nhân
bản của truyện ngắn Trần Thuỳ Mai. Đó là nét làm nên sức hấp dẫn của nhà
văn mang đậm bản sắc Huế”, “giọng văn thủ thỉ tâm tình và thấm đẫm chất
thơ, quyến rũ bởi chất huyền thoại” [14]. Đó là thời gian, không gian khát
vọng đƣợc miêu tả bằng bút pháp huyền thoại, truyện ngắn Trần Thuỳ Mai
mang đậm chất triết lí về sự sống của con ngƣời thời hiện đại.
Cũng về tập Trò chơi cấm, Lý Lan - ngƣời đã từng in chung với Trần
Thuỳ Mai tập truyện Cỏ hát có bài Nữ tính trong “Trò chơi cấm” của Trần
Thuỳ Mai. Ở bài viết này, nhà văn Lý Lan đã khai thác nữ tính trong tập
truyện, mà ở đó, ngƣời đọc nhƣ đƣợc thƣởng thức những bữa tiệc đƣợc “chị
Mai chế biến từ những nguyên liệu là cuộc sống mà chị đã yêu, đã sống.
Khéo léo như người đầu bếp Huế, chị bày bối cảnh truyện ở những không
gian khác nhau để tránh sự đơn điệu của một thành phố nhỏ...” (Báo Sài
Gòn giải phóng). Tuy nhiên trong khuôn khổ của một bài báo mang tính chất
cảm nhận, bày tỏ cảm xúc thì chất nữ tính ấy chƣa đƣợc phân tích, lí giải ở
mức độ cần thiết để đánh giá sở trƣờng cũng nhƣ nét riêng về phong cách tác
giả.
Tập truyện ngắn Quỷ trong trăng của Trần Thuỳ Mai nhận đƣợc nhiều
sự quan tâm hơn cả. Khi tập truyện ra đời, Báo Lao động miền trung có đăng
bài Cuộc hành hương bên bờ xa vắng của Lê Mỹ Ý. Tác giả bài viết đã điểm
qua những truyện ngắn tiêu biểu để đi đến khẳng định: “Giữa mê lộ ám ảnh,
giác độ tình yêu được soi xét từ nhiều điểm chiếu... Dù ở điểm chiếu nào,
truyện ngắn của chị cũng hiện hữu một niềm say đắm miên man của ý niệm
thuần khiết. Đấy là ý niệm để tác giả vén lên một luồng sáng mong manh, đi
sâu vào những ngóc nghách nhỏ nhoi, tìm ra đời sống hơn là đời sống, nhận
thức ra tia sáng hằng hữu, bất biến trong tình yêu” [67]. Sức hấp dẫn của tập


9


truyện này còn đƣợc Lê Mỹ Ý đánh giá ở giọng văn nhẹ nhàng với thứ ngôn
ngữ tự nhiên. Bài báo đã tạo đƣợc một sự chú ý cần thiết, hƣớng ngƣời đọc có
đƣợc tâm thế nhập vào “cuộc hành hương của linh hồn phù du bên bến bờ xa
vắng, đi tìm luống ánh sáng mong manh cho khát khao” trong truyện ngắn
của Trần Thuỳ Mai.
Cũng đánh giá về tập truyện Quỷ trong trăng, Nguyễn Thị Kim Huệ
với bài viết Quỷ trong trăng và thế giới đậm cá tính phương Tây đã phát hiện:
“Quỷ trong trăng là một thế giới của nhân vật nữ đang tồn tại thật với bản
ngã của chính mình, dù họ phải trả bằng chính cuộc đời của họ. Thế nhưng,
họ không nuối tiếc hay hối hận cho những lựa chọn của mình, bởi họ là
những phụ nữ phương Đông dịu dàng bao dung nhưng lại tiềm tàng sự nổi
loạn, tự do và bất chấp kể cả cái chết cho tình yêu” [23]. Nguyễn Thị Kim
Huệ gọi đây là “thế giới nữ đậm cá tính phương Tây”. Những phát hiện trong
bài viết cho thấy nét sáng tạo mới lạ của Trần Thuỳ Mai trong việc xây dựng
tâm hồn, tính cách và lẽ sống của các nhân vật trong tác phẩm của mình.
Về tập truyện Mưa đời sau, tác giả Minh Phƣơng có bài giới thiệu: Đọc
sách: Mưa đời sau trên báo Nhân dân số 305 đã có những nhận định khá sâu
sắc về các tác phẩm trong tập truyện. Về thế giới nhân vật truyện ngắn Trần
Thuỳ Mai, tác giả có nhận xét: “Ngòi bút Trần Thuỳ Mai hướng tới phát hiện
vẻ đẹp phẩm cách và lòng hướng thiện của những nhân vật trong truyện” và
đặc biệt nhân vật của chị đƣợc “Khéo léo khắc họa diễn biến tâm lí với lối kết
hợp tự nhiên, bất ngờ, lôi cuốn”. Trong bài viết, tác giả cũng đã có một vài
nhận xét ban đầu về giọng văn và cả kết cấu tác phẩm, đặc biệt tác giả đã
nhận xét cả về phẩm chất của nhân vật và cách xây dựng nhân vật của Trần
Thùy Mai.
Về tập truyện ngắn Lửa hoàng cung, Trần Thùy Mai đã chọn đề tài lịch
sử - một đề tài không mới trong những sang tác gần đây, song tác giả khéo léo


