Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

Một số giải pháp nâng cao hiệu quả các mô hình sử dụng đất trên địa bàn huyện chương mỹ hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.61 MB, 104 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP
--------------------

NGUYỄN THỊ LINH

SỐ LIỆU GỐC

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÁC MÔ HÌNH
SỬ DỤNG ĐẤT TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN CHƯƠNG MỸ, HÀ NỘI

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. NGUYỄN VĂN TUẤN

Hà Nội, 2011


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP
---------------------

NGUYỄN THỊ LINH

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÁC MÔ HÌNH
SỬ DỤNG ĐẤT TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN CHƯƠNG MỸ, HÀ NỘI



Chuyên ngành
Mã số

:

Kinh tế nông nghiệp

:

60.31.10

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ

Hà Nội, 2011


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP
---------------------

NGUYỄN THỊ LINH

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÁC MÔ HÌNH
SỬ DỤNG ĐẤT TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN CHƯƠNG MỸ, HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ


Hà Nội, 2011


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP
---------------------

NGUYỄN THỊ LINH

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÁC MÔ HÌNH
SỬ DỤNG ĐẤT TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN CHƯƠNG MỸ, HÀ NỘI

Chuyên ngành
Mã số

:

Kinh tế nông nghiệp

:

60.31.10

LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS.TS. NGUYỄN VĂN TUẤN

Hà Nội, 2011


Luâ ̣n văn đươ ̣c hoàn thành ta ̣i:

Khoa Đào ta ̣o Sau Đa ̣i ho ̣c
Trường Đa ̣i ho ̣c Lâm nghiê ̣p

Người hướng dẫn khoa ho ̣c:
PGS.TS Nguyễn Văn Tuấ n

Phản biê ̣n 1: ………………………………..
………………………………..
Phản biê ̣n 2: ………………………………..
………………………………..

Luâ ̣n văn sẽ đươ ̣c bảo vê ̣ ta ̣i hô ̣i đồ ng chấ m luâ ̣n văn Tha ̣c sỹ Kinh tế
Họp tại: trường Đa ̣i ho ̣c Lâm nghiê ̣p
Vào hồ i …… giờ ….. ngày …. tháng ….. năm 2011

Có thể tìm đo ̣c luâ ̣n văn ta ̣i:
- Thư viê ̣n khoa Đào ta ̣o sau đa ̣i ho ̣c trường Đa ̣i ho ̣c Lâm nghiê ̣p.
- Trung tâm thông tin tư liê ̣u và thư viê ̣n trường Đa ̣i ho ̣c Lâm nghiê ̣p.


1

ĐẶT VẤN ĐỀ

1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất đai là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá mà thiên nhiên ban tặng cho con
người. Luật đất đai năm 1993 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã
ghi: “Đất đai là tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là
thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống, là địa bàn phân bố các khu
dân cư, xây dựng các cơ sở kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh và quốc phòng”. Đã trải
qua nhiều thế hệ, con người Việt Nam đã hy sinh biết bao xương máu để giữ vững
độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia.
Ngày nay đất nước và con người Việt Nam đã và đang hội nhập ngày càng
sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, chúng ta đang bước những bước dài trong sự
nghiệp Công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước. Nhưng quá trình đô thị hóa diễn ra
nhanh dẫn đến quỹ đất nông nghiệp và đặc biệt là đất canh tác bị thu hẹp. Trong khi
đó, sự gia tăng dân số đã đến nhu cầu về lương thực, thực phẩm tăng nhanh tạo ra
sức ép đối với đất canh tác. Để giải quyết vấn đề này, Đảng và Nhà nước ta đã ban
hành nhiều chủ trương, chính sách nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đất canh tác.
Chương Mỹ một huyện cách trung tâm Hà Nội 20 km, có diện tích đất tự
nhiên là 23.240,92 ha có 295.988 dân sống phân bố trên 32 xã, thị trấn. Trên địa bàn
huyện trong thời gian qua đã xuất hiện các điển hình sản xuất và thâm canh giỏi, các
mô hình chuyển đổi đất trồng lúa sang các loại cây hàng hóa, cây đặc sản, các mô
hình đa canh mang lại hiệu quả kinh tế khá cao. Trước tình hình trên, việc nghiên
cứu đánh giá hiệu quả sử dụng đất nhằm đề xuất các giải pháp nâng cao sức sản xuất
trên địa bàn huyện là rất cần thiết bởi vậy tôi lựa chọn đề tài:
“Một số giải pháp nâng cao hiệu quả các mô hình sử dụng đất trên địa bàn
huyện Chương Mỹ - Hà Nội”.
2. Mu ̣c tiêu Nghiên cứu
Đề tài tập trung làm rõ đặc điểm, vai trò của đất với sản xuất nông nghiệp.
Hệ thống hóa các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả việc sử dụng đất trong nông nghiệp.


2


Phân tích làm sáng tỏ hiệu quả các mô hình sử dụng đất trên địa bàn huyện đồng
thời phân tích các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả các mô hình sử dụng đất đưa ra
các giải pháp nâng cao hiệu quả các mô hình sử dụng đất trong điều kiện đảm bảo
phát triển toàn diện kinh tế, xã hội, đảm bảo an ninh lương thực và các mục tiêu
phát triển trong dài hạn của huyện Chương Mỹ.


3

Chương I
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan về sử du ̣ng đấ t và phát triể n sản xuất nông nghiệp
1.1.1. Trên thế giới
Sản xuất nông nghiệp là ngành sản xuất sinh học, được trải rộng trong môi
trường tự nhiên, chịu tác động của khí hậu, thời tiết, đất đai. Nông nghiệp là ngành
thường xuyên phải chống đỡ với rủi ro về thời tiết, sâu bệnh và biến động của thị
trường.
Lịch sử hàng trăm năm đã chứng kiến sự thay đổi, phát triển sản xuất nông
nghiệp của các quốc gia trên thế giới. Trong những năm qua các viện nghiên cứu đã
đưa ra nhiều giống cây trồng, vật nuôi mới, những công thức luân canh mới, những
mô hình mới.
 Kinh nghiệm sản xuất nông nghiệp của Hà Lan
Là một nước có 4,18 triệu ha đất tự nhiên trong đó đất canh tác chỉ chiếm
0,91 ha và có trên 480.000 người dân sống bằng nghề nông nghiệp. Hà Lan đã đưa
nền nông nghiệp từ một nước nghèo tài nguyên, đối mặt với thiên nhiên khắc nghiệt
của một nước thấp trũng hơn so với mặt nước biển thành một nước có tỷ suất hàng
hoá cao, sức cạnh tranh mạnh, phát triển bền vững.
Nông trại của Hà Lan trải qua quá trình phát triển từng bước từ kinh tế tự
cấp, tự túc, hiệu suất thấp tới kinh tế tiểu nông chuyển dần sang kinh tế sản xuất nhỏ

