Tải bản đầy đủ (.pdf) (116 trang)

Đề xuất một số giải pháp giảm nghèo và hướng tới giảm nghèo bền vững trên địa bàn huyện như xuân, tỉnh thanh hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.1 MB, 116 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP
----------***----------

NGUYỄN ĐÌNH TÚ

ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP GIẢM NGHÈO VÀ
HƯỚNG TỚI GIẢM NGHÈO BỀN VỮNG TRÊN ĐỊA BÀN
HUYỆN NHƯ XUÂN, TỈNH THANH HÓA

LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ

Hà Nội - 2011


i

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng, số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này
là trung thực và chưa được sử dụng để bảo vệ một học vị nào.
Mọi sự giúp đỡ cho việc nghiên cứu đã được cảm ơn và các thông tin chỉ
dẫn trong luận văn đều được chỉ rõ nguồn gốc.
Hà Nội, ngày 31 tháng 10 năm 2011
Tác giả luận văn

Nguyễn Đình Tú



ii

LỜI CẢM ƠN
Sau một thời gian học tập và nghiên cứu, đến nay tôi đã hoàn thành luận
văn Thạc sỹ Kinh tế nông nghiệp với đề tài. Để hoàn thành luận văn này, tôi
đã nhận được sự giúp dỡ tận tình của nhiều cơ quan, nhiều tổ chức và cá
nhân. Tôi xin bày tỏ lời cảm ơn tới tất cả tập thể và các cá nhân đã tận tình
giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu vừa qua.
Trước hết, tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo Khoa Kinh tế và
Quản trị kinh doanh, Khoa Đào tạo sau đại học trường Đại học Lâm nghiệp
Việt Nam. Đặc biệt, xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy TS. Trần Hữu
Dào đã trực tiếp hướng dẫn và tận tình giúp đỡ cho tôi trong suốt thời gian
thực hiện đề tài luận văn.
Tôi xin trân trọng cảm ơn sự giúp đỡ của Sở Nông nghiệp và PTNT, Sở
Kế hoạch - Đầu tư tỉnh Thanh Hóa; UBND huyện Như Xuân, phòng Nông
nghiệp và PTNT, Chi cục Thống kê huyện, phòng Lao động – Thương binh
và Xã hội huyện; Đảng ủy, UBND và cán bộ chuyên môn các xã đã cung cấp
tư liệu, tạo mọi điều kiện giúp đỡ cho tôi trong quá trình thực hiện đề tài.
Một lần nữa xin trân trọng cảm ơn tới tất cả sự chia sẽ, giúp đỡ và động
viên tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu đề tài.
Hà Nội, ngày 31 tháng 10 năm 2011
Tác giả luận văn

Nguyễn Đình Tú


iii

MỤC LỤC
Trang

Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục viết tắt

i

Danh mục bảng biểu

ii

ĐẶT VẤN ĐỀ

01

Chương 1: HỆ THỐNG CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐÓI NGHÈO
VÀ XÓA ĐÓI, GIẢM NGHÈO

03

1.1. Cơ sở lý luận về giảm nghèo và giảm nghèo bền vững

03

1.1.1. Nghèo

03

1.1.2. Giảm nghèo bền vững


17

1.2. Kinh nghiệm xóa đói giảm nghèo trong và ngoài nước

22

1.2.1. Kinh nghiệm của một số nước

22

1.2.2. Kinh nghiệm của một số địa phương

25

1.3. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

27

Chương 2: MỤC TIÊU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU

29

2.1. Mục tiêu nghiên cứu

29

2.1.1. Mục tiêu tổng quát


29

2.1.2. Mục tiêu cụ thể

29

2.2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

29

2.2.1. Đối tượng nghiên cứu

29

2.2.2. Phạm vi nghiên cứu

29


iv

2.3. Nội dung nghiên cứu

29

2.4. Phương pháp nghiên cứu

30

2.4.1. Phương pháp thu thập số liệu


30

2.4.2. Phương pháp xử lý số liệu thống kê

30

2.4.3. Phương pháp dự báo

30

2.4.4. Phương pháp phân tích kinh tế

31

Chương 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

32

3.1. Khái quát các đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội của huyện
Như Xuân, tỉnh Thanh Hóa

32

3.1.1. Điều kiện tự nhiên

32

3.1.2. Tình hình phát triển kinh tế - xã hội


40

3.2. Đánh giá thực trạng đói nghèo và công tác xóa đói giảm
nghèo ở Như Xuân

52

3.2.1. Thực trạng đói nghèo ở huyện

52

3.2.2. Hoạt động xóa đói giảm nghèo ở huyện trong những năm qua

59

3.2.3. Tồn tại, hạn chế và nguyên nhân

66

3.3. Một số giải pháp giảm nghèo và hướng tới giảm nghèo bền
vững trên địa bàn huyện Như Xuân

73

3.3.1. Định hướng giảm nghèo của huyện Như Xuân

73

3.3.2. Một số giải pháp giảm nghèo và hướng tới giảm nghèo bền vững


76

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

103

TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


i

DANH MỤC VIẾT TẮT

BHYT

Bảo hiểm y tế

CNH-HĐH

Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa

PTNT

Phát triển nông thôn

ESCAP

Ủy ban Kinh tế và xã hội của Liên hiệp quốc về
Châu Á và Thái Bình Dương


GDP

Tổng sản phẩm quốc nội

HĐND

Hội đồng nhân dân

HTX

Hợp tác xã

ICOR

Tỷ lệ vốn trên sản lượng tăng thêm

KHHGĐ

Kế hoạch hóa gia đình

KHCN

Khoa học công nghệ

LĐTBXH

Lao động - Thương binh và Xã hội

Nxb


Nhà xuất bản

THCS

Trung học cơ sở

Ths

Thạc sĩ

TNHH

Trách nhiệm hữu hạn

TS

Tiến sĩ

TTCN

Tiểu thủ công nghiệp

TTg

Thủ tướng Chính phủ

UBND

Ủy ban nhân dân


VH-TT-DL

Văn hóa – Thể thao – Du lịch

WB

Ngân hàng Thế giới


ii

DANH MỤC BẢNG BIỂU
Tên bảng biểu

STT

Trang

1.1

Tổng hợp chuẩn nghèo đói được xác định qua các thời kỳ

09

3.1

Diện tích đất phân theo loại đất và xã, thị trấn năm 2010

36


3.2

Tình hình sử dụng đất rừng giai đoạn 2006-2010

37

3.3
3.4
3.5
3.6

Tình hình Dân số trung bình phần theo xã, thị trấn giai đoạn
2006-2010
Giá trị sản xuất các ngành kinh tế, huyện Như Xuân
giai đoạn 2000 - 2010
Tình hình sản xuất nông nghiệp huyện Như Xuân giai đoạn
2006-2010
Máy móc các loại và phương tiện vận tải trong nông thôn –
nông nghiệp giai đoạn 2006-2010

