Tải bản đầy đủ (.docx) (9 trang)

tieu luan triet 1 vận dụng nguyên tắc lịch sử cụ thể trong nền kinh tế thị trường Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (78.1 KB, 9 trang )

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU
Vạn vật đều không ngừng sinh sôi, phát triển, trong đó bao gồm cả kinh
tế. Mỗi một hình thái kinh tế mới xuất hiện là kết quả khách quan của sự phát
triển và thích nghi với sự thay đổi của kiến trúc thượng tầng. Bắt đầu từ những
hoạt động kinh tế thô sơ và nguyên thủy nhất như tự cung tự cấp, với những sự
thay thế không ngừng, cho đến bây giờ, hầu hết các quốc gia trên thế giới bao
gồm cả Việt Nam, đều đang xây dựng nền kinh tế của mình trở thành nền kinh tế
thị trường đa dạng, phong phú về sản phẩm và chất lượng. Để tìm hiểu những
đặc điểm và nguyên nhân vì sao có sự ra đời của hình thái kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, chúng ta cần đặt nó vào những hoàn
cảnh, điều kiện cụ thể. Với tư cách là nguyên tắc của mọi nguyên tắc xét về
nghĩa rộng, nguyên tắc lịch sử- cụ thể đã được học trong môn triết học MácLênin sẽ là chìa khóa phù hợp nhất giúp em lý giải được những thắc mắc trên
một cách rõ ràng và đúng đắn. Nhận thức được mối liên hệ tương quan thực tế
giữa chúng, em đã chọn đề tài “ Phân tích nguyên tắc lịch sử- cụ thể và vận dụng
vào nền kinh tế thị trường ở Việt Nam” để thực hiện. Nội dung bài tiểu luận gồm
có hai phần chính:
I.Phân tích nguyên tắc lịch sử - cụ thể
II. Vận dụng nguyên tắc lịch sử - cụ thể vào nền kinh tế thị trường ở
Việt Nam
Trong quá trình thực hiện nghiên cứu và trình bày còn nhiều thiếu sót, em
mong nhận được sự đóng góp ý kiến tích cực từ thầy để bài tiểu luận được hoàn
chỉnh hơn. Em xin chân thành cảm ơn!


Tiểu luận triết học

NỘI DUNG
I.


Nguyên tắc lịch sử - cụ thể
1. Cơ sở lý luận của nguyên tắc
a. Từ nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
- Nội dung nguyên lý: nguyên lý về mối liên hệ phổ biến đã chỉ ra rằng mọi sự
vật, hiện tượng của thế giới giữa các mặt đối lập, lượng và chất, khẳng định và
phủ định, cái chung và cái riêng, bản chất và hiện tượng… đều có mối liên hệ
tác động qua lại với nhau, cái này bổ trợ cho cái kia, làm điều kiện tiền đề cho
sự phát triển của nhau. Những mối liên hệ này tưởng chừng rất trừu tượng, cao
siêu nhưng thực tế lại gắn liền với cuộc sống của chúng ta, nó tồn tại trong cả
nhận thức, tư duy, các quá trình của tự nhiên xã hội. Các mối liên hệ phổ biến
tồn tại khách quan, độc lập
- Tính chất của các mối liên hệ: theo quan điểm duy vật biện chứng, các mối liên
hệ có sự gắn kết, chặt chẽ lẫn nhau thể hiện ở ba tính chất cơ bản đó là tính
khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng, phong phú
Tính khách quan: Do các mối liên hệ tồn tại là độc lập, không phụ thuộc
vào bất cứ lực lượng siêu nhiên vô hình hay con người, không vì nhận thức hay
ý chỉ của con người mà thay đổi, mà biến động nên chủ nghĩa duy vật biện
chứng đã khẳng định các mối liên hệ, các mối liên hệ phổ biến có tính khách
quan. Sự quy định, tác động và làm chuyển hóa lẫn nhau là cái vốn có của nó,
khi nó đã phát triển đến giai đoạn chín muồi thì tự khắc nó sẽ chuyển hóa lên
một trạng thái khác và kéo theo những sự vật, hiện tượng có liên quan chuyển
hóa theo
Tính phổ biến: quan điểm duy vật biện chứng cho rằng không có bất cứ sự
vật, hiện tượng nào tồn tại độc lập, tách biệt với sự vật, hiện tượng hay các quá
trình khác mà chúng tồn tại cùng nhau theo một hệ thống- hệ thống mở, tương
tác và làm biến đổi lẫn nhau
Tính đa dạng, phong phú: được thể hiện ở sự phong phú về số lượng và
quy mô các mối liên hệ. Ở những giai đoạn khác nhau, vị trí và hoàn cảnh khác
nhau thì sự vật, hiện tượng cũng có những tính chất và vai trò khác nhau. Đó là
các mối liên hệ bên trong với bên ngoài, mối liên hệ bản chất với hiện tượng,

