ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
LAYPHONE PHANMAHESACK
HOẠT ĐỘNG KINH TẾ, VĂN HÓA CỦA CỘNG ĐỒNG
NGƢỜI VIỆT NAM TẠI TỈNH KHĂM MUỘN (LÀO)
TỪ NĂM 1947 ĐẾN NĂM 2015
Chuyên ngành: LỊCH SỬ VIỆT NAM
Mã số: 60.22.03.13
LUẬN VĂN THẠC SĨ NHÂN VĂN
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. KIM NGỌC THU TRANG
THÁI NGUYÊN - 2016
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan công trình nghiên cứu: “Hoạt động kinh tế, văn hóa
của cộng đồng người Việt Nam tại tỉnh Khăm Muộn (Lào) từ năm 1947 đến
năm 2015” dưới sự hướng dẫn của TS. Kim Ngọc Thu Trang là kết quả
nghiên cứu của cá nhân tôi, kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực
chưa được công bố.
Thái Nguyên, ngày ..... tháng ..... năm 2016
Tác giả luận văn
Layphone PHANMAHESACK
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
i
MỤC LỤC
Lời cam đoan ..................................................................................................... i
Lời cảm ơn ....................................................................................................... ii
Mục lục ........................................................................................................... iii
Danh mục các bảng.......................................................................................... iv
MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài .......................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................ 2
3. Đối tượng, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu ................................................ 5
4. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu ................................................... 6
5. Đóng góp của luận văn. ................................................................................. 7
6. Bố cục luận văn ............................................................................................ 7
Chƣơng 1: KHÁI QUÁT VỀ TỈNH KHĂM MUỘN (LÀO) VÀ QUÁ
TRÌNH HÌNH THÀNH CỘNG ĐỒNG NGƢỜI VIỆT NAM TẠI KHĂM
MUỘN ............................................................................................................. 8
1.1. Khái quát về tỉnh Khăm Muộn ................................................................... 8
1.1.1. Lịch sử hành chính .................................................................................. 8
1.1.2. Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên................................................................ 9
1.1.3. Các thành phần dân tộc và đơn vị hành chính. ...................................... 11
1.2. Quá trình người Việt đến Lào và định cư tại tỉnh Khăm Muộn ................ 11
1.2.1. Thời kỳ phong kiến nhà Nguyễn. .......................................................... 12
1.2.2. Thời kỳ Pháp thuộc ............................................................................... 14
1.2.3. Thời kỳ sau Pháp thuộc ......................................................................... 16
1.2.4. Thời kỳ sau giải phóng và phát triển kinh tế .......................................... 17
1.3. Chính sách của chính phủ Lào đối với cộng đồ ng ng ười Việt Nam .......... 19
Kết luận chương 1 .......................................................................................... 23
Chƣơng 2:HOẠT ĐỘNG KINH TẾ CỦACỘNG ĐỒNG NGƢỜI VIỆT
NAM TẠI TỈNH KHĂM MUỘN TỪ NĂM 1947 ĐẾN NĂM 2015 ........... 24
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu –iv
ĐHTN
2.1. Nông nghiệp, thủ công nghiê ̣p , công nghiê ̣p ............................................ 24
2.1.1. Nông nghiệp ......................................................................................... 24
2.1.2. Thủ công nghiệp ................................................................................... 25
2.1.3. Công nghiệp .......................................................................................... 26
2.2. Thương mại và dịch vụ ............................................................................ 28
2.2.1. Thương mại .......................................................................................... 28
2.2.2. Dịch vụ ................................................................................................. 29
Chƣơng 3: HOẠT ĐỘNG VĂN HÓA CỦA CỘNG ĐỒNG NGƢỜI VIỆT
NAM TẠI TỈNH KHĂM MUỘN TỪ NĂM 1947 ĐẾN NĂM 2015 ........... 36
3.1. Văn hóa vật chất ...................................................................................... 36
3.1.1. Ẩm thực ................................................................................................ 36
3.1.2. Trang phục ............................................................................................ 37
3.1.3. Nhà ở .................................................................................................... 40
3.2. Văn hóa tinh thần ..................................................................................... 41
3.2.1. Giáo dục bảo tồn bản sắc ngôn ngữ Việt ............................................... 41
3.2.2. Hôn nhân và gia đình ............................................................................ 46
3.2.3. Tang ma ................................................................................................ 52
3.2.4. Tôn giáo, tín ngưỡng ............................................................................. 57
KẾT LUẬN ................................................................................................... 63
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 65
PHỤ LỤC
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – vĐHTN
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Lào là một quốc gia nằm ở khu vực Đông Nam Á, có lịch sử và văn hóa
lâu đời, có truyền thống yêu nước sâu sắc và tinh thần đoàn kết với các nước
trong khu vực cũng như các nước yêu hòa bình trên thế giới.
Với 2.067 km đường biên giới chung, Việt Nam - Lào là hai nước láng
giềng anh em gần gũi, có mối quan hệ chặt chẽ nhiều mặt trong quá khứ cũng
như trong hiện tại, có nhiều nét tương đồng về điều kiện tự nhiên và văn hóa.
Nhân dân hai nước có truyền thống đoàn kết hữu nghị lâu đời. Trong tiến trình
phát triển lịch sử, một bộ phận người Việt Nam đã di cư tới Lào làm ăn sinh
sống. Sự thân thiết, tính cởi mở của người Lào đã tạo điều kiện cho bộ phận cư
dân người Việt hội nhập và trở thành một bộ phận của xã hội Lào. Cùng với
người Lào, người Việt đã đóng góp nhiều mặt cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ
và phát triển đất nước Lào. Đồng thời, họ cũng đóng vai trò quan trọng, là cầu
nối thúc đẩy mối quan hệ hữu nghị Việt – Lào ngày càng tốt đẹp hơn.
Năm 1975, cuộc kháng chiến chống Mi ̃ anh dũng của nhân dân Việt Nam
và Lào giành thắng lợi trọn vẹn. Việt Nam và Lào bước vào thời kì xây dựng
và phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Phù hợp với xu thế
quốc tế hóa, toàn cầu hóa hiện nay, cùng với quá trình phát triển kinh tế - xã
hội, Lào thực hiện chính sách mở rộng hợp tác quốc tế, tạo điều kiện cho nước
ngoài vào đầu tư tại Lào. Trong bối cảnh đó, Lào đã nhận được sự ủng hộ và
giúp đỡ từ Việt Nam. Người Việt đến Lào, làm ăn và sinh sống bằng nhiều
nghề khác nhau từ Bắc Lào đến Nam Lào. Có thể nói rằng: “Bất cứ tỉnh nào ở
Lào đều nhìn thấy bạn Việt Nam”.
Khăm Muộn là một tỉnh nằm ở Trung Lào và là nơi có khá đông người
Việt cư trú, có những gia đình người Việt đã trải qua bảy thế hệ sinh sống tại
đây. Vì thế, Lào đã trở thành tổ quốc thứ hai của họ. Trong quá trình cộng cư ở
1
Lào, người Việt đã tạo nên một cộng đồng với hoạt động kinh tế - văn hóa
mang những nét đặc trưng riêng.
