Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Tố tâm hoàng ngọc phách

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (70.1 KB, 13 trang )

I. Giới thiệu
1. Vài nét về tác giả Hoàng Ngọc Phách
Nhà văn Hoàng Ngọc Phách, (1896 - 1973), tên huý là Tước, ông còn có bút
hiệu Song An, quê ở làng Đông Thái, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh. Xuất thân
trong một gia đình có truyền thống hiếu học, yêu nước, cha ông từng tham gia
phong trào Cần Vương. Thuở nhỏ, ông theo học chữ Hán rồi học trường Pháp
Việt. Sau khi tốt nghiệp Trường Cao đẳng Tiểu học ở Vinh, ông ra học Trường
Bưởi, Hà Nội.
Năm 1919, Hoàng Ngọc Phách đỗ cả hai bằng Cao đẳng tiểu học Pháp và bằng
Thành Chung. Cùng năm đó, ông trúng tuyển luôn kỳ thi tuyển vào trường Cao
đẳng sư phạm, Ban văn chương. Năm cuối khóa học ở đây, Hoàng Ngọc Phách
hoàn thành tiểu thuyết Tố Tâm. Với tác phẩm này, ông là người mở đầu cho
nền tiểu thuyết hiện đại Việt Nam. Nhiều ý kiến còn cho rằng Tố Tâm là cuốn
tiểu thuyết hiện đại đầu tiên của Việt Nam.
Năm 1922 tốt nghiệp Cao đẳng sư phạm, Hoàng Ngọc Phách được bổ làm giáo
sư trường Thành Chung, Nam Định. Ba năm sau ông chuyển về Hà Nội làm
Tổng Thư ký trường Cao đẳng sư phạm. Thời gian đó, phong trào để tang Phan
Chu Trinh, đòi thả Phan Bội Châu diễn ra sôi nổi, nhất là trong học sinh, sinh
viên. Do có liên can tới các hoạt động chính trị này, Hoàng Ngọc Phách bị đổi
xuống Kiến An rồi xin chuyển sang dạy ở trường Cao đẳng tiểu học Bonnal
Hải Phòng.
Trong thời gian dạy học ở Hải Phòng, Hoàng Ngọc Phách còn làm Hội trưởng
hội Trí Tri Hải Phòng. Ông thường tổ chức những buổi diễn thuyết, tổ chức đội
kịch mà đạo diễn, diễn viên là thầy trò trường Bonnal. Số tiền thu được dùng
vào việc từ thiện. Những vở Lọ vàng, Bạn và vợ, ông Tây An Nam... có tiếng
vang thu hút được nhiều khán giả. Dưới sự dìu dắt của Hoàng Ngọc Phách,
Thế Lữ và một số nghệ sĩ khác đã trưởng thành và gặt hái được nhiều thành
công trong ngành nghệ thuật sân khấu.
Năm 1931 Hoàng Ngọc Phách lên dạy học ở trường Cao đẳng tiểu học Lạng
Sơn. Năm 1935 ông về dạy học ở Bắc Ninh cho đến ngày Tổng khởi nghĩa. Ở
đây, ông cũng tham gia tổ chức Hội Khuyến học, Hội Truyền bá quốc ngữ tỉnh


và giữ chức Hội trưởng hai tổ chức xã hội này.
Sau cách mạng tháng Tám đến năm 1959, Hoàng Ngọc Phách giữ nhiều chức
vụ trong ngành giáo dục: Giám đốc học khu Bắc Ninh kiêm Hiệu trưởng
trường trung học Hàn Thuyên, Giám đốc giáo dục chiến khu 12, Liên khu 1,


Giám đốc Cao đẳng sư phạm Trung ương, Thanh tra học vụ toàn quốc, Hiệu
trưởng trường phổ thông Phan Đình Phùng, rồi về ban tu thư Bộ Giáo dục,
tham gia nhóm nghiên cứu Lê Quý Đôn. Năm 1959 ông chuyển sang Viện văn
học làm công tác nghiên cứu cho đến năm 1963 thì nghỉ hưu.
Tên của ông được đặt cho một con đường tại phường Láng Hạ, quận Đống Đa,
Thành phố Hà Nội.
2. Vài nét về tác phẩm “Tố Tâm”
Tiểu thuyết Tố Tâm được viết 1922, in lần đầu 1925. Sau khi tiểu thuyết này ra
đời đã dấy lên phong trào say mê tìm đọc của thanh niên, học sinh Việt Nam
vào thời điểm ấy. Đây cũng là cuốn tiểu thuyết có số lần tái bản kỷ lục lên tới
hàng mấy chục lần. Tố Tâm đã đưa tên tuổi Song An - Hoàng Ngọc Phách vào
hàng các nhà văn tên tuổi lúc bấy giờ.
3. Tóm tắt tác phẩm
Nội dung của tác phẩm kể về câu chuyện tình thơ mộng nhưng bi thương của
đôi trai tài, gái sắc: Đạm Thủy – Tố Tâm, qua lời dẫn truyện của nhân vật ký
giả.
Nghỉ hè, tại trường Đại học, nhân vật ký giả sang phòng bạn thân là chàng tân
khoa Lê Thanh Vân, giỏi văn chương, biệt hiệu là Đạm Thủy. Chàng có chiếc
hộp kỉ vật đề dòng chữ “Mấy mảnh di tình”. Biết bạn có ẩn tình riêng, ký giả
hỏi về chiếc hộp. Được khơi đúng tâm trạng, Đạm Thủy kể lại chuyện tình đau
buồn của mình…
Một lần về quê, bị rơi mất ví dọc đường, Đạm Thủy đến trình quan huyện sở
tại, được quan tiếp đãi nồng hậu. Trở lại trường, chàng được nhắn đến nhà bà
Án, chị của quan, để nhận ví. Chàng kết thân với cậu Tân, con bà Án. Chính