10


lựa chọn các tình huống, sự kiện, chi tiết để kéo ngƣời đọc về với giai đoạn
lịch sử của triều Nguyễn. Nhẹ nhàng, tinh tế trong việc xây dựng chân dung
nhân vật lịch sử, nhân vật nghệ sĩ, Trần Thùy Mai không gây nhàm chán
ngƣời đọc. Ngƣợc lại, những sáng tác đó đem đến những hiểu biết phong phú
về một triều đại ở Việt Nam.
Và tập truyện mới nhất Onkel yêu dấu (2010) gồm 14 truyện ngắn, sau
khi mới xuất bản cũng nhận đƣợc nhiều ý kiến. Một trong số đó là ý kiến:
“Với những câu chuyện tình yêu sinh động và giọng văn trang nhã, tinh tế,
tập truyện ngắn Onkel yêu dấu sẽ mang lại cho bạn đọc những giờ phút lắng
sâu, tĩnh tại, lấy lại cân bằng giữa dòng đời đang cuộn chảy” (Đăng trên
).
Tóm lại, trên cơ sở điểm lại những bài viết về Trần Thuỳ Mai, chúng
tôi thấy những nét đặc sắc về truyện ngắn của cây bút này đã đƣợc phát hiện.
Nhƣng nhìn chung, vấn đề nghiên cứu về truyện ngắn của Trần Thuỳ Mai còn
khá khiêm tốn và rời rạc. Hầu hết những bài viết về truyện ngắn của tác giả
này mới chỉ dừng lại ở nhận xét khái quát, sơ bộ và bộc bạch ấn tƣợng, cảm
xúc về một tập truyện hay một tác phẩm cụ thể nào đó. Ngoài ra, còn có
những tiểu luận, luận văn tốt nghiệp đại học và thạc sĩ cũng đã giải quyết
đƣợc một phần trong quá trình đi vào thế giới nghệ thuật của truyện ngắn
Trần Thuỳ Mai. Tuy nhiên, chƣa có một công trình nào quy mô và hoàn chỉnh
đi sâu vào tìm hiểu, nghiên cứu nhân vật trong truyện ngắn Trần Thuỳ Mai
một cách hệ thống. Đây cũng cũng chính là lí do thôi thúc chúng tôi thực hiện
đề tài này.
3. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là tìm hiểu, khám phá thế giới nhân vật
cũng nhƣ nghệ thuật xây dựng các nhân vật trong truyện ngắn của Trần Thùy
Mai. Từ đó khẳng định tài năng và những đóng góp của tác giả trong dòng