Hiện nay, giới khoa học nghiên cứu về Lào chủ yếu quan tâm đến lịch sử
đấu tranh giành độc lập hoặc chú trọng đến mối quan hệ ngoại giao Việt – Lào
trong lịch sử, những nghiên cứu về hoạt động kinh tế - văn hóa của người Việt
tại Lào và giao thoa văn hóa Việt – Lào nói chung, ở tỉnh Khăm Muộn nói
riêng còn ít được quan tâm nghiên cứu. Vì vậy , việc nghiên cứu về hoạt động
kinh tế, văn hóa của cộng đồng người Việt tại tỉnh Khăm Muộn (Lào) từ năm
1947 đến năm 2015 không chỉ làm rõ về quá trình di cư và hình thành cộng
đồng người Việt ở Khăm Muộn (Lào) mà quan trọng hơn là đi sâu nghiên cứu
về hoạt động kinh tế, văn hóa của người Việt tại đây, góp phần làm rõ sự giao
thoa văn hóa Việt – Lào, từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm mang tính
chất tham khảo nhằm thúc đẩy quan hệ hữu nghị hợp tác Việt – Lào ngày càng
bền vững hơn.
Những vấn đề đặt ra trên đây là cơ sở để chúng tôi chọn
“Hoạt động
kinh tế, văn hóa của cộng đồng người Việt tại tỉnh Khăm Muộn (Lào) từ
năm 1947 đến năm 2015” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình với hi vọng sẽ
góp phần làm sáng tỏ những khía cạnh đặt ra ở trên.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Vấn đề người Việt và hoạt động kinh tế, văn hóa của người Việt tại Lào
đã được đề cập trong một số công trình nghiên cứu, ở những mức độ và khía
cạnh khác nhau.
2.1. Các tác giả Việt Nam
Với tư cách là nước láng giềng gần gũi , các nhà khoa học Việt Nam đã
có những công trình nghiên cứu về Lào nhiều phương diện. Tuy nhiên, số
lượng các công trình nói chung chưa nhiều và cho đến nay chưa có một công
trình chuyên khảo nào về hoạt động kinh tế - văn hóa của cộng đồng người Việt
2
tại tỉnh Khăm Muộn từ năm 1947 đến năm 2015. Có thể dẫn ra đây một số tác
giả và công trình tiêu biểu như:
Công trình “Nhiệm vụ đường lối và phương châm của tổ chức cách
mạng Việt kiều từ năm 1945 đến năm 1976” của Ban Đông Nam Á, xuất bản
năm 1976 đã tập trung trình bày về các nhiệm vụ, đường lối và phương châm
của tổ chức cách mạng Việt kiều từ năm 1945 đến năm 1976.
Công trình “Về lịch sử - văn hóa ba nước Đông Dương” của Viện nghiên
cứu Đông Nam Á xuất bản năm 1983 đã trình bày về quá trình và đặc điểm lịch sử,
văn hóa của ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia; Những điểm tương đồng và dị
biệt về văn hóa giữa ba nước. Công trình là một tài liệu có giá trị, đem lại cái nhìn
tổng quát khi nghiên cứu về lịch sử, văn hóa ba nước Đông Dương.
Cuố n “Người Viê ̣t ở Thái Lan – Campuchia - Lào” do PGS.TS Nguyễn
Quố c Lô ̣ chủ biên , Nhà xuất bản Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh
xuấ t bản
năm 2006 đã trin
̀ h bày mô ̣t cách khái quát về sự xuấ t hiê ̣n của người Viê ̣t ta ̣i
Thái Lan , Campuchia, Lào qua các thời kì lịch sử , những đóng góp thiế t thực
của Việt kiều trong quá trình đấu tranh giành độc lập dân
tô ̣c và trong hai cuô ̣c
kháng chiến chống Pháp , chố ng Mi ̃ cứu nước . Đồng thời , tác giả còn đề cập
đến các hoạt động kinh tế và việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc .
Cuốn sách “Vai trò của cộng đồng người Việt ở Lào trong mối quan hệ
Việt Nam - Lào” của tác giả Phạm Đức Thành được Nhà xuất bản Khoa học Xã
hội xuất bản năm 2008 đã trình bày về quá trình nhập cư của người Việt vào
Lào trong quá khứ và vai trò của Việt kiều với mối quan hệ Việt – Lào.
Trong cuốn “Di cư và chuyển đổi lối sống - Trường hợp cộng đồng
người Việt tại Lào” được Nhà xuất bản Thế giới xuất bản năm 2008, tác giả
Nguyễn Duy Thiệu đã đi sâu nghiên cứu về quá trình di cư của người Việt đến
Lào trong quá khứ, sự thay đổi trong quá trình cộng cư và lối sống hòa đồng
của người Việt tại Lào. Đồng thời, nêu lên các chủ trương, đường lối chính
3
sách của chính phủ Lào đối với người Việt, từ đó, rút ra những nhận xét khái
quát của tác giả về cộng đồng người Việt tại Lào.
Đề tài cấp viện “Nghi lễ vòng đời của người Việt ở Lào và vấn đề giao
thoa văn hóa Việt Lào ” của tác giả Phạm Thị Mùi đã khái quát vài nét về người
Việt ở Lào với những thay đổi trong tôn giáo, tín ngưỡng, xã hội. Đồng thời,
trình bày tương đối đ ầy đủ và khoa học về nghi lễ vòng đời, nghi lễ liên quan
đến sinh đẻ của người Việt ở Lào, bảo lưu và hội nhập trong mối tương quan so
sánh với người Lào và người Việt ở Việt Nam.
Liên quan đến đề tài luận văn nghiên cứu còn các bài báo viết về người
Việt đăng trên các tạp chí chuyên ngành trong nước như: “Cộng đồng người
Việt ở Lào sinh tồn và giữ gìn bản sắc” của tác giả Nguyễn Duy Thiệu in trên
Tạp chí Đông Nam Á số 2(2007); “Nguyên nhân và các đợt di dân của người
Việt đến Lào” của tác giả Vũ Thị Vân Anh, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á,
số 2 (2007).
2.1. Các tác giả Lào
Trong số những công trình nghiên cứu của người Lào mà chúng tôi tiếp
cận được, nổi bật lên một số công trình như sau:
Bài báo: “Yếu tố Việt trong tiến trình giao lưu, tiếp xúc văn hóa tại
Lào” của tác giả của Khampheng Thipmountaly đăng trên Tạp chí Nghiên
cứu Đông Nam Á, 2007 đã trình sơ lược về vấn đề người Việt khi sinh
sống, lập nghiệp trên đất Lào cũng như những ảnh hưởng của văn hóa Lào
với cộng đồng người Việt về tiếng nói, nghi lễ hôn nhân, tín ngưỡng tôn
giáo, ăn, ở, mặc...
Bài báo: “Tiếp xúc giao lưu và chuyển đổi bản sắc tộc người trong nhóm
hôn nhân hỗn hợp Lào - Việt Nam, Việt Nam - Lào ” của tác giả Xomthon
Yerlobliayao đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, 2007 đã trình bày
đặc điểm tình trạng hôn nhân giữa người Lào và người Việt Nam; Những kết
4
quả điều tra về vấn đề phụ nữ Việt Nam lấy chồng Lào; Những chuyển đổi về
mặt văn hóa - xã hội trong nhóm hôn nhân hỗn hợp Lào - Việt Nam, Việt Nam
- Lào.
