MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
1.1. Lý do chọn đề tài 1
1.2. Mục tiêu nghiên cứu 3
1.2.1. Mục tiêu tổng quát 3
1.2.2. Mục tiêu cụ thể 3
1.3. Ý nghĩa của đề tài 3
1.3.1. Ý nghĩa khoa học 3
1.3.2. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài 3
Chương 1 TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 4
1.1. Quan điểm nhận thức về Đa dạng sinh học 4
1.2. Tính cấp thiết về vấn đề bảo vệ Đa dạng sinh học 6
1.3. Tình hình nghiên cứu trên Thế giới 8
1.3.1. Nghiên cứu về đa dạng phân loại 8
1.3.2. Đa dạng về hệ sinh thái và thảm thực vật 10
1.3.3. Nghiên cứu về yếu tố địa lý cấu thành hệ thực vật 11
1.3.4. Nghiên cứu về phổ dạng sống 12
1.4. Tình hình nghiên cứu tại Việt Nam 13
1.4.1. Đa dạng về phân loại 13
1.4.2. Đa dạng về hệ sinh thái và thảm thực vật 15
1.4.3. Nghiên cứu về yếu tố địa lý cấu thành hệ thực vật 16
1.4.4. Nghiên cứu về phổ dạng sống của hệ thực vật 19
1.5. Những nghiên cứu tại VQG Xuân Sơn 21
1.6. Tổng quan khu vực nghiên cứu 23
1.6.1. Vị trí địa lý 23
1.6.2. Địa hình – địa mạo 23
1.6.3. Khí hậu – thủy văn 24
1.6.4. Các nguồn tài nguyên 26
1.6.5. Thực trạng môi trường 28
1.6.6. Thực trạng phát triển kinh tế - xã hội 28
Chương 2 NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 32
i
2.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 32
2.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu 32
2.3. Nội dung nghiên cứu 32
2.4. Phương pháp nghiên cứu 33
2.4.1. Phương pháp kế thừa 33
2.4.2. Phương pháp điều tra 33
2.4.3. Phương pháp xử lý số liệu 34
Chương 3 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 42
3.1. Tính đa dạng về thành phần cây gỗ 42
3.1.1. Đa dạng ở mức độ ngành 42
3.1.2. Đa dạng ở mức độ họ 43
3.1.3. Đa dạng ở mức độ chi 45
3.2. Đa dạng về dạng sống 46
3.3. Đa dạng về yếu tố địa lý 48
3.3.1. Đa dạng về yếu tố địa lý ở mức độ họ 48
3.3.2. Đa dạng về yếu tố địa lý ở mức độ chi 50
3.3.3. Đa dạng về yếu tố địa lý ở mức độ loài 51
3.4. Đa dạng về giá trị sử dụng 53
3.5. Tính đa dạng về quần xã cây gỗ 57
3.5.1. Các kiểu thảm thực vật trong vùng nghiên cứu 58
3.5.2. Tính đa dạng của cây gỗ trong một số quần xã thực vật 61
3.6. Các loài cây gỗ quý hiếm 64
3.7. Đề xuất một số biện pháp bảo tồn nhóm cây gỗ 67
3.7.1. Những nguyên nhân gây suy thoái đa dạng nhóm cây gỗ 67
3.7.2. Một số biện pháp bảo tồn 68
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 71
KẾT LUẬN 71
TỒN TẠI 72
KIẾN NGHỊ 72
TÀI LIỆU THAM KHẢO 74
ii
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ CỤM TỪ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt Nội dung
BQL : Ban quản lý
BTTN : Bảo tồn thiên nhiên
D
1,3
(cm) : Đường kính ngang ngực
ĐDSH : Đa dạng sinh học
ĐVT : Đơn vị tính
Hvn
(m) : Chiều cao vút ngọn
ÔTC : Ô tiêu chuẩn
Ôdb
PCCC
QLBVR
: Ô dạng bản
Phòng cháy chữa cháy
Quản lý bảo vệ rừng
THCS : Trung học cơ sở
UBND : Ủy ban nhân dân
VQG : Vườn quốc gia
iii
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1 Bảng danh lục các loài thực vật 35
Bảng 2.2: Các giá trị của loài trong OTC 41
Bảng 3.1: Phân bố của các taxon trong các ngành của cây gỗ tại xã Xuân Sơn 42
Bảng 3.2: Bảng thống kê họ cây gỗ có từ 5 loài trở lên 44
Bảng 3.3: Bảng thống kê các chỉ số về số lượng loài/chi của cây gỗ 45
Bảng 3.4: Bảng thống kê các chi cây gỗ có từ 3 loài trở lên 45
Bảng 3.5: Thống kê phổ dạng sống của cây gỗ thuộc nhóm cây chồi trên 46
Bảng 3.6: Bảng các yếu tố địa lý các họ cây gỗ tại Xuân Sơn 49
Bảng 3.7: Bảng các yếu tố địa lý các chi cây gỗ tại Xuân Sơn 50
Bảng 3.8: Bảng các yếu tố địa lý các loài cây gỗ tại Xuân Sơn 51
Bảng 3.9: Đa dạng về giá trị của hệ thực vật tại khu vực nghiên cứu 54
Bảng 3.10: Danh sách các họ có loài cây thuộc nhóm cây làm thuốc 55
Bảng 3.11: Danh sách các họ có loài thuộc nhóm cây ăn quả 56
Bảng 3.12: Danh sách các họ có loài thuộc nhóm cây làm cảnh 57
Bảng 3.13: Hệ thống các ô tiêu chuẩn trong các trạng thảm thực vật 61
Bảng 3.14: Danh sách các loài cây gỗ quí hiếm tại xã Xuân Sơn 65
iv
DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 3.1. Biểu đồ sự phân bố của các taxon cây gỗ trong ngành 43
Hình 3.2: Biểu đồ phổ dạng sống của cây gỗ tại Xuân Sơn 47
Hình 3.3: Biểu đồ phổ các yếu tố địa lý của các loài cây gỗ tại Xuân Sơn 53
Hình 3.4: Biểu đồ các nhóm công dụng của cây gỗ tại khu vực nghiên cứu 54
v
MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
Rừng là một bộ phận quan trọng không thể thiếu của môi trường sinh thái.
Ngoài những giá trị to lớn trên, hàng năm nghành Lâm nghiệp cũng đóng góp
một phần không nhỏ cho nền kinh tế quốc dân, rừng luôn gắn liền với đời sống
của nhân dân cùng sự sống còn của tất cả các loài vật trên trái đất. Tuy nhiên,
trong những năm gần đây diện tích rừng trên thế giới nói chung và Việt Nam nói
riêng đang bị suy giảm một cách nhanh chóng, nguyên nhân chủ yếu là do con
người sử dụng nguồn tài nguyên rừng không hợp lý.