11

chảy của văn xuôi Việt Nam đƣơng đại.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu những vấn đề lí luận cơ bản về nhân vật văn học.
- Vận dụng những kiến thức lí luận trên vào việc tìm hiểu nhân vật và
nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện ngắn của Trần Thùy Mai.
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của đề tài là toàn bộ nhân vật trong truyện ngắn
của Trần Thùy Mai.
5.2. Phạm vi nghiên cứu
Chúng tôi nghiên cứu đề tài: Nhân vật trong truyện ngắn của Trần
Thùy Mai với phạm vi khảo sát chính là toàn bộ truyện ngắn của nhà văn
Trần Thuỳ Mai, bao gồm các tập truyện: Bài thơ về biển khơi (1983); Cỏ hát
(1994); Thị trấn hoa quỳ vàng (1994); Trò chơi cấm (2001); Quỷ trong trăng
(2001); Biển đời người (2002); Thập tự hoa (2003); Đêm tái sinh (2004);
Mưa đời sau (2005); Lửa hoàng cung (2007); Mưa ở Strasbourg (2007); Một
mình ở Tôkyô (2008); Trăng nơi đáy giếng ( 2009), Onkel dấu yêu ( 2010) .Từ
đó có sự đối sánh với một số truyện ngắn của các nhà văn nữ cùng thời nhƣ:
Nguyễn Thị Thu Huệ, Phạm Thị Hoài, Võ Thị Hảo…
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng những phƣơng pháp
chính sau:
- Phƣơng pháp tiếp cận thi pháp học
- Phƣơng pháp phân tích - tổng hợp
- Phƣơng pháp so sánh đối chiếu
- Phƣơng pháp thống kê - phân loại
- Phƣơng pháp hệ thống



12

- Phƣơng pháp loại hình.
7. Đóng góp mới của luận văn
Lựa chọn đề tài này, chúng tôi mong muốn góp thêm một hƣớng tiếp
cận mới về quan niệm con ngƣời trong sáng tác của Trần Thùy Mai, góp phần
làm phong phú thêm cho giá trị truyện ngắn Trần Thùy Mai nói riêng và
chứng tỏ sự thành công của tác giả trong sự nghiệp văn học Việt Nam thời kì
đổi mới nói chung.
Thực tiễn đời sống văn học nƣớc nhà và chủ trƣơng của bộ giáo dục
trong những năm gần đây đã cho thấy: chúng ta đang từng bƣớc tăng cƣờng
đƣa văn học Việt Nam thời kì đổi mới vào chƣơng trình giảng dạy và học tập
ở các trƣờng Đại học, Cao đẳng đến phổ thông. Vì thế, với những nội dung
đƣợc triển khai trong đề tài nghiên cứu của mình, chúng tôi mong muốn và hi
vọng sẽ có ý nghĩa nhất định cho việc nghiên cứu, giảng dạy văn học thời kì
đổi mới trong nhà trƣờng.
8. Bố cục luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung của luận văn bao gồm 3
chƣơng:
Chƣơng 1: Khái lƣợc về nhân vật văn học và hành trình sáng tác của
Trần Thùy Mai.
Chƣơng 2: Quan niệm nghệ thuật về con ngƣời và các kiểu nhân vật
trong truyện ngắn của Trần Thùy Mai.
Chƣơng 3: Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện ngắn Trần Thùy
Mai.