Năm 2015, Nhà xuất bản Nhà nước Lào đã xuất bản cuốn: “Lịch sử tỉnh
Khăm Muộn ( Lãnh tổ văn minh quốc gia SIKHOTTABONG cổ xưa )” của Ủy
ban nghiên cứu, biên soạn và viết lịch sử tỉnh Khăm Muộn. Cuốn sách đã trình
bày về tỉnh Khăm Muộn từ thời quá khứ đến 2015 về: Vị trí địa lí, điều kiện tự
nhiên, chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội của tỉnh Khăm Muộn.
Nhìn chung, các nhà nghiên cứu người Lào, người Việt đã đạt được
nhiều thành tựu trong việc nghiên cứu về lịch sử Lào, Việt. Tuy nhiên, việc
nghiên cứu một cách cụ thể về hoạt động kinh tế - văn hóa của cộng đồng
người Việt tại tỉnh Khăm Muộn (Lào) còn đang là khoảng trống. Vì vậy, tất cả
những công trình kể trên đều là những nguồn tư liệu qúy giá, có ý nghĩa với tác
giả trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
3. Đối tƣợng, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu mà Luận văn hướng tới là hoạt động kinh tế, văn hóa
của cộng đồng người Việt tại tỉnh Khăm Muộn (Lào) từ năm 1947 đến năm 2015.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn là công trình nghiên cứu khoa học về người Việt tại Lào, trong
đó trọng tâm là tìm hiểu hoạt động kinh tế, văn hóa của người Việt tại tỉnh
Khăm Muộn. Để làm sáng tỏ nội dung Luận văn, chúng tôi tập trung đi sâu
nghiên cứu những vấn đề trọng yếu sau:
- Nguyên nhân và quá trình định cư của người Việt tại tỉnh Khăm Muộn
qua các thời kì lich
̣ sử .
- Hoạt động kinh tế chủ yếu của người Việt tại tỉnh Khăm Muộn.
5
- Hoạt động v ăn hóa của người Việt tại tỉnh Khăm Muộn và giao thoa
văn hóa Việt - Lào thể hiện qua tín ngưỡng tôn giáo, phong tục, tập quán...
- Rút ra các nhận xét, đánh giá chung về kinh tế, văn hóa của người Việt
tại tỉnh Khăm Muộn.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nghiên cứu của Luận văn về không gian là tỉnh Khăm Muộn (Lào)
- Phạm vi thời gian mà Luận văn bao quát là từ năm 1947 đến năm 2015.
Tuy nhiên, để có thể tìm hiểu được những nguyên nhân cũng như quá trình
định cư của người Việt tại tỉnh Khăm Muộn, chúng tôi phải mở rộng phạm vi
thời gian nghiên cứu về trước năm 1947.
4. Nguồn tài liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Nguồn tài liệu
Để hoàn thành Luận văn, chúng tôi dựa trên các nguồn tài liệu chủ yếu sau:
- Các công trình nghiên cứu về lịch sử Việt Nam và Lào trên các lĩnh
vực: kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa… đặc biệt là trong thời kì lịch sử mà
Luận văn hướng tới. Ngoài ra, phải kể đến các luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ,
cử nhân, các báo cáo trong các hội thảo, các bài báo trên các tạp chí chuyên
ngành. Nguồn tài liệu này bao gồm cả tiếng Việt và tiếng Lào đã được dịch
hoặc nguyên bản và được lưu giữ tại các trung tâm nghiên cứu và các thư viện
lớn của Việt Nam (Thư viện Quốc gia Việt Nam, Thư viện Viện nghiên cứu
Đông Nam Á thuộc Học viện Khoa học Xã hội Việt Nam...)
- Tài liệu lưu trữ của Hội Người Việt Nam tại tỉnh Khăm Muộn.
- Tài liệu điền dã của tác giả đề tài.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện, đề tài sử dụng hai phương pháp chính là
phương pháp lịch sử và phương pháp lôgic. Đồng thời, để làm rõ các hoạt động
6
kinh tế - văn hóa của người Việt tại Khăm Muộn hiện nay, phương pháp điền
dã được chúng tôi chú ý vận dụng. Ngoài ra, Luận văn còn vận dụng các
phương pháp tổng hợp và phân tích, so sánh đối chiếu, phương pháp điều tra,
hệ thống hóa bằng bảng biếu, sơ đồ để Luận văn có cái nhìn tổng quát hơn.
5. Đóng góp của luận văn
- Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách cụ thể và hệ thống
về hoạt động kinh tế, văn hóa của người Việt tại tỉnh Khăm Muộn (Lào).
- Luận văn có thể sử dụng như một công trình tham khảo, phục vụ cho
việc nghiên cứu, giảng dạy về lịch sử quan hệ quốc tế, lịch sử Đông Nam Á,
lịch sử Lào, lịch sử văn hóa, tộc người.
- Luận văn là cứ liệu lịch sử khẳng định quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào
trong quá khứ và hiện tại.
6. Bố cục luận văn
Ngoài phần mở đầu, kế t luâ ̣n , phụ lục, thư mục tài liệu tham khảo và
mục lục, nội dung của Luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát về tỉnh Khăm Muộn (Lào) và quá trình hình
thành cộng đồng ngƣời Việt Nam tại Khăm Muộn.
Chương 2: Hoạt động kinh tế của cộng đồng ngƣời Việt Nam tại
tỉnh Khăm Muộn từ năm 1947 đến năm 2015.
Chương 3: Hoạt động văn hóa của cộng đồng ngƣời Việt Nam tại
tỉnh Khăm Muộn từ năm 1947 đến năm 2015.
7
Chƣơng 1
KHÁI QUÁT VỀ TỈNH KHĂM MUỘN (LÀO) VÀ QUÁ TRÌNH
HÌNH THÀNH CỘNG ĐỒNG NGƢỜI VIỆT NAM TẠI KHĂM MUỘN
1.1. Khái quát về tỉnh Khăm Muộn
1.1.1. Lịch sử hình chính
Tỉnh Khăm Muộn hiện nay, xưa kia thuộc quốc gia Sikhottabong cổ,
quốc gia Sikhottabong xuất hiện giữa thế kỷ I trước công nguyên [26, tr.52],
nằm ở cửa sông Xê Bắng Phay cách sông Mê Kông 15km. Từ thế kỷ VI đến
VIII là thời kỳ phồn vinh của quốc gia Sikhottabong, đến thế kỷ IX - XII bị
thống trị và chịu ảnh hưởng của Ganla - Khmer cổ đại (thế kỷ VI - VIII) và
trong thời kỳ Ăng Co mở rộng quyền lực (thế kỷ IX - XIII) thống trị khoảng
hơn 300 năm.
Năm 1353, vua Fa Ngum Maharashtra đã thống nhất các tiểu vương
quốc, thành lập quốc gia Lan Xang (Triệu Voi). Vương quốc Lan Xang bước
vào giai đoạn thịnh vượng ở các thế kỷ XV – XVII. Vua Lan Xang chia đất
nước thành các mường, đặt quan cai trị, xây dựng quân đội do nhà vua chỉ huy.