Đứng trước những hiểm họa do việc mất rừng gây ra, trong những năm
gần đây Đảng và Nhà nước ta đã thay đổi, bổ sung nhiều chính sách nhằm bảo
vệ nguồn tài nguyên vô cùng quý giá này. Năm 1962 Chính phủ Việt Nam đã
quyết định thành lập Vườn quốc gia đầu tiên ở nước ta đó là VQG Cúc
Phương. Đây chính là cơ sở cho việc thành lập và phát triển hệ thống các Khu
BTTN trên cả nước. Tới nay ( 8/2010) đã có 126 khu bảo tồn được thành lập
trong đó có 27 Vườn quốc gia. Đây là một bước ngoặt quan trọng nhằm bảo
tồn đa dạng sinh học ở Việt Nam [5]. Trong đó đáng quan tâm nhất là nguồn
tài nguyên cây gỗ.
Cho đến nay đã có nhiều nghiên cứu về nhóm cây gỗ, trong đó đáng chú
ý là các nghiên cứu về tính chất cơ lý nhằm phục vụ cho công tác chế tác, sử
dụng trong các lĩnh vực khác nhau, nhất là trong xây dựng. Các nghiên cứu về
tính đa dạng nhằm thống kê, đánh giá giá trị của tập đoàn cây gỗ trong các
vùng, các khu vực sinh thái phục vụ cho việc thiết kế kinh doanh rừng, trong
đó đáng chú ý nhất là các nghiên cứu về tái sinh tự nhiên, cấu trúc rừng, xây
dựng các mô hình rừng chuẩn…
Mặc dù có nhiều nghiên cứu đã thực hiện nhưng các nghiên cứu thường
chỉ tập trung ở một lĩnh vực nhất định, phục vụ cho mục đích của từng ngành
1
nghề trong khai thác rừng. Điều đó dẫn đến nhiều loài hay nhiều nguồn tài
nguyên chứa đựng trong nhóm cây gỗ còn chưa được khám phá, trong khi rất
nhiều nhóm, loài đang ngày càng bị mất đi do khai thác của con người.
Vườn quốc gia (VQG) Xuân Sơn được thành lập theo Quyết định số
49/2002/QĐ-TTg, ngày 17/4/2002 của Thủ tướng Chính phủ, là một trong 30
VQG có trên lãnh thổ Việt Nam, là địa bàn không những có vị trí quan trọng
về an ninh quốc phòng, mà còn là hành lang giao lưu phát triển kinh tế nối liền
vùng Tây Bắc và Đồng bằng Bắc Bộ. Với diện tích tự nhiên là 33.687 ha bao gồm
vùng lõi là 15.048 ha và vùng đệm là 18.639 ha trong đó diện tích rừng núi đá vôi
chiếm khoảng 10%, độ che phủ chiếm 60,5%. VQG Xuân Sơn nằm trong dãy núi
liên hoàn phía Đông Nam của dãy Hoàng Liên Sơn, là lá phổi xanh của Phú Thọ,
là rừng đầu nguồn của sông Bứa và các chi lưu của sông Đà, sông Hồng. VQG
Xuân Sơn có nhiều hang động nổi tiếng, là vùng rừng núi có nhiều cảnh quan tự
nhiên đa dạng kỳ thứ, làm nền tảng cho sự hình thành phát triển các nguồn tài
nguyên thiên nhiên, trong đó có Đa dạng sinh học. Đến nay chưa có cuốn sách
nào viết về đa dạng sinh học và bảo tồn nguồn gen tại VQG Xuân Sơn.
Xã Xuân Sơn thuộc VQG Xuân Sơn tỉnh Phú Thọ là một xã có thảm
thực vật phong phú và đa dạng, nhưng cho đến này đã bị suy thoái và bị phá
hủy, trong khi công tác điều tra đánh giá và thống kê tài nguyên thực vật còn
chưa được thực hiện. Tại đây có nguồn thực vật rất đa dạng nhưng chưa có
nghiên cứu nào thống kê một cách cụ thể tính đa dạng cây gỗ tại đây. Đặc biệt
xã Xuân Sơn nằm trong vùng lõi thuộc khu bảo tồn nghiêm ngặt của VQG
Xuân Sơn. Xuất phát từ thực tế tôi tiến hành thực hiện đề tài “Nghiên cứu
tính đa dạng cây gỗ và góp phần đề xuất một số biện pháp bảo tồn tại xã
Xuân Sơn thuộc Vườn Quốc gia Xuân Sơn tỉnh Phú Thọ”. Với mục đích
phục vụ điều tra đánh giá hiện trạng nhóm cây gỗ nhằm cung cấp những
thông tin phục vụ cho công tác bảo tồn và phát triển bền vững.
2
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1. Mục tiêu tổng quát
Góp phần bổ sung những dẫn liệu về đa dạng sinh học phục vụ cho công
tác bảo tồn tại Vườn quốc gia Xuân Sơn, tỉnh Phú Thọ.
1.2.2. Mục tiêu cụ thể
Xác định được tính đa dạng của cây gỗ, vai trò của cây gỗ trong hệ sinh
thái rừng, đề xuất giải pháp nhằm quản lý, bảo tồn các loài cây gỗ tại vùng
nghiên cứu.
1.3. Ý nghĩa của đề tài
1.3.1. Ý nghĩa khoa học
Thảm thực vật rừng có ý nghĩa quan trọng trong việc phòng hộ và bảo vệ
cảnh quan, đặc biệt đối với các khu bảo tồn. Trong các thành phần của rừng,
cây gỗ là yếu tố quyết định sự phát sinh và hình thành các kiểu rừng, đồng
thời là yếu tố đảm bảo cho tính đa dạng sinh vật của một hệ sinh thái rừng.
Nghiên cứu tính đa dạng cây gỗ là cơ sở khoa học cho việc bảo tồn tính đa
dạng sinh học cũng như bảo vệ nguồn gen trong hệ sinh thái.
1.3.2. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
- Góp phần xây dựng chiến lược bảo vệ đa dạng sinh học, bảo vệ
các hệ sinh thái rừng và cảnh quan tại xã Xuân Sơn nói riêng và VQG
Xuân Sơn nói chung.
- Đánh giá tiềm năng đa dạng sinh học và các yếu tố khác của cây gỗ tại
khu vực nghiên cứu phục vụ cho công tác bảo vệ, bảo tồn và khai thác sử
dụng hợp lý phục vụ cho phát triển kinh tế xã hội tại địa phương và các vùng
lân cận.
3
Chương 1
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Quan điểm nhận thức về Đa dạng sinh học
Trên thế giới đa dạng sinh học đã được nghiên cứu từ lâu, tuy nhiên phải
đến những năm 1990 của thế kỷ 20 vấn đề này mới thực sự trở nên cấp thiết
và thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà khoa học và nhiều quốc gia.
Cho đến nay có nhiều khái niệm (định nghĩa) về ĐDSH đã được đưa ra.
Theo Quỹ Bảo tồn Thiên nhiên Thế giới (WWF, 1990) [21] ĐDSH là sự
phồn thịnh của cuộc sống trên trái đất, là hàng triệu loài thực vật, động vật và
vi sinh vật, là những gen chứa đựng trong các loài và là những hệ sinh thái vô
cùng phức tạp cùng tồn tại trong một môi trường. Như vậy, ĐDSH được xem
xét ở cả 3 mức độ: ĐDSH ở mức độ gen là sự khác nhau giữa các loài, giữa
các quần thể sống cách ly nhau về địa lý cũng như giữa các cá thể cùng chung
sống trong một quần thể. ĐDSH ở mức độ loài là gồm toàn bộ các sinh vật
sống trên trái đất, từ vi khuẩn đến các loài động, thực vật và các loài nấm.
