Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

xung đột hình thức hợp đồng pháp luật Vn và Công ước viên 1980

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (106.58 KB, 18 trang )

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU………………………………………………………………… 2
1, Hợp đồng và xung đột hình thức hợp
đồng…………………………… 3
2, Xung đột hình thức hợp đồng giữa pháp luật Việt Nam và
Công ước viên 1980……………………………………………………
4
2.1, Hình thức hợp đồng theo Công ước viên
1980……………………... 4
2.2, Hình thức hợp đồng theo pháp luật Việt Nam
……………………… 5
2.3, Xung đột pháp luật về hình thức hợp đồng và bảo lưu
điều khoản hình thức hợp
đồng…………………………………….. 7
3, Giải quyết yêu cầu thi hành quyết định trọng tài nước ngoài
về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc
tế…………………………….. 10
KẾT LUẬN ……………………………………………………………. 15
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………. 16

1


MỞ ĐẦU
Bước vào thời kỳ hội nhập, một trong những đòi hỏi tất yếu
cho Việt Nam là phải hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia
để tương thích với pháp luật quốc tế. Tuy nhiên, điều đó
không đồng nghĩa với việc 2 hệ thống pháp luật này luôn luôn
có sự tương đồng, vẫn luôn có sự xung đột giữa pháp luật
quốc gia và pháp luật quốc tế.


Hình thức hợp đồng là một trong những cơ sở pháp lý để xác
định tính hợp pháp của hợp đồng, nó có một vai trò pháp lý
quan trọng, đặc biệt là trong thương mại quốc tế. Có thể thấy
ở hầu hết pháp luật các quốc gia cũng như pháp luật quốc tế
đều quy định một số các hình thức của hợp đồng khá giống
nhau, chỉ cần hình thức đó thể hiện, biểu đạt được sự thỏa
thuận, ý chí và nguyện vọng của các bên. Tuy nhiên, không
phải tất cả các quốc gia đều thừa nhận hết các hình thức đó ở
trong pháp luật quốc gia mình, điều đó tạo nên xung đột hình
thức hợp đồng. Sự xung đột pháp luật về hình thức hợp đồng
có thể dẫn đến những hệ quả ảnh hưởng không chỉ cho các
bên mà còn cho chính cơ quan nhà nước của quốc gia sở tại
giải quyết vụ việc có liên quan. Do đó, để làm rõ vấn đề này,
tôi lựa chọn đề tài “Xung đột hình thức hợp đồng” trong
mua bán hàng hóa quốc tế theo pháp luật Việt Nam và Công
ước viên 1980 của Liên Hợp Quốc về mua bán hàng hóa quốc
tế.

2


NỘI DUNG

1, Hợp đồng và Xung đột hình thức hợp đồng.
Thuật ngữ hợp đồng (contractus) theo như cách hiểu có
nghĩa là “ràng buộc”. Ở các nước có nền kinh tế thị trường
phát triển, không có sự tách biệt khái niệm về hợp đồng
thương mại hay hợp đồng kinh doanh, nó đều được hiểu
chung là loại hợp đồng dân sự và đều được chịu sự điều chỉnh
của pháp luật chung nhất. Theo đó, Điều 420 Bộ luật dân sự

Cộng Hòa Liên Bang Nga quy định: “hợp đồng là sự thỏa
thuận giữa hai hay nhiều bên về việc xác lập, thay đổi hoặc
chấm dứt quyền và nghĩa vụ”. Bộ luật dân sự Cộng hòa pháp
1804 quy định: “Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa hai hay
nhiều bên về việc chuyển giao một vật, làm hay không làm
một việc”.
Pháp luật Việt Nam, ở những bản tiền luật dân sự, thuật ngữ
“khế ước” được sử dụng thay cho “hợp đồng”. Tuy nhiên, khái
niệm này dường như chưa thật sự chặt chẽ, bởi tất cả các khế
ước là hợp đồng nhưng ngược lại, tất cả các hợp đồng không
hẳn là khế ước. Lần đầu tiên, khái niệm hợp đồng dân sự được
ghi nhận tại Pháp lệnh hợp đồng dân sự năm 1990 như sau:
“Hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác
lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ của các bên
trong mua bán, thuê, vay, mượn, tặng cho tài sản; làm hoặc
không làm một việc, dịch vụ hoặc các thỏa thuận khác mà
trong đó một trong các bwn nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt,
tiêu dùng”. Bên cạnh đó, vào thời kỳ này, pháp lệnh hợp đồng
3