dịp này, chàng gặp và thầm yêu chị của Tân, nàng Nguyễn Thị Xuân Lan, cô
gái đẹp nhất phố, nết na, hiền thục, tuy có phần kiêu kỳ. Nàng biết cả chữ Nho,
chữ Tây, say mê văn chương. Vốn yêu thơ Đạm Thủy, nay biết mặt chàng,
nàng thêm quyến luyến. Mỗi khi chàng đến chơi, hai người thích mạn đàm văn
chương. Đạm Thủy đặt biệt hiệu cho nàng là Tố Tâm. Hai người dần cảm thấy
không thể thiếu nhau. Bấy giờ, gia đình đã tính chuyện hôn nhân cho Đạm
Thủy. Chàng đành viết thư kể sự thật với nàng. Nàng chủ động hẹn gặp, tỏ vẻ
vui tươi, nhưng kỳ thực đau khổ. Đến nhà nàng bất chợt, Đạm Thủy càng hiểu
tình yêu mãnh liệt của nàng. Từ đó, hai người ít gặp nhau, nhưng lại thường
xuyên gởi cho nhau những bức thư nhớ thương, say đắm. Đôi lần, họ hẹn nhau
đi chơi vùng quê, gặp nhau ở bể Đồ Sơn. Họ càng có thêm những kỷ niệm đẹp.


Tình yêu thêm nồng nàn, nhưng là một mối tình trong sáng, cao thượng, không
hề pha sắc dục. Lúc này, mẹ Tố Tâm ốm nặng, gia đình buộc nàng lấy chồng.
Nàng nhất quyết khước từ. Đạm Thủy, vì quá yêu, nên có ý tưởng cùng nàng
trốn đi, xây hạnh phúc. Nhưng nghĩ tình gia đình, chàng bỏ ý định. Tố Tâm
cũng can ngăn chàng. Tố Tâm tiếp tục bị thúc ép. Phần vì quá thương mẹ, lại
thêm Đạm Thủy viết thư khuyên nhủ, nàng đành chịu lấy chồng. Trước ngày
cưới, nàng hẹn gặp Đạm Thủy, trao chàng kỷ vật và khóc từ biệt. Nhận lá thư
vĩnh biệt củaTố Tâm, Đạm Thủy đáp từ, tặng nàng mấy cành hoa lan mừng
ngày cưới. Sau lễ cưới, nhân hội chùa Đồng Quang, hai người thoáng thấy
nhau, nhưng nàng quay mặt đi. Lúc này, nàng đã ốm nặng. Về, biết mình
không khỏi bệnh, nàng tiếp tục viết nhật ký cho Đạm Thủy. Nàng cũng kể sự
thật với chồng. Rồi nàng qua đời, chỉ sau ba mươi sáu ngày lên xe hoa.
Ngày đưa tang nàng, Đạm Thủy đau xót đến viếng, nhưng không dám xuất
hiện. Hôm sau, chàng ra thăm mộ nàng, lấy áo mình đắp lên mộ. Trở lại thăm
nhà bà Án, chàng được trao hộp kỷ vật, trong đó có quyển nhật ký của Tố Tâm.
Đọc nhật ký, Đạm Thủy thương tiếc nàng, hối hận mà thành bệnh. Anh trai
Đạm Thủy biết em suy sụp vì tình yêu nên kịp thời động viên, an ủi. Từ đó,

Đạm Thủy quyết tâm học hành, lòng giữ hai điều thiêng liêng: công danh sự
nghiệp và mối tình nồng nàn, cao thượng với Tố Tâm.
II. Tác phẩm
1. Nội dung
“Tố Tâm” được Hoàng Ngọc Phách viêt năm 1922, khi ông học năm cuối
trường Cao đẳng sư phạm. Ngay từ lúc chào đời “Tố Tâm” đã tạo nên sự
quan tâm đặc biệt của dư luận, “nó đã gây nên hiệu ứng xã hội không ngờ,
làm lung lay cả luân lí hàng ngàn năm”.
Tác phẩm kể về câu chuỵên tình thơ mộng nhưng đầy bi thương của đôi trai
tài gái sắc: Đạm Thuỷ- Tố Tâm, qua lời dẫn truyện của nhân vật kí giả.
Đạm Thuỷ- một chàng sinh viên cao đẳng rất giỏi văn chương- kể cho bạn
(nhân vật kí giả) nghe câu chuyện tình đau khổ của mình. Trong một
chuyến về quê, vì mất ví Đạm Thuỷ đã đến trình quan sở tại và được tiếp
đãi rất nồng nhiệt; sau về trường chàng đươc nhắn đến nhà bà Án, chị của
quan để nhận lại ví. Chính vì thế chàng đã kết thân với cậu Tân con của bà
Án, và cũng qua dịp này chàng đã gặp và thầm yêu chị của Tân là nàng
Nguyễn Thị Xuân Lan, cô gái đẹp nhất phố, nết na, hiền thục, tuy có phần
kiêu kỳ. Đạm Thuỷ đã đặt biệt hiệu cho nàng là Tố Tâm. Tố Tâm là một cô