ĐDSH ở mức độ hệ sinh thái là sự khác nhau của các loài giữa các hệ sinh
thái, nơi mà các loài cũng như các quần xã sinh vật tồn tại.
Trong bản Công ước về bảo tồn ĐDSH được thông qua tại hội nghị
thượng đỉnh tại Rio de Janeiro (Braxin, 1992) [9] định nghĩa “ĐDSH là tính
khác biệt, muôn hình muôn vẻ về cấu trúc, chức năng và các đặc tính khác
giữa các sinh vật ở tất cả mọi nguồn bao gồm hệ sinh thái trên đất liền và các
hệ sinh thái dưới nước”.
Ở trong nước theo Nguyễn Nghĩa Thìn (1997) [33] "ĐDSH là toàn bộ
các dạng sống khác nhau của cơ thể sống trên trái đất gồm các sinh vật phân
cắt đến động, thực vật ở trên cạn cũng như dưới nước, từ mức độ phân tử
AND đến các quần thể sinh vật kể cả xã hội loài người. Ông cho rằng khoa
học nghiên cứu về tính đa dạng đó gọi là ĐDSH”.
4
Trong cuốn "Kế hoạch hành động đa dạng Việt Nam", (1995) [9] đưa ra
định nghĩa: "ĐDSH là tập hợp tất cả các nguồn sống trên hành tinh chúng ta,
bao gồm tổng số các loài động, thực vật, tính đa dạng phong phú trong từng
loài, tính đa dạng của các hệ sinh thái trong các cộng đồng sinh thái khác
nhau hay là tập hợp của các loài sống ở các vùng khác nhau trên thế giới với
các hoàn cảnh khác nhau". Trong định nghĩa này tác giả đã đề cập đến mức
độ đa dạng ở mức độ loài và hệ sinh thái, nhưng chưa đề cập đến mức đa
dạng gen (đa dạng di truyền).
Theo từ điển đa dạng sinh học và phát triển bền vững [15]: ĐDSH là
thuật ngữ dùng để mô tả sự phong phú và đa dạng của giới tự nhiên. Đa dạng
là sự phong phú của mọi cơ thể sống từ mọi nguồn, trong các hệ sinh thái trên
đất liền, dưới biển và các hệ sinh thái dưới nước khác và mọi tổ hợp sinh thái
mà chúng tạo nên.
Các nhà khoa học của Viện Tài nguyên gen và thực vật quốc tế IPGRI
[42] cho rằng: Đa dạng sinh học là sự biến dạng trong cơ thể sống và các
phức hệ sinh thái mà chúng sống.
Như vậy, trên thế giới cũng như ở trong nước có nhiều định nghĩa khác
nhau về ĐDSH. Tuy có khác nhau nhưng đa số các tác giả đều thống nhất cho
rằng ĐDSH là sự khác biệt hay tính muôn hình muôn vẻ của thế giới sinh vật
trên toàn trái đất và được thể hiện ở 3 mức độ như sau:
- Đa dạng ở mức độ di truyền: Mỗi loài sinh vật và thậm chí trong một cá
thể của loài đều có phân tử AND đặc trưng cho loài. Tính đặc trưng này được
thể hiện qua số lượng và trình tự sắp xếp các nucleotit trong phân tử AND, qua
hàm lượng trong nhân tế bào và tỷ lệ giữa các cặp bazơ A+T/G+X. Trật tự các
nu trong các gen có liên quan đến qui định các tính trạng và các đặc tính cơ thể.
Trong quá trình tiến hóa của sinh vật từ thấp đến cao, hàm lượng AND trong
các tế bào cũng được tăng lên. Đó là sự biểu hiện của đa dạng gen [31]
5
- Đa dạng mức độ loài: Là phạm trù chỉ mức độ phong phú về số lượng
các loài hoặc số lượng phân loài (loài phụ) trên trái đất, ở một vùng địa lý,
trong một quốc gia hay một sinh cảnh nhất định. Loài là một nhóm cá thể
khác biệt với các nhóm cá thể khác về mặt sinh học và sinh thái. Các cá thể
trong loài có vật chất di truyền (giao phối, giao phấn) với nhau và các thế hệ
con cái hữu thụ (có khả năng sinh sản tiếp). Vì vậy, tính đa dạng loài hoàn
toàn bao trùm tính đa dạng di truyền và thường được coi trọng nhất khi đề
cập đến tính ĐDSH.
- Đa dạng ở mức độ sinh thái: Thể hiện bằng sự khác nhau của các kiểu
quần xã sinh vật tạo nên. Quần xã sinh vật được xác định bởi các loài sinh vật
trong một sinh cảnh nhất định cùng các mối quan hệ qua lại giữa các cá thể
trong loài và giữa các loài với nhau. Quần xã sinh vật cũng quan hệ với môi
trường vật lý tạo thành một hệ sinh thái. Hệ sinh thái là một cấu trúc và chức
năng sinh quyển bao gồm các quần xã động, thực vật, các quần xã vi sinh vật,
thổ nhưỡng (đất) và các yếu tố khí hậu. Các thành phần này liên hệ với nhau
thông qua các chu trình vật chất và năng lượng (chu trình sinh địa hoá). Cao
hơn nữa, định nghĩa này đã đề cập đến xã hội loài người đó là đa dạng các
loại hình văn hoá dân tộc. Đây là một quan điểm mới được đề cập đến mang
tính nhân đạo và sự công bằng xuất phát từ đạo đức, đó chính là câu trả lời
cho một phần của câu hỏi vì sao phải bảo tồn ĐDSH.
1.2. Tính cấp thiết về vấn đề bảo vệ Đa dạng sinh học
Rừng là tài nguyên thiên nhiên vô cùng quý giá của trái đất nói chung và
của mỗi quốc gia nói riêng. Ngoài chức năng cung cấp những lâm sản phục
vụ nhu cầu của con người, rừng còn có chức năng bảo vệ môi trường sinh thái
và rừng là nơi lưu giữ các nguồn gen động thực vật phục vụ cho cho các hoạt
động sản xuất nông lâm nghiệp. Rừng có được những chức năng đó là nhờ có
đa dạng sinh học. ĐDSH là một trong những nguồn tài nguyên quí giá nhất, vì
nó là cơ sở của sự sống còn, thịnh vượng và tiến hoá bền vững của các loài
6
sinh vật trên hành tinh chúng ta. Nhưng hiện nay dân số thế giới tăng, nhu cầu
về lâm sản tăng dẫn đến khai thác rừng quá mức và không khoa học làm cho
diện tích rừng bị suy giảm nghiêm trọng kéo theo suy giảm ĐDSH. Chính vì
vậy loài người đã, đang và sẽ phải đứng trước một thử thách, đó là sự suy
giảm về ĐDSH dẫn đến làm mất trạng thái cân bằng của môi trường kéo theo
là những thảm họa như lũ lụt, hạn hán, lở đất, gió bão, cháy rừng, ô nhiễm
môi trường sống, các căn bệnh hiểm nghèo… xuất hiện ngày càng nhiều. Tất
cả các thảm họa đó là hậu quả, một cách trực tiếp hay gián tiếp của việc suy
giảm ĐDSH.