kinh tế 1989 cũng đưa ra khái niệm riêng về hợp đồng kinh
tế. Về sau, bộ luật dân sự 2005 được ban hành đã mở rộng
phạm vi điều chỉnh các quan hệ hợp đồng, không chỉ bó hẹp
trong lĩnh vực dân sự mà bao gồm cả lĩnh vực kinh doanh,
thương mại. Và cũng từ thời điểm đó, hệ thống pháp luật Việt
Nam không còn một khái niệm riêng cho hợp đồng thương
mại, mà cũng như các nước kinh tế thị trường khác, mọi hợp
đồng được ký kết phục vụ cho hoạt động dân sự hay thương
mại đều được hiểu là hợp đồng dân sự và chịu sự điều chỉnh

của một bộ luật chung nhất, đó là Bộ luật dân sự.
Theo quy định hiện hành, khái niệm hợp đồng được quy định
tại Điều 385 Bộ luật dân sự 2015 như sau: “Hợp đồng là sự
thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm
dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”.
Hợp đồng trong kinh doanh, thương mại có bản chất của
một hợp đồng nói chung, mang bản chất của hoạt động trong
kinh doanh, là hoạt động vì mục đích lợi nhận, ta có thể hiểu
khái niệm như sau: hợp đồng thương mại là sự thỏa thuận của
các chủ thể kinh doanh thương mại nhằm xác lập, thay đổi
hoặc chấp dứt các quyền và nghĩa vụ trong quan hệ kinh
doanh – thương mại.
Việc hội nhập kinh tế quốc tế dẫn đến các quan hệ pháp luật
ngày càng phát triển và không còn giới hạn trong phạm vi
một quốc gia và chịu sự điều chỉnh của 2 hay nhiều hệ thống
pháp luật khác nhau. Do đó dẫn đến việc xung đột pháp luật
giữa các bên khi tham gia vào hợp đồng, trong đó có xung đột
về hình thức hợp đồng. Vậy xung đột hình thức hợp đồng là
4


gì? Có thể hiểu xung đột hình thức hợp đồng hay nói cách
khác là xung đột pháp luật về hình thức hợp đồng là khi có sự
quy định khác nhau của pháp luật các quốc gia hoặc pháp
luật quốc gia và pháp luật quốc tế về hình thức hợp đồng.
Trong phạm vi bài tiểu luận này, sẽ tập trung vào việc tìm
hiểu và phân tích các quy phạm của pháp luật Việt Nam và
Công ước viên năm 1980 để làm rõ vấn đề xung đột pháp luật
về hình thức hợp đồng trong quan hệ mua bán hàng hóa quốc
tế, đồng thời nêu ra hướng giải quyết xung đột đó.

2, Xung đột pháp luật về hình thức hợp đồng giữa pháp
luật Việt Nam và Công ước viên 1980.
2.1, Hình thức hợp đồng theo công ước viên 1980.
Tại điều 11 của Công ước viên 1980 có quy định như sau:
“Hợp đồng mua bán không cần thiết phải được ký kết hoặc
xác nhận bằng văn bản hay tuân thủ một yêu cầu nào khác
về hình thức của hợp đồng. Hợp đồng có thể được chứng minh
bằng mọi cách, kể cả những lời khai của nhân chứng.” Như
vậy, ta có thể hiểu khái quát như sau:
-

Thứ nhất, về hình thức hợp đồng trong mua bán hàng
hóa quốc tế giữa các thành viên của công ước viên
không bắt buộc là bằng văn bản hay phải tuân thủ một
yêu cầu nào khác mang tính chất ràng buộc về mặt hình

-

thức.
Thứ hai, các bên tham gia có thể chứng minh là đã có sự
giao kết hợp đồng bằng mọi cách trong khả năng, kể cả
lời khai của bên thứ ba, được coi là nhân chứng.