rồi sản xuất chuyên môn hoá lớn. Đến nay đã hình thành kinh tế tổ hợp “nông –
công – thương” làm nền tảng cho nông nghiệp hàng hoá lớn.
Đạt được kết quả đó là bởi Hà Lan có những chính sách vĩ mô đúng đắn,
sáng tạo từ nhiều năm. Trong đó phải kể đến việc tổ chức sản xuất nông nghiệp
đúng hướng và nổi bật là xây dựng hệ thống nông trại đủ sức làm nền tảng cho nền
nông nghiệp hàng hoá phát triển.[24]


4

 Kinh nghiệm sản xuất nông nghiệp ở Đức
Là một nước có điều kiện tự nhiên không thuận lợi lắm nhưng sau chiến
tranh thế giới thư hai do tăng cường cơ giới hoá, chuyên mô hoá, hợp lý hoá sản
xuất, sử dụng ngày càng nhiều giống tốt, tiến hành tưới tiêu hợp lý nên năng suất đã
tăng mạnh.
Nông nghiệp nước Đức chuyển từ các trang trại vừa và nhỏ thành các trang
trại lớn nhờ vào sự liên kết với nhau. Nông nghiệp Đức được chuyên môn hoá cao
trên các lĩnh vực canh tác dựa trên các đặc điểm tự nhiên của từng vùng để phá huy
lợi thế so sánh.
Nhà nước Đức chủ trương xây dựng một nền nông nghiệp có tính cạnh tranh
cao và bền vững. Đặc biệt Đức chú trọng bảo vệ môi trường trong lĩnh vực nông
nghiệp và nông thôn. Ngoài ra Nhà nước Đức sử dụng các chính sách hỗ trợ gián
tiếp như thông qua các chương trình bảo vệ môi trường nông nghiệp, và đặc biệt chú
trọng đến việc đào tạo cho người nông dân. Gần đây Chính phủ Đức đặc biệt quan
tâm và đưa ra ba hướng nghiên cứu khoa học nông nghiệp của mình là: Đẩy mạnh
phát triển công tác nghiên cứu khoa học kỹ thuật sinh vật; Tăng cường việc vận
dụng tin tức điện tử, kỹ thuật trên mạng áp dụng trong nông nghiệp; Mở rộng hơn
nữa những phương thức trồng trọt vừa cho năng suất cao vừa bảo vệ được môi
trường hiệu quả. [27]
 Kinh nghiệm sản xuất nông nghiệp ở Mỹ

Diện tích đất trồng trọt chỉ chiếm 18,01% đất đai, trong khi đó diện tích
trồng trọt thường xuyên chỉ chiếm 0,21% đất đai. Nhưng nhờ cơ giới hoá triệt để
nên sản lượng nông nghiệp của Mỹ là rất lớn so với số lao động không nhiều như:
Năm 2006 sản lượng nông nghiệp Mỹ đạt 1,600 tỷ USD, kim ngạch xuất khẩu nông
sản lên tới 68 tỷ USD. Chính sách quan trọng nhất của nước Mỹ đối với sản xuất
nông nghiệp là nhà nước bảo lãnh giá cả cây trồng cho nhà nông. Bên cạnh đó nhiều
trang trại của Mỹ đã chuyển đổi từ quy mô nhỏ sang tập đoàn nông nghiệp được
trang bị ở mức hiện đại. Đồng thời phát triển các loại giống cây trồng chuyển gen


5

GMC, các loại phân bón, thuốc bảo vệ thực vật được cải tiến … đã đưa nước Mỹ có
những bước phát triển về sản xuất nông nghiệp.[24]
 Kinh nghiệm của Thái Lan
Thái Lan vốn là một nước nông nghiệp truyền thống với dân số nông thôn
chiếm khoảng 80% dân số cả nước. Nông nghiệp Thái Lan trong hàng thập kỷ qua
có vai trò quan trọng, góp phần tăng trưởng kinh tế, đảm bảo chất lượng cuộc sống
cho người dân.
Để thúc đẩy phát triển bền vững nông nghiệp, Thái Lan đã áp dụng một số
chiến lược như: Tăng cường vai trò của các cá nhân và các tổ chức hoạt động trong
lĩnh vực nông nghiệp; Đẩy mạnh phong trào học tập, nâng cao trình độ của từng cá
nhân và tập thể bằng cách mở các lớp học và các hoạt động chuyên môn trong lĩnh
vực nông nghiệp và nông thôn; tăng cường công tác bảo hiểm xã hội cho nông dân,
giải quyết tốt vấn đề nợ trong nông nghiệp; giảm nguy cơ rủi ro và thiết lập hệ thống
bảo đảm rủi ro cho nông dân. Về các sản phẩm của nông nghiệp nhà nước hỗ trợ
tăng sức cạnh tranh bằng việc tổ chức các hội chợ, đẩy mạnh công tác tiếp thị …
Chính phủ Thái Lan đã tập trung cơ cấu lại ngành nghề phục vụ công nghiệp
nông thôn đồng thời xem xét đến các nguồn tài nguyên, những kỹ năng truyền
thống, nội lực, tiềm năng trong lĩnh vực sản xuất và tiếp thị song song với việc cân

đối nhu cầu tiêu dùng trong nước và nhập khẩu.
Thái Lan đã khuyến khích phát triển một số ngành mũi nhọn như sản xuất
hàng nông sản, thúc đẩy công nghiệp chế biến cho nông sản… cơ cấu lại mặt hàng
nông sản trong đó lúa, dứa, tôm sú, gà và cà phê là những mặt hàng chủ yếu. Bên
cạnh đó những chương trình làm gia tăng giá trị cho nông sản được khuyến khích
như chương trình “One Tambon, One product – OTOP” (mỗi làng, một sảm phẩm)
và chương trình quỹ làng (village pund program).[18]
 Kinh nghiệm của Nhật Bản
Là một trong những nước công nghiệp hàng đầu thế giới, Nhật Bản có một
nền nông nghiệp hiện đại với tỷ lệ cơ giới hoá trong nông nghiệp tương đối cao. Các