mối liên hệ chủ yếu và thứ yếu….
b. Từ nguyên lý về sự phát triển
- Nội dung nguyên lý: nguyên lý về sự phát triển đã đưa ra một khái niệm mới
trong triết học về “ sự phát triển”. Đó là khái niệm chỉ quá trình vận động không
ngừng của sự vật theo khuynh hướng đi lên: từ trình độ thấp đến trình độ cao, từ
hoàn thiện đến kém hoàn thiện hơn; đó không phải là sự biến đổi tăng lên hay
giảm đi đơn thuần về lượng hay sự biến đổi tuần hoàn lặp đi lặp lại ở chất cũ mà
là sự biến đổi về chất theo hướng ngày càng tiến bộ hơn, cái mới kế thừa cái cũ.
Nguyên lý cũng khẳng định “phát triển là khuynh hướng chung thống trị của thế
giới”
Trang 2


Tiểu luận triết học
- Tính chất của sự phát triển: như nguyên lý về mối liên hệ phổ biến thì nguyên lý
về sự phát triển cũng có ba tính chất cơ bản và đặc trưng là tính khách quan, tính
phổ biến và tính đa dạng, phong phú.
Tính khách quan: xuất phát từ nguồn gốc và nguyên nhân của sự phát
triển là thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập của bản thân sự vật, hiện
tượng nên phát triển là thuộc tính tất yếu, khách quan và không phụ thuộc vào ý
thức của con người
Tính phổ biến: được thể hiện ở các quá trình diễn ra trên mọi lĩnh vực tự
nhiên, xã hội và tư duy; trong tất cả sự vật hiện tượng, bao hàm cả khả năng dẫn
đến sự ra đời của cái mới, phù hợp với quy luật khách quan
Tính đa dạng, phong phú: biểu hiện qua cách thức hình thái của sự phát
triển là thay đổi dần về lượng dẫn đến sự thay đổi dần về chất, tồn tại ở những
không gian và thời gian khác nhau sẽ có sự phát triển khác nhau. Tùy thuộc vào
điều kiện, hoàn cảnh, vị trí mà tác động đến quá trình phát triển của các sự vật,
hiện tượng theo các chiều hướng khác nhau: thụt lùi ngẫu nhiên, tiến bộ ở mặt
này nhưng lại thoái hóa ở mặt khác…

2. Nội dung quan điểm lịch sử- cụ thể
Qua việc tìm hiểu và phân tích về hai nguyên lý trên, ta có thể rút ra rằng
nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển chính là cơ sở
hình thành quan điểm lịch sử - cụ thể. Theo đó, nếu xét trên trục thời gian quá
khứ - hiện tại - tương lai thì sự vật, hiện tượng tồn tại với những tính chất, đặc
điểm và có sự vận động khác nhau. Bởi vậy, khi xem xét sự cải biến của một sự
vật, hiện tượng phải đặt nó vào trong điều kiện không gian và thời gian cụ thể
của nó; phải phân tích mọi tình huống cụ thể có thể ảnh hưởng đến khuynh
hướng vận động của sự vật, xem nó tác động như thế nào, dẫn tới kết quả ra sao.
Bên cạnh đó, khi nghiên cứu một lý luận hay luận điểm khoa học nào đó cần
phân tích nguồn gốc, xuất xứ, hoàn cảnh làm nảy sinh lý luận đó, tránh có cái
nhìn phiến diện, chủ quan, làm hạn chế ý nghĩa của nó. Trong thực tiễn, khi vận
dụng một cơ sở lý luận nào đó cần tính đến điều kiện cụ thể nơi được vận dụng

II.

Vận dụng nguyên tắc lịch sử - cụ thể trong nền kinh tế thị trường ở Việt
Nam
1. Khái quát nền kinh tế thị trường và nền kinh tế thị trường theo định
hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam
a. Khái niệm nền kinh tế thị trường
Kinh tế thị trường là nền kinh tế mà trong đó người mua và người bán tác
động với nhau theo quy luật cung cầu, giá trị để xác định giá cả và số lượng
hàng hoá, dịch vụ trên thị trường
Mang những đặc trưng chung cơ bản sau giúp kinh tế thị trường trở thành
mô hình phổ biến được nhiều quốc gia áp dụng trong thời đại mới
Trang 3