Việt Nam được coi là một trong những trung tâm ĐDSH của vùng Đông
Nam Á. Từ kết quả nghiên cứu về khoa học cơ bản trên lãnh thổ Việt Nam,
nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước đều nhận định rằng Việt Nam là một
trong 10 quốc gia ở Châu Á và một trong 16 quốc gia trên thế giới có tính
ĐDSH cao do có sự kết hợp của nhiều yếu tố.
Tuy nhiên, tài nguyên rừng Việt Nam đã và đang bị suy thoái nghiêm
trọng do nhiều các nguyên nhân khác nhau như nhu cầu lâm sản ngày càng
tăng, việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất, khai thác quà mức, không đúng
kế hoạch, chiến tranh,… Theo số liệu mà Maurand P công bố trong công trình
“Lâm nghiệp Đông Dương” thì đến năm 1943 Việt Nam còn khoảng 14,3
triệu ha rừng tự nhiên với độ che phủ là 43,7% diện tích lãnh thổ [44]. Quá
trình mất rừng xảy ra liên tục từ năm 1943 đến đầu những năm 1990, đặc biệt
từ năm 1976 -1990 diện tích rừng tự nhiên giảm mạnh, chỉ trong 14 năm diện
tích rừng giảm đi 2,7 triệu ha, bình quân mỗi năm mất gần 190 ngàn ha
(1,7%/năm) và diện tích rừng giảm xuống mức thấp nhất là 9,2 triệu ha với độ
che phủ 27,8% vào năm 1990 (Trần Văn Con, 2001). Việc mất rừng, độ che
phủ giảm, đất đai bị suy thoái do xói mòn, rửa trôi, sông hồ bị bồi lấp, môi
trường bị thay đổi, hạn hán lũ lụt gia tăng, ảnh hưởng lớn đến mọi mặt đời
sống của nhiều vùng dân cư. Mất rừng còn đồng nghĩa với sự mất đi tính đa
dạng về nguồn gen động thực vật.
7
Theo thống kê chính thức năm 2004, diện tích rừng đã tăng lên 12,3 triệu
ha với độ che phủ 37,3%, và đến tháng 12 năm 2007 diện tích rừng Việt Nam
đã tăng lên 12,8 triệu ha với độ che phủ 38,2%. Nhưng hơn hai phần ba diện
tích rừng của Việt Nam là rừng nghèo hoặc rừng đang phục hồi, trong khi đó
rừng giàu và rừng kín năm 2000 chỉ chiếm 3,4% và năm 2004 chiếm 4,6%
tổng diện tích rừng. Hầu như ở các vùng thấp không còn các khu rừng với
tính đa dạng còn nguyên vẹn.
VQG Xuân Sơn được nhân dân Phú Thọ coi là lá phổi xanh của tỉnh bởi
lẽ cả tỉnh giờ đây chỉ còn Xuân Sơn là nơi có rừng tốt và giàu nhất. Theo kết
quả điều tra bước đầu của một số cơ quan (Viện Điều tra Quy hoạch Rừng,
Trường Đại học Lâm nghiệp, Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật, Trường
Đại học Sư phạm Hà Nội), VQG Xuân Sơn có giá trị cao về đa dạng sinh học,
trong đó có nhiều loài động, thực vật quý hiếm đang bị đe dọa ở mức quốc gia
và toàn cầu. Nhưng những nghiên cứu về tầng cây gỗ tại xã Xuân Sơn và một
số nội dung quan trọng chưa được thực hiện một cách có hệ thống, đó là đánh
giá đa dạng sinh học về các taxon phân loại một cách chính xác, yếu tố địa lý
cấu thành hệ thực vật, công dụng và mức độ nguy cấp của các loài để từ đó đưa
ra các biện pháp bảo tồn thích hợp. Để góp phần đánh giá tính đa dạng cây gỗ,
làm cơ sở cho công tác bảo tồn và sử dụng hợp lý tài nguyên cây gỗ trên vùng
nghiên cứu, tôi chọn đề tài: “Nghiên cứu tính đa dạng cây gỗ và góp phần đề
xuất một số biện pháp bảo tồn tại xã Xuân Sơn thuộc VQG Xuân Sơn tỉnh
Phú Thọ”.
1.3. Tình hình nghiên cứu trên Thế giới
1.3.1. Nghiên cứu về đa dạng phân loại
Cho đến nay, vấn đề đa dạng sinh vật và bảo tồn nguồn tài nguyên đã trở
thành chiến lược trên toàn thế giới. Đã có nhiều tổ chức quốc tế ra đời với
mục tiêu nhằm hướng dẫn, giúp đỡ và tổ chức việc đánh giá, bảo tồn và phát
triển đa dạng sinh vật trên phạm vi toàn cầu như: Hiệp hội Quốc tế Bảo vệ
8
Thiên nhiên ( IUCN ), Chương trình Môi Trường Liên hợp quốc ( UNEP ),
Quỹ quốc tế về bảo vệ thiên nhiên ( WWF ), Viện Tài nguyên Di truyền Quốc
tế ( IPGRI ),… Loài người muốn tồn tại lâu dài trên hành tinh này thì phải
xây dựng chiến lược phát triển một cách bền vững. Bởi nhu cầu cơ bản và sự
sống còn của con người phụ thuộc vào các nguồn tài nguyên tự nhiên của
trái đất, nếu những tài nguyên đó bị mất đi hoặc giảm sút thì cuộc sống
của chúng ta và con cháu của chúng ta sẽ bị đe doạ nghiêm trọng. Chúng
ta đã quá lạm dụng tài nguyên của trái đất mà không nghĩ đến các thế hệ
tương lai, nên ngày nay loài người đang đứng trước những hiểm họa khôn
lường. Để tránh sự huỷ hoại các nguồn tài nguyên chúng ta phải tôn trọng
quy luật tự nhiên.
Vì vậy tháng 6 năm 1992 Hội nghị thượng đỉnh bàn về môi trường và đa
dạng sinh vật được tổ chức tại Rio de Janeiro ( Brazil ) có 150 nước ký vào
Công ước về đa dạng sinh vật và bảo vệ chúng. Từ đó nhiều hội thảo dược tổ
chức nhằm thảo luận và có nhiều cuốn sách mang tính chất chỉ dẫn ra đời.
Năm 1990 WWF đă cho xuất bản cuốn sách nói về tầm quan trọng về đa dạng
sinh vật ( The importance of biological diversity ) hay IUCN, IUNEP và
WWF (1996) [21] đưa ra chiến lược bảo tồn thế giới ( Wold conservation
strategy ). Năm 1991 Wri, Wcu, WB, WWF xuất bản cuốn bảo tồn đa dạng
sinh vật thế giới ( conserving the World’s biological diversity ) hoặc IUCN,
IUNEP và WWF (1996) [21] xuất bản cuốn “Hãy quan tâm tới trái đất”
( Caring for the earth ). Cùng năm Wri, IUCN và UNEP xuất bản cuốn chiến
lược đa dạng sinh vật và chương trình hành động. Tất cả các cuốn sách đó
nhằm hướng dẫn và đề ra các phương pháp để bảo tồn ĐDSH, làm nền tảng
cho công tác bảo tồn và phát triển tương lai.