6

phương pháp canh tác truyền thống đều được thay thế bằng các loại máy cày, máy
ủi và nhiều loại máy móc khác nhờ vậy mà Nhật Bản đã tăng từ 9,5 triệu tấn năm
1950 lên 13 triệu tấn năm 1975.
Bên cạnh việc cơ giới hoá trong nông nghiệp thì Nhật Bản còn chú trọng phát
triển nông nghiệp du lịch, thực hiện đề án chươn trình phát triển “Mỗi làng, mỗi
nghề” trên cơ sở mỗi làng nghề chọn ra một sản phẩm chủ lực của mình, một sản
phẩm có khả năng cạnh tranh nhất và có trên thị trường rộng nhất để được hỗ trợ về
chính sách, vốn nhằm giúp người tham gia được hưởng lợi ích gia tăng nhiều nhất.
Đến nay chương trình đang được thực hiện với mục tiêu đưa mức tăng trưởng bình
quân của ngành nghề nông thôn ổn định và đạt 15%/năm; tăng kim ngạch xuất khẩu
đạt 20 – 22%, tạo trên 3000.000 việc làm đến năm 2015.[8]
Xu hướng chung trên thế giới hiện nay các nhà khoa học, nhà quản lý đang
tập trung mọi nỗ lực để nghiên cứu, cải tiến hệ thống giống cây trồng vật nuôi có
năng suất cao vào sản xuất để tăng giá trị trên 1 đơn vị canh tác. Đồng thời có các
giải pháp thích hợp để hỗ trợ nền nông nghiệp của đất nước phát triển toàn diện
trong giai đoạn mới.

 Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Qua nghiên cứu các kinh nghiệm của một số nước trên thế giới có thể rút ra
một số kinh nghiệm để thúc đẩy sản xuất nông nghiệp Việt Nam phát triển như sau:
Một là: Phát triển một nền nông nghiệp toàn diện, hiện đại đồng thời phát
triển mạnh công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn. Đẩy mạnh tiến độ quy hoạch sản
xuất nông nghiệp, cơ cấu lại ngành nông nghiệp, gắn sản xuất chế biến và thị
trường. Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật, ứng dụng khoa học công nghệ
hiện đại, sử dụng có hiệu quả đất đai. Thái Lan chủ trương cơ cấu lại ngành nông
nghiệp lựa chọn cây trồng chủ lực nên hiệu quả sản xuất nông nghiệp trên một diện
tích không ngừng tăng; Nhật Bản và Hoa Kỳ áp dụng tiến bộ khoa học vào sản xuất
nông nghiệp như cây giống năng suất cao, máy móc hiện đại đã thay thế được sức
sản xuất của con người đồng thời làm tăng giá trị ngày công lao động của nông dân.


7

Hai là: nâng cao chất lượng nguồn nhân lực lao động nông nghiệp, nông
thôn. Lao động phải được đào tạo và phải có chuyên môn, phải biết áp dụng khoa
học công nghệ vào sản xuất.
Ba là: xây dựng hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn gắn với phát triển các đô
thị. Tiếp tục đầu tư các công trình thuỷ lợi theo hướng đa mục tiêu, phát triển giao
thông nông thôn bền vững gắn với mạng lưới giao thông quốc gia. Ưu tiên phát triển
giao thông ở các vùng khó khăn. Xây dựng hế thống chợ nông sản phù hợp với từng
vùng nhằm thúc đẩy giao lưu kinh tế và phát triển sản xuất.
Bốn là: thực hiện liên minh Công – Nông – Trí thức, phát triển nhanh việc
nghiên cứu và chuyển giao khoa học công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng
hiện đại hoá nông nghiệp, công nghiệp hoá nông thôn. Liên minh giữa tổ hợp của
Hà Lan đã làm nền tảng cho nông nghiệp hàng hoá lơn và tăng sức cạnh tranh của
sản phẩm nông sản trên thị trường.
Năm là: đổi mới cơ chế chính sách để phát huy thật tốt các nguồn lực để phát

triển kinh tế nông thôn. Rà soát bổ sung, điều chỉnh và thực hiện tốt chính sách đất
đai, thuế, tín dụng, đầu tư nhằm tạo điều kiện cho doanh nghiệp, kinh tế trang trại,
hợp tác xã trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn. Đa dạng hoá các nguồn vốn để
phát triển mạnh hơn về cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội nông thôn, ưu tiên nâng cấp và
xây dựng hệ thống thuỷ lợi đồng bộ, tiếp tục đầu tư, phát triển giao thông nông
thôn…
Sáu là: Bằng chủ trương xây dựng “mỗi làng, một sản phẩm”, “Mỗi làng,
mỗi nghề” của Thái Lan và Nhật Bản đã đưa nông nghiệp của các quốc gia và vùng
lãnh thổ đạt hiệu quả kinh tế cao, giải quyết được số lượng lớn việc làm cho lao
động dư thừa trong nông thôn. Đó là một trong những biện pháp thúc đẩy sản xuất
nông nghiệp phát triển và nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp. Các mô hình
này đã được một số tỉnh của Việt Nam thực hiện như Hà Nam, Hải Dương, Hà Tây
(cũ) …


8

Bảy là: Chủ trương xây dựng các trang trại quy mô lớn, tập trung sản xuất
theo hướng thân thiện bảo vệ môi trường ở Đức đã tăng hiệu suất sử dụng máy móc
thiết bị đồng thời phát huy được lợi thế so sánh của các vùng miền.
1.1.2. Ở Việt Nam
 Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về phát triển sản xuất nông nghiệp
Tại hội nghị lần thứ Bảy của Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá X của
Đảng cộng sản Việt Nam đã xác định: nông nghiệp, nông thôn, nông dân có vị trí
chiến lược trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, là cơ sở và là lực lượng quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội bền vững, giữ
vững ổn định chính trị xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng, giữ gìn và phát huy bản
sắc văn hoá dân tộc và bảo vệ môi trường sinh thái. [18]
Đảng Cộng sản Việt Nam nhấn mạnh sự cần thiết phải ban hành Nghị quyết
xuất phát từ những yêu cầu cấp thiết sau:

- Nông nghiệp và kinh tế nông thôn là bộ phận quan trọng trong nền kinh tế
quốc dân. Nông nghiệp đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia, cung cấp
nguyên liệu chủ yếu cho công nghiệp và xuất khẩu, tạo việc làm và thu nhập, ổn
định đời sống cho đa số nhân dân. Nông thôn là môi trường sống, nơi bảo tồn và
phát triển các giá trị truyền thống văn hoá dân tộc.
- Nông nghiệp, nông dân, nông thôn đóng vai trò to lớn trong sự nghiệp đấu
tranh giành độc lập dân tôc, bảo vệ Tổ quốc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Qua các
thời kỳ cách mạng, giai cấp nông dân luôn là lực lượng hùng hậu nhất đi theo Đảng,
là nền tảng chính trị của cách mạng, đóng góp sức người, sức của cho sự nghiệp
cách mạng của dân tộc.
- Phát triển nông nghiệp, nông thôn, xoá đói, giảm nghèo, nâng cao đời sống
vật chất, tinh thần của nông dân là nhiệm vụ chiến lược, là cơ sở góp phần đảm bảo
ổn định chính trị- xã hội, phát triển đất nước hài hoà và bền vững theo định hướng
xã hội chủ nghĩa.


9

- Nông nghiệp, nông dân, nông thôn nước ta trong điều kiện đẩy mạnh công
nghiêp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế có nhiều cơ hội cũng như
những thách thức mới. Đảng cần phải xem xét đánh giá đúng tình hình và có những
quyết sách mạnh mẽ giải quyết kịp thời những vấn đề đang đặt ra.
Nông nghiệp và kinh tế nông thôn là bộ phận quan trọng trong nền kinh tế
quốc dân. Nông nghiệp đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia, cung cấp
nguyên liệu chủ yếu cho công nghiệp và xuất khẩu, tạo việc làm và thu nhập, ổn
định đời sống cho đa số nhân dân.
Bởi vậy, hiện nay đất nước ta đang nghiên cứu và đưa ra các giống mới vào sản
xuất, các cơ quan nghiên cứu đã đưa ra công thức luân canh mới, các mô hình sản xuất
mới được áp dụng vào xây dựng, sản xuất khai thác tốt hiệu quả đất nông nghiệp, góp
phần tăng tổng sản phẩm xã hội và nâng cao thu nhập cho người nông dân.

Vấn đề này được nhiều tác giả nghiên cứu như trong chương trình KN01
(1991 – 1995) do Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn chủ trì nghiên cứu hệ
thống cây trồng vật nuôi trên các vùng sinh thái khác nhau như vùng núi trung du
phía Bắc, vùng đồng bằng sông Cửu Long… [24]
Các công trình nghiên cứu của Lê Trọng Cúc (1971), Nguyễn Ngọc Bình
(1987), Lê Duy Thước (1991), Lê Thanh Hà (1993),… đã đề cập tới hệ thống cây
trồng trên đất dốc cho phép nâng cao năng suất cây trồng và bảo vệ môi trường sinh
thái ở nước ta. Trong những năm gần đây, do tác động của cơ chế thị trường đã xuất
hiện những mô hình sử dụng đất nông nghiệp mới, những công thức luân canh mới
đạt hiệu quả kinh tế cao trên từng vùng sinh thái. [24]
Trong những năm gần đây nhiều tác giả đã nghiên cứu thành công các loại
cây trồng phù hợp với đặc điểm địa hình cũng như điều kiện khí hậu của nước ta
như: giống ngô chịu hạn, giống lúa thơm đặc sản, giống TH3 – 4 của Viện sinh học
Nông nghiệp - trường Đại học Nông nghiệp I có đặc điểm sinh trưởng nhanh, có khả
năng chống chịu sâu bệnh, chống đổ, có năng suất ổn định từ 5,5 đến 8 tấn/ha… [29,
tr7].


10

Không chỉ dừng ở việc chọn và lai tạo các giống mới, tác giả Lê Quốc
Doanh, Nguyễn Quang Tin (2008) đã nghiên cứu và có kết luận về phương pháp sản
xuất ngô trên đất dốc bền vững và hiệu quả; kỹ thuật trồng cây địa lan đã cho thấy
rằng hiệu quả kinh tế của các mô hình sử dụng đật chịu ảnh hưởng rất nhiều nhân tố
như: Giống ,kỹ thuật, giá cả các yếu tố đầu vào … [6, tr3].
Tác giả Trương Ngọc Chi nghiên cứu về khả năng tiếp cận tiến bộ khoa học
kỹ thuật trong sản xuất lúa, tác giả đã đưa ra nhận định để tăng sự tiếp nhận và áp
dụng kỹ thuật của nông dân trồng lúa trước hết là phải nâng cao trình độ văn hoá,
kiến thức, nhận thức của người dân, sau đó là sự nỗ lực của cá thể và cả cộng đồng
cùng với sự chỉ đạo của địa phương. [5, tr25]

Ở vùng đồng bằng Sông Hồng đã xuất hiện nhiều mô hình luân canh cây
trồng 3-4 vụ một năm đạt hiệu quả kinh tế cao đặc biệt ở các vùng sinh thái ven đô,
tưới tiêu chủ động đã bố trí lại hệ thống cây trồng, vật nuôi và đưa vào các loại cây
trồng vật nuôi có giá trị kinh tế cao như gà thịt, lợn hướng nạc, hoa, rau sạch … cho
giá trị sản lượng bình quân đạt trên 50 triệu đồng/ha trong 1 năm. Và trên những
vùng đất không thuận lợi đã phát triển mô hình kết hợp giữa trồng trọt và nuôi trồng
thuỷ sản, cây ăn quả, đưa vào những giống cây trồng có khả năng chống chua mặn,
nhằm nâng cao năng suất cây trồng.
Gần đây phong trào chuyển đổi diện tích đất nông nghiệp để chuyển sang
làm kinh tế trang trại đang phát triển mạnh mẽ trên địa bàn toàn quốc. Cùng với sự
giúp đỡ của các cơ quan nghiên cứu, các địa phương trong cả nước đã xây dựng các
trang trại kiểu mẫu có hiệu quả kinh tế cao giúp các hộ rút ra được những kinh
nghiệm và nhân rộng mô hình sản xuất có hiệu quả nhằm phát huy tối đa tiềm năng
của đất.
Tại các vùng ngoại thành Hà Nội đã có nhiều công thức luân canh mới, các
mô hình sử dụng đất nông nghiệp mới có hiệu quả kinh tế cao. Đặc biệt ngành trồng
hoa cây cảnh, trồng cây ăn quả … cho thu nhập rất cao so với các công thức luân
canh, mô hình sử dụng đất truyền thống.