39
42
43
44

3.7

Chỉ tiêu lâm nghiệp giai đoạn 2006-2010


45

3.8

Phân công lao động theo từng lĩnh vực giai đoạn 2006-2010

46

3.9

Tình hình giáo dục - đào tạo của huyện giai đoạn 2006-2010

48

3.10 Y tế, kế hoạch hóa gia đình giai đoạn 2006-2010

50

3.11 Hoạt động văn hóa, phát thanh, truyền hình huyện Như Xuân

51

3.12 Tình hình nghèo đói của huyện Như Xuân giai đoạn 2006-2010

53

3.13 Đời sống của nhân dân huyện Như Xuân giai đoạn 2006-2010

54


3.14

Tổng hợp một số chỉ tiêu kinh tế xã hội huyện Như Xuân giai
đoạn 2005-2010

56

3.15 Công trình đường giao thông hiện có trên địa bàn huyện

69

3.16 Nhu cầu vốn đầu tư phát triển sản xuất của huyện đến năm 2020

77

3.17 Các công trình tưới dự kiến đầu tư trong thời gian tới

84

3.18 Bố trí, xắp xếp ổn định dân cư huyện Như Xuân, đến năm 2015

86

3.19 Cơ cấu, giá trị sản xuất nông nghiệp, giai đoạn 2015-2020

93


1


ĐẶT VẤN ĐỀ
Đói nghèo là vấn đề mang tính toàn cầu, đã và đang diễn ra trên khắp
các châu lục với những mức độ khác nhau và trở thành một thách thức lớn đối
với sự phát triển của từng khu vực, từng quốc gia, dân tộc, từng địa phương.
Đói nghèo không chỉ là vấn đề kinh tế đơn thuần, mà còn là vấn đề chính trị,
xã hội và là một trong những nội dung cơ bản trong phát triển kinh tế bền
vững ở mỗi địa phương, mỗi quốc gia và trên toàn thế giới. Giải quyết tình
trạng đói nghèo là một trong những vấn đề xã hội vừa cơ bản lâu dài, vừa là
nhiệm vụ cấp bách, nhằm bảo đảm phát triển kinh tế bền vững và tiến bộ,
công bằng xã hội. Trong xu thế toàn cầu hoá, sự chênh lệch giàu nghèo ngày
càng gia tăng thì vấn đề giảm nghèo nhanh, giảm nghèo bền vững càng trở
thành nhiệm vụ trọng tâm của cả cộng đồng thế giới.
Ngay từ khi Việt Nam giành độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định
đói nghèo là một thứ “giặc” cũng như giặc dốt, thứ “giặc nội xâm” này nguy
hiểm không kém gì giặc ngoại xâm. Chính vì thế, Hồ Chủ tịch đã phát động
cuộc thi đua ái quốc, kêu gọi toàn dân ra sức tăng gia sản xuất. Ngày nay,
thực hiện mục tiêu giảm nghèo là một chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước ta
nhằm cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của người nghèo, góp phần thu
hẹp khoảng cách chênh lệch về mức sống giữa nông thôn và thành thị, giữa
các vùng, các dân tộc và các nhóm dân cư; đồng thời thể hiện quyết tâm trong
việc thực hiện Mục tiêu thiên niên kỷ của Liên hợp quốc mà Việt Nam đã
cam kết.
Thanh Hoá là tỉnh thuộc khu vực Bắc Trung Bộ, kinh tế chưa phát triển,
điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, hay xảy ra thiên tai, lũ lụt nên đời sống người
dân gặp rất nhiều khó khăn. Xoá đói giảm nghèo, giải quyết việc làm luôn là
nhiệm vụ chính trị quan trọng, là chủ trương lớn, nhất quán của các cấp uỷ
Đảng, chính quyền, các tổ chức đoàn thể chính trị, xã hội ở Thanh Hoá; nhằm


2


cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho người nghèo, thu hẹp khoảng cách
về trình độ phát triển giữa các vùng, địa bàn và giữa các dân tộc, nhóm dân
cư. Thành tựu xoá đói giảm nghèo trong những năm qua đã góp phần tăng
trưởng kinh tế bền vững và thực hiện công bằng xã hội; người nghèo đã bước
đầu có nhận thức đúng để tự vươn lên, biết tận dụng các cơ hội và sử dụng có
hiệu quả sự hỗ trợ của Nhà nước và cộng đồng. Tuy nhiên, kết quả giảm
nghèo chưa vững chắc, tỷ lệ hộ nghèo còn cao so với trung bình cả nước. Sử
dụng tài nguyên thiên nhiên, nhất là đất đai, khoáng sản còn lãng phí. Ô
nhiễm môi trường ở một số cơ sở sản xuất, khu công nghiệp, bệnh viện, trang
trại chăn nuôi, khu dân cư chậm được giải quyết.
Như Xuân là huyện núi cao nằm về phía Tây Nam của tỉnh Thanh Hoá,
là một trong 7 huyện nghèo của tỉnh, thuộc 62 huyện nghèo của quốc gia;
huyện có 11 xã đặc biệt khó khăn, do địa hình hiểm trở, chia cắt, địa bàn rộng,
đồng bào sống phân tán. Tỷ lệ hộ nghèo cao nên đối tượng cần hỗ trợ, đầu tư
nhiều; nhu cầu lớn nhưng nguồn vốn hỗ trợ còn hạn chế nên mục tiêu giảm
nghèo nhanh và bền vững đạt thấp. Là huyện có xuất phát điểm nền kinh tế
thấp, kinh tế vẫn mang tính chất tự cung, tự cấp là chủ yếu, chưa có nhiều sản
phẩm hàng hóa. Kinh tế phát triển chưa vững chắc, đời sống của người dân
cũng gặp nhiều khó khăn; năng suất chất lượng và khả năng cạnh tranh của
một số sản phẩm chưa cao. Do vậy, cần phải có những giải pháp cụ thể giúp
huyện giảm nhanh tỷ lệ nghèo, giảm nghèo bền vững, tạo điều kiện cho người
nghèo phát triển sản xuất, nâng cao đời sống và thu nhập, nhất là đối với các
xã vùng cao, vùng dân tộc thiểu số. Nhằm góp phần giải quyết vấn đề trên,
chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài: “Đề xuất một số giải pháp giảm nghèo
và hướng tới giảm nghèo bền vững trên địa bàn huyện Như Xuân, tỉnh
Thanh Hoá”.