5


Như vậy, có thể thấy sự mở rộng của Công ước viên cho
phép các chủ thể có thể tự do lựa chọn bất kỳ một hình thức
thỏa thuận nào trong hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế,
có thể là dưới hình thức văn bản, lời nói, hành vi hoặc các

hình thức khác. Điều này có thể thấy như là một điểm thuận
lợi cho việc xác lập hợp đồng giữa các bên. Với ưu điểm nhanh
gọn, mang tính chất mở, không hạn chế, không có một sự kìm
hãm khuôn khổ nào về hình thức hợp đồng. Tuy nhiên, mang
nhược điểm đem lại rủi ro cao và có thể gặp khó khăn trong
vấn đề giải quyết tranh chấp. Điều luật này không mang tính
chất tuyệt đối đối với các thành viên tham gia công ước. Cụ
thể về tính tương đối này được quy định rõ hơn tại điều 96
dẫn chiếu điều 12 của công ước sẽ được phân tích sau.
2.2, Hình thức hợp đồng theo pháp luật Việt Nam.
Để tránh sự chồng chéo trong các quy định pháp luật, Bộ
luật dân sự 2015 không có một điều khoản cụ thể quy định
riêng về hình thức hợp đồng, mà được hiểu thông qua hình
thức của giao dịch dân sự. Theo như quy định tại Điều 116:
“Giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn
phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa
vụ dân sự”, có thể hiểu hợp đồng dân sự là một giao dịch dân
sự đa phương và nó tuân thủ hình thức của một giao dịch dân
sự được quy định tại khoản 1 điều 119, Bộ luật dân sự 2015
bao gồm: lời nói, bắng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể.
Khoản 1 điều 119 cũng quy định rằng “Giao dịch dân sự
thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ
liệu theo quy định của pháp luật về giao dịch điện thẻ được
coi là giao dịch bằng văn bản”.
6


Tuy nhiên, không phải tất cả các hợp đồng đều được phép
thể hiện dưới một trong các hình thức quy định tại khoản 1
điều 19 nêu trên. Khoản 2 điều 119 quy định về các trường

hợp giao dịch dân sự phải được thể hiện bằng văn bản có
công chứng chứng thực, đăng ký. Ví dụ như hợp đồng mua
bán nhà, giấy chuyển nhượng quyền sử dụng đất,…
Về hình thức của hợp đồng kinh doanh thương mại nói chung
và hợp đồng mua bán hàng hóa nói riêng, ta thấy, như đã đề
cập, đều là hợp đồng dân sự và chịu sự điều chỉnh của pháp
luật chung nhất chisng là Bộ luật dân sự. Tuy nhiên, tại Khoản
1 điều 4 quy định về ưu tiên áp dụng luật thương mại và pháp
luật liên quan có quy định: “Hoạt động thương mại phải tuân
theo luật thương mại và pháp luật có liên quan”, và tại khoản
3 điều này quy định: “Hoạt động thương mại không được quy
định trong Luật thương mại và trong các luật khác thì áp dụng
quy định của Bộ luật dân sự”, tức là trong hoạt động có tính
chất thương mại, luật thương mại được ưu tiên áp dụng. Bộ
luật dân sự cũng không phủ định điều này, miễn sao “không
được trái với các nguyên tác cơ bản của pháp luật dân sự”
(khoản 2 điều 4 Bộ luật dân sự 2015). Như vậy, theo đó, về
hình thức hợp đồng, mặc dù Bộ luật dân sự đã quy định các
hình thức bằng lời nói, bằng văn bản, bằng hành vi cụ thể,
nhưng về hợp đồng kinh doanh – thương mại, nếu Luật thương
mại – là luật chuyên ngành điều chỉnh lĩnh vực cụ thể - có quy
định khác và không trái với nguyên tắc cơ bản của pháp luật
dân sự thì đương nhiên được ưu tiên áp dụng.
Khoản 2 điều 24 Luật Thương mại 2005 quy định: “Đối với
các loại hợp đồng mua bán hàng hóa mà pháp luật quy định
7


