PHÒNG GD-ĐT THĂNG BÌNH CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TRƯỜNG TH TRƯNG VƯƠNG
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
****
****************
Đề tài:
GióP HäC SINH VIÕT §óng
lçi chÝnh t¶
Tác giả
Chức vụ
Đơn vị
Năm học
: Nguyễn thị thanh
: Giáo viên
: Trường TH Việt long
: 2017 - 2018
2
I. TÊN ĐỀ TÀI:
GIÚP HỌC SINH VIẾT ĐÚNG LỖI CHÍNH TẢ
II. ĐẶT VẤN ĐỀ:
1. Lý do chọn đề tài:
Hiện nay tình trạng sai chính tả ở học sinh tiểu học xảy ra khá phổ biến.
Đặc biệt, đối với học sinh ở nông thôn, do đặc điểm phát âm của vùng
phương ngữ: nói sao viết vậy càng làm cho tình trạng sai chính tả thêm
nghiêm trọng. Một thực tế đáng buồn hơn nữa là những đối tượng học sinh
học môn toán rất tốt. Thế nhưng hiện tượng sai chính tả ở những đối tượng
này diễn ra không phải là ít.
Là giáo viên đứng lớp tôi đã trăn trở rất nhiều. Bởi lẽ, hiện tượng sai
chính tả, đem lại nhiều tai hại. Với riêng bộ môn Tiếng Việt, sai chính tả làm
giảm đi nhiều hiệu quả thẩm mỹ, làm sai lệch thông tin cần truyền đạt, tạo ra
nhiều cách hiểu khác nhau với cùng một văn bản, hạn chế mức độ cảm thụ
của người đọc, thậm chí nội dung bị xuyên tạc do có những lỗi về chính tả…
và còn nhiều hậu quả khác nữa.
Viết sai chính tả có thể coi là một kĩ xảo cũ đã có và tương đối khó mất.
Việc hình thành một kĩ xảo mới, kĩ xảo viết đúng chính tả đòi hỏi người học
phải có ý thức, ý chí trong luyện tập và đó là việc khó nhưng cần thiết và có
thể làm được.
Xuất phát từ thực tiễn trên, để khắc phục tình trạng viết sai chính tả ở
học sinh, tôi nghĩ cần phải có phương pháp rèn luyện và sửa chữa cho học
sinh qua những giờ học nhất là môn Tiếng Việt. Đó là lý do tôi chọn đề tài
“Giúp học sinh viết đúng lỗi chính tả”.
2. Mục đích và ý nghĩa nghiên cứu:
Giúp học sinh nắm vững qui tắc viết chính tả.
Củng cố bài học dưới hình thức “Học mà chơi, chơi mà học”.
Rèn luyện trí nhớ, tính năng động sáng tạo.
3. Phạm vi nghiên cứu:
a. Đối tượng nghiên cứu: Học sinh lớp 5 – Trường Tiểu học Trưng
Vương.
b. Phạm vi nghiên cứu: Giúp học sinh viết đúng chính tả.
4. Phương pháp hỗ trợ:
Phương pháp trò chuyện nhằm tìm hiểu:
+ Kết quả học tập.
3
+ Phối hợp với cán bộ thư viện để tìm dụng cụ học tập.
III. CƠ SỞ LÝ LUẬN:
Theo tình hình phát triển của xã hội, của việc đổi mới phương pháp dạy
học, việc giúp học sinh hứng thú học tốt để nâng cao chất lượng học tập.
IV. CƠ SỞ THỰC TIỄN:
Trải qua nhiều năm giảng dạy tại trường tiểu học Trưng Vương, bản
thân chủ nhiệm lớp 5, tôi nhận thấy kĩ năng viết chính tả của học sinh chưa
đạt kết quả cao, do nhiều yếu tố:
+ Học sinh đa số là ở vùng nông thôn, nói sao viết vậy.
+ Ý thức, ý chí trong luyện tập của học sinh còn hạn chế.
V. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU:
Muốn sửa sai thì điều đầu tiên phải biết chỗ sai. Vì vậy, trước khi tiến
hành rèn luyện, sửa chữa tôi đã tiến hành khảo sát tất cả học sinh của lớp 5/3
qua một bài chính tả nghe – viết cụ thể. Tôi đã cho các em nêu lại những yêu
cầu khi viết đúng, phân biệt những âm đầu có: V – D, S – X, Gi – D, những
vần Ao – Ô, UA – OI, những từ có âm cuối N – NG, CH – T, T – C, NH – N,
thanh hỏi và thanh ngã, viết đúng cấu trúc ngữ pháp, viết hoa phù hợp, ngồi
viết đúng khoảng cách.