3


Chương 1

HỆ THỐNG CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐÓI NGHÈO
VÀ XÓA ĐÓI, GIẢM NGHÈO
1.1. Cơ sở lý luận về giảm nghèo và giảm nghèo bền vững
1.1.1. Nghèo
1.1.1.1. Khái niệm về nghèo
Việt Nam thừa nhận định nghĩa chung về đói nghèo do Hội nghị chống
đói nghèo khu vực Châu Á - Thái Bình Dương do ESCAP tổ chức tại Băng
Cốc, Thái Lan tháng 9/1993, các quốc gia trong khu vực đã thống nhất cho
rằng: “Nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thỏa
mãn các nhu cầu cơ bản của con người mà những nhu cầu này đã được xã hội
thừa nhận tuỳ theo trình độ phát triển kinh tế - xã hội và phong tục tập quán
của địa phương”[12]. Để đánh giá đúng mức độ nghèo, người ta chia nghèo
thành hai loại: Nghèo tuyệt đối và nghèo tương đối.
Nghèo tuyệt đối là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và
thỏa mãn những nhu cầu cơ bản, tối thiểu để duy trì cuộc sống (nhu cầu về ăn,
mặc, nhà ở, chăm sóc y tế, giáo dục...)
Nghèo tương đối là tình trạng một bộ phận dân cư có mức sống dưới
mức trung bình của cộng đồng tại địa phương, ở một thời kỳ nhất định.
Những quan niệm về đói nghèo nêu trên, phản ánh ba khía cạnh chủ yếu
của người nghèo là: Không được thụ hưởng những nhu cầu cơ bản ở mức tối
thiểu dành cho con người; có mức sống thấp hơn mức sống cộng đồng; thiếu
cơ hội lựa chọn tham gia vào quá trình phát triển của cộng đồng. Vấn đề đói
nghèo ở Việt Nam còn được nghiên cứu ở các cấp độ khác nhau như cá nhân,
hộ gia đình và cộng đồng nên bên cạnh khái niệm nghèo đói, ở nước ta còn có
một số khái niệm sau:



4

Đói là tình trạng của một bộ phận dân cư nghèo có mức sống dưới mức
tối thiểu và thu nhập không đủ đảm bảo nhu cầu về vật chất để duy trì cuộc
sống. Đó là những hộ dân cư hàng năm thiếu ăn, đứt bữa từ một đến hai
tháng, thường vay mượn của cộng đồng và thiếu khả năng chi trả cộng đồng.
Nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư chỉ có điều kiện thoả mãn một
phần của nhu cầu tối thiểu cơ bản của cuộc sống và có mức sống thấp hơn
mức sống trung bình của cộng đồng xét trên mọi phương diện.
Hộ đói là hộ cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, con cái không được
học hành đẩy đủ, ốm đau không có tiền chữa bệnh, nhà ở tạm bợ, rách nát...
Hộ nghèo là hộ đói ăn không đứt bữa, mặc không đủ lành, không đủ ấm,
không có khả năng phát triển sản xuất...
Theo Quyết định số 587/2002/QĐ-LĐTBXH ngày 22/5/2002 của Bộ
trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội về việc ban hành tiêu chí xã
nghèo giai đoạn 2001-2005 [7]; quy định xã nghèo là xã có tỷ lệ hộ nghèo từ
25% trở lên, chưa đủ từ 3 trong 6 hạng mục cơ sở hạ tầng thiết yếu (bao gồm:
đường giao thông; trường học; trạm y tế; nước sinh hoạt; điện sinh hoạt; chợ)
cụ thể là:
- Dưới 30% số hộ sử dụng nước sạch;
- Dưới 50% số hộ sử dụng điện sinh hoạt;
- Chưa có đường ô tô đến trung tâm xã hoặc ô tô không đi lại được cả năm;
- Số phòng học (theo qui định của Bộ Giáo dục- Đào tạo) chỉ đáp ứng
được dưới 70% nhu cầu của học sinh hoặc phòng học tạm bằng tranh, tre,
nứa, lá;
- Chưa có trạm y tế xã hoặc có nhưng là nhà tạm;
- Chưa có chợ hoặc chợ tạm thời.
Hiện tại chưa có quy định cụ thể về huyện nghèo, theo số liệu thống kê
của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đến cuối năm 2006, cả nước có 61



5

huyện (gồm 797 xã và thị trấn) thuộc 20 tỉnh có tỷ lệ hộ nghèo trên 50%.
Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chính sách và dành nhiều nguồn lực để ưu
tiên phát triển vùng này, nhưng mức độ chuyển biến còn chậm, đời sống của
đồng bào dân tộc thiểu số vẫn còn nhiều khó khăn, tỷ lệ hộ nghèo cao gấp 3,5
lần bình quân cả nước.
Vùng nghèo là một vùng liên tục gồm nhiều làng, xã, huyện mà tại đó
chứa đựng nhiều yếu tố khó khăn, bất lợi cho sự phát triển của cộng đồng,
như: đất đai khô cằn, thời tiết khí hậu khắc nghiệt, địa hình phức tạp, giao
thông khó khăn, trình độ dân trí thấp, sản xuất tự cung tự cấp và có mức sống
dân cư trong vùng thấp hơn so với mức sống chung của cả nước.
1.1.1.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến đói nghèo
Đói nghèo do nguyên rất nhiều nguyên nhân gây ra, vì vậy cũng có rất
nhiều yếu tố ảnh hưởng đến đói nghèo. Trong đó phải kể đến một số yếu tố cơ
bản có ảnh hưởng đến đói nghèo của huyện như sau:
a) Đói nghèo do hạn chế của chính người nghèo và gia đình họ
- Gia đình đông con ít lao động: Quy mô hộ gia đình là “mẫu số” quan
trọng có ảnh hưởng đến thu nhập bình quân của các thành viên trong hộ, đông
con vừa là nguyên nhân vừa là hệ quả của đói nghèo.
- Thiếu vốn hoặc không có vốn để kinh doanh, chi tiêu không có kế hoạch.
- Do trình độ học vấn thấp, việc làm thiếu và không ổn định.
- Do bệnh tật sức khoẻ yếu kém và bất bình đẳng giới: Vấn đề bệnh tật
và sức khoẻ kém ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập và chi tiêu của người
nghèo làm họ rơi vào vòng luẩn quẩn của đói nghèo.
- Người nghèo không có khả năng tiếp cận với pháp luật, chưa được bảo
vệ quyề n lợi hợp pháp.