13


PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG I: KHÁI LƢỢC VỀ NHÂN VẬT VĂN HỌC VÀ HÀNH
TRÌNH SÁNG TÁC CỦA TRẦN THÙY MAI
1.1. Khái lƣợc về nhân vật văn học
1.1.1. Khái niệm về nhân vật và thế giới nhân vật
1.1.1.1. Khái niệm về nhân vật
Nhà văn hào Đức W. Goethe có nói: “Con người là điều thú vị nhất đối
với con người, và con người cũng chỉ hứng thú với con người”. Con ngƣời là
nội dung quan trọng nhất của văn học. Ðối tƣợng chung của văn học là cuộc
đời nhƣng trong đó con ngƣời luôn giữ vị trí trung tâm. Những sự kiện kinh
tế, chính trị, xã hội, những bức tranh thiên nhiên, những lời bình luận... đều
góp phần tạo nên sự phong phú, đa dạng cho tác phẩm nhƣng cái quyết định
chất lƣợng tác phẩm văn học chính là việc xây dựng nhân vật. Nhân vật văn
học là nhân tố quan trọng đối với mọi thể loại, đặc biệt là tiểu thuyết và
truyện ngắn. Nói đến nhân vật văn học thƣờng ngƣời ta nghĩ ngay đến hình
tƣợng con ngƣời trong tác phẩm. Nó là biểu tƣợng nghệ thuật về con ngƣời,
cho thấy sự tồn tại toàn vẹn của con ngƣời trong thế giới nghệ thuật ngôn từ.
Nhà văn xây dựng nhân vật nhằm khái quát những quy luật về đời sống con
ngƣời và thể hiện quan niệm của mình về con ngƣời. Vì vậy, nhân vật văn học
bao giờ cũng chuyên chở ý đồ, tƣ tƣởng của nhà văn, in đậm cá tính sáng tạo
của nhà văn.
*Về phương diện thuật ngữ:
Thuật ngữ “nhân vật văn học” xuất hiện từ rất sớm. Trong tiếng Hi lạp
cổ “nhân vật” (đọc là persona) lúc đầu mang ý nghĩa chỉ cái mặt nạ của diễn
viên sân khấu. Theo thời gian, thuật ngữ này đã đƣợc sử dụng nhiều nhất,
thƣờng xuyên nhất để chỉ đối tƣợng mà văn học miêu tả và thể hiện. Đôi khi,
nhân vật văn học còn còn đƣợc gọi bằng những thuật ngữ khác nhƣ “vai”


14


(actor) và “tính cách” (character). Tuy nhiên, theo chúng tôi, các thuật ngữ
này có nội hàm hẹp hơn so với “nhân vật”. Thuật ngữ “vai” chủ yếu nhằm
nhấn mạnh đến tính chất hành động của cá nhân, thích hợp với loại nhân vật
hành động. Còn thuật ngữ “tính cách” lại thiên về những nhân vật có tính
cách. Trong thực tế sáng tác, không phải nhân vật nào cũng hành động, đặc
biệt là những nhân vật thiên về “suy tƣ” và cũng không phải nhân vật nào
cũng có tính cách rõ rệt. Từ đó, có thể thấy các thuật ngữ “vai”, “tính cách”
không bao quát đƣợc hết những biểu hiện khác nhau của các loại nhân vật
trong sáng tác văn học. Còn “nhân vật” là thuật ngữ có nội hàm phong phú,
đủ khả năng khái quát những hiện tƣợng phổ biến của tác phẩm văn học ở
mọi bình diện và mọi cấp độ.
*Một số quan niệm trong nghiên cứu, phê bình về nhân vật văn học
Trong giới nghiên cứu, phê bình văn học đã có khá nhiều những quan
điểm khác nhau về nhân vật văn học. Hầu hết các quan niệm đƣa ra đều
khẳng định nhân vật văn học là yếu tố cơ bản của tác phẩm văn học và là một
phƣơng diện tạo nên dấu hiệu nhận biết phong cách của nhà văn. Sau đây là
những khảo sát về quan niệm nhân vật văn học.
Trong Từ điển văn học: “Nhân vật văn học là yếu tố cơ bản nhất trong
tác phẩm văn học, tiêu điểm để bộc lộ chủ đề, tư tưởng chủ đề và đến lượt
mình nó lại được các yếu tố có tính chất hình thức của tác phẩm tập trung
khắc họa. Nhân vật, do đó là nơi tập trung giá trị tư tưởng – nghệ thuật của
tác phẩm văn học” [tr 86] Có thể nói đây là một định nghĩa tƣơng đối toàn
diện về nhân vật văn học. Bởi các nhà biên soạn đã nhìn nhận văn học từ khía
cạnh vai trò, chức năng của nó đối với tác phẩm và từ mối quan hệ của nó với
các yếu tố hình thức tác phẩm.
Còn trong cuốn 150 thuật ngữ văn học của Lại Nguyên Ân lại có quan
niệm khác về nhân vật văn học: “Nhân vật văn học là một đơn vị nghệ thuật,