gái mới, thông thạo cả chữ Nho lẫn chữ Tây, say mê văn chương, hay đọc
sách báo, đã thầm yêu Đạm Thuỷ qua thơ văn và bài báo của chàng. Gia
đình Đạm Thuỷ đã hỏi vợ cho chàng và giục chàng về xem mặt cô dâu, yêu
Tố Tâm nhưng Đạm Thuỷ không muốn làm trái ý cha mẹ. Tố Tâm yêu Đạm
Thuỷ nhưng cũng không muốn làm phật ý gia đình và làm vợ chưa cưới của
chàng đau khổ. Lúc này, mẹ Tố Tâm bỗng dưng ốm nặng, nên gia đình
buộc nàng lấy chồng, Tố Tâm kiên quyết khước từ.
Vì quá yêu Tố Tâm, Đạm Thuỷ có ý định bỏ trốn xây dựng hạnh phúc
nhưng nghĩ đến gia đình, chàng đã từ bỏ ý nghĩ ấy. Mẹ Tố Tâm không thúc
ép nhưng cũng muốn lo chuyện cho xong. Phần vì chữ hiếu, lại thêm những

bức thư Đạm Thuỷ gởi đến khuyên nhủ, Tố Tâm đành chịu lấy cậu Tú B.
Lấy chồng nhưng bị bệnh nặng, lại bị chồng phát hiện ra những bức thư mà
nàng và Đạm Thuỷ đã qua lại trước ngày cưới, Tố Tâm đã thú nhận và trả
lời rõ ràng tình yêu của nàng và Đạm Thuỷ. Rồi Tố Tâm qua đời sau 36
ngày lên xe hoa.
Tố Tâm để lại cho Đạm Thủy một hộp kỷ vật, trong đó có cuốn nhật ký của
nàng. Đọc nhật ký, Đạm Thuỷ vô cùng thương xót, hối hận mà thành bệnh.
Sau được anh trai kịp thời khuyên bảo, an ủi nên quyết tâm học hành, và
vẫn giữ trong lòng mối tình nồng nàn, cao thượng với Tố Tâm.
“Tố Tâm” được ra đời trong thời điểm xã hội Việt Nam có nhiều đổi thay,
với những cuộc đấu tranh gay gắt giữa hai khuynh hướng tân tiến và bảo
thủ, giai cấp tư sản và tiểu tư sản phát triển, lối sống của lớp trí thức thị dân
ngày càng Tây phương hoá. Do đó, họ cũng mang những quan niệm mới về
tự do, tự do trong đời sống, tự do trong tình yêu. Nó đã đối lập hoàn toàn
với nề nếp đạo lý phong kiến. Những mối quan hệ cha – con, vợ - chồng,
anh – em đã từng bước bị những làn gió mới của xã hội tác động vào. Từ sự
tiếp nhận dè dặt lối sống và nền văn minh đô thị ấy, “Tố Tâm” đóng vai trò
là tác phẩm mở đường cho “những mũi nhọn thăm dò đầu tiên trong mối
quan hệ yêu đương nam nữ thanh niên” lúc giờ.
Trong giai đọan xã hội mà “chuyện hạnh phúc lứa đôi hoàn toàn phụ thuộc
vào quyền cha mẹ, sự tiếp xúc của nam nữ trong xã hội còn bị hạn chế, tình
yêu nam nữ gắn liền với nghĩa vụ hơn là niềm vui và hạnh phúc thì Tố Tâm
và Đạm Thuỷ đã tìm đến với nhau” ( Hà Minh Đức)
Tố Tâm đem lòng yêu Đạm Thuỷ từ khi còn chưa biết mặt chàng “em chưa
biết người, biết mặt, em chỉ xem văn chương, tính tình, tư tưởng của anh


mà em yêu”. Lúc này đây tình yêu mà Tố Tâm dành cho Đạm Thuỷ như cái
tình dành cho nhau của những kẻ tri âm tri kỷ, hiểu rất rõ về nhau, nàng đọc
văn Đạm Thuỷ dù không đọc tên thì cũng biết được, dù xem không hiểu hết

ý “ nhưng cứ đọc giọng văn anh lên là em đủ biết, sao anh hợp tâm lý của
em làm vậy”.
Tố Tâm từ yêu văn đã đến yêu người, nàng yêu Đạm Thuỷ từ chỗ mến mộ
cái tài năng của Đạm Thuỷ, từ lúc trộm nhớ thầm mong đến khi gặp gỡ ý
hợp tâm đầu.
Còn về phần Đạm Thủy, chàng cũng si tình như thế, một chàng trai trí thức
Tây học lại giỏi văn chương, mến Tố Tâm ngay từ ánh nhìn đầu tiên.Thấy
được ý thích và khiếu văn chương của nàng, Đạm Thủy đã tận tình chỉ dẫn,
“ tôi hay đem những ý tưỏng Tân học mà giảng cho nàng”. Từ đó, hai người
như thân nhau hơn, từ mến mộ cái tài, hai người đã trở nên quyến luyến.
“tôi với nàng thường hay đàm luận về văn chương và thế sự”. Tình yêu của
Đạm Thủy và Tố Tâm là như thế đấy. Đó là một thứ tình yêu trong trắng
như đóa hoa ban giữa rừng tỏa hương thơm ngát. Trong lòng của đôi trai gái
yêu nhau ấy vẫn không khi nào vượt qua “khỏi vòng huynh đệ”, dù cho lửa
tình có chợt nhiên nhóm sáng cũng phải cố gắng mà nén xuống ngay chứ
không dám để lộ cho nhau biết. Yêu nhau, Tố Tâm và Đạm Thủy cùng giữ
ý cho nhau mà cách nhau một bức tường ngăn “nàng thì còn e mình là con
nhà nề nếp, vả phận đào tơ phải giữ ngọc gìn vàng…lương tâm tôi vẫn có
cái e lệ tự nhiên, tôi còn thích làm một ông anh, trong lòng còn có một cái
thú của người thích điều quảng đại đem lòng nam tử mà che chở cho người
yếu ớt hơn mình”.
Và “thứ tình yêu thầm mong trộm nhớ” cũng phải tự nó mà bộc lộ rõ ra khi
bản thân Đạm Thủy và Tố Tâm cảm thấy mình sống mà không thể thiếu
nhau được. Cái bức tường ngăn cách mà hai người đã tự tạo ra dường như
đang ngày càng thấy “lỡ dần ra”: “lắm lúc tôi thấy lý thuyết của tôi nghĩ ra
để giữ được vững bền thì tương lai bị lý thuyết khác của lòng đánh đổ”, khi
làm việc gì “quá bạo” thì Đạm Thủy lại tìm ngay cái lẽ phải để mà tự thứ
lỗi cho mình, “áp đặt” cho chính lòng Tố Tâm cũng như lòng mình “Tôi
chắc lòng nàng cũng như vậy, nhưng nàng không dám lấn mạnh như tôi.”
Chính vì yêu, Đạm Thủy đã không dám ngỏ lời với Tố Tâm vì không muốn