6

- Nguy cơ dễ bị tổn thương do ảnh hưởng của thiên tai và các rủi ro khác:
Các hộ gia đình nghèo rất dễ bị tổn thương bởi những khó khăn hàng ngày và
những biến động bất thường xảy ra với cá nhân, gia đình hay cộng đồng.
b) Nguyên nhân do điều kiện tự nhiên
- Đất đai dùng cho thâm canh cây lúa, diện tích bình quân đầu người thấp.
- Đất đai cằn cỗi, chưa chủ động hoàn toàn về nước.
- Thời tiết khí hậu khắc nghiệt gây khó khăn cho sản xuất. Bão lũ, hạn
hán thường xuyên xảy ra.
- Xa trung tâm kinh tế của tỉnh, giao thông đi lại khó khăn.
c) Các yếu tố xã hội tác động
- Hậu quả của chiến tranh, khủng hoảng kinh tế.
- Nguồn nhân lực hạn chế và nghèo nàn.
- Thủ tục hành chính rườm rà.
- Tệ nạn tham nhũng cao.
- Tác động của các chính sách vi mô, vĩ mô chưa đồng bộ và chưa có
tình hệ thống cao.
- Mạng lưới an sinh xã hội trợ giúp cho các đối tượng yếu thế và người
nghèo chưa phát triển sâu rộng.
1.1.1.3. Tiêu chí xác định chuẩn nghèo
Để có căn cứ xác thực và đề xuất các phương án điều chỉnh chuẩn nghèo
phù hợp với thực tiễn, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chủ trì, phối
hợp với các Bộ, ngành liên quan đánh giá toàn diện việc thực hiện các chính
sách giảm nghèo thời gian qua; rà soát, đề xuất điều chỉnh, bổ sung các chính
sách giảm nghèo mới theo hướng tạo điều kiện để người nghèo phấn đấu, tự
vươn lên, hạn chế tính thụ động, ỷ lại Nhà nước và cộng đồng; đồng thời cần
tính toán, cân đối nguồn lực để thực hiện các cơ chế, chính sách khi chuẩn
nghèo được ban hành.



7

- Giai đoạn 1993-1995:
+ Hộ đói ở khu vực nông thôn có mức thu nhập bình quân đầu người
quy ra gạo là dưới 8kg/người/tháng;
+ Hộ đói ở khu vực thành thị có mức thu nhập bình quân đầu người quy
ra gạo là dưới 13kg/người/tháng;
+ Hộ nghèo ở khu vực nông thôn có mức thu nhập bình quân đầu người
quy ra gạo là dưới 15kg/người/tháng;
+ Hộ nghèo ở khu vực thành thị có mức thu nhập bình quân đầu người
quy ra gạo là dưới 20kg/người/tháng.
- Giai đoạn 1996-1997:
+ Hộ đói là hộ có thu nhập bình quân đầu người quy ra gạo dưới
13kg/người/tháng cho mọi vùng;
+ Hộ nghèo là hộ có thu nhập bình quân đầu người quy ra gạo dưới
25kg/người/tháng đối với khu vực thành thị, dưới 20kg đối với khu vực nông
thôn đồng bằng và dưới 15kg đối với khu vực nông thôn miền núi, hải đảo.
- Giai đoạn 1998-2000: Theo Thông báo số 1751/TB-BLĐTBXH ngày
20/5/1997 của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội quy định như sau: [5]
+ Hộ đói tính cho mọi khu vực có mức thu nhập dưới 13kg gạo tương
ứng với 45.000đ/người/tháng;
+ Hộ nghèo khu vực nông thôn miền núi, hải đảo có mức thu nhập dưới
15kg gạo, tương ứng với 55.000đ/người/tháng;
+ Hộ nghèo khu vực nông thôn đồng bằng, trung du có mức thu nhập
dưới 20kg gạo, tương ứng với 70.000đ/người/tháng;
+ Hộ nghèo khu vực thành thị có mức thu nhập dưới 25kg gạo, tương
ứng với 90.000đ/người/tháng.
- Giai đoạn 2001-2005: Theo Quyết định 1413/QĐ-BLĐTBXH ngày
01/11/2000 của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội thì chuẩn hộ nghèo



8

được điều chỉnh theo chuẩn mức thu nhập bình quân 1 đầu người trong hộ cho
từng vùng như sau: [6]
+ Vùng nông thôn miền núi, hải đảo: 80.000đ/tháng;
+ Vùng nông thôn đồng bằng: 100.000đ/tháng;
+ Vùng thành thị: 150.000đ/tháng.
- Giai đoạn 2006-2010: Theo Quyết định số 170/2005/QĐ-TTg ngày
08/7/2005 của Thủ tướng Chính phủ, chuẩn nghèo giai đoạn này được nâng
lên cho phù hợp với mức sống đã được nâng lên của nhân dân, số hộ nghèo
theo tiêu chí cũ đã giảm đáng kể, đồng thời đưa ra chuẩn đói nghèo mới để
gần với chuẩn đói nghèo của quốc tế [14].
+ Khu vực nông thôn: những hộ có mức thu nhập bình quân từ 200.000
đồng/người/tháng (2.400.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo.
+ Khu vực thành thị: những hộ có mức thu nhập bình quân từ 260.000
đồng/người/tháng (dưới 3.120.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo.
Với chuẩn nghèo này, cả nước còn khoảng 3,9 triệu hộ nghèo, chiếm
22% số hộ toàn quốc, tập trung chủ yếu ở các tỉnh miền núi, biên giới,
Tây Nguyên.
- Giai đoạn 2011-2015: Ngày 30/01/2011, Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt Quyết định số 09/2011/QĐ-TTg ban hành chuẩn hộ nghèo, hộ cận
nghèo áp dụng cho giai đoạn 2011 – 2015 như sau: [19]
+ Hộ nghèo ở nông thôn là hộ có mức thu nhập bình quân từ 400.000
đồng/người/tháng (từ 4.800.000 đồng/người/năm) trở xuống.
+ Hộ nghèo ở thành thị là hộ có mức thu nhập bình quân từ 500.000
đồng/người/tháng (từ 6.000.000 đồng/người/năm) trở xuống.



