Tải bản đầy đủ (.doc) (47 trang)

Đáp án 30 câu hỏi ôn thi môn triết học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (292.62 KB, 47 trang )

1

Mục Lục
8.4. Những yêu cầu phương pháp luận của nguyên tắc phát triển.....................................................9
Câu 19: Anh/chị hãy phân tích những tiền đề xuất phát mà Các Mác dựa vào để xây dựng lý luận
hình thái kinh tế, xã hội?......................................................................................................................27

ĐÁP ÁN 30 CÂU TRIẾT PHẦN
Câu 1: Phân tích nội dung và bản chất của Chủ nghĩa duy vật biện chứng (CNDVBC)
với tính cách là hạt nhân lý luận của Thế gới quan khoa học (TGQKH).
Trả lời:
1. Nội dung: Có 2 nhóm quan điểm:
Quan điểm duy vật về thế giới:

Tồn tại của thế giới là tiền đề thống nhất thế giới: Trước khi thế giới có thể là
một thể thống nhất thì trước hết thế giới phải tồn tại. Tính thống nhất thật sự của thế giới là ở
tính vật chất của nó, tính vật chất này được chứng minh bằng một sự phát triển lâu dài và
khó khăn của triết học và khoa học tự nhiên.

Nguyên lý về tính thống nhất vật chất của thế giới, có nội dung như sau:
 Thế giới vật chất tồn tại khách quan, vĩnh viễn, vô hạn, vô tận.
 Trong thế giới vật chất chỉ tồn tại các quá trình vật chất cụ thể, có mức độ tổ chức
nhất định; đang biến đổi chuyển hóa lẫn nhau là nguồn gốc, nguyên nhân của nhau; cùng
chịu sự chi phối bởi các quy luật khách quan của TGVC.
 Ý thức, tư duy con người chỉ là sản phẩm của một dạng vật chất có tổ chức cao; thế
giới thống nhất và duy nhất.

Phạm trù vật chất: vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách
quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp
lại, phản ánh và tồn tại không phụ thuộc vào cảm giác.


Phạm trù ý thức, quan hệ giữa ý thức và vật chất: Ý thức của con người tồn tại
trước hết trong bộ óc con người, sau đó thông qua thực tiễn lao động nó tồn tại trong các vật
phẩm do con người sáng tạo ra. Ý thức gồm nhiều yếu tố: tri thức, tình cảm, niềm tin, ý
chí… trong đó tri thức và tình cảm có vai trò rất quan trọng. Thông qua hoạt động thực tiễn,
ý thức con người xâm nhập vào hiện thực vật chất tạo nên sức mạnh tinh thần tác động lên
thế giới góp phần biến đổi thế giới.
Quan điểm duy vật về xã hội:

Xã hội là một bộ phận đặc thù của tự nhiên, nó là kết quả phát triển lâu dài của
tự nhiên, có quy luật vận động, phát triển riêng, sự vận động, phát triển của xã hội phải thông
qua hoạt động thực tiễn.

Sản xuất vật chất là cơ sở đời sống xã hội: Nền sản xuất vật chất trong từng
giai đoạn lịch sử gắn liền với một phương tiện sản xuất nhất định, sự thay đổi PTSX sẽ làm
thay đổi mọi mặt của đời sống xã hội.

Sự phát triển của xã hội là quá trình lịch sử tự nhiên, là lịch sử phát triển các
hình thái kinh tế xã hội một cách đa dạng nhưng thống nhất từ thấp đến cao, mà thực chất là
lịch sử phát triển của xã hội.
LLSX   QHSX   PTSX   (CSHT + KTTT)   HTKTXH 
1


2


Quần chúng nhân dân (QCND) là chủ thể chân chính sáng tạo ra lịch sử:
QCND là lực lượng trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất, sáng tạo ra mọi giá trị tinh thần,
quyết định thành bại của mọi cuộc cách mạng. Vai trò chủ thể QCND biểu hiện khác nhau ở
những điều kiện lịch sử khác nhau và ngày càng lớn dần; sức mạnh của họ chỉ được phát huy

khi họ được hướng dẫn, tổ chức, lãnh đạo.
2. Bản chất của CNDVBC:

CNDVBC đã giải quyết vấn đề cơ bản của triết học từ quan điểm thực tiễn:
CNDV cũ thiếu quan điểm thực tiễn, máy móc  không thấy được tính năng động của ý
thức; riêng CNDVBC khẳng định vật chất có trước và quyết định ý thức; trong hoạt động
thực tiễn ý thức tác động tích cực làm biến đổi hiện thực vật chất theo nhu cầu của con
người.

CNDVBC đã thống nhất TGQDV với phép biện chứng: CNDV cũ mang nặng
tính siêu hình, PBC được nghiên cứu trong hệ thống triết học duy tâm  Mác cải tạo CNDV
cũ, giải thoát PBC ra khỏi tính thần bí, tư biện  xây dựng nên CNDVBC; thống nhất giữa
TGQDV với PBC.

CNDVBC là CNDV triệt để; nó không chỉ duy vật trong lĩnh vực tự nhiên mà
còn trong lĩnh vực xã hội. CNDVLS là cống hiến vĩ đại của C.Mác cho kho tàng tư tưởng
của loài người: CNDV cũ không triệt để; CNDV lịch sử ra đời là kết quả vận dụng CNDV
vào nghiên cứu lĩnh vực xã hội, tổng kết lịch sử, kế thừa có phê phán toàn bộ tư tưởng xã hội
trên cơ sở khái quát thực tiễn mới của giai cấp vô sản. Với CNDVLS nhân loại tiến bộ có
được một công cụ vĩ đại trong nhận thức, cải tạo thế giới.

CNDVBC mang tính thực tiễn - cách mạng, nó hướng dẫn con người trong
hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới:
 CNDVBC là vũ khí lý luận của giai cấp vô sản: Lợi ích giai cấp vô sản phù hợp lợi
ích nhân loại tiến bộ, được luận chứng bằng những cơ sở lý luận khoa học  CNDVBC trở
thành hệ tư tưởng của giai cấp vô sản có sự thống nhất tính khoa học và tính cách mạng.
 CNDVBC không chỉ giải thích thế giới mà còn góp phần cải tạo thế giới.
 CNDVBC khẳng định sự tất thắng của cái mới: nó xóa bỏ cái cũ lỗi thời, xây dựng
cái mới tiến bộ.
 CNDVBC là một hệ thống mở, là kim chỉ nam cho mọi hành động.