Sau khi khảo sát thực tế tôi nắm được kết quả như sau:
Tổng số học sinh được khảo sát
: 18 học sinh
Số học sinh không mắc lỗi chính tả
: 5 em
Số học sinh mắc lỗi về âm đầu
: 3 em
Số học sinh mắc lỗi về phần vần
: 3 em
Số học sinh mắc lỗi về âm cuối
: 2 em
Số học sinh mắc lỗi về thanh điệu: (?, ~)
: 3 em
Số học sinh mắc lỗi về biết hoa
: 2 em
* Biện pháp tiến hành:
Ở tiểu học, thậm chí ở các lớp vở lòng, hầu hết các em đều được học
cách tạo từ, sự hoà phối âm thanh, tính chuẩn mực về chính tả. Song do thiếu
ý thức tự rèn luyện để viết đúng chính tả, sự cẩu thả, lười tìm tòi nghiên cứu
kết hợp với việc phát âm khác lệch chuẩn đã dần dần dẫn đến hiện tượng sai
chính tả ở học sinh tiểu học.
Qua những điều chuẩn bị nghiên cứu tôi tiến hành những biện pháp:
1. Cung cấp cho học sinh những qui tắc chính tả, mẹo viết chính tả:
4
Sai chính tả do nhiều nguyên nhân. Song một trong những nguyên
nhân không kém phần quan trọng là chưa nắm được qui tắc chính tả, viết sai
hoàn toàn từ. Trong quá trình giảng dạy, kiểm tra tôi nhận thấy những lỗi
thường mắc về qui tắc chính tả ở các em là lúng túng khi dùng NG – NGH,
K – C- Q, G – Gi, dấu ? / ~
Ví dụ: Ngành giáo dục các em viết là ngành giáo dục.
Con lợn kêu các em viết là con lợn cêu
Giữ gìn các em viết là giữ gìn
Sẵn sàng các em viết là sẳn sàn
Đã quên thì phải nhắc. Thế nhưng cách thức nhắc như thế nào cho hợp
lí. Dành một số tiết để cung cấp kiến thức cho các em là điều không thể được
vì điều kiện thời gian. Vả lại, nó sẽ gây sự nhàn chán cho các em có học lực
khá, giỏi. Vì vậy, để góp phần khắc phục tình trạng này tôi lồng ghép vào
trong tất cả những giờ dạy Tiếng Việt. (Nhất là những tiết buổi chiều) phần
chú thích. Tôi cung cấp cho các em qui tắc ngữ pháp.
- NG đi với A, U, O, Ô, Ơ, Ư, …
NGH đi với Ê, E, I
Gi khi gặp I lượt bỏ I sẽ thành Gi
C: A, O
K
Q: U
K: I, H
* Nội dung của luật hỏi, ngã trong từ láy.
- Khi một chữ của từ láy đã viết dấu huyền, nặng, ngã, thì chữ kia phải
viết dấu ngã.
Ví dụ: Sẵn sàng
Dữ dội
Đẹp đẽ
Kỹ càng
- Khi một chữ của từ láy đã viết dấu sắc, không dấu hoặc dấu hỏi thì
chữ kia phải viết dấu hỏi.
Ví dụ: Mát mẻ
Vất vả
Đủng đỉnh
Lẩm cẩm
5
- Đối với những từ không phải là từ láy thì ta phải tìm thêm một từ láy
có từ đó hoặc có tiếng đó rồi vận dụng luật để tìm dấu hỏi hay dấu ngã.
Ví dụ: “ủ rũ” là từ ghép tách chữ ra để đưa về từ láy “ủ ê” ta yên tâm
“ủ” dấu hỏi và “ê” không dấu. Còn “rũ” ta có “rũ rượi” nên ta biết ngay “rũ”
phải viết dấu ngã.