9

Bảng 1.1: Tổng hợp chuẩn nghèo đói được xác định qua các thời kỳ
Giai đoạn

Đơn vị tính

Hộ đói

Hộ nghèo

(Gạo)

Dưới mức

Dưới mức

- Khu vực nông thôn

Kg/người/tháng

8

15

- Khu vực thành thị

Kg/người/tháng

13


20

1. Giai đoạn 1993-1994

2. Giai đoạn 1995-1997

(Gạo)

- Vùng nông thôn miền núi, hải đảo

Kg/người/tháng

13

15

- Vùng nông thôn đồng bằng, trung du

Kg/người/tháng

13

20

- Vùng thành thị

Kg/người/tháng

13


25

3. Giai đoạn 1998-2000

(Tiền)

- Vùng nông thôn miền núi, hải đảo

Đồng/người/tháng

45.000

55.000

- Vùng nông thôn đồng bằng, trung du

Đồng/người/tháng

45.000

70.000

- Vùng thành thị

Đồng/người/tháng

45.000

90.000


4. Giai đoạn 2001-2005

(Tiền)

- Vùng nông thôn miền núi, hải đảo

Đồng/người/tháng

80.000

- Vùng nông thôn đồng bằng, trung du

Đồng/người/tháng

100.000

Vùng thành thị

Đồng/người/tháng

150.000

5. Giai đoạn 2006-2010

(Tiền)

- Khu vực nông thôn

Đồng/người/tháng


200.000

- Khu vực thành thị

Đồng/người/tháng

260.000

6. Giai đoạn 2011-2015

(Tiền)

- Khu vực nông thôn

Đồng/người/tháng

400.000

- Khu vực thành thị

Đồng/người/tháng

500.000

1.1.1.4. Vấn đề nghèo đói và việc xoá đói giảm nghèo
a) Đói nghèo và việc giải quyết đói nghèo trên thế giới
Cho đến hôm nay, đói nghèo vẫn là nỗi ám ảnh thường trực đối với cả
loài người. Thế giới đã chứng kiến những thảm họa của chiến tranh, thảm họa
của thiên tai, dịch bệnh với bao nỗi kinh hoàng. Thế nhưng hậu quả do những

nạn đói gây ra cũng vô cùng khủng khiếp. Điều đáng sợ hơn nữa là: Nếu như
các cuộc chiến tranh dù khốc liệt vô cùng nhưng rồi trước sau cũng được giải


10

quyết, nếu như những thảm họa do thiên tai, dịch bệnh gây ra từng bước cũng
sẽ được khắc phục thì vấn đề nghèo đói của nhân loại lại là một vấn đề vừa
cấp bách, vừa phức tạp lại như một căn bệnh kinh niên khó bề chạy chữa.
Đói nghèo là nỗi bất hạnh và là một phi lý lớn. Trong khi nền văn minh
thế giới đã đạt được những thành tựu hiển nhiên về tiến bộ khoa học - công
nghệ, làm tăng đáng kể của cải vật chất xã hội, tăng thêm vượt bậc sự giàu có
cho con người, thì thảm cảnh đeo đẳng mãi trên lưng con người lại vẫn là sự
nghèo đói. Hàng tỷ người, thực tế là một phần ba số dân thế giới vẫn khốn
cùng và đói khát. Thiệt thòi lớn nhất là trẻ em. Hằng ngày có gần 100 triệu trẻ
em không có cái ăn, trên 100 triệu trẻ em vô gia cư chỉ sống nhờ của bố thí
hoặc sống dựa vào sự lao động quá sức, kể cả bằng các nghề đặc biệt là móc
túi, mại dâm; trên 50 triệu trẻ em làm việc trong những ngành có hại; hàng
trăm triệu trẻ em tuổi từ 6 - 11 không được cắp sách đến trường.
Đói nghèo diễn ra trên tất cả các châu lục với những mức độ khác nhau.
Đặc biệt ở các nước đang phát triển, sự đói nghèo của dân cư đang là một vấn
đề nhức nhối rất cấp bách phải tháo gỡ nhưng cũng vô cùng khó khăn trong
việc thực hiện xóa đói giảm nghèo.
b) Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về việc xóa đói giảm nghèo
Đảng ta coi cơ sở phương pháp luận quan trọng và cơ bản nhất để phân
tích vấn đề đói nghèo và xóa đói giảm nghèo là giải phóng con người khỏi
mọi áp bức, bất công, thực hiện công bằng xã hội. Chủ nghĩa xã hội là quá
trình kiến tạo hạnh phúc và cũng là quá trình đấu tranh vì sự công bằng, đấu
tranh để thủ tiêu nguồn gốc bất công xã hội.
Trong các văn kiện quan trọng của Đảng Cộng sản Việt Nam, vấn đề

xóa đói giảm nghèo được nhiều lần đề cập tới. Để bảo đảm và hướng tới công
bằng xã hội, Đảng ta khẳng định “khuyến khích làm giàu hợp pháp, chống
làm giàu phi pháp đi đôi với chăm lo xóa đói, giảm nghèo, thu hẹp dần