Câu 2: Anh ( chị) hảy phân tích cơ sở lý luận, nêu ra các yêu cầu phương pháp luận của
nguyên tắc khách quan của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Đảng Cộng Sản Việt Nam đã
vận dụng như thế nào vào sự nghiệp cách mạng hiện nay ở nước ta?
+ Cơ sở lý luận :
Nguyên tắc khách quan trong xem xét được xây dựng dựa trên nội dung của nguyên
lý về tính thống nhất vật chất của thế giới. Yêu cầu của nguyên tắc này được tóm tắt như
sau :khi nhận thức khách thể ( đối tượng ), sự vật,hiện tượng tồn tại trong hiện thực – chủ thể
tư duy phải nắm bắt, tái hiện nó trong chính nó mà không được thêm hay bớt một cách tùy
tiện .
- Vật chất là cái có trước tư duy. Vật chất tồn tại vĩnh viễn và ở một giai đọan phát triển nhất
định của mình nó mới sản sinh ra tư duy. Do tư duy phản ánh thế giới vật chất, nên trong quá
trình nhận thức đối tượng ta không được xuất phát từ tư duy, từ ý kiến chủ quan của chúng ta
2


3

về đối tượng.mà phải xuất phát từ chính bản thân đối tượng, từ bản chất của nó, không được
”bắt” đối tượng tuân theo tư duy mà phải “bắt” tư duy tuân theo đối tượng. Không ép đối
tượng thỏa mãn một sơ đồ chủ quan hay một “Lôgíc” nào đó, mà phải rút ra những sơ đồ từ
đối tượng, tái tạo trong tư duy các hình tượng, tư tưởng- cái lôgíc phát triển của chính đối
tượng đó.
- Toàn bộ “nghệ thuật” chinh phục bản chất của sự vật, hiện tượng được gói ghém trong sự
tìm kiếm, chọn lựa, sử dụng những con đường, cách thức, phương tiện thâm nhập hữu hiệu
vào “thế giới” bên trong của sự vật. “nghệ thuật” chinh phục như thế không mang đến cho sự
vật, hiện tượng một cái gì đó xa lạ với chính nó. Điều này đặt ra cho chủ thể một tình thế khó
khăn. Làm như thế nào để biết chắc chắn những suy nghĩ của chúng ta về sư vật là khách
quan, là phù hợp với bản thân sự vật? Nguyên tắc khách quan đòi hỏi được bổ sung thêm yêu
cầu phát huy tính năng động sáng tạo của chủ thể và nguyên tắc tính đảng .
- Giới tự nhiên và xã hội không bao giờ tự phơi bày tòan bộ bản chất của mình ra thành các

hiện tượng điển hình. Con người không phải chỉ nhận thức những cái gì bộc lộ ra trước chủ
thể. Do đó để phản ánh khách thể như một chỉnh thể, chủ thể tư duy không thể không bổ
sung những yếu tố chủ quan như đề xuất các giả thuyết, đưa ra các dự đóan khoa học
….Thiếu những điều này tư duy sẽ không mang tính biện chứng, sẽ không thể hiện bản tính
sáng tạo thông qua trí tưởng tượng của chính mình. Yêu cầu phát huy tính năng động sáng
tạo của chủ thể đòi hỏi chủ thể tư duy phải biến đổi, thậm chí cải tạo đối tượng để tìm ra bản
chất của nó. Những biến đổi, cải tạo đó là chủ quan nhưng không phải tùy tiện, mà là những
biến đổi và cải tạo đối tượng phù hợp quy luật của hiện thực thuộc lĩnh vực nghiên cứu .
- Yêu cầu khách quan trong xem xét có ý nghĩa rất quan trọng trong nhận thức các hiện
tượng thuộc đời sống xã hội. Đối tượng nghiên cứu bao gồm cái vật chất và cái tinh thần
chứa đầy những cái chủ quan, những cái lý tưởng và luôn chịu sự tác động của các lực lượng
tự phát của tự nhiên lẫn lực lượng tự giác ( ý chí,lợi ích, mục đích, nhân cách, cá tính khác
nhau ) của con người. Ơû đây đối tượng, khách thể tư duy quyện chặt vào chủ thể tư duy
bằng hệ thống những mối liên hệ chằng chịt. Do đó cần phải cụ thể hóa nguyên tắc khách
quan trong xem xét các hiện tượng xã hội, tức là phải kết hợp nó với các yêu cầu phát huy
tính năng động, sáng tạo của chủ thể và nguyên tắc tính đảng. Điều này có nghĩa là nguyên
tắc khách quan trong xem xét không chỉ bao hàm yêu cầu xuất phát từ chính đối tượng, từ
những quy luật vận động và phát triển của nó, không được thêm bớt tùy tiện chủ quan, mà nó
còn phải biết phân biệt những quan hệ vật chất với những quan hệ tư tưởng, các nhân tố
khách quan với các nhân tố chủ quan, thừa nhận các quan hệ vật chất khách quan tồn tại xã
hội là nhân tố quyết định.còn những hiện tượng tinh thần, tư tưởng được quy định bởi đời
sống vật chất của con người và các quan hệ kinh tế của họnhưng chúng có ảnh hưởng ngược
lại tồn tại xã hội. Phải coi xã hội là một là một cơ thể sống tồn tại và phát triển không ngừng
chứ không phải là cái gì đó kết thành một cách máy móc. Phân tích một cách khách quan
những quan hệ sản xuất cấu thành một hình thái kinh tế xã hội nhất định và cần phải nghiên
cứu những quy luật vận hành và phát triển của hình thái xã hội đó.
- Khi nhận thức các hiện tượng xã hội chúng ta phải chú trọng đến mức độ quan tâm và năng
lực nhận thức của các lực lượng xã hội đối với việc giải quyết các vấn đề xã hội, đối với
khuynh hướng phát triển của các hiện tượng xã hội, đối với việc đánh giá tình hình xã hội
….những đánh giá có giá trị hơn, những cách giải quyết đúng hơn thường là những đánh giá,