Sang thế kỷ XVIII, Lan Xang suy yếu dần vì những cuộc tranh chấp ngôi báu
trong hoàng tộc. Sau khi vua Xu-li-nha Vông-xa qua đời, nước Lan Xang bị
chia cắt thành ba tiểu quốc đối nghịch nhau: Luông Pha – bang, Viêng Chăn và
Chăm-pa-xắc. Nhân cơ hội đó, Xiêm đã chiếm và cai trị Lào. Năm 1827, Chậu
A Nụ đã phất cờ khởi nghĩa, chống ách thống trị của Xiêm, nhưng bị thất bại.
Lào tiếp tục là thuộc địa của Xiêm. Tình trạng đó kéo dài đến khi thực dân
Pháp xâm lược và biến Lào thành thuộc địa vào năm 1893. Đến năm 1899, Lào
trở thành một xứ nằm trong Liên bang Đông Dương thuộc Pháp.
Trải qua những năm tháng đấu tranh gian khổ, nhân dân Lào đã tiến hành
nhiều cuộc đấu tranh bất khuất trên toàn lãnh thổ để chống lại ách nô dịch tàn
bạo của thực dân Pháp, tiếp đó là đế quốc Mĩ. Năm 1975, nước Lào hoàn toàn
8
giành được độc lập. Ngày 2 tháng 12 năm 1975, nước Cộng hòa dân chủ nhân
dân Lào chính thức được thành lập do Hoàng thân Xuphanuvông làm Chủ tịch.
Theo quyết định của Chính phủ Lào, Khăm Muộn là một tỉnh của nước Cộng
hòa dân chủ nhân dân Lào.
1.1.2. Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên
Khăm Muộn là một tỉnh nằm ở miền Trung nước Lào (vương quốc Viêng
Chăn xưa). Tỉnh Khăm Muộn nằm trong khoảng giữa vĩ tuyến 16° 70’ - 18° 00’ độ
và giữa vĩ độ 104° đến 105°. Phía Bắc giáp tỉnh Bo Lị Khăm Xay, phía Nam giáp
tỉnh Savannakhet, phía Đông giáp Việt Nam với 237km đường biên giới, phía Tây
giáp Thái Lan. Tổng diện tích toàn tỉnh là 16.315 km2 [30, tr.1].
Địa hình của tỉnh Khăm Muộn tương đối phức tạp. Các nhà khoa học đã
chia tỉnh Khăm Muộn thành hai khu vực riêng biệt: khu vực miền núi và khu
vực đồng bằng, trong đó diện tích khu vực đồng bằng chiếm 46,30%, khu vực
miền núi chiếm 53,7% của diện tích tỉnh [30, tr.1].
Khăm Muộn có nhiều đỉnh núi cao, tiêu biểu là dãy núi Phu Luông (dãy
núi Trường Sơn) với độ cao trung bình là 500 - 700 so với mực nước biển,
chiều dài khoảng 1.100 km (dài nhất Lào) được coi là “Nóc nhà”,“Xương
sống” của bán đảo Đông Dương, nằm giữa ba quốc gia Lào, Việt Nam,
Campuchia với hai vùng chính là Bắc và Nam Trường Sơn.
Rừng núi Khăm Muộn cung cấp cho cư dân địa phương nhiều lâm thổ
sản quý như gỗ đinh, trai, nghiến, lát, nấm hương, mộc nhĩ … Đồng thời, còn là
nơi sinh sống của nhiều loại muông thú như hổ, báo, gấu, sơn dương, hươu, nai,
cầy hương, lợn rừng, khỉ, trăn …Theo thống kê chưa đầy đủ, ở Bắc Trường
Sơn có khoảng 115 loài thú, 416 loài chim, 87 loài bò sát – lưỡng cư, 760 loài
động vật có xương sống và khoảng 1.500 loài thực vật. Đáng chú ý là 25 loài
thú, 23 loài chim, 17 loài bò sát – lưỡng cư, 24 loài thực vật chỉ có ở Bắc
Trường Sơn. Ở Nam Trường Sơn có khoảng 3.600 thực vật, 119 loài thú, 375
9
loài chim, 172 loài bò sát – lưỡng cư. Trong đó, có 38 loài động vật, 32 loài
thực vật nguy cấp, quý hiếm có nguy cơ bị tiệt chủng [30, tr.4].
Đất ở Khăm Muộn có nhiều loại, nhưng chủ yếu là đất đỏ bazan. Ngoài
ra, còn có đất phù sa màu mỡ ven sông Mê Kông rất phù hợp cho việc sản xuất
nông nghiệp, biến nơi đây thành vựa lúa của tỉnh Khăm Muộn.
Khăm Muộn là nơi có dòng sông Mê Kông - một trong những con sông
lớn nhất thế giới, bắt nguồn từ Trung Quốc, chảy qua Lào, Myanma, Thái Lan,
Campuchia và đổ ra Biển Đông ở Việt Nam. Ngoài sông Mê Kông , còn có
sông Xê Bắng Phay, Hín Bun và nhiều suối lớn nhỏ rất đa dạng được đổ đều
trên địa bàn tỉnh. Các sông suối có vai trò rất lớn trong đời sống của người dân,
cung cấp nguồn nước lớn với nguồn thủy sản dồi dào và đường giao thông
thuận tiện. Cư dân Khăm Muộn đã tận dụng những cánh đồng phù sa màu mỡ
được sông Mê Kông bồi đắp để phát triển kinh tế nông nghiệp, sử dụng nguồn
nước dồi dào để tưới tiêu, khai thác nguồn thủy sản của sông Mê Kông phục
vụ đời sống.
Khăm Muộn nằm trong phạm vi của đới khí hậu gió mùa. Nhiệt độ
trung bình năm từ 24 0 C đến 260 C, tháng nóng nhất là tháng 4 và tháng 5
tháng lạnh nhất từ giữa tháng 11 đến tháng 1. Lượng mưa trung bình
khoảng 1.234 mm/năm.
Ngoài thuận lợi về giao thông đường thủy trên sông Mê Kông, Khăm
Muộn còn có quốc lộ 13 Nam và quốc lộ 12 Lào nối Thà Khẹc với cửa khẩu
Naphao - Cha Lo trên biên giới Việt - Lào và quốc lộ 12 Việt Nam, cầu Hữu
nghị Thái - Lào III bắc qua sông Mê Kông, cách thị xã Thà Khẹc về phía Bắc
sát quốc lộ 13 Nam sẽ giúp nối vùng Đông Bắc Thái Lan với Khăm Muộn
và Bắc Trung Bộ Việt Nam.
Khăm Muộn rất phong phú về tài nguyên khoáng sản như: mỏ đá quý ở
huyện Xê Bắng Phay, mỏ chì ở huyện Hín Bún, mỏ muối ở huyện Nỏng Bốc,
10
mỏ thạch cao ở huyện Bua La Pha, mỏ đá vôi ở huyện Mạ Há Xay, mỏ muối
Ka Li ở huyện Nỏng Bốc, mỏ than đá ở Thà Khẹc, mỏ sắt ở huyện Hín Bún,
mỏ đất sét ở huyện Nỏng Bốc ...