15

nó mang tính ước lệ, không thể bị đồng nhất với con người có thật…. Nhân
vật văn học là sự thể hiện quan niệm nghệ thuật của nhà văn về con người; nó
có thể được xây dựng chỉ dựa trên cơ sở quan niệm ấy… Nhân vật văn học là
một trong những khái niệm trung tâm để xem xét sáng tác của một nhà văn,
một trường phái hoặc dòng phong cách. Những nét chung về nhân vật văn
học có thể cho phép nêu lên những hiện tượng văn học [3, 250 - 251]. Vậy
theo Lại Nguyên Ân, nhân vật văn học đƣợc xem xét trong mối tƣơng quan
với cá tính sáng tạo, phong cách của nhà văn và trƣờng phái văn học. Nhân
vật văn học chính là một trong những yếu tố tạo nên phong cách của nhà văn,
tạo nên màu sắc riêng cho một trƣờng phái văn học.
Trong cuốn Thi pháp học, Trần Đình Sử lại quan niệm: “Nhân vật là
hình thức miêu tả con người một cách tập trung. Nhân vật văn học là những
con người có tên hoặc không tên (ví dụ “mụ nào” trong Truyện Kiều hay Tiểu
đồng trong Lục Vân Tiên…) có những tính chất, địa vị nhất định, xuất hiện
trong các tác phẩm để làm những hành động nhất định, biểu hiện những tình
cảm, ý nghĩ, thái độ nhất định, nhằm thể hiện những tư tưởng nhất định của
nhà văn với nhân sinh” [53, 28].
Với cách nhìn nhận nhƣ vậy, tác giả đã chỉ ra đƣợc tầm quan trọng của
nhân vật văn học với tác phẩm và cách thể hiện cuộc sống của nhà văn.
Dù có nhiều ý kiến, quan niệm khác nhau trong giới nghiên cứu, phê
bình văn học, song đều xuất phát từ một điểm chung: nhân vật văn học là
thành tố quan trọng trong tác phẩm, là phƣơng tiện để nhà văn phản ánh đời
sống và đƣợc nhà văn xây dựng bằng những yếu tố nghệ thuật độc đáo.
Nghiên cứu về tác phẩm văn chƣơng phải tiếp cận nhân vật để chỉ ra cái mới
trong cách viết của nhà văn và những đóng góp của nhà văn đó.
1.1.1.2. Khái niệm về thế giới nhân vật
“Thế giới” là một khái niệm thuộc phạm trù Triết học. Theo từ điển



16

Triết học, “Thế giới” có thể hiểu:
Theo nghĩa rộng, “Thế giới” là toàn bộ hiện thực khách quan (tất cả
những tồn tại ở bên ngoài và độc lập với ý thức con ngƣời). “Thế giới” là
nguồn gốc của nhận thức [tr 1083].
Theo nghĩa hẹp, “Thế giới” dùng để chỉ đối tƣợng của vũ trụ học, nghĩa
là toàn bộ thế giới vật chất do thiên văn học nghiên cứu. Ngƣời ta đã chia bộ
phận thế giới vật chất đó thành hai lĩnh vực nhƣng không có ranh giới tuyệt
đối: Thế giới vĩ mô và thế giới vi mô [tr 1083].
Từ đó có thể thấy rằng “Thế giới” là một phạm trù rất rộng, một vũ trụ
rộng lớn tồn tại xung quanh con ngƣời và tồn tại độc lập bên ngoài ý thức con
ngƣời.
Vậy “Thế giới nhân vật” là gì? về khái niệm này cũng là một phạm trù
rộng. “Thế giới nhân vật” là một tổng thể những hệ thống nhân vật đƣợc xây
dựng theo quan niệm của nhà văn và chịu sự chi phối tƣ tƣởng của tác giả.
Thế giới ấy cũng mang tính chỉnh thể trong sáng tác nghệ thuật của nhà văn,
có tổ chức và có sự sống riêng, phụ thuộc vào ý thức sáng tạo của ngƣời nghệ
sĩ. Nằm trong thế giới nghệ thuật, “Thế giới nhân vật” cũng là sản phẩm tinh
thần, là kết quả của trí tƣởng tƣợng, sáng tạo của nhà văn và chỉ xuất hiện
trong tác phẩm văn học, trong sáng tác nghệ thuật. Đó là một mô hình nghệ
thuật có cấu trúc riêng, có quy luật riêng thể hiện ở đặc điểm con ngƣời, tâm
lí, thời gian, không gian, xã hội… gắn liền với một quan niệm nhất định của
chúng về tác giả. “Thế giới nhân vật” là cảm nhận một cách trọn vẹn, toàn bộ
và sâu sắc của chủ thể sáng tạo về toàn bộ nhân vật xuất hiện trong tác phẩm,
mối quan hệ và môi trƣờng hoạt động của nó, ý nghĩa, tƣ tƣởng, tình cảm của
họ trong cách đối nhân xử thế, trong giao lƣu xã hội, với gia đình… “Thế giới
nhân vật” vì thế bao quát sâu rộng hơn hình tƣợng nhân vật. Trong “Thế giới
nhân vật”, ngƣời ta có thể chia thành các kiểu, loại nhân vật nhỏ hơn (nhóm