3


4

những cách giải quyết thuộc về các lực lượng xã hội biết đứng trên lập trường của giai cấp
tiên tiến, của những lực lượng cách mạng của thời đại đó. Vì vậy tính khách quan trong xem
xét các hiện tượng xã hội nhất quán với nguyên tắc tính đảng. Việc xem thường nguyên tắc
này dễ dẫn đến vi phạm yêu cầu của nguyên tắc khách quan trong xem xét, dễ biến nó thành
chủ nghĩa khách quan, cản trở việc nhận thức đúng đắn các hiện tượng xã hội phức tạp.
+ Những yêu cầu phương pháp luận của nguyên tắc khách quan trong xem xét :
Nguyên tắc khách quan trong xem xét có mối liên hệ mật thiết với các nguyên tắc
khác của lôgíc biện chứng. Nó thể hiện ở yêu cầu cụ thể sau :

Trong hoạt động nhận thức :
Chủ thể phải :
Một là : Xuất phát từ hiện thực khách quan, tái hiện lại nó như nó vốn có mà
không được tùy tiện đưa ra những nhận định chủ quan .
Hai là : Phải biết phát huy tính năng động, sáng tạo của chủ thể, đưa ra các giả
thuyết khoa học có giá trị về khách thể, đồng thời biết cách tiến hành kiểm chứng các giả
tuyết đó bằng thực nghiệm

Trong hoạt động thực tiễn :
Chủ thể phải :
Một là : Xuất phát từ hiện thực khách quan, phát hiện ra những quy luật chi phối
nó.
Hai là : Dựa trên các quy luật khách quan đó, chúng ta vạch ra các mục tiêu, kế
họach, tìm kiếm các biện pháp, phương thức để tổ chức thực hiện. Kịp thời điều chỉnh, uốn
nắng họat động của con người đi theo lợi ích và mục đích đã đặt ra .
Phát huy tính năng động, sáng tạo của ý thức có nghĩa là phát huy vai trò tri thức, tình

cảm, ý chí, lý trí ….tức là phát huy vai trò nhân tố con người trong họat động nhận thức và
họat động thực tiễn cải tạo hiện thực khách quan, vươn lên làm chủ thế giới .
+ Đảng Cộng Sản Việt Nam đã vận dụng như thế nào vào sự nghiệp cách mạng của
Việt Nam :
Phải tôn trọng hiện thực khách quan, tôn trọng vai trò quyết định của vật chất. Cụ thể
là :
- Xuất phát từ hiện thực khách quan của đất nước, của thời đại để họach định các đường
lối, chiến lược, sách lược nhằm xây dựng và phát triển đất nước .
- Biết tìm kiếm, khai thác và sử dụng những lực lượng vật chất để hiện thực hóa đường
lối, chiến lược, sách lược nhằm xây dựng và phát triển đất nước .
- Coi cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, coi đại đòan kết tòan dân tộc là động lực
chủ yếu để phát triển đất nước. Biết kết hợp hài hòa các lợi ích khác nhau ( lợi ích kinh tế,
lợi ích chính trị, lợi ích vật chất, lợi ích tinh thần, lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể, lợi ích xã
hội ….) thành động lực mạnh mẻ thúc đẩy công cuộc đổi mới .
- Đảng ta rút ra những bài học kinh nghiệm từ những sai lằm, thất bại trước đổi mới,
Đảng ta kết luận :“ mọi đường lối, chủ trương của đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng
quy luật khách quan”.
Biết phát huy tính năng động, sáng tạo của ý thức, phát huy vai trò của các yếu tố chủ
quan ( tri thức, tình cảm …..) tức phát huy vai trò nhân tố con người trong họat động nhận
thức và thực tiển :
4


5

- Coi sự thống nhất giữa tình cả( nhiệt tình cách mạng, lòng yêu nước, ý chí quật cường
….) và tri thức ( kinh nghiệm dựng nước và giữ nước, hiểu biết khoa học ) là động lực tinh
thần thúc đẩy công cuộc đổi mới. Chống lại thái độ ỷ lại, trì trệ, chỉ biết làm theo cách củ mà
không biết dũng cảm làm theo cái mới, biết khơi dậy lòng yêu nước, ý chí quật cường……
phải phổ biến tri thức khoa học, công nghệ hiện đại cho đông đảo cán bộ, đảng viên và nhân

dân, biết nâng cao dân trí, đào tạo và bồi dưỡng nhân tài.
- Coi trọng công tác tư tưởng, đẩy mạnh giáo dục tư tưởng. Đặc biệt là giáo dục chủ
nghĩa Mác –Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh cho đông đảo người Việt Nam chúng ta. Phải
nâng cao và đổi mới tư duy lý luận mà trước hết là chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam.
- Kiên quyết khắc phục và ngăn ngừa tái diễn bệnh chủ quan , duy ý chí,lối suy nghĩa và
hành động giản đơn, nóng vội theo nguyện vọng chủ quan ảo tưởng mà bất chấp quy luật
khách quan, coi thường tình hình thực tế.
Câu 3: Đảng ta khẳng định: “mọi đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất phát từ
thực tế, tôn trọng quy luật khách quan”. Anh chị hãy chỉ ra và phân tích cơ sở triết học
của khẳng định đó?
Trả lời:
Ở Việt Nam, do bệnh chủ quan, duy ý chí, lối suy nghĩ & hành động giản đơn, nóng
vội chạy theo nguyện vọng chủ quan ảo tưởng đã xuất hiện trước Đổi mới có nguyên nhân
và gây ra tác hại lớn.
Xuất phát từ hiện thực khách quan của nước ta yếu kém về năng lực tư duy, lạc hậu về
lý luận, ít kinh nghiệm trong xây dựng và quản lý đất nước; Đồng thời do sai lầm ấu trĩ “tả”
khuynh, xảy ra trong một điều kiện lịch sử rất đặc biệt của dân tộc ta (Biết phát huy tối đa
sức mạnh tinh thần, khao khát thoát ra khỏi cuộc sống lầm than, nô lệ...) nhưng lại không
xuất phát từ hiện thực, bất chấp quy bluật, coi thường tri thức KH,… Nên tạo ra những chính
sách sai lầm, gây ra những hậu quả về nhiều mặt (kinh tế, xã hội…) rất nghiêm trọng & kéo
dài.
Để có thể khắc phục triệt để chủ nghĩa chủ quan phải quán triệt thực hiện nguyên tắc
khách quan. Vì nguyên tắc khách quan là nguyên tắc đầu tiên của tư duy biện chứng, Vận
dụng nguyên tắc khách quan kết hợp với chủ quan trong hoạt động nhận thức sẽ tránh được
những sai lầm trong chính sách phát triển đất nước.
Trên cơ sở quy luật khách quan đó, Đảng ta khẳng định “Mọi đường lối chủ trương
của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan”. Để làm được điều đó
Phải tôn trọng hiện thực kh.quan, tôn trọng vai trò quyết định của VC, tức:



Xuất phát của hiện thực kh.quan của đất nước, của thời đại để hoạch định chiến
lược, sách lược phát triển đất nước;

 Biết tìm kiếm, khai thác, tổ chức những lực lượng vật chất (cá nhân – cộng đồng, kinh
tế – quân sự, trong nước – ngoài nước, quá khứ – tương lai,…) để hiện thực hóa
chúng.

5


6

 Coi cách mạng là sự nghiệp của quần chúng; Coi đại đoàn kết toàn dân tộc là động
lực chủ yếu phát triển đất nước. Biết kết hợp hài hòa các dạng lợi ích khác nhau (kinh
tế, chính trị, tinh thần,...; cá nhân, tập thể, xã hội) thành động lực thúc đẩy công cuộc
đổi mới
Đồng thời phải phát huy tính năng động, sáng tạo của YT, ph.huy vai trò của các yếu
tố chủ quan (t.thức, t.cảm, ý chí, lý trí,...), tức ph.huy vai trò nhân tố CN trong h.động nhận
thức & thực tiễn cải tạo đất nước. Cụ thể:


Coi sự thống nhất nhiệt tình CM & tri thức KH là động lực tinh thần thúc đẩy
công cuộc Đổi mới; Chống lại thái độ thụ động, ỷ lại, bảo thủ trì trệ; Bồi dưỡng nhiệt
tình, phẩm chất cách mạng; Khơi dậy lòng yêu nước, ý chí quật cường, tài trí người
Việt Nam,…



Coi trọng công tác tư tưởng, đẩy mạnh giáo dục tư tưởng (chủ nghĩa Mác–

Lênin, tư tưởng HCM); Nâng cao và đổi mới tư duy lý luận (về CNXH & con đường
đi lên CNXH);



Phổ biến tri thức KH cho cán bộ, đảng viên, nhân dân.

Kiên quyết khắc phục & ngăn ngừa tái diễn bệnh chủ quan, duy ý chí, lối suy
nghĩ, hành động giản đơn, nóng vội chạy theo nguyện vọng chủ quan ảo tưởng; bất
chấp quy luật khách quan.
Câu 4: Bằng lý luận và thực tiễn, anh/chị hãy chứng minh rằng ý thức con người không
chỉ phản ánh thế giới mà còn góp phần sáng tạo thế giới?


Trả lời:
Ý thức là một trong hai phạm trù thuộc vấn đề cơ bản của triết học. Nó là hình thức cao
của sự phản ánh của thực tại khách quan, hình thức mà riêng con người mới có. Ý thức của
con người là cơ năng của cái “ khối vật chất đặc biệt phức tạp mà người ta gọi là bộ óc con
người” (theo LêNin).
Ý thức của con người tồn tại trước hết trong bộ óc của con người và sau đó, thông qua
thực tiễn lao động, nó tồn tại trong các vật phẩm do con người sáng tạo ra (vật chất xã hội –
vật chất mang/chứa ý thức). Ý thức bao gồm nhiều yếu tố như tri thức, tình cảm, niềm tin, lý
trí, ý chí…. Trong đó, tri thức (yếu tố cốt lõi) và tình cảm có vai trò rất quan trọng. Tri thức
và tình cảm thống nhất, chuyển hoá lẫn nhau; sự thống nhất của chúng tạo ra động lực tinh
thần mạnh mẽ thúc đẩy hoạt động của con người, góp phần làm cho con người trở thành chủ
thể sáng tạo ra lịch sử.
Thông qua hoạt động thực tiễn, mà trước hết là thực tiễn lao động, ý thức con người
xâm nhập vào hiện thực vật chất, nhờ đó, nó có được sức mạnh của cái tinh thần. Dựa trên
sức mạnh này, ý thức tác động đến thế giới, góp phần làm cho thế giới biến đổi. Ý thức con
người không chỉ phản ánh thế giới mà còn góp phần sáng tạo nên thế giới theo nhu cầu thực

tiễn xã hội.
6


7

Tính sáng tạo của ý thức thể hiện ra rất phong phú. Trên cơ sở những cái đã có trước, ý
thức có khả năng tạo ra tri thức mới về sự vật, có thể tưởng tượng ra cái không có trong thực
tế, có thể tiên đoán, dự báo tương lai, có thể tạo ra những ảo tưởng, những huyền thoại,
những giả thuyết khoa học hết sức trừu tượng và khái quát cao. Những khả năng ấy càng nói
lên tính chất phức tạp và phong phú của đời sống tâm lý – ý thức ở con người mà khoa học
còn phải tiếp tục đi sâu nghiên cứu để làm sáng tỏ bản chất của những hiện tượng ấy.
Ý thức ra đời trong quá trình con người hoạt động cải tạo thế giới, cho nên quá trình
phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc người là quá trình năng động sáng tạo, thống nhất
3 mặt sau:
Một là, trao đổi thông tin giữa chủ thể và đối tượng phản ánh. Sự trao đổi này mang
tính chất hai chiều, có định hướng, có chọn lọc các thông tin cần thiết.
Hai là, mô hình hoá đối tượng trong tư duy dưới dạng hình ảnh tinh thần. Thực chất,
đây là quá trình “ sáng tạo lại” hiện thực của ý thức theo nghĩa: mã hoá các đối tượng vật
chất tạo thành các ý tưởng tinh thần phi vật chất.
Ba là, chuyển mô hình từ tư duy ra hiện thực khách quan, tức quá trình hiện thực hoá
tư tưởng, thông qua hoạt động thực tiễn biến cái quan niệm thành cái thực tại, biến các ý
tưởng phi vật chất trong tư duy thành các dạng vật chất ngoài hiện thực. Trong giai đoạn này,
con người lựa chọn những phương pháp, phương tiện, công cụ để tác động vào hiện thực
khách quan nhằm thực hiện mục đích của mình.
Tính sáng tạo của ý thức là sáng tạo của sự phản ánh, theo quy luật của sự phản ánh mà
kết quả bao giờ cũng là những khách thể tinh thần. Sáng tạo và phản ánh là hai mặt thuộc
bản chất ý thức.
Tác động của ý thức xã hội đối với con người là vô cùng to lớn. Nó không những là
kim chỉ nam cho hoạt động thực tiễn mà còn là động lực thực tiễn. Sự thành công hay thất