Tiểu luận triết học

Về chủ thể kinh tế: Các chủ thể kinh tế được tự do sản xuất kinh doanh
theo luật pháp và được bình đẳng không phân biệt đối xử. Các chủ thể kinh tế
đều có cơ hội để tiếp cận các nguồn nhân lực nhằm phát triển tối đa hiệu quả của
mình.
Về thị trường: Thực hiện các giải pháp để tạo lập và phát triển các yếu tố
thị trường cơ bản như thị trường hàng hóa và dịch vụ; thị trường vốn, tiền tệ; thị
trường khoa học, công nghệ; thị trường lao động, thị trường bất động sản và
lành mạnh hóa các yếu tố thị trường đó nhằm tạo điều kiện cho nền kinh tế thị
trường phát triển ổn định, bền vững và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa.
Về cơ chế vận hành: Tôn trọng tính khách quan của các quy luật kinh tế
thị trường
b. Khái quát nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Cùng với xu hướng phát triển tất yếu của thời đại, Việt Nam cũng chọn
cho mình một con đường phát triển kinh tế. Con đường đó vừa phải đảm bảo
phát triển tối đa, toàn diện những ưu thế của nền kinh tế, mang lại lợi ích cho
quốc gia, dân tộc; vừa phải đi theo đường lối của Đảng Cộng sản, chế độ của
Nhà nước; và hình thái kinh tế phù hợp nhất hiện nay chỉ có thể là kinh tế thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước. Vì chúng
ta vẫn đang trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, còn có sự đan xen đấu
tranh giữa cái cũ và cái mới, chưa đầy đủ các yếu tố xã hội chủ nghĩa nên nền
kinh tế của chúng ta một mặt mang những đặc trưng chung của nền kinh tế thị
trường, mặt khác lại có những đặc điểm riêng sau đây:
Về hệ thống mục tiêu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở nước ta: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI đã chỉ rỏ:
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta nhằm
mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, thực hiện: “Dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Để thực hiện được mục tiêu đó trong
phát triển nền kinh tế thị trường, phải tạo điều kiện để giải phóng mạnh mẽ sức
sản xuất và không ngừng phát triển lực lượng sản xuất; phát triển lực lượng sản
xuất hiện đại gắn với xây dựng quan hệ sản xuất mới XHCN phù hợp trên cả ba

mặt: sở hữu, quản lý và phân phối; phát triển kinh tế thị trường để từng bước
xây dựng hạ tầng kinh tế cho chủ nghĩa xã hội; cải thiện và nâng cao đời sống
nhân dân.
Về chế độ sở hữu và các thành phần kinh tế: Nền kinh tế có nhiều thành
phần, với nhiều hình thức sở hữu. Các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu
thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cùng
phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh với nhau trên cơ sở pháp luật
của nhà nước, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo và kinh tế nhà nước
cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế
quốc dân; chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu, từng bước được xác lập
và sẽ chiếm ưu thế tuyệt đối khi chủ nghĩa xã hội về cơ bản được xây dựng
xong.
Trang 4


Tiểu luận triết học
Về chế độ phân phối: Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta, thực hiện phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là
chủ yếu; đồng thời có các hình thức phân phối khác nữa (phân phối theo vốn,
theo tài năng cùng các nguồn lực khác đóng góp vào sản xuất kinh doanh), vừa
khuyến khích lao động, vừa bảo đảm phúc lợi xã hội cơ bản, bảo đảm sự phân
phối công bằng, hợp lý và hạn chế sự bất bình đẳng trong xã hội.
Về vai trò quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa: Nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, sự quản lý và điều tiết nền kinh tế của nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Vì
vậy, sự quản lý của nhà nước trong nền kinh tế thị trường phải định hướng cho
nền kinh tế phát triển có hiệu quả trên cơ sở đảm bảo lợi ích quốc gia, lợi ích của
nhân dân lao động thông qua hệ thống pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch, chính sách phát triển kinh tế, xã hội. Đồng thời, có sử dụng cơ chế thị
trường (vận dụng các quy luật kinh tế thị trường để đưa ra những công cụ tác