mình đa mang tội lỗi với người mình yêu, vì “cha mẹ đã định cho tôi một
nơi đi lại đã ba năm nay, chỉ đợi xong việc nhà trường là lo bề gia thất”.


Tố Tâm lại càng đau khổ hơn khi yêu mà không dám ngỏ, biết nhớ biết
thương nhưng chẳng thể làm gì vì người mình yêu đã “định bề gia thất”.
Nhưng thử hỏi một đôi trai gái quen nhau, lại hợp tính tình nhau, mến mộ
nhau làm vậy mà lòng thì cũng chẳng “vướng bịu nơi nào”, trái lại “ để gần
nhau luôn”, gặp nhau luôn thì làm sao có thể tránh khỏi sinh tình luyến ái.
Là một đôi nam nữ tân tiến, Tố Tâm và Đạm Thủy đã tự tìm đến với nhau,
tự do yêu nhau.
Tố Tâm được sống theo lối mới, được học chữ Tây, được tự do tiếp xúc với
báo chí, tự do tiếp xúc với bạn bè khác giới. Nhưng rồi nàng vẫn phải ôm
mối hận tình mà chết, bởi phải sống trong một gia đình còn giữ nề nếp gia
phong. Mà Đạm Thủy thì cũng không thể làm trái ý cha mẹ mình trong việc
hôn nhân. Biết lòng đương rất yêu Tố Tâm nhưng Đạm Thủy vẫn nghe theo
“lẽ phải” mà quên nàng. Không những thế còn làm cho Tố Tâm đừng yêu
chàng nữa “xét cho kỹ thì bởi lòng tôi yêu nàng một cách chân thực, thủy
chung nên tâm trí tôi mới đánh nhau cả ngày như vậy”, Đạm Thủy luôn tìm
cách để gợi cho Tố Tâm thất vọng mà tìm cách xa chàng. Cuộc đấu tranh ấy
phải trải qua một sự giằng xé đau đớn lắm “ tôi viết rồi lại xé…ba lần mới
xong bức thư…tôi ôm đầu đến hàng giờ”. Nghĩ lòng người cũng thật là kỳ
lạ!
Nhưng ở đời cái gì ta càng cố né tránh bao nhiêu, cố tạo khoảng cách bao
nhiêu thì lại càng dễ phải đối mặt với nó bấy nhiêu, nhất là tình yêu, giữa
Tố Tâm và Đạm Thủy cũng như vậy, “dù muốn nhận làm anh em hay bè
bạn, muốn nói những thứ tình viễn vông đâu cũng là ảo tưởng cả”. Đạm
Thủy càng cố tạo ra khoảng cách để trốn tránh tình cảm của mình, cố làm
cho người mình yêu đừng yêu mình thì càng làm cho khoảng cách vô hình
tự tạo ra càng có nguy cơ tan biến một cách nhanh chóng. Đó là sức mạnh

của ái tình, mà chính Đạm Thủy cuối cùng cũng phải thốt lên rằng: “Thôi !
từ nay bức tường ngăn giữ ngày trước của hai bên đã đạp đỗ đi rồi”.
Chính cái tâm trạng nửa vời từng giây từng phút gặm nhấm tâm hồn Đạm
Thủy luôn băn khoăn tự hỏi “sao người bảo yêu không yêu, người không
cho phép yêu lại yêu” ấy như thế mới là trái ngang, cái trái ngang trong sự
bướng bỉnh khó bảo của con tim một kẻ đang yêu bởi “ cái yêu cái ghét ở
trong lòng người ta mà hình như ở đâu đưa đến ta không thể bảo được, mà
cũng không ai bảo được… Cho nên đã yêu là yêu, đã ghét là ghét, lắm lúc