Bên cạnh đó, tôi cho học sinh nắm vững một số mẹo chính tả giúp phân
biệt ch / tr:
a. Mẹo trường từ vựng:
Những từ chỉ quan hệ thân thuộc trong gia đình chỉ viết với CH chứ
không viết với TR: cha, chú, chị, chồng, cháu, chắt, chút, chít…
- Những đồ dùng trong gia đình nông dân cũng được viết với CH chứ
không viết với TR, ví dụ: cái chạn, cái chõng, cái chum, cái chai, cái chăn, cái
chày, cái chổi, cái chậu, cái chĩnh, chuồng gà.
b. Mẹo đồng nghĩa tranh – giành:
Trong Tiếng Việt có rất nhiều cặp từ đồng nghĩa mà một được viết với
TR, một được viết với Gi, chẳng hạn, tranh – giành, trai – giai… Vậy khi gặp
một từ chưa rõ viết với CH hay với TR, mà lại đồng nghĩa với một từ được
viết với Gi thì từ đó phải được viết với TR.
Ví dụ: Tranh – giành, trả - giả, trăng – giăng, trầu - giầu, trời – giời,
trữ - giữ, nhà tranh – nhà gianh, trở mặt – giở mặt, tro – gio, trồng – giồng…
c. Mẹo kết hợp âm đệm:
Về mặt kết hợp, TR không bao giờ đi v ới các vần oa, oă, oe, uê. Chỉ có
CH là có khả năng đi với các vần này. Do vậy, ta có thể yên tâm viết: Choáng
váng, choảng nhau, choàng vai, loắt choắt, chích choè, cái choé, chạnh choẹ,
choèn choẹt, choen hoẻn, chuệch choạc, chuếch choáng, chệch choạng…
d. Mẹo láy âm:
CH láy âm với các phụ âm đứng trước hoặc đứng sau, TR không láy
âm với các phụ âm khác, trừ 4 ngoại lệ, đều là lấy âm với L: trọc lóc, trụi lủi,
trót lọt, trẹt lét.
Như vậy, nếu một tiếng không rõ được viết với CH hay TR nhưng có
thể láy với âm khác thì trừ bốn trường hợp ngoại lệ trên đây, tiếng đó sẽ được
viết với CH.
- CH láy với B: chơi bời, chèo bẻo, chành bành, chình bình.
- CH láy với L: cheo leo, chìm lỉm, chi li, chói lọi, loắt choắt, lau chau,
lanh chanh, lã chã, lích chích, loạng choạng, lởm chởm, loai choai…
- Ch lấy với R: chàng ràng, chộn rộn, chình rình.
6
- CH láy với V: choáng váng, chờn vờn, chạy vạy, chon von, chơi vơi,
chót vót, chênh vênh, chạng vạng.
- CH láy với âm đầu: chình ình, chàng àng, chềnh ềnh.
e. Mẹo thanh điệu trong từ Hán – Việt: Những từ Hán – Việt mang dấu
nặng và dấu huyền đều chỉ đi với TR chứ không đi với CH.
Ví dụ: Trịnh trọng, trị giá, trụ sở, vũ trụ, thổ trạch, hỗ trợ, triệu phú, trận
mạc, trạm xá, trục lợi, truỵ lạc, truyền thống, từ trường, trần thế.
Ngoài ra, tôi yêu cầu mỗi em phải có một quyển vở để chép những từ
ngữ hay em thích, qui tắc chính tả, những từ ngữ, câu, chữ mà chính mình dễ
viết sai, chép hoặc nghe viết ba lần ở nhà bài chính tả cho ngày mai và giao
cho đội quân xung kích do tôi chọn lựa (bao gồm những em có học lực giỏi,
có giọng đọc tốt, dạn dĩ) kiểm tra những tư liệu về “từ láy và cách phân biệt
từ láy” của Phó Tiến sĩ Võ Xuân Trung, “cách sửa sai lỗi chính tả cho học
sinh” của Phan Ngọc. Các em này sẽ chủ động lựa chọn thời gian để cung cấp
cho các bạn. Có thể là trong giờ tự quản 15 phút đầu buổi, những giờ hướng
dẫn luyện đọc buổi chiều hay trong những giờ sinh hoạt chủ nhiệm. Học sinh
sẽ tiếp thu, chọn lọc và ghi vào sổ tư liệu của mình để tham khảo.
Sau một thời gian áp dụng biện pháp này, tôi kiểm tra và nhận thấy các
em sử dụng NG – NGH, C – K – Q, Gi – D. Cụ thể: Các em viết đúng các từ
ghập ghềnh, ngúc ngoắc, cúc cu, gìn giữ. Các trường hợp sai lỗi ?, ~ giảm đi
đáng kể.