Với điều kiện tự nhiên đặc thù của mình, Khăm Muộn có những thuận
lợi để xây dựng một nền kinh tế phát triển toàn diện, bao gồm: nông nghiệp,
lâm nghiệp, công nghiệp và thương nghiệp…
1.1.3. Các thành phần dân tộc và đơn vị hành chính.
Qua thống kê mới nhất (năm 2014), Khăm Muộn có tổng dân số là
388.950 người, trong đó nữ 199.402 người chiếm 51,26% [42, tr.2], mật độ dân
số trung bình 22 - 23 người/km2, có 61.505 hộ gia đình. Khăm Muộn có 9 dân
tộc phân chia theo 3 nhóm ngôn ngữ như:
Nhóm ngôn ngữ Lào – Tày có dân tộc Lào, Phu Thay và Xẹc, có nhiều
trong khu vực huyện Thà khẹc, Nỏng Bốc, Hín Bún, Xê bắng Phay, Mạ Há
Xay, Xay Bua Thong và Khun Khăm.
Nhóm ngôn ngữ Môn – Khơ Me có dân tộc Mạ Kong, Nguộn, Ty và Ky.
Các dân tộc này sinh sống trong khu vực huyện Bua La Pha, Nhôm Ma Lạt, Na
kái và Xay Bua Thong.
Nhóm ngôn ngữ Mông – Miến có dân tộc Mông sinh sống tại một số làng
trong huyện Thà Khẹc.
Phân bố hành chính có 10 huyện: Thà khẹc, Nỏng Bốc, Hín Bún, Xê
Bắng Phay, Bua La Pha, Mạ Há Xay, Nhôm Ma Lạt, Na Kái, Xay Bua Thong
và Khun Khăm. Trong đó huyện có người Việt sinh sống đông nhất là huyện
Thà Khẹc [30, tr.2-3].
1.2. Quá trình ngƣời Việt đến Lào và định cƣ tại tỉnh Khăm Muộn
Quá trình nhâ ̣p cư của người Việt đến Lào là quá trình diễn ra lâu dài ,
gắ n liề n với quan hệ qua lại giữa hai nước Việt - Lào vốn được thiết lập từ xa
xưa. Từ quá khứ đến hiện tại, người Việt Nam tới Lào làm ăn, sinh sống diễn ra
11
thường xuyên. Tuy nhiên , các đợt di cư của người Việt đến Lào đươ ̣c thúc đẩ y
bởi nhiề u nhân tố chủ quan và khách quan khác nhau , chủ yếu do hoàn cảnh và
tình hình trong nước tác động.
Quá trình di dân, nhập cư của người Việt đến Lào nói chung và tỉnh
Khăm Muô ̣n nói riêng có thể chia thành 4 giai đoạn:
Thời kỳ phong kiến nhà Nguyễn.
Thời kỳ Pháp thuộc.
Thời kỳ sau Pháp thuộc.
Thời kỳ sau giải phóng và phát triển kinh tế.
1.2.1. Thời kỳ phong kiến nhà Nguyễn.
Trong lịch sử và thực tiễn, quá trình di dân của người Việt đến Lào bắt
đầu diễn ra từ thời phong kiến nhà Nguyễn. Người Việt Nam sang Lào để tránh
bị đàn áp vì chính sách “Bình Tây, sát Đạo” và “Đói kém, thiên tai, sưu cao thế
nặng” của chính quyền nhà Nguyễn. Đây có thể coi như giai đoạn đầu tiên của
quá trình di dân lâu dài, tạo thành các cộng đồng người Việt ở Lào.
Chính sách của triều Nguyễn lên đến đỉnh điểm của sự hà khắc vào thời
vua Tự Đức (1823 - 1883). Các đạo dụ cấm đạo Thiên chúa ban hành vào các
năm 1848, 1851 và tháng 7 năm 1857 với quy định nghiêm khắc như buộc đá
vào cổ rồi ném xuống biển những người giảng đạo, thích chữ vào mặt rồi đầy
đi nơi rừng sâu nước độc, phanh thây những người không chịu bỏ đạo hoặc
chứa chấp giáo sỹ nước ngoài... đã dẫn đến cả một phong trào cấm đạo, giết
đạo trên khắp cả nước, nhiều linh mục bị sát hại, nhiều nhà thờ và các xóm đạo
bị đốt phá... Chính sách cấm đạo dưới triều Nguyễn đã buộc nhiều người Công
giáo phải bỏ làng xóm ra đi để giữ đạo. Họ chủ yếu từ các làng đạo miền Bắc
và Trung Bộ chạy sang các nước láng giềng gần như Lào và Thái. Vì vậy,
nhiều nhà thờ hiện nay ở Lào và Thái là do các giáo dân và giáo sỹ người Việt
12
góp sức dựng nên, điển hình ở Trung và Nam Lào với các nhà thờ ở Thà Khẹc
(Khăm Muộn), ở Savannakhet và ở Pắc Sê (Chămpasắc).
Cùng với nguyên nhân về tôn giáo, thiên tai, mất mùa, đói kém và sưu
cao thuế nặng cũng là những nguyên nhân buộc người Việt phải bỏ quê hương
di cư sang Lào. Dưới ảnh hưởng các chính sách của triều Nguyễn , đời sống
người dân cơ cực vì chế độ t ô thuế , lao dịch , bệnh dịch nặng nề . Thêm vào đó ,
hạn hán , lụt lội thường xuyên diễn ra dẫn đến mất mùa , đói kém, bệnh tật liên
miên đã xô đẩy hàng ngàn, hàng vạn gia đình nông dân phải rời bỏ quê hương
đi lưu vong, phiêu tán. Nạn phiêu tán trở thành hiện tượng phổ biến, thường
xuyên, nhất là ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ trong ba thập niên cuối thế kỷ XIX.
Nhiều người trong số đó đã di cư sang Lào, sống tập trung ở miền Trung và
Nam Lào [18, tr.53 - 61].
Mặt khác, việc di cư của người Việt còn diễn ra trong bối cảnh xã hội rối
ren với hàng loạt các cuộc nổi dậy chống triều đình và khởi nghĩa nông dân.