muốn lấy lại tấm lòng mà không được, có lúc biết điều phiền mà vẫn bắt
mình làm…”.
“Tình luyến ái đó sẽ có ảnh hưởng to lớn cho cuộc đời hai đứa chúng tôi.
Nhưng bây giờ thì không sao ngăn được nữa, trong cách dẹp ái tình không
gì dở bằng đương đằm thắm mặn nồng mà đem ngăn lại, không gì vô ích
bằng giảng đạo đức”. Quả đúng như vậy, Đạm Thủy càng cố che giấu thì
cái quyến luyến vì ái tình càng dễ bộc lộ ra. Nay lần mai lỡ rồi đến khi mà
không thể rời nhau được nữa, Tố Tâm đã tự viết thư bộc lộ tâm tình với
Đạm Thủy.
Hoàng Ngọc Phách đã tạo cho nhân vật của mình một chỗ đứng hoàn toàn
khác, hoàn toàn mới mẻ trong “giới” văn chương nước nhà lúc bấy giờ, Tố
Tâm đã vượt qua cái e lệ kín đáo của người con gái gia giáo mà tỏ cái tình
của mình cho người yêu biết; nhưng nói đúng hơn, Tố Tâm đang góp phần
giảm bớt áp lực tinh thần cho Đạm Thủy.
Là một cô gái mới của lớp trí thức Tây học song Tố Tâm không thuộc loại
nữ lưu tân tiến mà mạnh dạn tiến công vào đạo lý cũ, vào luân lý phong
kiến cổ hũ vẫn còn phảng phất tàn dư trong xã hội lúc giờ, Tố Tâm yêu
Đạm Thủy một tình yêu trong sáng “em hạ bút viết thư này cho anh nghĩ
cũng tủi nhưng lòng em thực, tình em ngay, nên em nói hết với anh…em
yêu anh bởi tâm tình tự nhiên, em biết yêu là yêu, còn những chuyện đời

dính dáng xung quanh anh em không thể nghĩ đến”. Không phải vô tình, Tố
Tâm hoàn toàn ý thức được suy nghĩ, tình cảm và việc làm của chính mình.
Nàng hiểu, nàng không thạo lẽ đời nhưng với tâm trạng như bao tâm trạng
của kẻ đang yêu, Tố Tâm không thể làm chủ được trái tim của mình, nàng
yêu Đạm Thủy cũng chỉ tại vì yêu mà thôi chứ không hề có lý do gì khác. .
Những sự “xô xát” trong tâm lý nhân vật làm cho người đọc phải xót xa,
ngậm ngùi.
Với tình yêu mãnh liệt ẩn giấu sau sức mạnh tiềm tàng đã giúp Tố Tâm
vươn lên “giành lấy hạnh phúc” cho mình. Tuy vậy, Tố Tâm vẫn phải âm
thầm chịu đựng bao nỗi xót xa tủi cực “em buồn vì cuộc đời của em là đời
vẩn vơ, ái tình của em là ái tình vô hi vọng”.
Biết yêu Đạm Thủy là tự mang vào mình sự đớn đau; thế nhưng,Tố Tâm
vẫn “giữ vững nhất quán” cái mối tình mà nàng dành cho người yêu “em
thật lòng với anh mới viết đến những thư này”. Tố Tâm lại thường khẳng
định tình yêu của mình rằng “em đã yêu anh thì không thể yêu ai được nữa,


mà cũng không muốn yêu ai. Đã không yêu thì không lấy…”. Lúc này, Tố
Tâm cũng như Đạm Thủy đều nhận ra rằng ý nghĩa cuộc sống chẳng còn là
gì nữa nếu họ phải chia lìa xa cách “thư từ không thể làm cho nguôi được
nhớ thương, phải gặp nhau, phải trông thấy nhau, phải cùng nhau trò
chuyện để nghe tiếng cười tiếng nói của nhau mới yên dạ”.
Nhưng, vốn kiến thức tân thời vẫn không thể nào đánh lùi được dòng tư
tuởng Nho gia đã ăn sâu vào lòng người, Đạm Thủy coi cái lệ “cha mẹ đặt
đâu con ngồi đấy” hiển nhiên là một lẽ phải, là phận làm con thì phải theo
lời cha mẹ. Đối với chàng, “người mà nhà đã định cho, đó chỉ có kính mà
chưa yêu,… lòng kính đó là do cái kính với gia quyến mà ra. Tôi coi người
sẽ tính cuộc trăm năm kia như một báu vật của nhà sẽ ban cho tôi, trong
chàng cái tình gia quyến là mạnh mẽ vô cùng không gì có thể đánh đổ được
“phàm những việc gì thuộc về gia quyến đều thiêng liêng cả”. Đạm Thủy

như bước vào con đường cùng của sự lựa chọn nên theo hay nên bỏ?. Như
vậy ta đã thấy được sức mạnh của những ràng buộc trong luân lý đạo đức
phong kiến đã tồn tại như thế nào trong tư tưởng người dân trong xã hội
đương thời.
Thảm thương thay cho mối tình của một đôi trai tài gái sắc. Ngay trong thời
kỳ đấu tranh quyết liệt để giành lấy tình yêu thì ở Tố Tâm và Đạm Thủy đã
thấy sự có mặt của những dấu hiệu tiên đoán cái điều không may giữa họ sẽ
đến bất cứ lúc nào. Đó chính là cái lễ, là cái cung cách, là lối xử sự mà hai
người đối đãi với nhau, sống trong môi trường thành thị, Tố Tâm vẫn không
theo lối sống đua chen phù hoa của đô thành, nàng vẫn bít khăn tua đen,
vẫn đi xe bánh sắt, vẫn thường mời Đạm Thủy miếng trầu để “mở đầu câu
chuyện”. Nàng cũng rất giữ cái khoảng cách nghĩa cũ “có khi cả gan nghĩ
đến chuyện tính cách gặp anh…nhiều lúc em muốn viết thư cho anh để tiếp
chuyện…nhưng nhi nữ đâu đã dám làm lối tối tân ấy”. Còn hành động của
Đạm Thủy khi chinh phục Tố Tâm cũng hoàn toàn hợp với suy nghĩ, tâm lý
của một anh con trai trí thức Tây học vẫn luôn muốn khẳng định mình với
người khác phái, vẫn hả hê khi chiếm được lòng người đẹp nhưng rốt cuộc
vẫn phải quy phục cường quyền phong kiến, viết thư khuyên người yêu nên
nghe theo chữ hiếu mà giữ gìn, lấy điều hiếu mà hành động, đem tình yêu
và hạnh phúc của mình đẩy vào vòng số phận may rủi của nhân gian “em
phải sớm liệu mà vâng lời những lời giáo huấn để yên chuyện gia đình…
sinh ra gái mưa sa làm phận, rủi may âu cũng sự trời…một mình em ở đời