động vào thị trường) kích thích sản xuất, giải phóng sức sản xuất.
Sự quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường nhằm giải
quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội, cải
thiện đời sống nhân dân. Nhà nước thực hiện chính sách xã hội, một mặt,
khuyến khích làm giàu hợp pháp, mặt khác phải thực hiện xóa đói, giảm nghèo.
Về nguyên tắc giải quyết các mối quan hệ chủ yếu: Kết hợp ngay từ đầu giữa lực
lượng sản xuất với quan hệ sản xuất, bảo đảm giải phóng sức sản xuất; xây dựng
lực lượng sản xuất kết hợp với củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới
XHCN, nhằm phục vụ cho phát triển sản xuất và công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước; giữa phát triển sản xuất với từng bước cải thiện và nâng cao đời sống
nhân dân; giải quyết tốt các vấn đề xã hội và công bằng xã hội, ngăn chặn các tệ
nạ xã hội, các nhiệm vụ chính trị, xã hội, văn hóa, môi trường, an ninh
Về quan hệ quốc tế: Kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta dựa
vào sự phát huy tối đa nguồn lực trong nước và triệt để tranh thủ nguồn lực nước
ngoài theo phương châm “Kết hợp sức mạnh của dân tộc và sức mạnh của thời
đại” và sử dụng các nguồn lực đó một cách hợp lý, đạt hiệu quả cao, để phát
triển nền kinh tế đất nước với tốc độ nhanh, hiện đại và bền vững.
2. Nguyên tắc lịch sử - cụ thể được vận dụng như thế nào trong nền kinh tế
của Việt Nam
a. Tính lịch sử
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lenin, khi đối chiếu hay xem xét
bất cứ sự vật hiện tượng nào cũng cần đặt nó trong tương quan thời gian của nó,
kinh tế cũng không nằm ngoại lệ. Thực tế đã chứng minh rằng nếu một nước chỉ
chăm chăm xây dựng nền kinh tế mà không nhìn vào tình hình lịch sử trong và
ngoài nước thì sẽ hoàn toàn thất bại. Ở Việt Nam, sau hai cuộc chiến tranh giải
phóng dân tộc, hậu quả về người và tài sản là vô cùng to lớn. Theo thống kê, sau
năm 1975, mặc dù ở miền bắc đã đi vào xây dựng và phát triển kinh tế nhưng vì
chiến tranh kéo dài, nguồn lực liên tục phải chia sẻ với miền nam đã dẫn đến nền
Trang 5



Tiểu luận triết học
kinh tế tăng trưởng chậm, lạm phát nghiêm trọng, đại bộ phận vẫn là lao động
thủ công, cơ sở vật chất kĩ thuật kém phát triển. Sản xuất chậm chạp, không đủ
tiêu dùng, nạn đói triền miên và phần lớn phải nhờ vào sự viện trợ của nước
ngoài ( các nước xã hội chủ nghĩa). Thị trường tài chính không ổn định, thu ngân
sách thấp, lạm phát tăng cao, năm 1980 chỉ số giá gấp 2,5 lần so với năm 1975,
và bội số này ở năm 1985 là 38,5 lần. Nhìn vào bức tranh Việt Nam trước thời
kỳ đổi mới, không ai có thể ngờ có một Việt Nam như ngày hôm nay: nhân dân
về cơ bản đã có cuộc sống ấm no, tự do và được cải thiện hơn rất nhiều so với
trước; nền kinh tế tuy còn non trẻ, mới chỉ phát triển ở mức độ trung bình khá
nhưng đã dần ổn định. Tất cả những sự thay đổi đó không thể phủ nhận đóng
góp của Đảng và Nhà nước trong việc quyết định mở cửa Việt Nam năm 1986,
chuyển đổi nền kinh tế bao cấp xã hội chủ nghĩa ( học tập của Liên Xô và các
nước Đông Âu) sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Với sự đa dạng
phong phú hóa về các loại hình kinh tế, Việt Nam đã dần thoát khỏi khó khăn, và
nếu không nhờ sự phân tích đánh giá quá trình phát triển của thời đại, vận dụng
tính lịch sử để nhìn nhận bao quát thì có lẽ chúng ta bây giờ không khác gì một
Triều Tiên thứ hai- bế quan, cố chấp, bảo thủ. Bên cạnh đó, nguyên tắc lịch sửcụ thể cũng được Đảng và Nhà nước vận dụng tốt thể hiện trong việc nhạy bén
với xu thế phát triển mới của thế giới- xu thế hòa bình ổn định, hướng tới hợp
tác song phương, đa phương qua việc tham gia các tổ chức, liên hiệp các quốc
gia ASEAN ( hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á), WTO ( tổ chức thương mại
thế giới), TPP ( hiệp định xuyên Thái Bình Dương),…
b. Tính cụ thể
Đảng và Nhà nước ngay từ khi mới thành lập cho đến bây giờ luôn xác
định lấy chủ nghĩa Mác – Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh là kim chỉ nam hoạt
động, xây dựng đất nước theo khuynh hướng chủ nghĩa xã hội. Vậy nên, mặc dù
chúng ta xây dựng một nền kinh tế thị trường ( đặc trưng của tư bản chủ nghĩa)
nhưng đan xen yếu tố xã hội chủ nghĩa, đó là nền kinh tế phải đặt dưới sự điều
hành và quản lý chung của Nhà nước; kinh tế tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư

nước ngoài và kinh tế tập thể phải cùng nhau phát triển; Nhà nước không chỉ là
người giám sát, còn là một chủ thể tham gia vào quá trình sản xuất, phân phối
sản phẩm trong nền kinh tế. Do nước chúng ta đi thẳng lên chủ nghĩa xã hội, bỏ
qua chế độ tư bản chủ nghĩa nên đã gặp phải rất nhiều khó khăn và bỡ ngỡ trong
việc xây dựng hệ thống kinh tế thị trường với xuất phát điểm khá thấp về tất cả
các điều kiện. Qua đúc rút kinh nghiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Trung
Quốc ( lúc này chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu đã suy yếu và
sắp sụp đổ), chúng ta đã đưa ra chủ trương phát triển nền kinh tế nhằm từng
bước thực hiện mục tiêu quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Có thể nói nền kinh tế thị
trường là cái “ phổ biến”, còn nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa là “cái đặc thù” của Việt Nam, phù hợp với điều kiện và tình hình cụ thể
của Việt Nam. Trong chủ trương của Đảng đã cho thấy rõ việc vận dụng sáng
tạo, thành công nguyên tắc lịch sử - cụ thể vào tình hình kinh tế nước ta, không
dập khuôn, cứng nhắc theo mô típ kinh tế hàng hóa cổ điển của các nước tư bản
chủ nghĩa, không chạy theo những giá trị tạm thời mà luôn bình tĩnh hướng đến
Trang 6


Tiểu luận triết học
mục tiêu lâu dài của quốc gia, dân tộc để từ đó cho thấy chúng ta học tập con
đường xây dựng kinh tế của các nước tư bản nhưng không biến mình trở thành
một nước tư bản thực dụng. Luôn đặt các vấn đề kinh tế vào những tình huống
cụ thể trong nước, phối hợp nhìn nhận với tình hình chính trị, văn hóa; với tiềm
lực trong nước để tự lượng sức phát triển; kết hợp với xu hướng khoa học công
nghệ tiên tiến của thời đại để thúc đẩy nền kinh tế

Trang 7


Tiểu luận triết học


KẾT LUẬN
Việc vận dụng nguyên tắc lịch sử - cụ thể vào tình hình kinh tế có ý
nghĩa vô cùng quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế thị trường ở Việt
Nam. Chính nhờ sự vận dụng đúng đắn và kịp thời của Đảng và Nhà nước đã
giúp cho nền kinh tế nước ta hòa nhập được với nền kinh tế thế giới, mang lại cơ
hội hợp tác, mở cửa, giao lưu kinh tế với nhiều quốc gia, bao gồm cả các nước
tư bản và xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, sự sáng tạo trong vận dụng đã mang lại
sự độc lập, có bản sắc trong quá trình xây dựng kinh tế thị trường ở Việt Nam,
mang những đặc thù của Việt Nam, phát triển theo cách rất Việt Nam và không
lệ thuộc vào bất cứ cường quốc nào khác đã mang lại những thành tựu tích cực
và to lớn. Mặc dù vẫn còn nhiều hạn chế, tồn tại, chậm phát triển so với nhiều
nước nhưng một thực tế không thể bỏ qua là trong vòng gần 30 năm đổi mới,
Việt Nam đã đạt nhiều khởi sắc về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội… đời sống
con người không ngừng được cải thiện và nâng cao. Không ai có thể phủ định
những ưu thế mà nền kinh tế thị trường mang lại, đó là một nền kinh tế tuyệt
vời, tự do cạnh tranh và có khả năng phát huy tối đa nguồn lực, tiềm năng của
một đất nước. Tuy nhiên, với mỗi quốc gia khác nhau, trong đó có Việt Nam thì
việc nhận định trước những biến động, thay đổi của thời cuộc cũng như tình
hình trong nước và nước ngoài là vô cùng quan trọng. Bởi vậy, chúng ta cần áp
dụng những giải pháp hợp lý để giải quyết tình hình, chú trọng đến việc vận
dụng nguyên tắc lịch sử - cụ thể để nền kinh tế ngày càng hoàn chỉnh hơn.

Trang 8


Tiểu luận triết học

PHỤ LỤC THAM KHẢO


− Giáo trình “ những nguyên lý cơ bản của chủ nghãi Mác- Lênin” của nhà
xuất bản chính trị quốc gia
− Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI
− Đặc điểm nền kinh tế thị trường ở Việt Nam – báo kinhtetrunguong.vn
− />
Trang 9



×