Thời kỳ nửa cuối thế kỷ XIX là thời kỳ “rối ren thường xuyên, trên khắp
nước”. Đến thế kỷ XIX, sau khi triều đình nhà Nguyễn ký hiệp ước đầu hàng
thực dân Pháp năm 1883 thì các phong trào khởi nghĩa chống Pháp nổ ra khắp
nơi, tiêu biểu là Phong trào Cần Vương. Phong trào thất bại khi vua Hàm Nghi
bị bắt, một số người ủng hộ vua Hàm Nghi chống Pháp phải chạy sang Lào
lánh nạn để tránh sự tàn sát, truy đuổi gắt gao của Pháp. Những người này sinh
sống ở khu vực Xiêng Vang thuộc tỉnh Khăm Muộn (Lào). “Làng Xiêng Vang
nằm ở trên địa phận huyện Nỏng Bốc, tỉnh Khăm Muộn, được thành lập từ năm
1882 với 5 làng: Xiêng Vang Tạy, Xiêng Vang Huội, Xiêng Vang Cáng, Xiêng
Vang Nứa và Xiêng Vang Hạt. Dân làng thường gọi làng mình là Xiêng Vang
Việt. Lúc đầu, bản chỉ có 10 gia đình người Việt di cư đến cư trú, sinh sống và
sáng lập ra làng Xiêng Vang, trong đó có thể kể đến những cư dân đầu tiên
như ông Đặng Văn Phèn, ông Phồn, ông Lực ... Đây là những người ủng hộ
phong trào Đông Du cụ Phan Bội Châu lãnh đạo , bị thực dân Pháp khủng bố
13
tàn khốc, họ đã di cư sang vùng đất này để nuôi chí cứu nước . Đến năm 1945,
số người Việt ở đây đã lên hơn 500 hộ gia đình và sau này lúc cao nhất tới 600
gia đình với số dân hơn 5.000 người (những người đó chủ yếu từ Quảng Bình
sang đây), những người Lào gốc Việt ở Xiêng Vang cùng người dân Lào đã
cùng nhau trải qua nhiều thăng trầm của lịch sử, cùng chịu gian khổ và tích
cực tham gia cách mạng, chống lại ách thống trị dã man của thực dân Pháp ,
người dân nơi đây đoàn kết , cần cù , chịu khó , chăm chỉ làm ăn , cùng chung
mọi sinh hoạt văn hóa cộng đồng ”
1.2.2. Thời kỳ Pháp thuộc
Các tài liệu lịch sử cho thấy, người Việt Nam sang Lào làm ăn, cư trú và
trở thành kiều dân chủ yếu diễn ra vào thế kỷ XIX. Đặc biệt, từ năm 1899, khi
nước Lào – xứ Ai Lao bị thực dân Pháp sáp nhập vào Liên bang Đông Dương
thì việc đi lại của người dân giữa các xứ trong cùng Liên bang trở nên thuận
tiện và dễ dàng hơn là giữa các nước riêng biệt.
Trong một thời kỳ dài từ năm
1858 đến năm 1896 , thực dân Pháp tiến
hành xâm lược và bình định Đông Dương . Từ năm 1897 đến những năm đầu
thế kỷ XX , thực dân Pháp dưới thời Toàn quyền Paul Doumer
(1897 – 1902)
tiến hành chính sách khai thác thuộc địa lần thứ nhất với tên gọi “Chương trình
khai thác lần thứ nhất”. Những điểm chính trong công cuộc khai thác thuộc địa
Đông Dương lúc đó là: “Xây dựng cho Đông Dương một hệ thống đường sắt ,
đường bộ, sông đào, bến cảng, những thứ cần thiết cho việc khai thác xứ Đông
Dương…” và “Đẩy mạnh sản xuất và thương mại bằng việc phát triển công
cuộc thực đân của người Pháp và lao động của người bản xứ…”. Vì vậy, một
bộ phận người Việt được chính quyền thực dân đưa tới Lào để làm công chức
trong bộ máy chính quyền thuộc địa. Một bộ phận khác đi làm cu li đồn điền và
phu “lục lộ”, mở những con đường chiến lược sang Lào như đường nối liền
Viêng Chăn – Hà Nội (đường số 6); Sài Gòn – Krachiê – Pắc Sê- Luông Pha
Bang (đường số 13); Thà Khẹc – Hạ Lào (đường số 12); Luông Pha Bang –
14
Xiêng Khoảng – Phủ Diễn, Nghệ An (đường số 7); Vinh – Thà Khẹc (đường số
8), và đặc biệt là con đường số
9 nổi tiếng nối với Nam Lào từ Đông Hà
,
Quảng Trị sang Savannakhe ̣t.
Sau Thế chiế n I , từ năm 1919 trở đi, thực dân Pháp càng tích cực đẩy
mạnh việc khai mỏ như các mỏ chì ở Phong Chiêu, Bộ Neng đồ ng thời mở
rộng một số xí nghiệp nên một bộ phận người Việt bị đưa tới Lào làm phu mỏ
và làm “Cu li” công nhân để hoàn thành các công trình trong chính sách “Tích
cực khai thác thuộc địa” ở toàn cõi Đông Dương.
Trong thời kỳ chiến tranh chống Pháp, quá trình di dân của người Việt
đến Lào tiếp tục diễn ra. Cuối năm 1945, thực dân Pháp chiếm lại một số vùng
ở Trung, Thượng Lào và các vùng đất ở Nam vĩ tuyến 16. Đến tháng 3 năm
1946, thực dân Pháp chiếm lại tỉnh Pắ c Sê ở Hạ Lào rồi lần lượt tấn công chiếm
các thành phố lớn Savannakhet, Thà Khẹc và Viêng Chăn. Tại đây, thực dân
Pháp đã vấp phải sự chống trả quyết liệt của lực lượng vũ trang Lào phối hợp
với lực lương vũ trang của Việt kiều Giải phóng quân. Cuộc chiến diễn ra ác
liệt, đặc biệt ở Trung Lào với trận chiến phòng thủ Thà Khẹc vào ngày
21/3/1946. Chỉ trong vòng một ngày, hơn 3.000 dân thường cả người Lào và
Việt (trong đó phần lớn là Việt kiều) đã bị giết hại [32, tr.18]. Do so sánh lực
lượng bất lợi cho Liên quân Lào - Việt, Tổng Tư lệnh Liên quân Lào - Việt
Hoàng thân Xuphanuvông buộc phải ra lệnh vừa chiến đấu vừa rút lui qua sông
Mê Kông sang Thái Lan. Sau đó, phần lớn Việt kiều ở lại Thái hoặc tiếp tục
sang định cư ở các nước khác, còn một phần quay trở lại Lào.
Trong giai đoạn 1939 - 1942, số lượng người Việt Nam ở Lào ước tính
khoảng 40.000 người, tập trung ở các trung tâm đô thị lớn như Viêng Chăn,
Savanakhẹt, Thà Khẹc. Sang đến những năm 50, tăng lên đến khoảng 50.000
người. Tuy nhiên, sau những cuộc đàn áp của Pháp thì số lượng người Việt ở
Lào giảm hẳn. Khoảng hơn 80% tản cư và tị nạn sang Thái Lan qua sông Mê
Kông, một số quay trở về Việt Nam, chỉ có số ít quay trở lại Lào nhưng cũng
15
không tạo được thành đa số áp đảo so với người Lào như trong những năm Pháp
thuộc ở các trung tâm đô thị lớn nữa [18, tr.62 - 70].
Như vậy, hiện tượng di cư của người Việt đến Lào tăng theo thời gian từ
khi vùng đất này là một xứ nằm trong Liên bang Đông Dương thuộc Pháp. Đề
cập tới vấn đề này, các nhà nghiên cứu đều đồng thuận trong quan điểm nhận
định rằng: “Người Việt đến Lào do lực đẩy chứ không phải do lực hút”[12,
tr.9]. Điề u đó có nghiã là quá trình di cư của người Viê ̣t đế n Lào chính là hệ
quả của chính sách cai trị và khai thác của thực dân Pháp.