2. Rèn luyện kỹ năng đọc cho học sinh:
Thực tế cho thấy, do đặc điểm phát âm của vùng phương ngữ làm cho
người ta dễ “nói sao viết vậy”. Một trong những nguyên nhân lớn dẫn đến viết
sai chính tả nằm ở yếu tố này. Vì thế điều quan trọng để sửa sai chính tả trước
hết phải rèn luyện cho học sinh kỹ năng đọc: đọc đúng, phát âm đúng. Điều
khó sửa nhưng lại sai nhiều nhất đối với học sinh ở đây là hay nhầm lẫn giữa
Gi và D. Tôi ví dụ: Đều đọc là “do” nhưng “dàn dỏ” thì viết là “dỏ” nhưng
“cái giỏ” thì viết là “giỏ”. Hay vần ao – ô,. “Cái ô” dùng để che thì viết là “ô”
nhưng “ao tù” thì viết là ao. Đều đọc là “chiêng” nhưng “cái chiêng” thì phải
viết là chiêng; “con chiên” thì viết là “chiên”. Riêng địa phương Bình
Nguyên, nơi tôi đang dạy có những từ địa phương mà từ lâu đã in đậm trong
tiềm thức của các em. Bởi vì ngay từ lúc mới bập bẹ các em đã nói tiếng địa
phương. Lớn lên tiếp xúc với ông bà, cha mẹ, bạn bè, người thân… thường
xuyên nói tiếng địa phương đã khiến cho tình trạng này càng trở nên khó sửa.
Ví dụ: - “Vì sao” các em nói “ren rứa”
- “Đẹp lắm” thì gọi là “đẹp dễ sợ”
- “Nói” thì gọi là “núa”
- “Đòi” thì gọi là “đùa”
- “Quá” thì gọi là “Quoá”
7
Để khắc phục tình trạng sai chính tả do phát âm giọng địa phương này,
trong giờ dạy, tôi hướng dẫn cho học sinh các đọc: Phát âm phải chuẩn, đúng
thanh điệu, ngắt hơi đúng chỗ. Ban đầu tiến hành việc này rất khó vì từ lâu
các em đã quen với cách đọc như vậy. Bây giờ đọc khác có vẻ gượng gạo. Khi
đọc lại bạn bè cho là giả tiếng pha tiếng. Vì thế thao tác này phải tiến hành từ
từ, uốn nắn dần dần. Tôi chọn rèn luyện ở các em dạn dĩ, học lực khá giỏi
trước. Nếu các em có đọc nhầm lẫn sai sót tôi sửa ngay. Như vậy tôi đã tập
hợp được lực lượng cơ bản giúp tôi nhận xét sửa chữa, giúp đỡ các em học
chưa tốt trong giờ luyện đọc buổi chiều “Đội xung kích” này cùng với các bạn
nhóm trưởng trong 15 phút tự quản hướng dẫn cho các bạn đọc những bài tập
đọc, bài chính tả, tìm hiểu nghĩa của những từ đó. Dần dần các em đã tạo ra
sức ảnh hưởng sâu rộng. Mức độ dạn dĩ ở các em biểu hiện rõ rệt. Có nhiều
em vượt lên trên mức độ đọc đúng, tiến đến đọc hay. Trong giờ học, tôi cho
các em đọc nối tiếp câu, đoạn rồi tự mời bạn khác đọc và tự nhận xét, cả lớp
so sánh.
Sau một thời gian áp dụng biện pháp này, tôi kiểm tra bằng cách chọn
bài “Cao Bằng”. Đối chiếu giữa cách phát âm (đọc) và cách ghi (viết) thì chỉ
còn một em mắc lỗi “đèo” mà viết là “đều”. Điều đáng mừng là sau khi luyện
cho học sinh cách đọc, những lỗi chính tả do phát âm giọng địa phương đã
giảm hẳn đi, đọc đúng sẽ viết đúng.
3. Cho học sinh tự sửa sai lỗi chính tả của mình trong những giờ
kiểm tra bài cũ, trả bài viết.
Đọc đúng, phát âm đúng là điều kiện cơ bản để viết đúng chính tả.
Song, chỉ dừng ở đây thôi thì vẫn chưa đủ để hạn chế tới mức tối thiểu tỉ lệ
mắc chính tả ở học sinh. Bởi có thể các em đọc đúng khi tiếp xúc trực tiếp với
văn bản, nhưng khi thoát li văn bản các em lúng túng khi viết, nhất là đối với
những từ khó. Vì vậy phải để học sinh tự nhận thấy lỗi của mình, tự sửa chữa
để khắc sâu trong trí nhớ.