bại của thực tiễn, tác động tích cực hay tiêu cực của ý thức đối với sự phát triển của tự nhiên,
xã hội chủ yếu phụ thuộc vào vai trò chỉ đạo của ý thức mà biểu hiện ra là vai trò của khoa
học, văn hoá và tư tưỏng.
Nền kinh tế của nước ta từ một điểm xuất phát thấp, tiềm lực kinh tế- kỹ thuật yếu,
trong điều kiện sự biến đổi khoa học- công nghệ trên thế giới lại diễn ra rất nhanh, liệu nước
ta có thể đạt được những thành công mong muốn trong việc tạo ra nền khoa học- công nghệ
đạt tiêu chuẩn quốc tế trong một thời gian ngắn hay không? Chúng ta phải làm gì để tránh
được nguy cơ tụt hậu so với các nước trong khu vực và trên thế giới? Câu hỏi này đặt ra cho
chúng ta một vấn đề đó là sự lựa chọn bước đi và trật tự ưu tiên phát triển khoa học- công
nghệ trong quan hệ với phát triển kinh tế trong các giai đoạn tới. Như vậy có nghĩa là ta cần
phải có tri thức vì tri thức là khoa học. Chúng ta phải không ngừng nâng cao khả năng nhận
thức cho mỗi người. Tuy nhiên nếu tri thức không biến thành niềm tin và ý chí thì tự nó cũng
không có vai trò gì đối với đời sống hiện thực cả. Chỉ chú trọng đến tri thức mà bỏ qua công
tác văn hoá- tư tưởng thì sẽ không phát huy được thế mạnh truyền thống của dân tộc. Chức
năng của các giá trị văn hoá đã đem lại chủ nghĩa nhân đạo, tính đạo đức. Không có tính đạo
đức thì tất cả các dạng giá trị ( giá trị vật chất và tinh thần) sẽ mất đi mọi ý nghĩa. Còn cách
mạng tư tưởng góp phần làm biến đổi đời sống tinh thần- xã hội, xây dựng mối quan hệ tư
7


8

tưởng, tình cảm của con người với tư cách là chủ thể xây dựng đời sống tinh thần và tạo ra
được những điều kiện đảm bảo sự phát triển tự do của con người.Mà có tự do thì con người
mới có thể tham gia xây dựng đất nước.
Như vậy, ý thức mà biểu hiện trong đời sống xã hội là các vấn đề khoa học- văn hoá- tư
tưởng có vai trò vô cùng quan trọng. Tìm hiểu về ý thức và tri thức để có những biện pháp
đúng đắn tạo điều kiện cho sự phát triển toàn diện xã hội.
Câu 5: Anh/Chị hãy phân tích hoàn cảnh xuất hiện, nội dung và ý nghĩa triết học câu
nói của C.Mác: "Vũ khí của sự phê phán cố nhiên không thể thay thế được sự phê

phán của vũ khí, lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh đổ bằng lực lượng vật chất,
nhưng lý luận cũng sẽ trở thành lực lượng vật chất, một khi nó thâm nhập vào quần
chúng"
- Hoàn cảnh xuất hiện: trong Lời nói đầu của bộ “ Góp phần phê phán triết học pháp quyền
của Hêgen” của C.Mác - Gồm ba tác phẩm của Mác phê phán quan điểm của Hêghen về nhà
nước và pháp quyền. Sự tán dương của tác giả với chế độ quân chủ lập hiến, chế độ quan liêu
và quân chủ Phổ. Nêu vai trò lịch sử của giai cấp vô sản trong cuộc đấu tranh nhằm cải tổ xã
hội.
- Nội dung và ý nghĩa triết học:
+Nội dung: Ở đây, "Vũ khí của sự phê phán" và "lý luận" là khoa học, tư tưởng khoa học, lý
luận khoa học, còn "sự phê phán của vũ khí” và "lực lượng vật chất" là hoạt động vật chất,
hoạt động thực tiễn của con người. Như vậy, C Mác đã giải trình rất rõ ràng, lý luận khoa học
phải thông qua hoạt động của con người thì mới trở thành lực lượng vật chất.
Khoa học vốn là sản phẩm của tư duy, của trí tuệ. Nếu không thông qua hoạt động của người
lao động (công nhân, nông dân, tầng lớp trí thức…), mà chỉ tự bản thân nó thôi, thì như Mác
nói khoa học không thể biến thành cái gì cả, không thể sinh ra tác động tích cực hay tiêu cực.
Theo Mác, triết học phải có nhiệm vụ phản ánh mọi xung đột của đời sống hiện thực, những
điều kiện kinh tế, vật chất của những xung đột hiện thực ấy, đồng thời vạch ra con đường và
những cách giải quyết các xung đột đó. Vì vậy, triết học phải tìm được cho mình một lực
lượng nằm ngay trong bản thân hiện thực, có khả năng phủ định xã hội hiện tại, xây dựng
một xã hội mới. Lực lượng ấy chính là giai cấp vô sản. Như vậy theo Mác, triết học tiên tiến
phải gắn liền với các lực lượng tiến bộ.
+ Ý nghĩa triết học: Cho thấy vị trí vai trò của triết học, của lý luận khoa học trong sự nghiệp
đấu tranh giải phóng nhân dân lao động thoát khỏi sự nô dịch của giai cấp bóc lột.
Câu 8: Nguyên lý? Nguyên tắc? Mối quan hệ giữa chúng. Anh/Chị hãy nêu những yêu
cầu phương pháp luận và phân tích cơ sở lý luận của nguyên tắc phát triển. Việc tuân
thủ nguyên tắc này sẽ khắc phục được những hạn chế gì trong hoạt động nhận thức và
hoạt động thực tiễn.
8