như chiếc bách giữa dòng, chống sao cho nổi những khi mưa sa gió táp, chi
bằng em theo cái lệnh đặt đâu ngồi đấy là hơn”. Chính những điều đó đã
làm nên bi kịch tình yêu trong cuộc đời của Tố Tâm – Đạm Thủy. Tố Tâm
phải ngậm ngùi lên xe hoa vui duyên mới với kẻ nàng không yêu, nhớ
thương tình cũ lâm bệnh mà qua đời, ôm nặng mối hận tình yêu dang dở.
Một Đạm Thủy tài hoa, sống trong cảnh hối hận muộn màng, thương xót

cảnh người xưa mà sinh bệnh. Qua đó ta thấy được “sự tầm thường của luân
lý nước nhà vì nó mà một vị giai nhân phải giã thế từ trần để lại một bậc tài
tử phải sống mà nuốt lệ” (Thiếu Sơn).
Hoàng Ngoc Phách đã để cho Đạm Thủy và Tố Tâm gằng co giữa hai con
đường: một là chạy theo tình yêu, hai là chấp nhận cái đạo đức phong kiến
lễ giáo mà quên nhau. Đạm Thủy khuyên Tố Tâm đi lấy chồng để nàng
đựoc vẹn chữ hiếu mà chàng được giữ chữ tín, nhưng lòng thì vẫn không
muốn rời xa Tố Tâm “Tôi tiếc nàng, tiếc vì đóa hoa yêu quý của tôi mà lại
rơi vào tay người khác…rồi tôi sợ nàng quên tôi mà không muốn buông
nàng ra nữa…nếu nàng quên tôi thì tôi giận nàng lắm, thành ra khi nghe
chuyện gì dính dáng đến việc cưới nàng…thì tôi không thể chịu được”.
Nhưng rồi cả hai đều đem tình yêu ra mà đặt trước chữ hiếu để cân nhắc,
chọn lựa.
Cả hai đều có những giấc mơ yêu đương đầy chất lãng mạn, tự do, cùng
mạnh dạn đến với nhau qua những lần hò hẹn, gặp nhau trên bãi biển trước
cảnh trời nước mênh mông hay những miền quê với nhiều cảnh chùa chiền.
Họ cũng đã từng nghĩ đến việc đem nhau đi trốn ở một nơi “thâm sơn cùng
cốc, hay góc bể chân trời nào không ai biết để cùng nhau hưởng cuộc ái ân
trăm năm. Thế mà cuối cùng họ cũng để cho tình gia quyến đánh đỗ. Như
thế mới biết, người “người tuân thủ đạo đức truyền thống đã không có hạnh
phúc trong chế độ đại gia đình phong kiến, mà người muốn sống hết mình
cho tự do cũng không thể đón nhận hạnh phúc trong tình yêu. Cả đôi đường
đều không thể trọn vẹn, con người đều bị lâm vào bế tắc”. Đó là kết quả của
tình trạng lưỡng phân, giao thời của xà hội đương thời. Ở đây, cái tôi tư sản
đã được đặt bên cạnh lễ giáo phong kiến. Cũng chính vì vậy mà trong một
hoàn cảnh khá phức tạp và căng thẳng, khi bị chồng bắt được lá thư của
Đạm Thủy gửi cho Tố Tâm, Tố Tâm vẫn bình tĩnh và chân thật trả lời “tôi
được làm bạn với cậu là bởi đôi bên bác mẹ bằng lòng mà cũng ân xưa
nghĩa cũ của hai nhà đi lại…tôi xin thưa thực cùng cõi lòng tôi đưa gửi cho



Đạm Thủy đã ba bốn năm nay rồi, chỉ vì một chuyện riêng mà hai bên
không thể kết duyên được. Tôi về hầu cậu là bởi tôi vâng lời mẹ tôi lúc vạn
tử nhất sinh, tôi thương mẹ tôi không dám trái lời thành để thiệt đến cậu…
Tôi cũng biết là tôi có lỗi nhưng cậu là người có học thức hẳn cậu cũng biết
nỗi éo le của lòng người, tôi vẫn muốn quên những chuyện xưa để xử với
cậu cho đôi đường trọn vẹn, thôi thì hầu hạ cậu như một người tôi tớ không
dám nghĩ đến tình nghĩa vợ chồng cho trọn một đời tôi. Tôi chỉ khiến được
lòng kính trọng mà không khiến được lòng yêu. Lòng tôi thực thì xin cứ
thực mà thưa. Nếu cậu hiểu được khuất tình của tôi, cho tôi là một thiếu nữ
quá chung tình thì tôi xin cảm lòng, nếu xét theo lối thường đời cho là một
gái nguyệt hoa thì tôi cũng vâng chịu”. Đây là một trong những đoạn văn
hay nhất của Tố Tâm, con người từ tốn và hiểu biết, tấm lòng chung tình và
chân thật của Tố Tâm đã bộc lộ rõ qua những câu nói tuyệt vọng mà vẫn
thẳng thắn, vững vàng.
Cái kết cục bi thương của một tác phẩm thực là khó chấp nhận trong dư
luận xã hội đương thời lúc bấy giờ. Đó là một mối tình nằm ngoài khuôn
phép đạo đức dẫn đến cái chết đau thương chưa đền đáp được công ơn cha
mẹ; Hoàng Ngọc Phách vô cùng mạnh dạn khi đi theo con đường mới này
mà dũng cảm đưa vào “Tố Tâm” những cải cách tân tiến vô cùng mới mẽ,
mới trong cả tư tưởng lẫn tình cảm của những đôi nam nữ yêu nhau lúc này.
Về Tố Tâm, ông xem nàng như là người thiếu nữ chung tình, tính tình đằm
thắm, biết chịu thiệt mình, là một hạng người ít có thật đáng quý mà cũng
thật đáng thương, “tính tình ấy dùng vào đâu cũng là bậc trên cả, đem dùng
vào nhà thì thành con hiếu, đem dùng với nước thì thành tôi ngay, đem
dùng vào cảnh vợ chồng đẹp đôi thì thành vợ thuận tức là mẹ hiền. Nhưng
tiếc thay! Chỉ vì quá mơ màng những ngoài vòng đời, đã lỡ lầm vào một
cuộc tình ái nên việc đời chênh lệch mà thành như mây tan, như khói tỏa
mà lại không được ích gì, cảnh huống ấy, bọn thanh niên nên lưu ý”. Lời
căn dặn ấy dường như đã được ông kết hợp nhuần nhuyễn vào cảm nghĩ của