11

Việc nghiên cứu và phát triển kinh tế trên đất nông nghiệp được nhiều cơ
quan và tác giả đề cập đến đã đưa ra các giải pháp phát triển khác nhau. Như vậy,
việc đưa ra hệ thống giống cây trồng mới, áp dụng khoa học kỹ thuật, chuyển đổi hệ
thống sản xuất đã đem lại hiệu quả kinh tế cao hơn rất nhiều so với mô hình sản
xuất truyền thống. Tuy nhiên việc áp dụng trên thực tế vẫn còn hạn chế, chưa phát
huy hết được tiềm lực kinh tế trong vùng dẫn đến thu nhập từ sản xuất nông nghiệp
trên các địa phương vẫn còn chưa cao.
Trong phạm vi đề tài, với địa điểm nghiên cứu là huyện Chương Mỹ tôi tiếp

tục nghiên cứu, điều tra, đánh giá nhằm đưa ra cá giải pháp nâng cao giá trị sản xuất
và thu nhập trên một diện tích đất canh tác của nông hộ.
1.2. Cơ sở lý luận về hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của đất đai trong sản xuất nông nghiệp
1.2.1.1. Khái niệm đất nông nghiệp
Đất đai là tài nguyên vô cùng quý giá đối với mỗi quốc gia, là điều kiện tồn
tại và phát triển của con người và các sinh vật khác trên trái đất.
C.Mác viết rằng: Đất là tài sản mãi mãi với loài người, là điều kiện cần để
sinh tồn, là điều kiện không thể thiếu được để sản xuất, là tư liệu sản xuất cơ bản
trong nông lâm nghiệp.
Luật đất đai 1993 của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã viết:
“Đất đai là tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là
thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống, là địa bàn phân bố các khu
dân cư, xây dựng các cơ sở kinh tế, văn hoá xã hội, an ninh quốc phòng. Trải qua
nhiều thế hệ, nhân dân ta đã tốn bao công sức, xương máu mới tạo lập. bảo vệ được
vốn đất đai như ngày nay!”.[16, tr1]
Như vậy, đất đai được dùng hầu hết vào các ngành sản xuất, các lĩnh vực của
đời sống, đất đai được phân thành các loại khác nhau và gọi tên theo lĩnh vực sử
dụng.


12

Với ý nghĩa đó: Đất nông nghiệp là đất được sử dụng chủ yếu vào sản xuất
của các ngành nông nghiệp như trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản hoặc sử
dụng để nghiên cứu thí nghiệm về nông nghiệp.
Thực tế Đất nông nghiệp được hiểu gồm đất đang sử dụng vào sản xuất nông
– lâm - thủy sản và đất có khả năng nông nghiệp. Trong đó đất có khả năng nông
nghiệp là đất chưa được sử dụng nhưng có khả năng sử dụng vào các mục đích sản
xuất nông nghiệp mà không cần đầu tư, cải tạo lớn và đất đã sử dụng vào nông

nghiệp nhưng hiện để hoang hoá không sử dụng.
1.2.1.2. Vai trò của đất đai trong sản xuất nông nghiệp
Đất đai là yếu tố có tính quyết định đối với sự tồn tại và phát triển của đời
sống xã hội mỗi nước. Tuỳ vào mục đích sử dụng khác nhau của mỗi ngành, đất đai
thể hiện tầm quan trọng ở các mức độ khác nhau. Nông nghiệp là ngành sản xuất
gắn bó chặt chẽ với đất đai, đó cũng là nơi mà đất đai thể hiện rõ nét nhất những vai
trò của mình.
Đất đai là cơ sở để tạo ra sản phẩm phục vụ nhu cầu con người. Ngay từ thời
nguyên thuỷ, con người đã biết khai thác đất đai vào mục đích trồng trọt một số loại
cây, thuần dưỡng, chăn nuôi một số loại thú rừng, để cung cấp các nhu yếu phẩm
cần thiết nhằm duy trì cuộc sống. Trải qua thời gian dài tồn tại, cùng với sự phát
triển của xã hội loài người, đất đai ngày càng được đưa vào sản xuất nông nghiệp
rộng rãi hơn, tạo ra nhiều nông sản phong phú, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của
cuộc sống. Trong quá trình tham gia vào sản xuất, đất đai đã phát huy được vai trò
của mình trong việc tạo ra cho xã hội loài người khối lượng nông sản đồ sộ, chất
lượng ngày càng cao và chủng loại hết sức phong phú, phù hợp với các mức phát
triển nhu cầu của con người trong các giai đoạn khác nhau.
Đất đai là cơ sở để xây dựng hạ tầng kỹ thuật phục vụ cho sản xuất nông
nghiệp. Hoạt động nông nghiệp thường diễn ra trên một địa bàn rộng lớn. Các hoạt
động canh tác của nông nghiệp cần sự hỗ trợ đắc lực của một số yếu tố khác như
giao thông nông thôn, giao thông nội đồng, thuỷ lợi, chợ, kho, sân phơi…. Tất cả