17

nhân vật) dựa vào những tiêu chí nhất định. Nhiệm vụ của ngƣời tiếp nhận
văn học là phải tìm ra chìa khóa để bƣớc qua cánh cửa nhằm khám phá thế
giới nhân vật đó. Do vậy, nghiên cứu “Thế giới nhân vật” cũng khác với phân
tích nhân vật. Trong tiến trình phát triển của văn học, ở mỗi giai đoạn, mỗi
khuynh hƣớng, mỗi dòng văn học, mỗi tác giả lớn lại có “Thế giới nhân vật”
riêng và chịu chi phối quy luật sáng tạo của thời đại, phong cách nhà văn đó.
Tìm hiểu nhân vật trong truyện ngắn của Trần Thùy Mai, chúng tôi
thấy đó là một hệ thống các nhân vật đa dạng, phong phú và giàu lòng nhân
ái. Trong tác phẩm của chị, có rất ít những kiểu ngƣời ích kỉ, vụ lợi, thực
dụng, tàn nhẫn vô tâm. Nhân vật của chị cũng không mang tính điển hình cho
ý nghĩa xã hội rộng lớn mà chứa đựng chiều sâu của suy ngẫm, sự tinh tế của
tâm trạng, cảm xúc, là những phản ứng tâm thức kín đáo, những nỗi đau tinh
thần rất cụ thể. Vẻ đẹp tâm hồn, sự hƣớng thiện của nhân vật đã tạo nên giá trị
nhân bản cho truyện ngắn Trần Thùy Mai. Ở một khía cạnh nào đó, ngƣời ta
có thể thấy Trần Thùy Mai rất chú trọng xây dựng tính cách nhân vật. Nhẹ
nhàng, kín đáo, thâm trầm, sâu sắc, và mang những nỗi bất hạnh rất đời
thƣờng. Đọc truyện ngắn Trần Thùy Mai, độc giả có thể nhận ra chính mình
trong hình tƣợng một nhân vật nào đó của chị để rồi tự suy ngẫm, chiêm
nghiệm về cuộc sống và gần gũi hơn với tác giả. Đó là nét đặc trƣng trong
truyện ngắn của ngƣời phụ nữ gốc Huế này.
1.1.2. Chức năng của nhân vật văn học trong tác phẩm văn học
Trong cuốn Thi pháp học, Trần Đình Sử có nói: “Nhân vật văn học
được sáng tạo ra, hư cấu ra là để khái quát và biểu hiện tư tưởng, thái độ đối
với cuộc sống , ca ngợi nhân vật là ca ngợi đời, lên án nhân vật là lên án đời.
Xót xa cho nhân vật là xót xa đời. Do vậy tìm hiểu nhân vật là tìm hiểu cách
hiểu về cuộc đời và con người, là tìm hiểu tư tưởng, tình cảm của tác gả đối