phải được lập thành văn bản thì phải tuân theo quy định đó”
và khoản 2 điều 27: “Mua bán hàng hóa quốc tế phải được

thực hiện trên cơ sở hợp đồng bằng văn bản hoặc bằng hình
thức khác có giá trị pháp lý tương đương”, hình thức khác có
giá trị pháp lý tương đương ở đây được hiểu như là điện báo,
fax, telex, thông điệp dữ liệu máy tính khác,…
Như vậy, Pháp luật Việt nam quy định hợp đồng nói chũng
và hợp đồng thương mại nói riêng được thể hiện dưới các hình
thức lời nói, văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể, trừ các trường
hợp pháp luật quy định hợp đồng bằng văn bản, có công
chứng, chứng thực, đăng ký thì phải tuân theo quy định đó.
Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế phải được lập bằng văn
bản hoặc các hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương.
2.3, Xung đột pháp luật về hình thức hợp đồng và bảo
lưu điều khoản hình thức hợp đồng.
Từ cách hiểu về xung đột pháp luật về hình thức hợp đồng
đã phân tích ở phần 2.1, và những quy định về hình thức hợp
đồng trong công ước viên 1980 và pháp luật việt nam, ta
nhận thấy có sự xung đột pháp luật về quy định hình thức cho
hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Trong khi Công ước viên
1980 cho phép hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế được thể
hiện dưới mọi hình thức mà không bị bó buộc hình thức văn
bản hay tuân thủ bất kỳ một yêu cầu nào khác về hình thức
thì pháp luật Việt nam quy định hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế trong hoạt động xuất, nhập khẩu, tạm nhập, tái xuất,
tái nhập, chuyển khẩu phải được lập bằng văn bản và các
hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương.
8


Việt nam tham gia Công ước viên 1980 của Liên Hợp Quốc
về mua bán hàng hóa quốc tế vào cuối năm 2015. Cuối tháng

11/2015, Chủ tịch nước đã ký quyết định số 2588/2015/QĐCTN về việc gia nhập công ước viên này. Tại điều 1 của quyết
định về điều khoản mà Việt Nam bảo lưu : “bảo lưu quy định
về hình thức của hợp đồng nêu tại Điều 11, Điều 29 và phần 2
của Công ước, phù hợp với quy định của Điều 12 và Điều 96
của Công ước.”
Vậy Bảo lưu theo quyết định số 2588/2015 của Chủ tịch
nước là gì? Đó là hành vi bảo lưu điều ước quốc tế. Bảo lưu
theo quy định của luật quốc tế được hiểu là “một tuyên bố
đơn phương, bất kể cách viết hoặc tên gọi như thế nào, của
một quốc gia đưa ra khi ký kết, phê chuẩn, chấp nhận, phê
duyệt hoặc gia nhập một điều ước quốc tế, nhằm qua đó loại
bỏ hoặc sửa đổi hiệu lực pháp lý của một số quy định của
điều ước trong việc áp dụng chúng đối với quốc gia đó” (điểm
d, khoản 1 Điều 2 Công ước viên về luật điều ước quốc tế năm
1969). Luật điều ước quốc tế Việt Nam tại khoản 15 Điều 2
cũng giải thích “Bảo lưu là tuyên bố của nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam hoặc bên ký kết nước ngoài khi ký, phê
chuẩn, phê duyệt hoặc gia nhập điều ước quốc tế nhiều bên
nhằm loại trừ hoặc thay đổi hiệu lực pháp lúy của một hoặc
một số quy định trong điều ước quốc tế”. Câu hỏi đặt ra là
trong trường hợp nào thì một quốc gia được bảo lưu điều ước
quốc tế? Và việc bảo lưu theo quyết định số 2588/2015 của
Chủ tịch nước là có đúng với pháp luật quốc gia và luật quốc
tế? Tại Điều 19 của Công ước viên 1969 liệt kê ra các trường
hợp không được bảo lưu điều khoản của điều ước quốc tế và
9