9

8.1. Nguyên lý là gì?
- Nguyên lý là những luận điểm xuất phát (tư tưởng chủ đạo) của một học thuyết (lý
luận) mà tính chân lý của nó là hiển nhiên, tức không thể hay không cần phải chứng minh
nhưng không mâu thuẫn với thực tiễn và nhận thức về lĩnh vực mà học thuyết đó phản ánh.
- Nguyên lý được khái quát từ kết quả hoạt động thực tiễn – nhận thức lâu dài của con
người. Nó vừa là cơ sở lý luận của học thuyết, vừa là công cụ tinh thần để nhận thức (lý giải
– tiên đoán) và cải tạo thế giới.
- Có hai loại nguyên lý: nguyên lý của khoa học (công lý, tiên đề, quy luật nền tảng)
và nguyên lý của triết học. Phép biện chứng duy vật có hai nguyên lý cơ bản. Đó là nguyên
lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển.
8.2. Nguyên tắc là gì?
- Nguyên tắc là những yêu cầu nền tảng đòi hỏi chủ thể phải tuân thủ đúng trình tự
nhằm đạt mục đích đề ra một cách tối ưu.
8.3. Mối liên hệ giữa nguyên lý và nguyên tắc
- Ý nghĩa phương pháp luận của nguyên lý thể hiện qua các nguyên tắc tương ứng.
Nghĩa là cơ sở lý luận của các nguyên tắc là các nguyên lý: cơ sở lý luận của nguyên tắc toàn
diện và nội dung nguyên lý về mối liên hệ phổ biến, cơ sở lý luận của nguyên tắc phát triển
là nội dung nguyên lý về sự phát triển…
8.4. Những yêu cầu phương pháp luận của nguyên tắc phát triển
• Trong hoạt động nhận thức yêu cầu chủ thể phải:
- Phát hiện những xu hướng biến đổi, chuyển hóa, những giai đoạn tồn tại của bản
thân sự vật trong sự tự vận động và phát triển của chính nó;
- Xây dựng được hình ảnh chỉnh thể về sự vật như sự thống nhất các xu hướng, những
giai đoạn thay đổi của nó; từ đó phát hiện ra quy luật vận động, phát triển (bản chất) của sự
vật.
• Trong hoạt động thực tiễn yêu cầu chủ thể phải:
- Chú trọng đến mọi điều kiện, khả năng…tồn tại của sự vật để nhận định đúng các xu

hướng, những giai đoạn thay đổi có thể xảy ra đối với nó;
- Thông qua hoạt động thực tiễn, sử dụng nhiều công cụ, phương tiện, biện pháp thích
hợp (mà trước hết là công cụ, phương tiện, biện pháp vật chất) để biến đổi những điều kiện,
phát huy hay hạn chế những khả năng…tồn tại của sự vật nhằm lèo lái sự vật vận động, phát
triển theo hướng hợp quy luật và có lợi cho chúng ta.
8.5. Cơ sở lý luận của nguyên tắc phát triển
Cơ sở lý luận của nguyên tắc phát triển là nội dung nguyên lý về sự phát triển.
• Sự vận động và sự phát triển
- Vận động là thuộc tính cố hữu, là phương thức tồn tại của vật chất; vận động được
hiểu như sự thay đổi nói chung. “Vận động hiểu theo nghĩa chung nhất, tức được hiểu là một
phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất, thì bao gồm tất cả
9


10

mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho
đến tư duy”.
- Phát triển là khuynh hướng vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức
tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn, do mâu thuẫn trong bản thân sự vật gây ra. Phát
triển là một khuynh hướng vận động tổng hợp của hệ thống sự vật, trong đó, sự vận động có
thay đổi những quy định về chất (thay đổi kết cấu – tổ chức) của hệ thống sự vật theo
khuynh hướng tiến bộ giữ vai trò chủ đạo; còn sự vận động có thay đổi những quy định về
chất của sự vật theo xu hướng thoái bộ và sự vận động chỉ có thay đổi những quy định về
lượng của sự vật theo xu hướng ổn định giữ vai trò phụ đạo, cần thiết cho xu hướng chủ đạo
trên.
+ “Hai quan điểm cơ bản…về sự phát triển (sự tiến hóa): sự phát triển coi như là giảm
đi và tăng lên, như lập lại; và sự phát triển coi như sự thống nhất của các mặt đối lập. Quan
điểm thứ nhất thì chết cứng, nghèo nàn, khô khan. Quan điểm thứ hai là sinh động. Chỉ có
quan điểm thứ 2 mới cho ta chìa khóa của “sự vận động”, của tất thảy mọi cái “đang tồn tại”;