với con người” [53, 28]. Nhân vật có chức năng quan trọng đối với tác phẩm


18

và đối với chủ nhân sáng tạo ra nó. Nhân vật đóng vai trò là tâm điểm của sự
thể hiện đời sống trong tác phẩm văn học. Nó không chỉ là tiêu điểm để bộc lộ
chủ đề mà còn còn là nơi tập trung giá trị tƣ tƣởng, nghệ thuật của tác phẩm.
Nhân vật là điều kiện thiết yếu đảm bảo cho sự miêu tả thế giới của văn
học có đƣợc chiều sâu và tính hình tƣợng. Vì thế nhân vật nhiều khi trở thành
“đối tác” sống động của độc giả, có thể khơi lên những chủ đề đối thoại thực
sự có ý nghĩa về cuộc đời và con ngƣời. Nhân vật văn học sẽ có nhiều chức
năng tƣơng ứng với nhiều vai trò khác nhau trong tác phẩm. Nhìn một cách
tổng quát, các chức năng đó là:
Thứ nhất, nhân vật có chức năng miêu tả và khái quát các các loại tính
cách trong xã hội. Với chức năng này, nhân vật chứng tỏ đƣợc chức năng vô
song của văn học trong việc phản ánh bản chất của đời sống xã hội qua một
hiện tƣợng mang tính chất kết tinh là tính cách.
Thứ hai, nhân vật văn học còn là công cụ giúp nhà văn sáng tạo nên thế
giới nghệ thuật của tác phẩm là chìa khóa để nhà văn mở cánh cửa bƣớc vào
hiện thực đời sống vô cùng rộng lớn, đặt ra những vấn đề mới mẻ, sâu sắc và
có ý nghĩa nhân sinh.
Thứ ba, nhân vật còn có chức năng biểu hiện tƣ tƣởng, quan niệm của
nhà văn về con ngƣời và cuộc sống. Quan niệm nghệ thuật của nhà văn về con
ngƣời là cơ sở để nhà văn xây dựng nhân vật. Nói cách khác, nhân vật văn
học là sự thể hiện quan niệm nghệ thuật của nhà văn về con ngƣời và nó có
thể chỉ đƣợc xây dựng dựa trên cơ sở quan niệm đó. Với các nhân vật cụ thể,
thái độ đánh giá về các tính cách, các vấn đề xã hội của nhà văn có điều kiện
đƣợc bộc lộ tốt hơn, tập trung hơn. Những nét chung về nhân vật trong một
thời kì, một giai đoạn có thể cho phép nêu lên những hiện tƣợng văn học.

Chính vì thế nhân vật văn học còn là một trong những khái niệm trung tâm để
xem xét sáng tạo của một nhà văn, một khuynh hƣớng, một trƣờng phái văn


19

học.
Thứ tƣ, ngoài các chức năng cơ bản trên, nhân vật văn học còn chi phối
và góp phần quyết định hình thức tác phẩm. Nhân vật có chức năng quan
trọng trong việc tạo các mối liên kết giữa các yếu tố thuộc về hình thức tác
phẩm. Do có chức năng này mà kết cấu tác phẩm có đạt đến sự thống nhất,
hoàn chỉnh, cân đối, chặt chẽ và nhiều tiềm năng biểu đạt của các phƣơng tiện
ngôn từ đƣợc phát lộ. Từ đó, nhân vật trở thành những phƣơng diện nghệ
thuật độc lập, có thể nghiên cứu riêng nhƣ một đối tƣợng thẩm mĩ chuyên
biệt.
Trên đây là những chức năng chính của nhân vật văn học. Nhờ có
những chức năng ấy nhà văn mới có những tƣ duy về hiện thực và định hƣớng
giá trị con ngƣời. Chính vì thế Betông Brecht cho rằng: “Các nhân vật của tác
phẩm nghệ thuật không phải giản đơn là những bản dập của những con người
sống mà là những hình tượng được khắc họa phù hợp với ý đồ tư tưởng của
tác giả”. Hiểu đƣợc chức năng của nhân vật văn học, ngƣời nghiên cứu sẽ có
những cơ sở lí luận chắc chắn để tìm hiểu về nhân vật trong sáng tác của một
nhà văn. Với đề tài “Nhân vật trong truyện ngắn của Trần Thùy Mai”, việc
nắm đƣợc những chức năng này của nhân vật sẽ giúp chúng tôi có cái nhìn
thấu đáo hơn về các sáng tác của chị.
1.1.3. Các loại nhân vật văn học
Nhân vật văn học là một hiện tƣợng hết sức đa dạng. Những nhân vật
đƣợc xây dựng thành công từ xƣa đến nay bao giờ cũng là những sáng tạo độc
đáo, không lặp lại. Tuy nhiên, xét về mặt nội dung tƣ tƣởng, kết cấu, chất
lƣợng miêu tả... có thể thấy những hiện tƣợng lặp đi lặp lại tạo thành các loại