tại Điều 20 quy định về chấp thuận và bác bỏ bảo lưu của một
quốc gia, khái quát chung 2 điều luật này có thể thấy điều

kiện để một quốc gia được bảo lưu điều khoản của điều ước
quốc tế bao gồm các điều kiện sau:
+ Điều khoản đó được phép bảo lưu theo quy định trong Điều
ước quốc tế.
+ Đối với Điều ước quốc tế không quy định điều khoản bảo
lưu nhưng cũng không có quy định cấm bảo lưu thì Quốc gia
được phép bảo lưu khi không có sự phản đối của một hoặc các
quốc gia thành viên khác trong một thời gian nhất định, hoặc
khi được sự đồng ý của các quốc gia còn lại về sự bảo lưu điều
khoản đó.
Về điều khoản bảo lưu được quy định trong Công ước viên
1980, tại điều 96 có quy định: “Nếu luật của một quốc gia
thành viên quy định hợp đồng mua bán phải được ký kết hay
xác nhận bằng văn bản thì quốc gia đó có thể bất cứ lúc nào
tuyên bố chiếu theo Điều 12, rằng mọi quy định của các Điều
11, 29 hay của phần thứ hai Công ước này cho phép một hình
thức khác với hình thức văn bản cho việc ký kết, sửa đổi hay
chấm dứt hợp đồng mua bán, hay cho mọi chào hàng, chấp
nhận chào hàng hay sự thể hiện ý định nào khác sẽ không áp
dụng nếu như chỉ cần một trong các bên có trụ sở thương mại
tại quốc gia.”, chiếu theo điều 12 của Công ước : “Bất kỳ quy
định nào của điều 11, điều 29 hoặc phần thứ hai của Công
ước này cho phép hợp đồng mua bán, việc thay đổi hoặc đình
chỉ hợp đồng theo sự thỏa thuận của các bên hoặc đơn chào
hàng và chấp nhận đơn chào hàng hay bất kỳ sự thể hiện ý
10


chí nào của các bên được lập và không phải dưới hình thức
viết tay mà dưới bất cứ hình thức nào sẽ không được áp dụng

khi dù chỉ một trong số các bên có trụ sở thương mại đặt ở
nước là thành viên của Công ước mà nước đó đã tuyên bố bảo
lưu theo điều 96 của Công ước này. Các bên không được
quyền làm trái với điều này hoặc sửa đổi hiệu lực của nó.”
Như vậy, Công ước viên 1980 cho phép quốc gia thành viên
của mình bảo lưu điều khoản về hình thức hợp đồng, một
quốc gia thành viên có luật quốc gia quy định hợp đồng mua
bán nói chung, hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế nói riêng
phải được ký kết hay xác nhận bằng văn bản thì quốc gia đó
có quyền được bảo lưu Điều 11, Điều 29 và phần thứ hai của
công ước.
Như vậy, có thể thấy việc bảo lưu của Việt Nam theo Điều 1
quyết định số 2588/2015/QĐ-CTN là phù hợp với luật pháp
quốc tế cũng như pháp luật quốc gia về việc bảo lưu điều ước
quốc tế, và có thể thấy trong trường hợp này, chúng ta bảo
lưu theo điều kiện điều khoản được phép bảo lưu theo quy
định trong Điều ước quốc tế (công ước 1980).
3. Giải quyết yêu cầu thi hành quyết định trọng tài
nước ngoài về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế.
Mua bán hàng hóa quốc tế là quan hệ thuộc sự điều chỉnh
của tư pháp quốc tế, có sự tham gia của các chủ thể có quốc
tịch, trụ sở ở các quốc gia khác nhau, từ đó dẫn đến các hệ
thuộc luật khác nhau có thể cùng điều chỉnh một quan hệ
pháp luật. Trong trường hợp các bên không có thỏa thuận về
cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp, thường sẽ căn
11