chỉ có nó mới cho ta chìa khóa của những “bước nhảy vọt”, của “sự gián đoạn của tính tiệm
tiến”, của “sự chuyển hóa thành mặt đối lập”, của sự tiêu diệt cái cũ và sự nảy sinh ra cái
mới”.
- Phát triển như sự chuyển hóa: giữa các mặt đối lập; giữa chất và lượng; giữa cái cũ
và cái mới; giữa cái riêng và cái chung; giữa nguyên nhân và kết quả; giữa nội dung và hình
thức; giữa bản chất và hiện tượng; giữa tất nhiên và ngẫu nhiên; giữa khả năng và hiện thực.
- Phát triển là quá trình tự thân của thế giới vật chất, mang tính khách quan, phổ biến
và đa dạng: phát triển trong giới tự nhiên vô sinh; phát triển trong giới tự nhiên hữu sinh;
phát triển trong xã hội; phát triển trong tư duy, tinh thần.
• Nội dung nguyên lý
- Mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới đều không ngừng vận động và phát triển.
- Phát triển mang tính khách quan – phổ biến, là khuynh hướng vận động tổng hợp
tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn của
một hệ thống vật chất, do việc giải quyết mâu thuẫn, thực hiện bước nhảy về chất gây ra và
hướng theo xu thế phủ định của phủ định.
8.6. Việc tuân thủ nguyên tắc này sẽ khắc phục được những hạn chế gì trong hoạt động
nhận thức và hoạt động thực tiễn.
- Quán triệt và vận dụng sáng tạo nguyên tắc phát triển sẽ giúp chủ thể khắc phục
được quan điểm (tư duy) siêu hình trong hoạt động thực tiễn và nhận thức của chính mình.
Câu 9. Phân tích nội dung quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập. Ý
nghĩa của nó đối với quan điểm vừa hợp tác, vừa đấu tranh trong tình hình hiện nay?
1. Đặt vấn đề.
Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập (còn gọi là quy luật mâu thuẫn), là một
trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật, là hạt nhân của phép biện chứng, nó
vạch ra nguồn gốc bên trong sự vận động và phát triển của sự vật hiện tượng.
2. Các khái niệm.
10


11


Trước khi phép biện chứng mácxít ra đời, tư tưởng biện chứng về những đối lập đạt được
đỉnh cao nhất trong học thuyết của triết học cổ điển Đức, tiêu biểu nhất là Cantơ và Hêghen.
Song, do bị chi phối bởi quan niệm duy tâm, nên không thể phát triển học thuyết mâu thuẫn
biện chứng đến độ triệt để.
Kế thừa một cách có phê phán những thành tựu có giá trị nhất trong toàn bộ lịch sử triết học
và dựa trên những thành quả mới nhất của khoa học hiện đại, C.Mác và PH.Ăngghen đã phát
triển học thuyết mâu thuẫn biện chứng lên một tầm cao mới. Các nhà kinh điển của chủ
nghĩa Mác đã cho rằng, chúng ta phải tìm xung lực vận động và phát triển của sự vật trong
chính sự vật đó, trong những mâu thuẫn của bản thân sự vật. Quan điểm lý luận đó được thể
hiện trong quy luật thống nhất và đấu tranh của của các mặt đối lập.
Nội dung cơ bản của quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập được làm sáng tỏ
thông qua một loạt những phạm trù cơ bản: “ mặt đối lập”, “sự thống nhất” và “ đấu tranh
của các mặt đối lập”
Tất cả các sự vật, hiện tượng trên thế giới đều chứa đựng những mặt trái ngược nhau. Trong
nguyên tử có điện tử và hạt nhân; trong sinh vật có đồng hóa và dị hóa; trong kinh tế thị
trường có cung và cầu, v.v...Những mặt trái ngược nhau đó, trong phép biện chứng duy vật
gọi là mặt đối lập. Mặt đối lập là phạm trù dùng để chỉ những mặt có những đặc điểm, những
thuộc tính, những tính quy định có khuynh hướng biến đổi trái ngược nhau tồn tại một cách
khách quan trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
Chính những mặt như vậy nằm trong sự liên hệ, tác động qua lại với nhau tạo thành mâu
thuẫn biện chứng. Mâu thuẫn biện chứng tồn tại khách quan trong cả tự nhiên lẫn trong xã
hội và tư duy.
Hai mặt đối lập tuy có tính bày trừ, phủ định nhau, nhưng chúng lại gắn bó chặt chẽ với
nhau, tồn tại trong sự thống nhất của chúng. Sự thống nhất của các mặt đối lập là sự nương
tựa vào nhau, đòi hỏi có nhau của các mặt đối lập, sự tồn tại của mặt này phải lấy sự tồn tại
của mặt kia làm tiền đề.
Giữa các mặt đối lập bao giờ cũng có những nhân tố giống nhau, “sự thống nhất của các mặt
đối lập” còn bao hàm sự “đồng nhất” của các mặt đó. Do có sự “đồng nhất” của các mặt đối
lập mà trong sự triển khai của mâu thuẫn, đến một lúc nào đó, các mặt đối lập có thể chuyển

hoá lẫn nhau.
Như vậy, các mặt đối lập không chỉ thống nhất, mà còn tác động qua lại với nhau “đấu tranh”
với nhau. Đấu tranh giữa các mặt đối lập là sự tác động qua lại theo xu hướng bài trừ và phủ
định lẫn nhau giữa các mặt đó.
3. Mâu thuẫn là nguồn gốc của sự vận động và phát triển.
Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập có quan hệ chặt chẽ với nhau. Mâu thuẫn
biện chứng cũng bao hàm cả "sự thống nhất" lẫn "đấu tranh" của các mặt đối lập. Sự thống
nhất gắn liền với sự đứng im, sự ổn định tạm thời của sự vật. Sự đấu tranh gắn liền với tính
tuyệt đối của sự vận động và phát triển. Điều đó có nghĩa là sự thống nhất của các mặt đối
lập là tương đối, sự đấu tranh giữa các mặt đối lập là tuyệt đối.
Vậy mâu thuẫn biện chứng có quan hệ như thế nào với nguồn gốc của sự vận động và sự
phát triển?
11


12

Mâu thuẫn là sự tác động lẫn nhau của các mặt, các khuynh hướng đối lập. Chính sự tác
động qua lại, sự đấu tranh của các mặt đối lập là nguồn gốc vận động và phát triển, là xung
lực của sự sống. Chẳng hạn, tư tưởng, nhận thức của con người không thể phát triển, nếu
không có sự cọ xát thường xuyên với thực tiễn, không có sự tranh luận để làm rõ đúng sai...
Sự vận động và sự phát triển bao giờ cũng là sự thống nhất giữa tính ổn định và sự thay đổi.
Thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập quy định tính ổn định và tính thay đổi của sự
vật. Do vậy, mâu thuẫn là nguồn gốc của sự vận động và phát triển.
Mâu thuẫn là một hiện tượng khách quan và phổ biến, nó tồn tại trong tất cả các sự vật và
hiện tượng, ở mọi giai đoạn tồn tại và phát triển của sự vật và hiện tượng.
4. Phân loại mâu thuẫn
a) Mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài:
Mâu thuẫn bên trong là sự tác động qua lại giữa các mặt, các khuynh hướng đối lập của cùng
một sự vật. Mâu thuẫn bên ngoài đối với một sự vật là mâu thuẫn diễn ra trong mối liên hệ