1.2.3. Thời kỳ sau Pháp thuộc
Sau khi Pháp rút khỏi Lào, Mỹ tiếp quản và bắt đầu viện trợ cho Chính
phủ Lào để trả lương cho khoảng 12.800 - 15.000 nhân viên trong bộ máy quân
sự, cảnh sát và hành chính. Mỹ giải thích cho việc viện trợ của họ là: “Chính
phủ Lào không thể có đủ tiền để trả lương cho quân đội, cảnh sát, giáo viên và
công chức dân sự. Nước Mỹ quyết định giúp không phải thông qua việc trả cho
những người này bằng tiền đô la nhưng thông qua việc đổi tiền đôla cho Chính
phủ Lào theo đó Chính phủ Lào được viện trợ tiền Kíp với tỷ giá 35 Kíp một đô
la”[18, tr.76]. Việc này đã tạo ra sự hấp dẫn, thúc đẩy sự phát triển của thị
trường chợ đen buôn bán về đô la do mạng lưới buôn bán của người Hoa lũng
đoạn. Đây cũng là thời kỳ Hoa Kiều chiếm vị trí áp đảo, người Việt không còn
giữ được vị trí như trước đây do số lượng giảm và thực lực về kinh tế không
bằng người Hoa. Có thể nói, đây là thời kỳ Chính phủ cầm quyền ở Lào phụ
thuộc hoàn toàn vào viện trợ của Mỹ, vì thế chịu ảnh hưởng mạnh mẽ và ủng
hộ Mỹ trong cuộc chiến tranh Việt Nam. Đây cũng là thời kỳ ít có người Việt
di cư mới sang Lào.
Sang đến những năm 60 - 70, khi miền Bắc Việt Nam đẩy mạnh quá
trình thống nhất đất nước, việc tiếp tế cho miền Nam Việt Nam đánh Mỹ phụ
thuộc nhiều vào đường mòn Hồ Chí Minh (một phần ở Lào) với những trận
chiến khốc liệt giữa Liên quân Việt - Lào và Mỹ. Do tính khốc liệt của chiến
16
tranh Việt Nam, một số người Việt đã chạy sang Lào, khi chiến tranh kết thúc
họ ở lại làm ăn, sinh sống tại Lào.
1.2.4. Thời kỳ sau giải phóng và phát triển kinh tế
Sau năm 1975, khi Mỹ rút khỏi Đông Dương, một số người Việt Nam do
hoàn cảnh lịch sử hoặc do lo ngại chính quyền mới và những nguyên nhân về
chính trị đã tới Lào định cư.
Sau những thời kỳ chiến tranh, loạn lạc dưới chế độ thực dân Pháp và
Mỹ, khi Việt Nam tiến vào thời kỳ xây dựng đất nước, đặc biệt trong thời kỳ
đổi mới, các đợt di dân của người Việt sang Lào cũng diễn ra với số lượng khá
lớn. Đầu tiên phải kể đến những người Việt theo sự điều động của Chính phủ
Việt Nam đến giúp Lào xây dựng các công trình phát triển kinh tế xã hội
, đặc
biệt là xây dựng các công trình hạ tầng cơ sở như làm đường giao thông , cầu
cố ng, xây dựng các công trình thuỷ điện, nhà máy, xí nghiệp, nhà cao tầng…
Khi công trình kết thúc, một bộ phận nhỏ công nhân không về quê mà tìm
cách sinh sống tại Lào. Tiếp theo là những người “di cư tự do” đến Lào để tìm
kiếm công ăn việc làm theo mùa vụ, những người thuộc loại này đang ngày
một gia tăng cùng với quá trình phát triển kinh tế của Lào...
Đến giữa những năm 90, các thế hệ Việt kiề u tại Lào đã tạo thành một
cộng đồng khá đông đảo với gần 20.000 người sinh sống. Ông Trần Văn
Chương - Chủ tịch Hội Việt kiều Viêng Chăn tại Hội nghị Việt kiều Xuân Quý
Dậu (1993) đã phát biểu: “Gần 20 ngàn Việt kiều chúng tôi từ các miền quê...
ra đi trong những năm tháng tối tăm dưới ách thực dân thuở trước... trải qua
những thời kỳ bị kìm kẹp của bộ máy thống trị … trong suốt chặng đường
kháng chiến lâu dài đầy hy sinh gian khổ của hai dân tộc, cùng chiến đấu cùng
giành thắng lợi. Việt kiều chúng tôi đã không tiếc sức người, sức của và cả sự
hy sinh xương máu vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, vì độc lập tự do của mỗi
nước. Việt kiều chúng tôi tự hào về sự đóng góp tích cực của mình, được nhân
dân Lào mến yêu, chính quyền Lào ngợi khen. Từ sau giải phóng, toàn thể Việt
17
kiều đùm bọc lẫn nhau làm ăn sinh sống, một lòng một dạ hướng về Tổ quốc
thân yêu, gắn bó thuỷ chung với nhân dân Lào [1, tr.42].
Theo ước tính, hiện nay có khoảng 50.000 người Việt đang làm ăn, sinh
sống tại Lào. Tuy nhiên, số lượng này thay đổi thường xuyên vì có những bộ
phận người Việt chỉ sang Lào làm ăn theo thời vụ rồi lại trở về Việt Nam, hoặc
chuyển tới cư trú ở nước khác [20, tr.42 - 43]. Phần lớn người Việt tập trung
sống ở Thủ đô Viêng Chăn và các thành phố lớn như Champasack,
Savannakhet, Khăm Muộn...
Khăm Muô ̣n là mô ̣t trong những tỉnh có khá đông người Viê ̣t di cư đế n
và sinh sống . Bộ phận người Việt đến Khăm Muộn chủ yếu từ Quảng Bình , Hà
Tĩnh, Nghệ An, Đồng Hới.... còn từ nơi khác rấ t í t. Phầ n đông người Việt tại
đây là những người sang cư trú chưa lâu hoặc sang làm ăn theo thời vụ. Theo
thố ng kê, hiện nay, số người Việt Nam mới sang Khăm Muộn làm ăn sinh sống
mỗi năm luôn có sự thay đổi , cụ thể:
Bảng 1.1. Thống kê số ngƣời Việt Nam ta ̣i Khăm Muô ̣n (2010 – 2015)
Đơn vị : Người
Thống kê 5 năm 2010 - 2015
Năm
2010-2011 2011-2012 2012-2013 2013-2014 2014-2015
Nam
540
652
613
885
1,885
Nữ
239
259
283
368
829
Tổng số
779
911
896
1,253
2,714
Nguồn: Thiếu tá Daohuoang THONGSAVANH [28]
Người Viê ̣t ta ̣i Khăm Muô ̣n đã thành lâ ̣p đươ ̣c tổ chức chung của miǹ h Hội người Việt Nam tỉnh Khăm Muộn. Hô ̣i đươ ̣c thành lập cuối năm 1979
(Trước năm 1990 được gọi là Hội người Việt Kiều, sau năm 1990 đổi tên thành
18
Hội người Việt Nam). Hội người Việt Nam tỉnh Khăm Muộn là mái nhà chung
của cộng đồng người Việt. Dưới sự lãnh đạo và tổ chức của Hội, hội viên được
thường xuyên tham gia những sinh hoạt xã hội mang tính dân tộc trong cộng
đồng theo đúng định hướng của Đảng và Nhà nước Việt Nam, Lào; tham gia
nhiều hoạt động xã hội tại địa phương cùng những người dân bản xứ như đám
cưới, đám ma, lễ chùa... Đặc biệt, Hội còn giúp cộng đồng nhận thức được nhiệm
vụ quan trọng của từng thành viên trong việc phát huy tình đoàn kết, giúp đỡ
thương yêu nhau, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa và truyền thống dân tộc
Việt Nam anh hùng, nêu cao tinh thần yêu nước và không ngừng hướng về quê
hương[29, tr.2].