cứ đến nguyên tắc quốc tịch, nguyên tắc nơi cư trú (nơi có trụ
sở) của các bên để xác định cơ quan của quốc gia nào có

thẩm quyền giải quyết tranh chấp. Tuy nhiên, một tranh chấp
có được giải quyết triệt để hay không cần phải đi tới bước cuối
cùng, thi hành bản án, quyết định của cơ quan xét xử. Trong
trường hợp bên phải thi hành có nơi cư trú, trụ sở trên địa
phận của quốc gia giải quyết tranh chấp thì việc thi hành bản
án, quyết định sẽ không mấy khó khăn cho bên được thi hành.
Ngược lại, bên phải thi hành có quốc tịch, nơi cư trú hoặc trụ
sở ở quốc gia khác, và bên phải thi hành không có thái độ hợp
tác trong việc thi hành bản án, quyết định đã được đưa ra. Lúc
này, để đảm bảo quyền lợi cho mình, bên được thi hành cần
tới sự can thiệp của cơ quan có thẩm quyền của quốc gia sở
tại nơi bên phải thi hành có quốc tịch, có nơi cư trú, trụ sở,
thông qua hành động yêu cầu công nhận và cho thi hành bản
án, quyết định tại quốc gia sở tại. Chúng ta sẽ nêu ra ví dụ về
tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế để làm rõ
vấn đề này.
Ví dụ đặt ra, một doanh nghiệp Việt Nam vi phạm hợp đồng
mua bán hàng hóa quốc tế, bị một trung tâm trọng tài quốc tế
xét xử buộc bồi thường cho doanh nghiệp nước ngoài số tiền
(khoảng 800.000 USD) Khi doanh nghiệp nước ngoài mang
quyết định trọng tài vào Việt Nam yêu cầu nhà nước Việt Nam
cho thi hành án quyết định đó tại Việt Nam. Trong trường hợp
này, sẽ được giải quyết như thế nào theo pháp luật Việt Nam?
Trong tình huống trên, ta nhận thấy:

12


-


Đây là tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc

-

tế, thuộc đối tượng điều chỉnh của tư pháp quốc tế.
Doanh nghiệp Việt Nam là bên vi phạm hợp đồng.
Doanh nghiệp nước ngoài yêu cầu nhà nước Việt Nam
cho thì hành quyết định của trung tâm trọng tài quốc tế.

Nhận thấy, doanh nghiệp Việt Nam ở tình huống này được
hiểu là doanh nghiệp được thành lập theo pháp luật Việt
Nam và có trụ sở tại Việt Nam. Do đó, căn cứ vào khoản 1
Điều 425 Bộ Luật tố tụng dân sự 215, người được thi hành
(là doanh nghiệp nước ngoài) có quyền yêu cầu tòa án Việt
Nam công nhận và cho thi hành phán quyết của trung tâm
trọng tài quốc tế này.
Để giải quyết tình huống này, ta có các trường hợp sau:
● Trường hợp Việt nam và quốc gia của trung tâm trọng tài
quốc tế ra phán quyết có điều ước quốc tế về tương trợ tư
pháp.
Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 424: “phán quyết của
trọng tài nước ngoài mà nước đó và Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam cùng là thành viên của điều ước quốc tế về
công nhận và cho thi hành phán quyết của trọng tài nước
ngoài” thì được xem xét công nhận và cho thi hành tại Việt
nam theo nguyên tắc dựa trên cơ sở những quy định của điều
ước quốc tế đó. Do vậy, trong trường hợp này, nếu trong điều
ước quốc tế về tương trợ tư pháp có quy định về việc phán
quyết tại 1 quốc gia của điều ước thì đương nhiên được công
nhận tại quốc gia còn lại, khi đó, yêu cầu của doanh nghiệp