Trên thế giới những nghiên cứu về thành phần loài đã được tiến hành từ
khá lâu. Ở Liên Xô (cũ) có các nghiên cứu của Vưsotxki (1915), Alokhin
(1904), Craxit (1927), Sennhicốp (1933), Creepva (1978)… Theo các tác giả
9
thì mỗi vùng sinh thái khác nhau sẽ hình thành những kiểu thảm thực vật khác
nhau. Sự khác biệt này được thể hiện bởi thành phần loài, nhóm dạng sống,
cấu trúc và động thái của thảm thực vật [29].
Longchun và cộng sự (1993), nghiên cứu về đa dạng thực vật ở hệ sinh
thái nương rẫy tại Xishuang Bana tỉnh Vân Nam Trung Quốc đã nhận xét:
Khi nương rẫy bỏ hoá được 3 năm thì có 17 họ, 21 chi, 21 loài; bỏ hoá 19
năm thì có 60 họ, 134 chi và 167 loài [37].
1.3.2. Đa dạng về hệ sinh thái và thảm thực vật
- Có rất nhiều tác giả khác nhau đưa ra những lý luận riêng của mình về
phân loại rừng phục vụ cho đánh giá về đa dạng sinh thái. Mỗi lý luận đều
đưa ra những cách thức phân loại riêng theo mục đích của tác giả như:
+ Phân loại rừng dựa theo cấu trúc và ngoại mạo: Đây là hướng cổ điển được
nhiều tác giả áp dụng như A. F. Schimper (1903), A. Aubréville (1949),
UNESCO (1973) [47],… cơ sở phân loại của xu hướng này thường là đặc điểm
phân bố, dạng sống ưu thế, cấu trúc tầng thứ và một số đặc điểm hình thái khác
của quần xã thực vật.
Thảm thực vật (vegetation) là khái niệm rất quen thuộc, có nhiều nhà
khoa học trong và ngoài nước đưa ra các định nghĩa khác nhau. Thái Văn
Trừng (1978) [38] cho rằng thảm thực vật là các quần hệ thực vật phủ trên
mặt đất như một tấm thảm xanh. Trần Đình Lý (1998) [27] cho rằng thảm thực
vật là toàn bộ lớp phủ thực vật ở một vùng cụ thể hay toàn bộ lớp phủ thảm thực
vật trên toàn bộ bề mặt trái đất. Thảm thực vật là một khái niệm chung chưa chỉ
rõ đối tượng cụ thể nào. Nó chỉ có ý nghĩa và giá trị cụ thể khi có định nghĩa
kèm theo như: Thảm thực vật cây bụi, thảm thực vật rừng ngập mặn…
H.G. Champion (1936) [14] khi nghiên cứu các kiểu rừng Ấn Độ - Miến
Điện đã phân chia 4 kiểu thảm thực vật lớn theo nhiệt độ đó là: Nhiệt đới, Á
nhiệt đới, Ôn đới và núi cao.
10
J. Beard (1938) đưa ra hệ thống phân loại gồm 3 cấp (quần hợp, quần hệ
và loạt quần hệ). Kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra rằng rừng nhiệt đới có 5 loạt
quần hệ: Loạt quần hệ rừng xanh từng mùa; loạt quần hệ khô thường xanh;
loạt quần hệ miền núi; loạt quần hệ ngập từng mùa và loạt quần hệ ngập
quanh năm.
Maurand (1943) [44] nghiên cứu về thảm thực vật Đông Dương đã chia
thảm thực vật Đông Dương thành 3 vùng: Bắc Đông Dương, Nam Đông Dương
và vùng trung gian. Đồng thời ông đã liệt kê 8 kiểu quần lạc trong các vùng đó.
1.3.3. Nghiên cứu về yếu tố địa lý cấu thành hệ thực vật
Các yếu tố cấu thành nên một hệ thực vật nào đó không chỉ khác nhau về
thành phần phân loại mà còn khác nhau về sự phân bố địa lý, nguồn gốc địa lý
và cả thời kỳ địa chất [33].
Phân tích các yếu tố địa lý thực vật là một trong những yếu tố quan trọng
khi nghiên cứu một hệ thực vật hay bất kỳ một khu hệ sinh vật nào để hiểu
bản chất cấu thành của nó làm cơ sở cho việc định hướng bảo tồn và dẫn
giống vật nuôi, cây trồng Tập hợp các loài của một hệ thực vật có khu phân
bố ít nhiều giống nhau tập hợp lại thành một yếu tố địa lý. Tập hợp tất cả các
yếu tố địa lý của hệ thực vật (tính %) là phổ các yếu tố địa lý của hệ thực vật
đó. Mặc dù vậy, việc nghiên cứu các yếu tố cấu thành của hệ thực vật cũng rất
phức tạp và phải phụ thuộc vào khả năng, ý định của từng tác giả cũng như
nguồn tài liệu cho phép. Việc chia nhóm phân bố phải đảm bảo nguyên tắc mỗi
yếu tố địa lý của hệ thực vật bao gồm tất cả các loài của hệ thực vật đó có khu
phân bố ít nhiều giống nhau. Các yếu tố địa lý này được chia thành 2 nhóm:
Nhóm các yếu tố đặc hữu và nhóm các yếu tố di cư. Các loài thuộc nhóm các
yếu tố đặc hữu thể hiện ở sự khác biệt giữa các hệ thực vật với nhau, còn các
loài thuộc nhóm các yếu tố di cư chỉ ra sự liên hệ giữa các hệ thực vật đó.
11
1.3.4. Nghiên cứu về phổ dạng sống
Dạng sống là một đặc tính biểu hiện sự thích nghi của thực vật với điều
kiện môi trường. Vì vậy, việc nghiên cứu dạng sống sẽ cho thấy mối quan hệ
chặt chẽ của các dạng sống với điều kiện tự nhiên của từng vùng và biểu hiện
sự tác động của điều kiện sinh thái đối với loài thực vật.
I. K. Patsoxki (1915) chia thảm thực vật thành 6 nhóm: Thực vật thường
xanh; thực vật rụng lá vào thời kỳ bất lợi trong năm; thực vật tàn lụi phần trên
mặt đất trong thời kỳ bất lợi; thực vật tàn lụi vào thời kỳ bất lợi; thực vật có
thời kỳ sinh trưởng và phát triển ngắn; thực vật có thời kỳ sinh trưởng và phát
triển lâu năm. G. N. Vưxôxki (1915) chia thực vật thảo nguyên làm 2 lớp:
Lớp cây nhiều năm và lớp cây hàng năm [30].