Ví dụ: Trong phần kiểm tra bài cũ phân môn luyện từ và câu ở bài câu
ghép có bài tập điền từ hoặc vế câu cho thích hợp, các em đã lúng túng khi
phải viết các từ: khúc khuỷu, ghập ghềnh, băn khoăn, khập khểnh. Tôi cứ để
cho các em tự viết theo cảm tính của mình, sau đó để các em dưới lớp tự phát
hiện chỗ sai.
Bạn viết như vậy chưa đúng chỗ nào? cách sửa?. Sau đó tôi gọi chính
em viết chưa đúng lên sửa lỗi chính tả của mình. Đương nhiên lần sửa sai này
có sự trợ giúp của các bạn hoặc thầy cô giáo. Tạo ấn tượng như vậy các em sẽ
nhớ rất lâu mà không chỉ có em mắc lỗi chính tả nhớ mà cả những em ở lớp
dưới cũng vậy, nhớ rất kỹ và ở những lỗi như vậy các em sẽ khó sai phạm vào
lần sau. Cách làm như vậy cũng rất hiệu quả khi sửa sai về cấu trúc ngữ pháp
cho học sinh.
8
Nếu là giờ tập đọc, tôi tiến hành sửa sai lỗi chính tả kết hợp trong
những câu hỏi kiểm tra bài cũ. Có thể là em hãy chép thuộc lòng một đoạn
văn hay khổ thơ lên bảng. Như thế mới kiểm chứng được kết quả của việc
luyện đọc và mức độ tiến độ ở học sinh. Sai từ nào cho học sinh sửa ngay từ
đó hoặc sau khi học sinh trả lời câu hỏi, giáo viên có thể đặt thêm yêu cầu:
Trong câu trả lời của em có sử dụng từ “…” (nên lựa chọn từ khó) em có thể
viết từ đó lên bảng và cho biết nghĩa của từ ấy. Nếu em viết đúng, cho biết
nghĩa chính xác, giáo viên khuyến khích điểm cho em. Còn nếu sai nên tiến
hành sửa ngay.
Kết hợp sửa lỗi chính tả cho học sinh trong những giờ kiểm tra bài cũ
được tôi tiến hành thường xuyên. Song do dung lượng của phần kiểm tra bài
cũ không nhiều nên tôi tiến hành sửa sai lỗi chính tả trong giờ luyện ôn buổi
chiều và giờ trả bài viết.
VI. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU:
Đó là những biện pháp tôi rút ra được trong quá trình giảng dạy để sửa
lỗi chính tả cho học sinh và đã thu được một số kết quả nhất định:
Tỷ lệ mắc lỗi chính tả ở học sinh giảm đi khá rõ rệt.
Các em ý thức được cách sử dụng từ ngữ của mình, cân nhắc lựa chọn
khi dùng từ đặt câu.
Những lỗi chính tả do chưa vững về quy tắc chính tả, phát âm giọng địa
phương giảm đi đáng kể. Cụ thể:
Tổng số học sinh: 18 em
Viết đúng hoàn toàn, không sai phạm : 14 em
Số mắc lỗi về thanh điệu viết hoa
: 02 em
Số mắc lỗi về quy tắc chính tả
: 02 em
VII. KẾT LUẬN:
So với đầu năm số lượng viết đúng chính tả tăng được 07 em.
Sửa lỗi chỉnh tả cho học sinh tiểu học là biện pháp có thể thực hiện
thường xuyên, liên tục ở tất cả các lớp. Kết quả có thể kiểm chứng thông qua
từng bài chính tả. Thông qua biện pháp sửa lỗi chính tả cho học sinh góp phần
nâng cao khả năng cảm thụ văn học cho học sinh.
Trên đây là sáng kiến “Giúp học sinh sửa lỗi chính tả” mà tôi đã đúc
kết sau một thời gian giảng dạy, song vẫn không tránh khỏi những thiếu sót.
Rất mong sự đóng góp ý kiến của cấp trên để sáng kiến được hoàn chỉnh hơn.
Tôi vô cùng biết ơn.
Bình Nguyên, ngày 22 tháng 02 năm 2011
Tác giả
9
Phan Thị Nga
VIII. ĐỀ NGHỊ:
- Phụ huynh cần quan tâm và theo sát con em mình hơn nữa.
- Tổ chức môn cần tổ chức thêm các buổi chuyên đề để cùng nhau trao
đổi những kinh nghiệm thực tế ở học sinh lớp mình, bàn bạc thống nhất cách
sửa sai (nhất là phân môn chính tả).