nước ngoài đương nhiên được công nhận và cho thi hành tại
13


Việt Nam, doanh nghiệp nước ngoài được quyền yêu cầu cơ
quan thi hành án đảm bảo cho việc thi hành phán quyết trọng
tài nước ngoài mà không cần trải qua nhiều thủ tục tố tụng
khác. Hiện nay, hầu hết trong các hiệp định tương trợ tư pháp
mà Việt Nam tham gia đều có quy định này.
Trong trường hợp điều ước quốc tế về tương trợ tư pháp
không có điều khoản đương nhiên công nhận mà lại có quy
định rõ ràng về điều kiện, trình tự thủ tục để một phán quyết
trọng tài nước ngoài được công nhận và cho thi hành tại quốc
gia còn lại, Việt nam trên cơ sở tuân theo những quy định đó
để xem xét cho thi hành hay không cho thi hành quyết định
trọng tài theo yêu cầu của doanh nghiệp nước ngoài.
● Trường hợp giữa Việt Nam và quốc gia của trung tâm trọng
tài quốc tế ra phán quyết chưa có điều ước quốc tế về tương
trợ tư pháp.
Theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 424, phán quyết của
trọng tài nước ngoài không thuộc trường hợp giữa 2 quốc gia
đã có điều ước quốc tế về tương trợ tư pháp, thì được xem xét
công nhận và cho thi hành tại Việt Nam trên cơ sở nguyên tắc
có đi có lại. Đối với những quốc gia chưa cùng Việt Nam thực
hiện nguyên tắc có đi có lại thì sẽ áp dụng pháp luật việt nam
để xem xét công nhận và cho thi hành. Trong trường hợp này,
tôi đi sâu vào khía cạnh giữa 2 nước chưa có nguyên tắc có đi
có lại từ trước.
Trước tiên, cần xem xét về hình thức hợp đồng và thẩm
quyền giải quyết.

14


Đối với hình thức hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, pháp
luật Việt Nam như đã dẫn chứng ở trên, yêu cầu phải được lập
thành văn bản hoặc các hình thức liên quan. Do đó, nếu các
bên đáp ứng được về hình thức hợp đồng thì tòa án sẽ tiếp tục
xem xét các yêu tốc khác. Trong trường hợp do pháp luật quốc
gia của doanh nghiệp nước ngoài cũng giống như quy định
của Công ước viên 1980, không có yêu cầu ràng buộc về hình
thức hợp đồng hoặc có cho phép bất kỳ một hình thức nào
khác ngoài văn bản và hình thức tương đương. Và 2 bên chủ
thể đã thiết lập hợp đồng theo ý chí này, thì do Việt Nam đã
bảo lưu điều khoản về hình thức hợp đồng theo Công ước Viên
1980 và chỉ chấp nhận hình thức hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế bằng văn bản hoặc hình thức pháp lý tương đương
nên Hợp đồng này, theo pháp luật Việt Nam sẽ là vô hiệu và
tòa án sẽ không xem xét thêm mà sẽ không cho công nhận và
thi hành phán quyết của trung tâm trọng tài quốc tế nước
ngoài theo yêu cầu của doanh nghiệp nước ngoài.
Trong trường hợp hợp đồng mua bán đáp ứng theo pháp luật
Việt Nam, tòa án tiến hành xem xét về thẩm quyền xét xử, tức
xem xét cơ quan đã ra phán quyết là trung tâm trọng tài quốc
tế nước ngoài có thẩm quyền xét xử tranh chấp này hay
không. Pháp luật Việt Nam yêu cầu các bên phải có thỏa
thuận cơ quan giải quyết là trọng tài thì trung tâm trọng tài
mới có thẩm quyền giải quyết, thỏa thuận này có thể là trước
hoặc sau khi xảy ra tranh chấp, nhưng không được phép thỏa
thuận khi đã có đơn yêu cầu giải quyết tại tòa án có thẩm
quyền. Theo khoản 1 điều 16 luật trọng tài thương mại 2010,