Như vâ ̣y, bằ ng nhiề u con đường khác nhau , người Viê ̣t đã đế n đinh
̣ cư ở
Lào ngày một đông hơn . Quá trình nhập cư diễn ra lâu dài suốt từ thời phong
kiế n nhà Nguyễn . Chính những đợt nhập cư đó đã hình thành nên cộng đồng
ngườ i Viê ̣t sinh số ng trên đấ t Lào .
1.3. Chính sách của chính phủ Lào đối với cộng đồ ng ngƣời Việt
Chính phủ Lào không có chính sách riêng đối với cộng đồng người Việt,
mà chỉ có chính sách chung đối với ngoại kiều. Điều này được thể hiện rất rõ
trong một số quy đinh
̣ . Điều 36, trang 11, Hiến pháp Lào quy định: “Những
ngoại kiều chưa có quốc tịch Lào đều được bảo vệ nhân quyền và quyền tự do
theo như Hiến pháp Lào quy định, có quyền khiếu kiện trước toà án và các cơ
quan nhà nước Lào. Mặt khác, họ phải tuân thủ luật pháp cũng như các quy
định của nhà nước Lào” [14, tr.100].
Trong điều 4 trang 3 chỉ thị số 110/97, ngày 20/2/1997 của Bộ trưởng Bộ
Nội vụ Lào về việc tổ chức quản lý người nước ngoài nêu rõ: “Những người
nước ngoài được Bộ Nội vụ đồng ý định cư và làm ăn sinh sống tự do vĩnh viễn
ở Lào thì được cấp chứng minh thư tạm thời của Cục Quản lý xuất nhập cảnh
và được Cục An ninh kiểm soát. Nếu trong 7 năm những người đó có biểu hiện
tốt thì giao cho Cục Quản lý dân số thuộc Văn phòng Quản lý người nước
19
ngoài, cho phép được nhập hộ khẩu và làm chứng minh thư ngoại kiều được
quyền cư trú ở Lào”[14, tr.101].
Nhìn chung , phầ n lớn những người Việt mới đến Lào từ sau năm
1980
đều chưa có cuộc sống ổn định và thành phần hết sức đa dạng . Khi mới nhâ ̣p cư
vào Lào, họ có giấy tờ hợp lệ như giấy thông hành hoặc hộ chiếu (trừ những
người di dân tự do và những người phạm tội ở Việt Nam, trốn chạy sang Lào).
Giấy thông hành thường do các tỉnh biên giới cấp. Theo quy định của hai nước,
các loại giấy thông hành này không thể đi sâu vào nội địa Lào. Không những
thế, khi giấy thông hành hay hộ chiếu hết hạn lưu trú, họ không những không
gia hạn mà còn tiếp tục ở lại Lào. Những trường hợp kể trên là bất hợp pháp.
Những người này nếu bị công an Lào phát hiện sẽ bị phạt. Mỗi lần bị phạt là
300.000 kíp/1 người. Để thoát ra khỏi tình trạng trên, những người này có cách
thích ứng đặc biệt của họ. Khi hết thời hạn cư trú, họ quay lại cửa khẩu Việt
Nam hay qua cầu Thà Đừa, sang “du lịch” Thái Lan rồi quay lại Lào. Và như
vậy họ lại được phép cư trú thêm 1 tháng trên đất Lào bởi Việt Nam và Lào chỉ
ký thời hạn lưu trú cho người lao động là 1 tháng. Những công nhân Việt Nam
trong các công trình, dự án nếu quá hạn lưu trú mà không gia hạn thì các chủ
doanh nghiệp, chủ công trình hay dự án sẽ bị phạt nặng (250 USD/1 người)
[18, tr.398].
Đối với những người lao động tự do sang Lào tìm kiếm công ăn việc
làm, theo quy định, họ phải được chính quyền địa phương Lào cấp giấy phép
cư trú và thẻ lao động. Nếu công an địa phương kiểm tra phát hiện ra những
người không có các loại giấy tờ trên lập tức bị đưa trở lại Việt Nam.
Đối với những người sang Lào kinh doanh, buôn bán có hộ chiếu, họ
phải nộp tiền lưu trú cho chính quyền địa phương (10 USD/tháng/người) và
thuế kinh doanh, buôn bán. Những người này hết hạn hộ chiếu phải xin gia hạn.
Đây là những người chỉ đến Lào kinh doanh, buôn bán kiếm tiền. Họ không có
ý định cư trú lâu dài ở Lào.
20
Về cơ bản, những người đã nhập quốc tịch Lào (người Lào gố c Viê ̣t ) có
quyền lợi và nghĩa vụ đầy đủ như người Lào. Họ được làm tất cả mọi ngành
nghề như người Lào, được quyền mua bán bất động sản như nhà cửa, đất đai,
xe cộ, và có giấy phép kinh doanh. Con em họ được học hành như người Lào,
nhất là được theo học tại các trường Đại học trong nước và nước ngoài. Về vấn
đề này, học giả Lào - Sucsavang Simana đã nhận xét: “Người Viê ̣t ở Lào hầu
hết đã trở thành công dân nước Lào một cách, tự nhiên, nghĩa là đã được nhập
quốc tịch Lào, được hưởng mọi quyền hạn công dân như người Lào, có quyền
bầu cử, quyền học hành, quyền buôn bán, quyền mua bán nhà đất, quyền mở
trường dạy và học tiếng mẹ đẻ. Có thể nói rằng, cộng đồng người Việt ở Lào
được hưởng chính sách ưu đãi đặc biệt của chính phủ Lào hơn hẳn cộng đồng
người Việt ở các nơi trên thế giới” [14, tr.49].
Trên thực tế, người Lào gốc Việt được khuyến khích làm các nghề thầy
giáo, bác sĩ, tham gia bộ máy chính quyền Lào ở cấp thấp và thậm chí còn được
tham gia lực lượng vũ trang Lào. Theo quy định của pháp luật, người Lào gốc
Việt có quyền lợi như người Lào. Những gia đình đã sinh sống ở Lào từ 4 đến
5 đời phần lớn đã nhập quốc tịch Lào, nếu đời bố mẹ còn mang quốc tịch Việt
Nam thì con cháu của họ đều nhập quốc tịch Lào.
Trong số những người Việt đến định cư ở Lào từ năm 1975 về trước, bên
cạnh những người đã nhập quốc tịch Lào và trở thành người Lào gốc Việt còn
có những người chưa nhập quốc tịch Lào và đ
ược gọi là Việt kiều.Việt kiều
được Chính phủ Lào cho phép định cư ở Lào với những điều kiện quy định hết
sức cụ thể. Tuy Việt kiều được cấp hộ khẩu và chứng minh thư Lào, nhưng vẫn
mang quốc tịch Việt Nam. Họ được Nhà nước Lào quản lý theo những quy
định đối với ngoại kiều. Theo Bộ Công an Lào:“Việt kiều được hoạt động đi
lại, làm ăn, buôn bán bình thường nhưng Việt kiều không được mua bán đất
đai, nhà cửa. Họ chỉ được quyền thuê đất đai, nhà cửa. Việt kiều cũng không
được Nhà nước Lào cấp giấy phép đầu tư kinh doanh nên họ phải dựa vào môn
21