11

khoảng cách về trình độ phát triển, về mức sống giữa các vùng căn cứ cách
mạng và kháng chiến cũ, các gia đình thuộc diện chính sách, làm cho mọi
người, mọi nhà đều tiến tới cuộc sống ấm no, hạnh phúc, ai cũng có việc làm,
có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành và chữa bệnh, từng bước thực hiện
điều Chủ tịch Hồ Chí Minh hằng mong ước”.
Trong quá trình thiết kế, chỉ đạo thi công việc xây dựng nền kinh tế thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trên cơ sở nắm bắt những mặt mạnh
và mặt yếu của cơ chế thị trường, Đảng ta đã đưa ra những quan điểm chỉ
đạo: “Để phát triển sức sản xuất, cần phát huy khả năng của mọi thành phần
kinh tế, thừa nhận trên thực tế còn có bóc lột và sự phân hóa giàu nghèo nhất
định trong xã hội, nhưng phải luôn quan tâm, bảo vệ lợi ích của người lao
động, vừa khuyến khích làm giàu hợp pháp, chống làm giàu phi pháp, vừa coi
trọng xóa đói, giảm nghèo, từng bước thực hiện công bằng xã hội, tiến tới làm
cho mọi người, mọi nhà đều khá giả”.
Chú trọng đúng mức đến vấn đề đói nghèo trong xã hội, với nhãn quan
chính trị nhạy bén và với trách nhiệm cao cả trước nhân dân, Đảng ta đã đưa
ra những chương trình rộng lớn để tập trung giải quyết là “Chương trình về
xóa đói, giảm nghèo”. Trên cơ sở đó, Nhà nước cũng đã có hàng chục chương
trình cấp quốc gia và dự án đang được thực thi có nội dung gắn với xóa đói,
giảm nghèo.
c) Một số luận điểm về xóa đói giảm nghèo
Một là, xóa đói giảm nghèo vừa là nhiệm vụ cơ bản lâu dài, vừa là
nhiệm vụ trọng tâm trước mắt. Tính lâu dài của xóa đói giảm nghèo là do:

Thứ nhất, xóa đói giảm nghèo là nội dung, và nhiệm vụ cần thực hiện để
bảo đảm công bằng xã hội. Thực tiễn cho thấy, có những nguyên nhân nảy
sinh nghèo đói không phải do môi trường xã hội, không do điều kiện kinh tế địa lý, mà do hoàn cảnh và đặc điểm của từng cá nhân, từng hộ gia đình.


12

Những trường hợp này luôn có khả năng xuất hiện và việc xóa đói giảm
nghèo mang tính thường trực.
Thứ hai, chủ trương của Đảng ta phát triển kinh tế nhiều thành phần là
một định hướng chiến lược. Nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường luôn
có xu hướng phân hóa hai cực giàu nghèo. Vì vậy, cùng với việc tăng cường
sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa thường xuyên và
liên tục, lâu dài, thì nhiệm vụ xóa đói giảm nghèo, nhất là giảm nghèo, cũng
là vấn đề liên tục và lâu dài mới giải quyết được.
Thứ ba, dân giàu nước mạnh là mục tiêu cơ bản của chủ nghĩa xã hội.
Thực hiện mục tiêu này là một quá trình phấn đấu gian khổ, lâu dài.
Xóa đói giảm nghèo vừa có tính cơ bản và cần thực hiện liên tục, lâu
dài, lại là một công việc cần kíp, trước mắt, bởi vì sự nghiệp cách mạng và
công cuộc đổi mới luôn đặt ra nhiệm vụ: mỗi bước phát triển kinh tế - xã hội
là một bước cải thiện đời sống của nhân dân; bởi vì đây không chỉ là việc thực
hiện truyền thống, đạo lý của dân tộc “thương người như thể thương thân”,
mà còn là nhiệm vụ để bảo đảm ổn định xã hội, củng cố khối đại đoàn kết
dân tộc.
Hai là, tăng trưởng kinh tế là điều kiện giúp cho việc xóa đói giảm
nghèo, nhưng đây là hai nhiệm vụ có tính độc lập tương đối và không phải
là một.
Ba là, xóa đói giảm nghèo và thực hiện công bằng xã hội không có
nghĩa là kìm hãm sự phát triển kinh tế, không có nghĩa là cào bằng.
Kinh nghiệm của chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu

trước đây đã cho thấy, nếu đặt công bằng xã hội lên trên hết và tách rời với
phát triển kinh tế thì trước hết dẫn tới sự triệt tiêu các động lực phát triển. Tuy
nhiên, nếu đặt hiệu quả kinh tế là mục tiêu duy nhất thì sẽ làm tăng tình trạng
phân hóa hai cực, làm tăng sự khốn khó đối với không ít quần chúng nhân


13

dân. Bởi vậy, trong khi thực hiện bài toán phát triển đất nước, làm sao phải
tạo mọi điều kiện và tăng nguồn lực cho sự phát triển, đồng thời hạn chế mặt
tiêu cực của nó, đặt vấn đề xóa đói giảm nghèo thành công việc thường
xuyên, liên tục.
Bốn là, xóa đói giảm nghèo là công việc của toàn xã hội. Cần khẳng
định một cách mạnh mẽ rằng, xóa đói giảm nghèo không dừng lại ở việc thực
hiện chính sách xã hội, không phải việc riêng của ngành lao động - xã hội hay
một số ngành khác, mà là nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa, là nhiệm vụ
chung của toàn Đảng, toàn dân. Muốn thực hiện thành công việc xóa đói giảm
nghèo, tất cả mọi cán bộ đảng, chính quyền đều phải quan tâm cùng giải
quyết, thực hiện các giải pháp một cách đồng bộ và phải có sự tham gia của
toàn thể cộng đồng.
1.1.1.5. Nội dung cơ bản của Chương trình xóa đói giảm nghèo
a) Cải cách hành chính, cải cách tư pháp, thực hiện quản lý tốt kinh tế xã
hội để đảm bảo lợi ích cho người nghèo
Mục tiêu tổng thể là phấn đấu xây dựng được một nền hành chính Nhà
nước trong sạch, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, có trách nhiệm ở tất cả các
cấp, có khả năng xây dựng các chính sách và cung ứng dịch vụ theo yêu cầu
của người dân, khuyến khích cơ hội cho người nghèo, người thiệt thòi giúp họ
phát huy được tiềm năng của mình. Để đạt được mục đích này phải tạo nên
một hệ thống hành chính với cơ chế, tổ chức bộ máy gọn nhẹ, đội ngũ cán bộ,
công chức về cơ bản có phẩm chất, năng lực và trình độ đáp ứng yêu cầu của

sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Cải cách hành chính được
thực hiện trên 4 lĩnh vực là: cải cách thể chế; cải cách bộ máy hành chính;
đổi mới, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức và cải cách tài
chính công.
b) Tạo môi trường xã hội để thực hiện công bằng xã hội, thực thi dân
chủ cơ sở và trợ giúp pháp lý cho người nghèo