thỏa thuận trọng tài có thể được thể hiện trong 1 điều khoản
15


của hợp đồng hoặc thỏa thuận riêng, nhưng bắt buộc phải
bằng văn bản (điều 17). Như vậy, tòa án Việt Nam sẽ xem xét
giữa doanh nghiệp Việt Nam và doanh nghiệp nước ngoài có
sự thỏa thuận bằng văn bản thống nhất lựa chọn trung tâm
trọng tài thương mại nước ngoài là cơ quan giải quyết tranh
chấp hay không.
+ Nếu thỏa thuận đáp ứng, sau những thời hạn và thủ tục tố
tụng cần thiết, phán quyết sẽ được công nhận và cho thi hành
tại Việt Nam, tất nhiên, chúng ta bỏ qua những yêu cầu về hồ
sơ, giấy tờ, tài liệu mà bên doanh nghiệp nước ngoài phải
cung cấp cho tòa án Việt Nam, mặc định rằng mọi thủ tục yêu
cầu đều được đáp ứng đúng theo luật định.
+ Nếu không có sự thỏa thuận hoặc thỏa thuận bằng hình
thức khác văn bản, hình thức tương đương văn bản thì sẽ bị
bác bỏ yêu cầu cho thi hành phán quyết trọng tài của doanh
nghiệp nước ngoài.
Ngoài ra, nếu thuộc vào một trong các trường hợp quy định
tại khoản 1, khoản 2 Điều 459 Bộ Luật tố tụng dân sự 2015 thì
phán quyết của trung tâm trọng tài nước ngoài cũng không
được công nhận và cho thi hành tại Việt Nam. Như: năng lực
ký kết thỏa thuận của các bên, theo pháp luật nước ngoài nơi
trung tâm trọng tài ra phán quyết, thỏa thuận trọng tài không
có hiệu lực, phán quyết vượt quá yêu cầu của các bên, phán
quyết chưa có hiệu lực ở nước sở tại của trọng tài ra phán
quyết, phán quyết đã bị hủy ở nước ngoài,…


16


KẾT LUẬN
Ngày nay, khi quan hệ ngoại giao ngày càng được các quốc
gia coi trọng, chính trị đi liền với kinh tế. Quan hệ giữa các
chủ thể quốc tế ngày càng có quy mô lớn với các hình thức,
phương thức khác nhau, điều đó đòi hỏi phải có những quy
phạm pháp luật có thể điều chỉnh, kiểm soát cũng như giúp
cho trật tự cân bằng cho những hoạt động vượt ra khỏi lãnh
thổ một quốc gia, một châu lục, đồng thời cũng là thúc đẩy sự
phát triển của kinh tế, xã hội, phục vụ cho cuộc sống của con
người. Do đó, các nước luôn ra sức hoàn thiện hệ thống pháp
luật của quốc gia mình cũng như tăng cường sự hợp tác quốc
tế về pháp luật thông qua các điều ước quốc tế song phương,
đa phương. Việc có sự xung đột trong một “biển” những quy
phạm pháp luật là điều không thể tránh khỏi. Để điều hòa
được thực trạng đó, đòi hỏi phải có sự nỗ lực của toàn thể
cộng đồng các quốc gia trên thế giới. Là một quốc gia còn non
trẻ trong nền kinh tế thị trường nói chung và hoạt động mua
bán hàng hóa quốc tế nói riêng, Việt Nam cũng đang ngày
một cố gắng “hòa mình” hội nhập cả về kinh tế lẫn Luật pháp.

17


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1, Bộ Luật dân sự 2015.
2, Luật thương mại 2005.
3, Bộ Luật tố tụng dân sự 2015.

4, Luật trọng tài thương mại 2010.
6, Công ước viên 1980 của Liên Hợp quốc.

18



×