13

các yếu tố cơ sở hạ tầng đó thường được xây dựng trên một quỹ đất đã được bố trí,
quy hoạch trước.
1.2.1.3 Đặc điểm của đất đai trong sản xuất nông nghiệp
 Đất đai vừa là sản phẩm của tự nhiên, vừa là sản phẩm của lao động:
Trải qua nhiều năm với những đợt vận động kiến tạo khác nhau trong vũ trụ,

trái đất của chúng ta mới có bề mặt như hiện nay. Nói đất đai là sản phẩm của tự
nhiên là nói tới sự tồn tại khách quan của đất đai trước khi lao động xuất hiện với tất
cả thuộc tính lý học, sinh học, hoá học trong từng loại đất. Đất đai vận động theo
quy luật của tự nhiên và phụ thuộc vào các điều kiện của tự nhiên như thời tiết, khí
hậu, sông ngòi … ở mỗi khu vực. Các yếu tố tự nhiên cấu thành nên đất như vi sinh
vật, các yếu tố vi lượng, hàm lượng các chất, thành phần cơ giới… quy định độ phì
tự nhiên của các loại đất. Đất đai vừa là sản phẩm của tự nhiên, vừa là sản phẩm của
lao động bởi đất đai vốn là sản phẩm của tự nhiên, chỉ khi con người tiến hành khai
phát đưa đất hoang hoá vào sử dụng để tạo ra sản phẩm cho con người, thì ruộng đất
đã kết tinh lao động con người và đồng thời trở thành sản phẩm của lao động. Cũng
do vậy mà đất đai đòi hỏi con người trong quá trình khai thác, sử dụng phải bảo tồn
diện tích và các thuộc tính tự nhiên của ruộng đất, bên cạnh đó phải có các biện
pháp cải tạo bồi dưỡng thường xuyên chống sự suy kiệt đất đai.
 Đất đai vừa là đối tượng lao động, vừa là tư liệu lao động: Khác với các yếu tố
sản xuất khác, đất đai trở thành đối tượng lao động khi con người với các kỹ năng
của mình sử dụng các tư liệu sản xuất (cày, bừa…) nhằm làm thay đổi hình dạng và
tính chất của rộng đất, sử dụng các đặc tính lý học, sinh học và hoá học của ruộng
đất để tác động vào cây trồng, vật nôi. Đây là đặc điểm riêng của đất đai, đòi hỏi
người sử dụng phải sử dụng các biện pháp canh tác hợp lý đối với từng loại đất ở
từng khu vực nhất định. Khi đất đai là đối tượng lao động, chúng ta cần bố trí cây
trồng, vật nuôi phù hợp để tận dụng tối đa độ phì nhiêu của đất đai.
Đối với sản xuất nông nghiệp đất đai là TLSX không thể thiếu và không thể
thay thế được. Trong lịch sử sự phát triển của loài người có rất nhiều hình thức sản


14

xuất nông nghiệp tồn tại nhưng tất cả đều dựa trên nền tảng cơ bản TLSX chủ yếu là
đất đai. Ruộng đất với độ phì nhiêu tự nhiên và nhân tạo sẽ quyết định loại cây
trồng, vật nuôi nào sẽ được đưa vào sản xuất với quy mô nào. Ngoài ra, vị trí của

ruộng đất cùng với các điều kiện giao thông, thuỷ lợi cũng có ảnh hưởng tới việc lựa
chọn hướng sản xuất. Dựa trên cơ sở cây trồng, vật nuôi trên đất người sản xuất
quyết định lựa chọn các loại TLSX khác bổ sung một cách phù hợp. Do đó, có thể
nói đất đai là TLSX chủ yếu của ngành nông nghiệp.
 Đất đai giới hạn về mặt không gian nhưng sức sản xuất của đất đai là không có
giới hạn: Đất đai là bộ phận bề mặt của vỏ trái đất, do vậy diện tích đất đai đưa vào
canh tác bị giới hạn bởi không gian nhất định, bao gồm: Giới hạn tương đối và Giới
hạn tuyệt đối
- Giới hạn tuyệt đối là diện tích đất đai của toàn bộ hành tinh, của từng quốc
gia, của từng địa phương là con số hữu hạn được xác định bằng các nghiệp vụ địa
chính, mốc biên giới.
- Giới hạn tương đối: Do không phải tất cả diện tích đất đai trên bề mặt trái
đất đều được đưa vào canh tác mà tuỳ thuộc vào điều kiện tự nhiên, địa hình, trình
độ phát triển kinh tế của từng nước mà diện tích đất nông nghiệp đưa vào canh tác
chiếm tỷ lệ phần trăm thích hợp. Giới hạn này chiếm tỷ lệ nhỏ hơn nhiều so với tổng
quỹ đất tự nhiên.
 Ruộng đất có vị trí cố định và chất lượng không đồng đều: Ruộng đất là tư liệu
sản xuất chủ yếu, có vị trí cố định gắn liền với điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế
và điều kiện xã hội của mỗi vùng, mỗi khu vực nhất định. Đặc điểm này của đất đai
đã đặt ra yêu cầu đối với người sử dụng là phải đưa vốn, lao động, máy móc, TLSX
khác tới đất đai và phối hợp một cách hợp lý để thu được hiệu quả cao nhất. Cũng
bởi đất đai có vị trí cố định đã tạo ra lợi thế so sánh cho từng vùng, từng địa phương
trong sản xuất nông nghiệp. Do vậy trong quá trình sử dụng đất đai chúng ta phải
thực hiện bố trí quy hoạch đất đai hợp lý như quy hoạch các khu canh tác, bố trí
giao thông thuỷ lợi phục vụ canh tác, các trung tâm dịch vụ… phù hợp nhằm tạo
điều kiện sử dụng đất có hiệu quả.


15


Quá trình kiến tạo của bề mặt trái đất đã tạo ra các loại đất khác nhau trên các
vùng, miền khác nhau, quan trọng hơn là do quá trình canh tác của con người theo
tập quán canh tác từng vùng, miền. Do vậy, đất đai có chất lượng không đồng đều
trong một khu vực hay trên một xứ đồng, một cánh đồng. Vì thế trong quá trình
canh tác sử dụng đất đai cần thiết phải cải tạo và bồi dưỡng đất, không ngừng nâng
dần độ đồng đều của ruộng đất ở từng cánh đồng, từng khu vực để đạt năng suất cây
trồng cao.
 Ruộng đất là tư liệu sản xuất chủ yếu không bị hao mòn và đào thải khỏi quá trình
sản xuất, nếu sử dụng hợp lý thì ruộng đất có chất lượng ngày càng tốt hơn.
Các tư liệu sản xuất khác sau thời gian sử dụng đều bị hao mòn hữu hình hoặc hao
mòn vô hình, cuối cùng sẽ bị đào thải khỏi quá trình sản xuất và thay thế bằng tư
liệu sản xuất mới, chất lượng cao hơn, giá rẻ hơn, còn Ruộng đất – tư liệu sản xuất
chủ yếu không bị hao mòn, nếu sử dụng hợp lý, chất lượng ruộng đất ngày càng tốt
hơn, sức sản xuất của ruộng đất lớn hơn, cho nhiều sản phẩm hơn trên một đơn vị
canh tác.
1.2.2. Một số khái niệm trong nghiên cứu về sử dụng đất
1.2.2.1. Kiểu sử dụng đất
Kiểu sử dụng đất là một dạng sử dụng đất được mô tả chi tiết hơn so với loại
hình sử dụng đất. Trong đánh giá đất đai một cách định lượng, dạng sử dụng đất nào
cũng chứa những kiểu sử dụng đất. Kiểu sử dụng đất thực ra không phải là một đơn
vị phân loại rõ ràng trong sử dụng đất đai. Nhưng, nó chỉ ra một đơn vị đất đai có
khả năng đo vẽ bản đồ, trong đó hệ thống biện pháp kỹ thuật được áp dụng, nó có
thể tính toán được đầu vào và đầu ra. Do đó kiểu sử dụng đất có thể được xem là
một trong những đối tượng hay đơn vị nghiên cứu và đánh giá hiệu quả sử dụng đất.
1.2.2.2. Hệ thống sử dụng đất
Theo FAO (1983) hệ thống sử dụng đất được hình thành khi một kiểu sử
dụng đất hoặc một loại hình sử dụng đất nào đó thể hiện trong một điều kiện cụ thể,
như việc bố trí các cây, con trên một diện tích nào đó. [24]