14

- Tạo điều kiện để mọi người tham gia đầy đủ vào quá trình phát triển,
có cơ hội bình đẳng cho mọi người dân. Nâng cao năng lực và tạo cơ hội cho
phụ nữ và nam giới đều có thể phát huy hết tài năng, tham gia vào quá trình
phát triển và thụ hưởng thành quả phát triển. Thực hiện dân giàu nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, giữ gìn và phát triển nền văn hóa dân
tộc, đẩy lùi các tệ nạn xã hội. Xây dựng khuôn khổ pháp lý cho các tổ chức xã
hội, tổ chức cộng đồng ở địa phương nhằm nâng cao khả năng và sự tham gia
của người nghèo vào quá trình phát triển và cùng với người nghèo, tạo cơ hội
cho họ tự thoát nghèo.
- Tăng cường dân chủ cơ sở, các cuộc đối thoại giữa chính quyền địa
phương và cộng đồng người nghèo. Thúc đẩy sự tham gia của người dân,
trong đó có người nghèo vào hoạch định chính sách và thực hiện chính sách
được thể hiện rõ nét qua thực tiễn áp dụng Quy chế Dân chủ cơ sở ở xã,
phường, thị trấn. Tiếp tục chỉ đạo, kiểm tra bảo đảm cho Quy chế Dân chủ
thực hiện ở xã, phường, thị trấn. Triển khai rộng khắp ở tất cả các thôn, làng,
ấp, bản, tổ dân phố trong cả nước, duy trì lâu dài việc thực hiện Quy chế Dân
chủ và đưa Quy chế Dân chủ trở thành nề nếp làm việc thường xuyên ở cơ sở.
Phân định rõ chức năng và nâng cao năng lực, hiệu lực quản lý điều hành,
giám sát, thanh tra của cơ quan Nhà nước. Thực thi có hiệu quả các quy chế
về thực hiện dân chủ ở cơ sở, ở cơ quan, doanh nghiệp nhà nước.

- Trợ giúp pháp lý cho người nghèo và các đối tượng có hoàn cảnh đặc
biệt. Hoàn thiện khuôn khổ pháp luật, tăng cường trợ giúp pháp lý và khả
năng tiếp cận pháp lý cho người nghèo. Mở rộng mạng lưới trợ giúp pháp luật
để người nghèo ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa có thể tiếp cận với các dịch
vụ trợ giúp pháp luật.
c) Phát triển mạng lưới an sinh xã hội trợ giúp cho các đối tượng yếu
thế và người nghèo


15

- Tập trung có trọng điểm để hỗ trợ người nghèo, dân tộc ít người, nhóm
yếu thế khác trong xã hội. Cải thiện chất lượng và khả năng tiếp cận các dịch
vụ cơ bản và nguồn lực của người nghèo, đặc biệt là chăm sóc sức khỏe ban
đầu, giáo dục tiểu học, sức khỏe sinh sản, nước, vệ sinh dinh dưỡng, nhà ở,
giúp đỡ họ tiếp cận với pháp luật không thu phí...
- Tăng cường mạng lưới an sinh xã hội: Bổ sung một số chính sách trợ
giúp của Nhà nước đối với các nhóm người yếu thế, có hoàn cảnh đặc biệt
khó khăn, người dễ bị tổn thương để tạo cơ hội tự tạo việc làm hoặc đi làm
thuê, có thu nhập đủ nuôi sống bản thân, tham gia vào các hoạt động cộng
đồng, các hoạt động xã hội để hưởng lợi từ cải cách kinh tế. Hoàn thiện chính
sách bảo hiểm xã hội nhằm mở rộng chế độ bảo hiểm xã hội áp dụng cho mọi
đối tượng, kể cả những người làm việc tại khu vực kinh tế phi chính thức và
bảo đảm tương quan hợp lý giữa mức đóng và mức hưởng.
- Xây dựng các biện pháp để giúp đối tượng yếu thế cải thiện các điều
kiện tham gia thị trường lao động. Cải thiện tiếp cận thị trường lao động của
người lao động nghèo, nhóm yếu thế trong thị trường lao động, đặc biệt đối
với vấn đề đào tạo. Giải quyết tốt vấn đề lao động dôi dư. Dần dần từng bước
áp dụng bảo hiểm thất nghiệp. Nâng cao số lượng và chất lượng việc làm, đặc
biệt là việc làm trong khu vực ngoài nhà nước. Hoàn thiện Bộ luật Lao động

để thúc đẩy sự phát triển của thị trường lao động. Bảo đảm an toàn việc làm.
Chống sa thải tuỳ tiện, bảo đảm việc làm ổn định với mức thu nhập ngày càng
tăng và điều kiện lao động, nhất là cho lao động nữ, ngày càng được cải
thiện. Giảm tai nạn lao động. Bảo đảm công bằng nam nữ trong tuổi về hưu,
tránh tình trạng sử dụng "về hưu sớm" làm công cụ để giải quyết lao động
dôi dư trong các doanh nghiệp nhà nước cũng như các vấn đề khác của thị
trường lao động.


16

- Xây dựng hệ thống giải pháp cứu trợ xã hội đột xuất hữu hiệu: Đối với
người nghèo, người dễ bị tổn thương khi gặp rủi ro thiên tai, tai nạn và các tác
động xã hội không thuận lợi, triển khai các giải pháp cứu trợ đột xuất gồm:
- Mở rộng sự tham gia và nâng cao vai trò của các tổ chức xã hội, tổ
chức phi chính phủ trong việc phát triển mạng lưới an sinh xã hội. Mặt trận
Tổ quốc các cấp chủ trì và phối hợp với chính quyền, các hội, đoàn thể quần
chúng xây dựng các phương thức vận động các cơ quan, doanh nghiệp và toàn
dân tham gia hoạt động từ thiệp giúp đỡ các đối tượng nghèo.
Khuyến khích các hoạt động nhân đạo của các tổ chức phi chính phủ,
các tổ chức đoàn thể, các tổ chức xã hội tham gia phát triển mạng lưới an sinh
xã hội, trợ giúp có hiệu quả các đối tượng yếu thế, đặc biệt là người già cô
đơn, không nơi nương tựa, trẻ em mồ côi không nơi nuôi dưỡng, trẻ em bị
nhiễm chất động hóa học, HIV...
d) Xóa đói giảm nghèo
- Mục tiêu chính của 8 ngành, lĩnh vực: Nông nghiệp và kinh tế nông
thôn, y tế, giáo dục, đô thị, điện khí hóa, giao thông vận tải, lao động và bảo
hiểm xã hội và các chương trình quốc gia.
- Một số chương trình, dự án quan trọng cần triển khai ở các vùng khó
khăn: Mở rộng diện tích tưới nước cho khoảng 8 nghìn ha và phát triển các hồ