10
IX. TÀI LIỆU THAM KHẢO:
- Sách Tiếng Việt 5
- Thế giới trong ta số 256
- Sổ tay chính tả của tác giả: Hoàng Anh
11
X. MỤC LỤC
I. Tên đề tài
Trang 1
II. Đặt vấn đề
Trang 1
1. Lý do chọn đề tài
Trang 1
2. Mục đích ý nghĩa của tác giả
Trang 1
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Trang 1
4. Phương pháp hỗ trợ
Trang 1
III. Cơ sở lý luận
Trang 2
IV. Cơ sở thực tiễn
Trang 2
V. Nội dung nghiên cứu
Trang 2
VI. Kết quả nghiên cứu
Trang 7
VII. Kết luận
Trang 7
VIII. Đề nghị
Trang 8
IX. Tài liệu tham khảo
Trang 9
X. Mục lục
Trang 10
XI. Phiếu chấm điểm xếp loại
Trang 11
XII. Phiếu đánh giá, xếp loại
Trang 12
12
13
PHIẾU CHẤM ĐIỂM, XẾP LOẠI SÁNG KIẾN KINHNGHIỆM
Năm học: 2010-2011
……………………..
(Dành cho người tham gia đánh giá xếp loại SKKN)
HỘI ĐỒNG KHOA HỌC
Trường: Tiểu học Trưng Vương
- Đề tài: “Giúp học sinh viết đúng lỗi chính tả”
- Họ và tên tác giả: Phan Thị Nga
- Đơn vị
: Trường TH Trưng Vương
Điểm cụ thể:
Phần
Nhận xét
của người đánh giá xếp loại đề
tài
Điểm
tối đa
1. Tên đề tài
2. Đặt vấn đề
3.Cơ sở lí luận
1
4.Cơ sở thực tiễn
2
5. Nội dung nghiên cứu
9
6. Kết quả nghiên cứu
3
7. Kết luận
1
8. Đề nghị
9. Phụ lục
10. Tài liệu tham khảo
11. Mục lục
12. Phiếu đánh giá xếp loại
Thể thức văn bản, chính tả
1
Tổng cộng
Căn cứ số điểm đạt được, đề tài trên được xếp loại:
Người đánh giá xếp loại đề tài:
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
1
1
1
20đ
Điểm
đạt được
14
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
PHIẾU ĐÁNH GIÁ, XẾP LOẠI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Năm học: 2010 – 2011
I/ Đánh giá xếp loại của HĐKH Trường: Tiểu học Trưng Vương
1. Tên đề tài: “Giúp học sinh viết đúng lỗi chính tả”
2. Họ và tên tác giả: Phan Thị Nga
3. Chức vụ
: Giáo viên
4. Nhận xét của Chủ tịch HĐKH về đề tài:
a/ Ưu điểm: ……………………………………………….
…………………….
………………………………………………………………………………
…..…………………………………....................................
………………………..………........
b/ Hạn chế:
……………………………………………………………………..
………………………………………………………………………………
…..
………………………………………………………....................................
…..…………...
5. Đánh giá, xếp loại:
Sau khi thẩm định, đánh giá đề tài trên. HĐKH Trường: TH Trưng
Vương thống nhất xếp loại: ……………..
Những người thẩm định:
Chủ tịch HĐKH
(Ký, ghi rõ họ tên)
(Ký, đóng dấu, ghi rõ họ tên)
………………………………….
……………………………………
…………………………………..
……………………………………
…………………………………..
……………………………………
II/ Đánh giá, xếp loại của HĐKH Phòng GD&ĐT Thăng Bình
Sau khi thẩm định, đánh giá đề tài trên, HĐKH Phòng GD&ĐT Thăng
Bình thống nhất xếp loại: ……………..
Những người thẩm định:
Chủ tịch HĐKH
(Ký, ghi rõ họ tên)
(Ký, đóng dấu, ghi rõ họ tên)
………………………………….
……………………………………
…………………………………..
……………………………………
…………………………………..
……………………………………
III/ Đánh giá, xếp loại HĐKH Sở GD&ĐT Quảng Nam
Sau khi thẩm định, đánh giá đề tài trên, HĐKH Sở GD&ĐT Quảng
Nam thống nhất xếp loại: ……………..
Những người thẩm định:
Chủ tịch HĐKH
(Ký, ghi rõ họ tên)
(Ký, đóng dấu, ghi rõ họ tên)
………………………………….
……………………………………
…………………………………..
……………………………………