Raunkiaer (1934) [45] chọn vị trí của chồi nằm ở đầu trên mặt đất trong
suốt thời gian bất lợi trong năm để phân chia dạng sống thực vật. Theo đó có
5 nhóm dạng sống cơ bản như sau:
(1)Phanerophytes (Ph): Nhóm cây có chồi trên mặt đất
a) Cây gỗ lớn cao trên 30m (Mg)
b) Cây lớn có chồi trên đất cao 8 – 30m (Me)
c) Cây nhỏ có chồi trên đất 2 - 8m (Mi)
d) Cây nhỏ có chồi trên đất lùn dưới 2m (Na)
e) Cây có chồi trên đất leo quốn (Lp)
f) Cây có chồi trên đất sống nhờ và sống bám (Ep)
g) Cây có chồi trên đất thân thảo (Hp)
h) Cây mọng nước (Succ)
(2) Chamaetophytes (Ch): Nhóm cây có chồi sát mặt đất
(3) Hemicryptophytes (He): Nhóm cây có chồi nửa ẩn
(4) Cryptophytes (Cr): Nhóm cây có chồi ẩn
(5) Therophytes (Th): Nhóm cây sống 1 năm
12
Tác giả đã tính toán cho hơn 1.000 loài cây ở các vùng khác nhau trên
trái đất và tìm được tỷ lệ % trung bình cho từng loài, gộp lại thành phổ dạng
sống tiêu chuẩn (ký hiệu SN)
Ph Ch Hm Cr Th
46 9 26 6 13
Hay SN = 46 Ph + 9 Ch + 26 Hm + 6 Cr + 13 Th
Khi nghiên cứu hệ thực vật ở một khu vực cụ thể, các tác giả đều phân
chia và sắp xếp các loài thực vật thành các nhóm dạng sống tùy theo tiêu chí
của từng tác giả. Trong số đó thì hệ thống phân của Raunkiaer vừa đảm bảo
tính khoa học vừa dễ áp dụng vì nó dựa trên những đặc điểm cơ bản của thực
vật, nghĩa là dựa trên đặc điểm cấu tạo, phương thức sống của thực vật, đó là
kết quả tác động tổng hợp của các yếu tố môi trường tạo nên.
1.4. Tình hình nghiên cứu tại Việt Nam
1.4.1. Đa dạng về phân loại
Ngay từ thế kỷ XVIII, Việt Nam đã có một số công trình nghiên cứu về
thực của các tác giả người nước ngoài như: Loureiro (1790), Pierre (1879 –
1907), Lecomte (1907) trong cuốn thực vật chí Đại cương Đông Dương và
các tập bổ sung tiếp theo đã mô tả và ghi nhận có khoảng 240 họ với khoảng
7.000 loài thực vật bậc cao có mạch [69]. Theo Phạm Hoàng Hộ (1991 -
1993) [16] hệ thực vật ở Việt Nam có 10.500 loài.
Phan Kế Lộc (1970) đưa ra con số hệ thực vật miền bắc Việt Nam có
5.609 loài thuộc 1660 chi và 240 họ [24]. Cũng tác giả (1998) đưa ra dẫn liệu
cho thấy số loài thực vật bậc cao có mạch đã biết là 9.653 loài, thuộc 2.011
chi, 291 họ. Nếu kể cả 733 loài cây trồng đã được nhập nội thì tổng số loài
thực vật bậc cao có mạch biết được ở Việt Nam đã lên tới 10.386 loài, thuộc
2.257 chi và 305 họ, chiếm 4% tổng số loài, 15% tổng số chi và 57% tổng số
họ của toàn thế giới. Đồng thời cho biết hệ thực vật nước ta gồm các yếu tố
13
của hệ thực vật Indonesia – Malaisia, Nam Trung Hoa, Ấn Độ - Trung và
Nam Tiểu Á.
Nguyễn Tiến Bân (1997) [2] trong cuốn “Cẩm nang tra cứu và nhận biết
các họ thực vật hạt kín ở Việt Nam” đã mô tả khóa phân loại của 265 họ và
khoảng 2.300 chi.
Trong cuốn "Danh lục các loài thực vật Việt Nam" [4] các nhà nghiên
cứu đã đưa ra số liệu thống kê hệ thực vật Việt Nam gồm 368 loài vi khuẩn
lam (Tiền nhân - Procaryota ), 2.200 loài nấm (Fungi), 2.176 loài tảo (Algae),
841 loài rêu (Bryophyta), 1 loài khuyết lá thông (Psilotophyta), 53 loài thông
đất (Lycopodiophyta), 2 loài cỏ Tháp bút (Equisetophyta), 691 loài dương xỉ
(Polipodiophyta), 69 loài hạt trần (Gymnospermae), và khoảng 10.000 loài
(trên 850 taxon dưới loài-phân loài, thứ, dạng, ) hạt kín (Angiospermae), đưa
tổng số loài thực vật Việt Nam lên gần 20.000 loài. Cho đến nay, đây là danh
lục thực vật đầy đủ nhất ở Việt Nam đã được cập nhật tên khoa học, tên đồng
nghĩa cũng như phân bố của chúng ở Việt Nam và trên Thế giới.
Ngoài những công trình trên, còn có nhiều công trình nghiên cứu về hệ
thực vật ở các vùng, khu vực hay các trong cả nước: Phan Kế Lộc (1978)
[24]; Nguyễn Tiến Bân và cộng sự (1983) [3]; Lê Mộng Chân (1994) [7]; Đỗ
Tất Lợi (1995) [26]; Nguyễn Nghĩa Thìn (1997, 1998) [47, 48]
Để phục vụ công tác khai thác tài nguyên Viện Điều tra Quy hoạch Rừng đã
công bố 7 tập Cây gỗ rừng Việt Nam (1971 - 1988) [39]. Trần Đình Lý và
cộng sự (1993) công bố 1.900 cây có ích ở Việt Nam; Võ Văn Chi (1997)
công bố từ điển cây thuốc Việt Nam; Viện Dược liệu (2004) cho ra cuốn cây
thuốc và động vật làm thuốc
Trong vài thập kỷ vừa qua, các nhà khoa học đã bổ sung thêm nhiều
loài mới vào danh sách các loài của Việt Nam, trong đó có một số loài mới
cho khoa học. Trong giai đoạn 1993-2002, có 13 chi, 222 loài và 30 taxon
dưới loài đã được ghi nhận. Có 2 họ, 19 chi và hơn 70 loài được ghi nhận mới
cho hệ thực vật Việt Nam. Trong đó có 3 loài mới cho khoa học thuộc ngành
14
Hạt trần. Tỷ lệ phát hiện loài mới nhiều nhất là họ Lan (Orchidaceae) với 3
chi mới và 62 loài [40].
1.4.2. Đa dạng về hệ sinh thái và thảm thực vật
Về đa dạng quần xã thực vật trên phạm vi cả nước phải kể đến công trình
nghiên cứu nổi tiếng của Thái Văn Trừng (1978) về thảm thực vật Việt Nam .
Dựa trên quan điểm sinh thái phát sinh quần thể, tác giả phân chia thảm thực
vật Việt Nam thành các kiểu phụ, kiểu trái và thấp nhất là các ưu hợp. Trong
các yếu tố phát sinh thì khí hậu là yếu tố phát sinh ra kiểu thực vật, còn các
yếu tố địa lý, địa hình, địa chất, thổ nhưỡng, khu hệ thực vật và con người là
yếu tố phát sinh của các kiểu phụ, kiểu trái và ưu hợp [38].