16

Hệ thống sử dụng đất bao gồm các kiểu sử dụng đất hoặc các loại hình sử
dụng đất trong sự phối hợp, tương tác qua lại với nhau, hỗ trợ lẫn nhau trên một
mảnh đất nhất định. Bởi thế về quy mô nó có thể lớn nhỏ tuỳ ý nhưng người sử
dụng đất có thể xây dựng nên các hệ thống sử dụng đất riêng biệt tuỳ thuộc vào khả
năng của mình. Khả năng ở đây bao gồm nhiều lĩnh vực: Tài chính, kỹ thuật, nhân
lực, môi trường tự nhiên, chính sách tác động… Tuy nhiên cũng có những hệ thống
sử dụng đất gần như đã có sẵn ở trong thực tế do quá trình sản xuất tạo nên. Chúng
được hình thành do sự tích luỹ kinh nghiệm lâu đời của những người dân địa
phương. Những việc nghiên cứu chỉ việc phát hiện nắm bắt và mô tả chúng.
1.2.2.3. Hệ thống canh tác
Là phương thức khai thác môi trường được hình thành và phát triển trong
lịch sử, một hệ thống sản xuất thích ứng với điều kiện sinh thái, khí hậu của không
gian nhất định đáp ứng với điều kiện và nhu cầu của thời điểm ấy.
Là hình thức tập hợp của một tổ hợp đặc thù các tài nguyên trong nông trại ở
một môi trường nhất định, bằng những phương phát sản xuất ra những sản phẩm
nông nghiệp sơ cấp.
1.2.2.4. Hệ thống cây trồng
Hệ thống cây trồng là thành phần và tỷ lệ các loài, giống cây trồng được bố
trí theo không gian và thời gian ở một cơ sở hay một vùng sản xuất. Nghĩa là số
lượng, mối quan hệ giữa các loài cây trồng trên một đơn vị diện tích về mặt vật lý
và sinh học.
Hệ thống cây trồng bao gồm các hình thức canh tác: Trồng xen, trồng gối,
luân canh, trồng thành băng, canh tác phối hợp, vườn hỗn hợp.
Công thức luân canh là tổ hợp trong không gian và thời gian của các cây
trồng trên một mảnh đất và biện pháp canh tác dùng để sản xuất chúng.
Tóm lại, hệ thống cây trồng là một thể thống nhất trong mối quan hệ tương
tác giữa các loại cây trồng, giống cây trồng được bố trí hợp lý trong không gian và



17

thời gian tức là mối quan hệ sinh thái vì vậy đối tượng nghiên cứu hệ thống cây
trồng là:
- Các công thức luân canh và hình thức đa canh.
- Cơ cấu cây trồng hoặc tỷ lệ diện tích dành cho mùa vụ cây trồng nhất định.
- Kỹ thuật canh tác cho cả hệ thống đó.
1.2.2.5. Mô hình sử dụng đất (MHSDĐ)
MHSDĐ có thể hiểu là một kiểu sử dụng đất hay một hệ thống sử dụng đất ở
địa phương nhưng nó thể hiện tính phổ biến, tính đại diện lâu dài.
 Các quan đểm về MHSDĐ
Hiện nay có rất nhiều các quan điểm, quan niệm khác nhau về MHSDĐ.
Quan điểm MHSDĐ đang được thay đổi dần dần, từ chỗ chỉ mang tính chất thuần
tuý là đáp ứng được nhu cầu của con người có lâu bền hay không? Có phù hợp với
năng lực thực tế của đất đai và các nguồn lực khác hay không?
 Đặc điểm chính của MHSDĐ
+ MHSDĐ mang tính đại diện cho một hoạt động sử dụng đất. Trong sản
xuất nông, lâm nghiệp bao gồm nhiều lĩnh vực: Nông nghiệp, Lâm nghiệp, chăn
nuôi…, các MHSDĐ phải đại diện cho từng lĩnh vực này như: nông nghiệp có
MHSDĐ lúa nước, mô hình vườn cây ăn quả…
+ MHSDĐ mang tính phổ biến: Có nghĩa là MHSDĐ đó có quy mô phải lớn
và đặc trưng cho khu vực đó.
+ MHSDĐ phải dễ nhận biết.
 Một MHSDĐ có hiệu quả khi nó đáp ứng được các nhu cầu chủ yếu sau
+ MHSDĐ phải phù hợp với đặc điểm, điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội, môi
trường sinh thái của vùng.
+ MHSDĐ phải có khả năng nhân rộng, dễ áp dụng và được người dân chấp
nhận.