nhân vật khác nhau. Ðể nắm bắt đƣợc thế giới nhân vật đa dạng, phong phú,
có thể tiến hành phân loại chúng ở nhiều góc độ khác nhau.
Thứ nhất, dựa vào vị trí, vai trò của nhân vật trong góc độ kết cấu của


20

tác phẩm, ngƣời ta phân chia ra thành nhân vật trung tâm, nhân vật chính và
nhân vật phụ. Trong đó nhân vật chính đóng vai trò chủ chốt, xuất hiện nhiều
và có liên quan đến các sự kiện chủ yếu trong tác phẩm, là cơ sở để tác giả
triển khai đề tài, chủ đề của tác phẩm. Trong một tác phẩm có nhiều nhân vật
chính, nhân vật chính có vai trò quan trọng hơn cả so với nhân vật trung tâm.
Nhân vật trung tâm xuyên suốt từ đầu đến cuối tác phẩm, về mặt ý nghĩa, đó
là nơi quy tụ các mối quan hệ của tác phẩm. Còn các nhân vật phụ mang tình
tiết, sự kiện, tƣ tƣởng có tính chất phụ trợ, bổ sung, có vai trò khá khiêm tốn
trong trong những sự kiện chính của tác phẩm.
Thứ hai, căn cứ vào đặc điểm tính cách nhân vật và mối quan hệ thuận
nghịch giữa nhân vật với lí tƣởng xã hội, lí tƣởng thẩm mĩ của nhà văn, có thể
chia thành nhân vật chính diện và nhân vật phản diện. Trong đó nhân vật
chính diện (nhân vật tích cực) là nhân vật chiếm đƣợc tình yêu, niềm tin,
mang lí tƣởng, quan niệm đạo đức tốt đẹp của tác giả và của thời đại. Nhân
vật chính diện đƣợc nhà văn đề cao, khẳng định, còn nhân vật phản diện
(nhân vật tiêu cực) thì ngƣợc lại, mang phẩm chất xấu, trái với lí tƣởng đạo
đức, đáng lên án và phủ định.
Thứ ba, dựa vào sự chi phối quy luật thể loại đến nhân vật, theo cách
phân chia loại thể theo truyền thống của Aristot thì nhân vật gồm có nhân vật
trữ tình, nhân vật tự sự và nhân vật kịch. Trong đó nhân vật trữ tình đƣợc thể
hiện chủ yếu qua thế giới tinh thần , nội tâm và cảm xúc phong phú. Nhân vật
tự sự là nhân vật xuất hiện trong tác phẩm tự sự (truyện, tiểu thuyết, kí…),
thƣờng đƣợc hiện lên đầy đủ từ ngoại hình đến phẩm chất, tính cách, ngôn

ngữ, hành động cho đến nội tâm bên trong. Nhân vật tự sự là con ngƣời đời
thƣờng tham gia vào các tình huống khác nhau của cuộc sống để tạo thành các
diễn trình tự sự trong tác phẩm. Còn nhân vật kịch là loại nhân vật hành động,
mọi hành động của nhân vật kịch đều bộc lộ tính cách và thƣờng xuất hiện ở


×