Đối với mỗi miền đều có những tác phẩm lớn: Ở miền Nam có công
trình thảm thực vật nam Trung Bộ của Schmid (1974). Ngoài điều kiện khí
hậu với chế độ thoát hơi nước khác nhau, các tiêu chuẩn phân biệt các quần
xã là sự phân hoá khí hậu, thành phần thực vật đai cao. Tác giả phân các loài
thuộc về hệ thực vật Malêzi ở đai thấp dưới 600m còn các loài thuộc hệ thực
vật Bắc Việt Nam – Nam Trung Hoa ở đai trên 1200m, từ 600 – 1200m được
coi là đai chuyển tiếp. Ở miền Bắc có công trình của Trần Ngũ Phương (1970)
[30] đã chia các đai trên cơ sở độ cao, sau đó kiểu dựa vào điều kiện địa hình
và tính chất sinh thái, các kiểu khu vực dựa vào thành phần loài thực vật.
Năm 1995, Nguyễn Vạn Thường xây dựng bản đồ thảm thực vật Bắc
Trung Bộ đã chia 4 vùng sinh thái căn cứ vào độ cao so với mặt nước biển: <
700m nhiệt đới ẩm, < 700m là vùng nhiệt đới ẩm có nửa mùa khô, < 700m
hơi khô không có mùa mưa rõ ràng và từ 800 – 1.500m nhiệt đới ẩm. Có thể
nói đó là sơ đồ tổng quát nhất về thảm thực vật Bắc Trung Bộ Việt Nam. Mãi
đến năm 1985, theo cách phân loại mới của UNESCO (1973) Phan Kế Lộc
(1985) [25] đã vận dụng thang phân loại đó để xây dựng thang phân loại thảm
thực vật Việt Nam thành 5 lớp quần hệ, 15 dưới lớp, 32 nhóm quần hệ, 77
quần hệ khác nhau.
15
Đối với các khu bảo tồn: Năm 1995, Nguyễn Nghĩa Thìn và cộng sự đã
nghiên cứu các quần xã thực vật và xây dựng bản đồ thảm thực vật VQG Cúc
Phương, cùng năm đó có một số thông báo của Vũ Văn Dũng về các kiểu
thảm thực vật ở Khu BTTN Vũ Quang của Nguyễn Đức Ngắn, Lê Xuân Ái về
các kiểu thảm thực vật Côn Đảo, Đặng Huy Huỳnh và các cộng sự về các
kiểu thảm thực vật VQG Nam Cát Tiên, Đỗ Minh Tiến về các kiểu thảm thực
vật VQG Tam Đảo, Bùi Văn Định, Cao Văn Sung, Phạm Đức Tiến về các
kiểu thảm thực vật VQG Ba Bể, “Đa dạng thực vật ở khu BTTN Na Hang,
Tuyên Quang” (2006) [36]…
1.4.3. Nghiên cứu về yếu tố địa lý cấu thành hệ thực vật
Thành phần của một hệ thực vật nào đó không chỉ khác nhau về số lượng
mà còn khác nhau về yêu tố địa lý [16].
Phân tích và đánh giá các yếu tố địa lý trước tiên phải kể đến các công
trình của Gagnepain trong tác phẩm “Góp phần nghiên cứu hệ thực vật Đông
Dương”. Theo ông hệ thực vật Đông Dương có các yếu tố sau:
Yếu tố Trung Quốc 33,8%
Yếu tố Xích kim – Himalaya 18,5%
Yếu tố Malaysia và nhiệt đới khác 15,0%
Yếu tố đặc hữu bán đảo Đông Dương 11,9%
Yếu tố nhập nội và phân bố rộng 20,8%
Thái Văn Trừng (1978) [38] cho rằng ở Việt Nam có 3% số chi và 27,5%
số loài đặc hữu. Nhưng khi thảo luận tác giả đã gộp các nhân tố di cư từ Nam
Trung Hoa và nhân tố đặc hữu bản địa Việt Nam làm một và căn cứ vào khu
phân bố hiện tại, nguồn gốc phát sinh của loài đó đã nâng tỷ lệ các loài đặc
hữu bản địa lên 50% (Tương tự 45,7% theo Gagnepain và 52,79% theo Pócs
Tamás), còn yếu tố di cư chỉ chiếm tỷ lệ 39,0% (trong đó từ Malaysia –
Indonesia là 15%, từ Hymalaya – Vân Nam – Qúi Châu là 10% và từ Ấn Độ -
16
Miến Điện là 14%), các nhân tố khác theo tác giả chỉ chiếm 11% (7% nhiệt
đới, 3% ôn đới và 1% thế giới), nhân tố nhập nội vẫn là 3,08%.
Nguyễn Nghĩa Thìn (1999) căn cứ vào các khung phân loại của T. Pócs
(1965) [46] Ngô Chính Dật (1993) [35] đã xây dựng thang phân loại các yếu
tố địa lý thực vật cho hệ thực vật Việt Nam và áp dụng vào cho việc sắp xếp
các chi thực vật Việt Nam vào các yếu tố địa lý như sau:
1. Yếu tố toàn cầu
2. Yếu tố Liên nhiệt đới
2 - 1.Yếu tố Á – Mỹ
2 - 2. Yếu tố Á – Phi – Mỹ
3. Yếu tố cổ nhiệt đới
3 - 1. Yếu tố Á – Úc
3 - 2. Yếu tố Á – Phi
4. Yếu tố nhiệt đới châu Á
4 - 1. Yếu tố Đông Dương – Malêzi
4 - 2. Yếu tố Đông Dương - Ấn Độ
4 - 3. Yếu tố Đông Dương - Himalaya
4 - 4. Yếu tố Đông Dương - Nam Trung Hoa
4 - 5. Yếu tố Đông Dương
5. Yếu tố ôn đới
5 - 1. Yếu tố Đông Á – Nam Mỹ
5 - 2. Yếu tố ôn đới Cổ thế giới
5 - 3. Yếu tố ôn đới Địa Trung Hải
5 - 4. Yếu tố Đông Nam Á
6. Yếu tố đặc hữu Việt Nam
6 - 1. Cận đặc hữu
6 - 2. Yếu tố đặc hữu miền Bắc - Trung
7. Yếu tố cây trồng
17
Từ khung phân loại các yếu tố địa lý đó tác giả và cộng sự đã lần lượt
xác định các yếu tố địa lý thực vật của hệ thực vật một số VQG và Khu
BTTN của nước ta: VQG Bạch Mã (2003), VQG Pù Mát (2004), Khu bảo tồn
thiên nhiên (BTTN) Na Hang (2006).
Nguyễn Đức Ngắn (2004), đưa ra nhận xét cho rằng hệ thực vật VQG
Núi Chúa có quan hệ thân thuộc với Khu hệ thực vật Malaixia - Indonexia,
Khu hệ thực vật Ấn Độ - Miến Điện, Khu hệ thực vật á nhiệt đới và ôn đới
vùng Himalaya - Vân Nam - Quý Châu (Trung Quốc), Khu hệ thực vật Bắc
Việt Nam - Nam Trung Quốc [28].
Từ Minh Tiệp (2000), khi nghiên cứu về hệ thực vật VQG Ba Bể cho
thấy hệ thực vật VQG Ba Bể có yếu tố Nhiệt đới châu Á chiếm tỷ lệ lớn nhất
(61,62%), tiếp đến là yếu tố đặc hữu Việt Nam (chiếm 21,04%), yếu tố nhiệt
đới châu Á - châu Úc và yếu tố chưa xác định mỗi yếu tố đều chiếm 2,79%,
yếu tố cây trồng chiếm 2,42%, tiếp theo là yếu tố liên nhiệt đới (1,60%), còn
lại các yếu tố khác không vượt quá 1% [32].