chứa nước kết hợp với phòng chống lũ ở các tỉnh miền Trung; Xóa bỏ các nhà
dột nát, nhà tạm (làm bằng tranh, tre, nứa, lá đã bị xiêu vẹo, dột nát không
đảm bảo an toàn khi có lũ bão) cho đồng bào dân tộc ít người, hộ sống trong
các vùng ngập lũ sâu, đời sống quá khó khăn; Hỗ trợ đồng bào miền núi xây
dựng ruộng bậc thang để góp phần giải quyết vấn đề du canh, du cư; phát
triển cây ăn quả ôn đới và một số cây đặc sản thay thế cây thuốc phiện ở
vùng cao...


17

- Các chương trình mục tiêu quốc gia liên quan đến xóa đói giảm nghèo:
Chương trình xóa đói giảm nghèo và tạo việc làm, Chương trình phát triển
kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn, Chương trình phát triển giáo dục, y
tế, văn hoá, Dự án trồng mới 5 triệu ha rừng... là các chương trình, dự án có
tác động trực tiếp nhất đến xóa đói giảm nghèo. Vốn đầu tư của các chương
trình, dự án này được thực hiện bằng nhiều nguồn: vốn phân bổ trực tiếp của
ngân sách trung ương, ngân sách địa phương; vốn lồng ghép của các chương
trình, dự án; vốn vay tín dụng; vốn huy động từ cộng đồng; trong đó vốn
Ngân sách Nhà nước dự kiến chiếm khoảng 30% tổng vốn đầu tư của chương
trình, dự án.
Ngoài ra, huy động cộng đồng và sự đóng góp của người hưởng lợi để
triển khai các dự án đã được cộng đồng quốc tế và chính phủ các nước giúp
đỡ như: dự án đa dạng hóa nông nghiệp; dự án đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng
nông thôn; dự án giảm nghèo 6 tỉnh miền núi phía Bắc; dự án giảm nghèo 5
tỉnh miền Trung; dự án cơ sở nông thôn dựa vào cộng đồng; dự án bảo vệ
rừng và phát triển nông thôn;...
1.1.2. Giảm nghèo bền vững
1.1.2.1. Giảm nghèo bền vững là gì? Tại sao cần phải giảm nghèo
bền vững?

Giảm nghèo bền vững là một trọng tâm của Chiến lược phát triển kinh tế
- xã hội 2011 - 2020 nhằm cải thiện và từng bước nâng cao điều kiện sống của
người nghèo, trước hết là ở khu vực miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu
số; tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, toàn diện ở các vùng nghèo; thu hẹp khoảng
cách chênh lệch giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng, các dân tộc và
các nhóm dân cư [20].
Giúp người nghèo thoát nghèo bằng cách tặng nhà, tặng phương tiện
sống... là cách xóa nghèo nhanh nhưng chỉ tức thời, không bền vững. Muốn


18

xóa nghèo bền vững, Nhà nước, cơ quan chức năng cần phải cấp cho người
nghèo một phương thức phát triển mới mà tự họ không thể tiếp cận và duy trì.
Bên cạnh đó là sự hỗ trợ, ngăn ngừa, loại trừ các yếu tố gây rủi ro chứ không
chỉ là sự nỗ lực khắc phục hậu quả sau rủi ro. Đặc biệt, sự hỗ trợ giảm nghèo
này phải được xác lập trên nguyên tắc ưu tiên cho các vùng có khả năng, điều
kiện thoát nghèo nhanh và có thể lan tỏa sang các vùng lân cận. Chủ trương,
chính sách đưa ra là đúng đắn, nhưng vấn đề hết sức quan trọng là việc tổ
chức thực hiện sao cho hiệu quả. Ðiều này đòi hỏi phải có sự vào cuộc mạnh
mẽ của các bộ, ngành chức năng và nhất là sự chủ động, sáng tạo của cấp ủy
đảng, chính quyền, đoàn thể ở cơ sở, nơi thụ hưởng chính sách. Mặt khác, bản
thân người nghèo, hộ nghèo cũng cần tích cực tham gia, coi đây là cơ hội để
thoát nghèo, vươn lên làm giàu cho bản thân, gia đình, góp phần vào quá trình
phát triển chung của đất nước. Ðó chính là cái đích trong công tác giảm nghèo
bền vững ở Việt Nam.
Sở dĩ những năm qua, tỷ lệ người nghèo vẫn cao là do các chương trình,
chính sách giảm nghèo của Việt Nam còn rời rạc và bị phân mảng. Nguyên
nhân là do thời gian qua cũng như hiện tại, Việt Nam đang triển khai quá
nhiều chương trình giảm nghèo dẫn đến sự chồng chéo giữa các chính sách

giảm nghèo. Cụ thể, những chính sách giảm nghèo này với tính chất từng
chính sách đơn lẻ là các hợp phần của những chương trình, mục tiêu đơn lẻ
được quản lý bởi các bộ, ngành khác nhau. Vì thế, các chương trình này sẽ tạo
ra một lượng lớn thời gian, tiền bạc cho chi phí giao dịch trong quá trình thực
hiện. Và đây cũng chính là nguyên nhân dẫn đến kết quả mục tiêu không đạt
được như mong đợi. Nguyên nhân chủ yếu là một số chương trình, chính sách
giảm nghèo còn mang tính ngắn hạn, chưa đồng bộ, thiếu sự gắn kết chặt chẽ;
cơ chế quản lý, chỉ đạo điều hành, phân công phân cấp còn chưa hợp lý. Việc


×