chính nhân vật của mình, đó là những trang nhật ký, những lời nhắn gửi của
Tố Tâm dành cho Đạm Thủy “em xin nhắn với những cô thiếu nữ cùng một
tính tình như em đừng theo em mà đi vào một lối. Muốn hưởng cuộc ái ân
đằm thắm trong cảnh vợ chồng thì tìm lấy mà biết sự thực ở đời, những
chuyện viễn vông mơ màng toàn là thứ ruợu ngọt, ngon thơm mà rất công


phạm, nhấp vào thì ngà ngà say, trong người thấy nhẹ nhàng, phấn chấn,
nhưng dần dần đốt cháy hết ruột gan người.
Dù có nói gì đi chăng nữa, thì quả thực thì “Tố Tâm” có cứng mới đứng đầu
gió”. Nếu như ở truyện Kiều của Nguyễn Du chỉ là tiếng kêu đau thương,
khát khao quyền sống, quyền hạnh phúc của con người thì đến Tố Tâm,
Hoàng Ngọc Phách đã khẳng định một cách rõ ràng về vị trí cá nhân, quyền
sống của con người trước uy quyền còn khá kiên cố của lễ giáo phong kiến
khắc nghiệt. “Tố Tâm” đã lên tiếng báo hiệu thời đại mới đã bắt đầu, con
người được quyền sống với tư cách là con người cá nhân của mình.
Tuy còn nhiều hạn chế, song chúng ta phải đặt Tố Tâm vào đúng vị trí của
nó ngay những năm 30 đầu thế kỷ XX mà soi xét và phân biệt rạch ròi.
Sự kết hợp giữa hai yếu tố cũ và mới trong hai phương diện nội dung và
nghệ thuật đã làm nên một “Tố Tâm” hoàn toàn mới mẻ và tân tiến, mang
nhiều yếu tố pha tạp giữa giá trị truyền thống và hiện đại.
Là một tác phẩm được sáng tác bằng phương pháp lắp ghép nghệ thuật viết
văn của nhà nho với nghệ thuật sáng tác của người nghệ sĩ hiện đại với lối
văn tiểu thuyết, kết cấu mới, kết thúc không có hậu,… “Tố Tâm” đã thực sự
trở thành một cuốn tiểu thuyết vang bóng một thời. Trong Văn học Việt
Nam thì nó xứng đáng là một cuốn tiểu thuyết lãng mạn đầu tiên, nó đã đặt
nền móng cho sự phát triển của tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ mới, đánh dấu
bước phát triển trong văn xuôi từ thời kỳ cận đại sang hiện đại.
2. Nhân vật Tố Tâm
― Tên thật là Nguyễn Thị Xuân Lan, là con gái của quan án.

― Là người giỏi thêu thùa, bánh trái nhưng tính tình hơi kiêu một chút. Có
cách cư xử, ăn nói lễ phép, dịu dàng nhưng vẫn ngụ một cái ý ngạo đời.
― Tố Tâm là biệt hiệu được Đạm Thủy đặt để khi kí tên cho tiện. Tố Tâm
có nghĩa là các loài hoa lan. Trong lòng hoa trắng.
― Tố Tâm dần nảy sinh tình cảm với Đạm Thủy qua thơ văn do Đạm Thủy
sáng tác và khi Đạm Thủy về nhà của Tố Tâm.
― Tuy nhiên, cuộc tình này có kết thúc bi đát. Hai người không đến được
với nhau.
+ Đạm Thủy đươc cha mẹ mai mối cho một người ở quê chờ khi học
xong sẽ về cưới.
+ Tố Tâm vì thương mẹ không muốn làm mẹ buồn vì bà đang bệnh
nặng mà đồng ý lấy chồng.