Nguyễn Gia Lâm (2003) [22], cho rằng hệ thực vật Bình Định gồm
những loài có nguồn gốc phát sinh từ phía Bắc như Họ Dẻ, họ De, họ Chè,
họ Ngọc lan; những loài có nguồn gốc từ phía Nam lên gồm các loài thuộc
họ Dầu, họ Tử vi, họ Gạo, họ Bứa.
Ngô Tiến Dũng và cộng sự (2002) [13], đã nghiên cứu yếu tố địa lý thực
vật của hệ thực vật ở VQG YokĐôn. Kết quả cho thấy Yếu tố toàn cầu (6
loài), Yếu tố liên nhiệt đới (20 loài), Yếu tố nhiệt đới châu Á - Châu Mỹ (6
loài), Yếu tố cổ nhiệt đới (5 loài), Yếu tố nhiệt đới châu Á - châu Úc (20 loài),
Yếu tố nhiệt đới châu Á - châu Phi (9 loài), Yếu tố nhiệt đới châu Á (79 loài);
Yếu tố Đông Nam Á (36 loài); Yếu tố nhiệt đới lục địa châu Á (52 loài); Lục
địa Đông Nam Á (63 loài); Yếu tố bán đảo Đông Dương và Nam Trung Quốc
(71 loài); Yếu tố Đông Dương (41 loài); Yếu tố ôn đới Bắc (không có loài
nào); Yếu tố Đông Á - Bắc Mỹ (2 loài); Yếu tố ôn đới cổ thế giới (không có
18
loài nào); Yếu tố ôn đới Địa Trung Hải - Châu Âu và châu Á (không có loài
nào); Yếu tố Đông Á (12 loài); Yếu tố đặc hữu Việt Nam (27 loài) chiếm
4,77% tổng số loài trong hệ; Yếu tố gần đặc hữu Việt Nam (28 loài); Yếu tố
đặc hữu YokĐôn (43 loài); Yếu tố chưa xác định (46 loài). Tác giả kết luận,
hệ thực vật VQG YokĐôn hoàn toàn mang tính chất nhiệt đới chiếm trên
97%, trong khi các yếu tố ôn đới rất thấp (2,4%). Nổi bật nhất là yếu tố nhiệt
đới châu Á (chiếm 60,4%), tiếp sau là yếu tố đặc hữu (chiếm 17,3%), còn các
yếu tố khác không đáng kể.
1.4.4. Nghiên cứu về phổ dạng sống của hệ thực vật
Dạng sống là một đặc tính biểu hiện sự thích nghi của thực vật với điều
kiện môi trường. Vì vậy, việc nghiên cứu dạng sống sẽ cho thấy mối quan hệ
chặt chẽ của các dạng với điều kiện tự nhiên của từng vùng và biểu hiện sự
tác động của điều kiện sinh thái đối với loài thực vật.
Phổ dạng sống được biểu thị bằng một biểu thức cộng các nhóm dạng
sống (tính theo %). Thông qua phổ dạng sống có thể biết được đặc tính sinh
thái của hệ thực vật và. Đây là cơ sở để thể so sánh về điều kiện sinh thái học
của hệ thực vật ở vùng này với hệ thực vật ở vùng khác.
Một số công trình nghiên cứu về dạng sống ở Việt Nam như: Doãn Ngọc
Chất (1969) nghiên cứu dạng sống của một số loài thực vật thuộc họ Hoà
thảo. Hoàng Chung (1980) thống kê thành phần dạng sống cho loại hình đồng
cỏ Bắc Việt Nam, đã đưa ra 18 kiểu dạng sống cơ bản và bảng phân loại kiểu
đồng cỏ Savan, thảo nguyên [11].
Thái Văn Trừng (1978) cũng áp dụng nguyên tắc của Raunkiaer khi phân
chia dạng sống của hệ thực vật ở Việt Nam [56].
Lê Trần Chấn (1990) khi nghiên cứu hệ thực vật Lâm Sơn tỉnh Hoà Bình
cũng phân chia hệ thực vật thành 5 nhóm dạng sống chính theo phương pháp
của Raunkiaer. Tuy nhiên tác giả đã dùng thêm ký hiệu để chi tiết hoá một số
dạng sống (a: ký sinh; b. bì sinh; c. dây leo; d. cây chồi trên thân thảo). Tác
19
giả không xếp phương thức sống ký sinh, bì sinh vào dạng sống cơ bản mà
chỉ coi đây là những dạng phụ [8].
Phan Nguyên Hồng (1991) [19] khi nghiên cứu hình thái thảm thực
vật rừng ngập mặn Việt Nam đã chia thành 7 dạng sống cơ bản: Cây gỗ
(G), cây bụi (B), cây thân thảo (T), dây leo (L), cây gỗ thấp hoặc dạng cây
bụi (G/B), ký sinh (K), bì sinh (B).
Phạm Hồng Ban (1999) [1] nghiên cứu tính đa dạng sinh học của hệ sinh
thái tái sinh sau nương rẫy vùng Tây Nam Nghệ An, áp dụng khung phân loại
của Raunkiaer để phân chia dạng sống, phổ dạng sống:
SB = 67,40Ph + 7,33Ch + 12,62He + 8,53Cr + 4,09Th
Nguyễn Thế Hưng (2003) khi nghiên cứu dạng sống thực vật trong các
trạng thái thảm thực vật tại Hoành Bồ (Quảng Ninh) đã kết luận: Nhóm cây
chồi trên đất có 196 loài chiếm 60,49% tổng số loài của toàn hệ thực vật;
nhóm cây chồi sát đất có 26 loài chiếm 8,02%; nhóm cây chồi nửa ẩn có 43
loài chiếm 13,27%; nhóm cây chồi ẩn có 24 loài chiếm 7,47%; nhóm cây 1
năm có 35 loài chiếm 10,80% [20].
Ngô Tiến Dũng (2002) [13] nghiên cứu về dạng sống của hệ thực vật ở
VQG Yok Don dựa vào thang phân loại dạng sống của Raunkiaer đã lập được
phổ dạng sống của thực vật Yok Don như sau:
SB = 71,73Ph + 1,41Ch + 7,77He + 4,59Cr + 6Th + 8,48 Chưa xác định
Vũ Thị Liên (2005) [23] phân chia dạng sống thực vật trong thảm thực
vật sau nương rẫy ở Sơn La theo thang phân loại của Raunkiaer. Kết quả phổ
dạng sống như sau:
SB = 69,69Ph + 3,76Ch + 9,29He + 10,84Cr + 6,42Th
Nguyễn Nghĩa Thìn - Nguyễn Thị Thời (1998) [34] khi nghiên cứu đa
dạng thực vật có mạch vùng núi cao Sa Pa - Phan Si Pan, đã xây dựng được
phổ dạng sống căn cứ trên dạng sống của thân cây như: C các loài cây thân
cỏ, Ch-Dl nhóm thân ngầm, đã xác định được 7 nhóm loài cây chính trên
20