18

+ MHSDĐ phải đảm bảo về mặt kinh tế, tức là mô hình đó phải đảm bảo
cuộc sống cho người dân, tăng thu nhập cho hộ nông dân.
+ Phải có khả năng tổng hợp các biện pháp canh tác, có thể cùng một lúc sử
dụng nhiều biện pháp kỹ thuật như kỹ thuật trồng cây công nghiệp, nông nghiệp,
lâm nghiệp.
+ MHSDĐ phải có khả năng sử dụng tiềm năng của đất đai một cách bền
vững, mô hình đó phải duy trì và ổn định lâu dài về năng suất cây trồng và chất
lượng. Bảo tồn phục hồi đất đai và phải phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội, tập
tục văn hoá, truyền thống canh tác của địa phương.
MHSDĐ chính là đối tượng được dùng để đánh giá hiệu quả kinh tế trong sử
dụng đất nông nghiệp và mục tiêu đề tài đã đặt ra. Tuy nhiên, do hạn chế về thời
gian và khả năng của bản thân, tác giả chỉ chọn phạm vi nghiên cứu là một số mô
hình sử dụng đất điển hình và trên cơ sở đánh giá hiệu quả kinh tế của chúng để đưa
ra một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng đất của các mô hình sử dụng đất.
1.2.3. Hiệu quả kinh tế mô hình sử dụng đất nông nghiệp
1.2.3.1. Khái niệm, nội dung, bản chất của hiệu quả sử dụng đất
 Khái niệm hiệu quả sử dụng đất
Hiệu quả kinh tế là một phạm trù kinh tế chung nhất, nó liên quan trực tiếp
tới nền sản xuất hàng hoá dịch vụ và với tất cả phạm trù, quy luật kinh tế khác. Mặt
khác Hiệu quả kinh tế cũng là một phạm trù kinh tế phản ánh chất lượng của các
hoạt động kinh tế nó phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực trong quá trình sản
xuất kinh doanh.
Ta có thể hiểu Hiệu quả sử dụng đất là mối quan hệ giữa các kết quả đạt
được so với các chi phí nguồn lực bỏ ra trong quá trình sử dụng đất.
Trong sản xuất nông nghiệp hiệu quả sử dụng đất còn được hiểu là toàn bộ
các lợi ích (trực tiếp và gián tiếp, trước mắt và lâu dài của cá nhân hộ và cộng đồng)
thu được từ các hoạt động trồng trọt và chăn nuôi diễn ra trên một đơn vị diện tích

đất sử dụng.


19

Hiệu quả sử dụng đất là mối quan tâm hàng đầu trong điều kiện diện tích đất
đai sử dụng trong sản xuất nông nghiệp đang ngày càng bị thu hẹp.
 Nội dung hiệu quả sử dụng đất
Từ những quan điểm trên, hiệu quả sử dụng đất được xem dưới ba góc độ:
Hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội và hiệu quả về mặt môi trường sinh thái.
- Hiệu quả kinh tế của sử dụng đất: Là kết quả hay lợi ích thu được từ hoạt
động trồng trọt và hoạt động chăn nuôi diễn ra trên 1 đơn vị diện tích đất sử dụng.
Các kết quả thu được bao gồm: số lượng sản phẩm sản xuất ra, giá trị sản phẩm, lợi
nhuận …
- Hiệu quả xã hội của việc sử dụng đất trong nông nghiệp: Là các tác động
của hoạt động canh tác trên đất tới các vấn đề xã hội ở địa phương như tác động tới
nhận thức và trình độ canh tác của người dân, vấn đề việc làm, thu nhập và đời
sống, văn hoá tinh thần, điều kiện sinh hoạt.
- Hiệu quả về mặt môi trường, sinh thái của việc sử dụng đất trong nông
nghiệp: Là việc các hoạt động canh tác của con người tới độ che phủ của cây trồng,
mức xói mòn, khả năng giữ đất, giữ nước của đất, đa dạng sinh học trong môi
trường sống…
Trong đề tài tác giả chỉ tập trung đánh giá hiệu quả kinh tế của các mô hình
sử dụng đất.
 Bản chất hiệu quả sử dụng đất
Bản chất đánh giá hiệu quả mô hình sử dụng đất: Là sự tính toán, phân tích,
xem xét mối quan hệ giữa phần thu được của mô hình (vật chất và phi vật chất) từ
các hoạt động trồng trọt và chăn nuôi diễn ra trên đất tính trên một đơn vị diện tích
đất sử dụng và các yếu tố tác động tới mối quan hệ trên.
Hiệu quả sử dụng đất trong nông nghiệp là xem xét phần thu được từ các

hoạt động trồng trọt và chăn nuôi tính trên một đơn vị diện tích đất canh tác, cũng
như các tác động của hoạt động trồng trọt và chăn nuôi tới các vấn đề xã hội ở địa
phương.


20

Hoạt động trồng trọt và chăn nuôi diễn ra trên diện tích đất canh tác có thể là
các hoạt động riêng lẻ như trồng trọt hoặc chăn nuôi, hoặc trồng trọt kết hợp với
chăn nuôi theo các mô hình chuyên canh hoặc các mô hình kết hợp. Trong nông
nghiệp, do đối tượng cây trồng, vật nuôi hết sức phong phú, kèm theo điều kiện đất
đai ở các vùng khác nhau, nên các mô hình chuyên canh hoặc kết hợp cũng rất đa
dạng. Tuỳ từng mục tiêu cụ thể, khi đánh giá hiệu quả sử dụng đất chúng ta lựa chọn
các mô hình điểm cho phù hợp.
1.2.3.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng đất

 Nhóm các chỉ tiêu thể hiện kết quả và chi phí sản xuất
+ Giá trị sản xuất (GO)
Giá trị sản xuất (Gross Outputs) là toàn bộ sản phẩm vật chất và dịch vụ sản
xuất được trong một đơn vị thời gian.
GO = (Qi x Pi)
Trong đó:

Qi là sản lượng của sản phẩm hoặc dịch vụ
Pi là giá bán của một đơn vị sản phẩm i

+ Chi phí trung gian (IC)
Chi phí trung gian (Intermediate Costs) là toàn bộ các khoản chi phí về vật
chất cho các hoạt động kinh tế, bao gồm các khoản chi phí về nguyên nhiên vật liệu,
giống, phân bón, dịch vụ mua ngoài…

IC = (Cj x Pj)
Trong đó:

Cj là lượng tiêu hao vật chất loại j
Pj là giá của một đơn vị vật chất loại j

+ Giá trị gia tăng (VA)
Giá trị gia tăng (Value Added) là giá trị được sáng tạo ra của chủ thể kinh tế
trong một thời kỳ nhất định.
Giá trị gia tăng VA được xác định trên cơ sở lấy tổng doanh thu trừ đi các
khoản chi phí trung gian.


×