Vì trong người đang bệnh, cộng thêm uất ức, tương tư, nhớ Đạm Thủy mà
bệnh ngày càng nặng và Tố Tâm mất.
3. Nhân vật Đạm Thủy
― Tên thật là Lê Thanh Vân, lúc trước học Cao đẳng.
― Là người khá nổi tiếng trong học đường. Có sở thích văn chương,

đọc sách. Thích các loại sách triết học, tâm lý học, xã hội học…
― Vì trog một lần mất ví mà tới trình quan, được quan tiếp đãi nồng
hậu. Sau đó, anh được gọi lên chỗ chị của quan là bà Án nhận lại ví.
Từ đó mà thân với cậu Tân con bà Án.
― Nhờ cùng niềm say mê văn chương mà Đạm Thủy phải lòng
Nguyễn Thị Xuân Lan là chị của Tân. Sau đó anh đặt biệt hiệu cho
cô là Tố Tâm.
― Yêu nhau mà không đến được với nhau, cộng với việc mất đi người
yêu thương, anh thương tiếc mà sinh bệnh.
― Nhưng rồi nhờ có sự an ủi của anh trai mà anh cố gắng quyết tâm

học hành lòng giữ hai điều thiêng liêng: công danh sự nghiệp và
mối tình nồng nàn, cao thượng với Tố Tâm.
III. Nghệ thuật
― Tiểu thuyết Tố Tâm thành công ở nghệ thuật miêu tả. Đó là nghệ thuật khắc
họa tâm lý nhân vật. Mọi trạng thái tâm lý đều có cơ sở, có quá trình hình
thành hợp lý. Để gặp và yêu ngay Tố Tâm, tiềm thức của Đạm Thủy đã lưu
giữ gương mặt ấy ngay từ nhà quan huyện. Còn Tố Tâm đáp lại ngay chân
tình của Đạm Thủy, bởi nàng, vì yêu thơ, mà đã từng yêu người trong
mộng,...
― Đó còn là nghệ thuật miêu tả thiên nhiên. Cảnh thiên nhiên trong Tố Tâm lần
lượt hiện lên vô cùng sống động và rực rỡ. Thiên nhiên trong tác phẩm được
khắc họa bằng ngòi bút tả chân tài hoa. Nó thoát khỏi mớ công thức tả cảnh
ước lệ, đăng đối như ở một số truyện ngắn thời này. Cảnh thiên nhiên ít nhiều
đã được cá thể hóa. Nhà văn tả thiên nhiên không phải chỉ để tả tình. Thiên
nhiên xuất hiện như một lối thoát cho những tâm hồn lãng mạn. Các nhân vật
tìm đến thiên nhiên như để nối kết lại trường giao cảm giữa những tâm hồn
lãng mạn đang quá cô đơn, đang bị ý thức hệ phong kiến cầm tù. Tố Tâm
thực sự khai phá một không gian mới, khoáng đạt, mở hướng cho các tác
phẩm sau này xây dựng nên những hình tượng thiên nhiên đầy quyến rũ.


― Tiểu thuyết Tố Tâm đạt thành công nhất định ở phương diện ngôn ngữ và
nghệ thuật kể chuyện. Trong Tố Tâm, nhiều hình thức tổ chức ngôn ngữ được
sử dụng: đối thoại giữa các nhân vật, độc thoại nội tâm, ngôn ngữ người kể
chuyện… Nhìn chung, ngôn ngữ trong Tố Tâm là một thứ ngôn ngữ chải
chuốt, giàu cảm xúc, đầy chất trữ tình, chất thơ,... Nó mang đặc điểm của
ngôn ngữ tiểu thuyết lãng mạn. Ra đời lúc quốc văn còn trong thời kỳ phôi
thai, trình độ tiểu thuyết còn thấp kém, có được một trình độ diễn đạt như thế,
Tố Tâm đáng được ghi nhận công lao làm giàu chữ quốc ngữ.
― Phần nghệ thuật kể chuyện trong Tố Tâm cũng đáng được đề cao. Dù hầu hết

được kết nối qua những đoạn văn, lá thư... nhưng tác phẩm vẫn thừa sức lôi
cuốn, làm say mê người đọc từ đầu đến cuối truyện.
IV. Tổng kết
Nếu như ở truyện Kiều của Nguyễn Du chỉ là tiếng kêu đau thương, khát khao
quyền sống, quyền hạnh phúc của con người thì đến Tố Tâm, Hoàng Ngọc
Phách đã khẳng định một cách rõ ràng về vị trí cá nhân, quyền sống của con
người trước uy quyền còn khá kiên cố của lễ giáo phong kiến khắc nghiệt. “Tố
Tâm” đã lên tiếng báo hiệu thời đại mới đã bắt đầu, con người được quyền
sống với tư cách là con người cá nhân của mình.
Sự kết hợp giữa hai yếu tố cũ và mới trong hai phương diện nội dung và nghệ
thuật đã làm nên một “Tố Tâm” hoàn toàn mới mẻ và tân tiến, mang nhiều yếu
tố pha tạp giữa giá trị truyền thống và hiện đại.
Là một tác phẩm được sáng tác bằng phương pháp lắp ghép nghệ thuật viết văn
của nhà nho với nghệ thuật sáng tác của người nghệ sĩ hiện đại với lối văn tiểu
thuyết, kết cấu mới, kết thúc không có hậu,… “Tố Tâm” đã thực sự trở thành
một cuốn tiểu thuyết vang bóng một thời. Sau khi tiểu thuyết này ra đời đã dấy
lên phong trào say mê tìm đọc của thanh niên, học sinh Việt Nam vào thời
điểm ấy. Đây cũng là cuốn tiểu thuyết có số lần tái bản kỷ lục lên tới hàng mấy
chục lần. Trong Văn học Việt Nam thì nó xứng đáng là một cuốn tiểu thuyết
lãng mạn đầu tiên, nó đã đặt nền móng cho sự phát triển của tiểu thuyết Việt
Nam thời kỳ mới, đánh dấu bước phát triển trong văn xuôi từ thời kỳ cận đại
sang hiện đại.



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×