giữa sự vật đó với các sự vật khác nhau. (Thí dụ, sự tác động qua lại giữa đồng hoá và dị hoá
của một sinh vật là mâu thuẫn bên trong, sự tác động qua lại giữa cơ thể và môi trường - khi
xét cơ thể là một sự vật - là mâu thuẫn bên ngoài). Mâu thuẫn bên trong có vai trò quyết định
trực tiếp với quá trình vận động và phát triển của sự vật. Tuy nhiên, mâu thuẫn bên trong và
mâu thuẫn bên ngoài không ngừng tác động nhau.
b) Mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản: Mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn quy định
bản chất của sự vật, quy định sự phát triển ở tất cả các giai đoạn của sự vật, nó tồn tại trong
suốt quá trình tồn tại của sự vật. Mâu thuẫn không cơ bản là mâu thuẫn đặc trưng cho một
phương diện nào đó của sự vật, nó quy định sự vận động và phát triển của một mặt nào đó
của sự vật.
c) Mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn thứ yếu:
Mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn nổi lên hàng đầu ở một giai đoạn phát triển nhất định của
sự vật, giải quyết nó sẽ tạo điều kiện giải quyết mâu thuẫn khác ở cùng giai đoạn (những
mâu thuẫn thứ yếu). Sự phát triển hơn nữa của sự vật, chuyển hoá nó sang giai đoạn tồn tại
khác của mình phụ thuộc vào việc giải quyết mâu thuẫn chủ yếu.
c) Mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng:
Mâu thuẫn đối kháng là mâu thuẫn giữa những giai cấp, những tập đoàn người, những xu
hướng xã hội có lợi ích cơ bản đối lập nhau (Thí dụ mâu thuẫn giữa chủ nghĩa xã hội và chủ
nghĩa tư bản, giữa tư sản và vô sản). Mâu thuẫn không đối kháng là mâu thuẫn giữa những
lực lượng, khuynh hướng xã hội có đối lập về lợi ích không cơ bản, cục bộ, tạm thời (Thí dụ
mâu thuẫn giữa tầng lớp nông dân, giữa các bộ phận công nhân khác nhau, giữa lao động trí
óc và lao động chân tay,... ở nước ta hiện nay).
Phân biệt mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng có ý nghĩa quan trọng trong
việc xác định phương pháp giải quyết mâu thuẫn.
5. Ý nghĩa phương pháp luận.
Việc nghiên cứu quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập có ý nghĩa phương
pháp luận quan trọng đối với nhận thức và hoạt động thực tiễn.
12



13

- Để phân tích đúng bản chất của sự vật, trước hết phải nhận thức sự vật như một thực thể
đồng nhất, tiếp đó phải nghiên cứu những mặt khác nhau, những mặt đối lập và tác động qua
lại giữa các mặt đối lập để nhận biết mâu thuẫn và nguồn gốc của sự vận động và phát triển.
- Khi phân tích mâu thuẫn, phải xem xét tồn diện các mặt đối lập; theo dõi tồn bộ q trình
phát sinh, phát triển của các mặt đó; nghiên cứu sự đấu tranh của chúng qua từng giai đoạn.
- Phải xác định đúng trạng thái chín muồi của mâu thuẫn; tìm ra phương thức, phương tiện
và lực lượng có khả năng giải quyết mâu thuẫn và tổ chức thực tiễn để giải quyết mâu thuẫn
một cách thực tế.
- Mâu thuẫn chỉ được giải quyết khi có đủ điều kiện chín muồi. Cho nên, chúng ta khơng
được giải quyết mâu thuẫn một cách vội vàng khi chưa có đủ điều kiện; phải tạo điều kiện
thức đẩy sự chín muồi của mâu thuẫn và điều kiện giải quyết.
- Đối với các mâu thuẫn khác nhau phải có phương pháp giải quyết khác nhau. Điều đó tuỳ
thuộc vào bản chất của mâu thuẫn, vào những điều kiện cụ thể. Phải có biện pháp giải quyết
thích hợp với từng mâu thuẫn.
Tóm lại, từ những điều trình bày trên đây, chúng ta nhận thấy, mọi sự vật và hiện tượng đều
chứa đựng những mặt, những khuynh hướng đối lập tạo thành mâu thuẫn trong bản thân sự
vật; sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập tạo thành xung lực nội tại của sự vận
động và phát triển, dẫn đến sự mất đi của cái cũ và sự ra đời của cái mới.
Câu 10: Phân tích nội dung quy luật những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi
về chất và ngược lại, và vạch ra ý nghĩa phương pháp luận của nó.
Quy luật chuyển hóa từ thay đổi về lượng dẫn đến thay
đổi về chất & ngược lại:
Chất, lượng, độ, điểm nút, bước nhảy:
 Chất - tính quy đònh vốn có của sự vật, đặc trưng cho sự
vật là nó, giúp phân biệt nó với sự vật khác.
 Lượng - tính quy đònh vốn có của sự vật, biểu thò quy mô,
tốc độ vận động, phát triển của sự vật cũng như của
các thuộc tính (chất) của nó.

 Độ - giới hạn mà trong đó sự thay đổi về Lượng chưa làm
Chất thay đổi căn bản.
 Điểm nút - mốc (giới hạn) mà sự thay đổi về Lượng vượt
qua nó sẽ làm Chất thay đổi căn bản.
 Bước nhảy - sự chuyển hóa về Chất do những thay đổi về
Lượng trước đó gây ra; Bước nhảy là giai đoạn cơ bản
trong tiến trình phát triển của sự vật, nó tồn tại khách
quan, phổ biến, đa dạng (Bước nhảy toàn bộ/Bước nhảy
cục bộ; Bước nhảy đột biến/Bước nhảy dần dần; Bước
nhảy tự nhiên/Bước nhảy xã hội/Bước nhảy tư duy).
Nội dung quy luật:
13


14

 Mọi sự vật đều được đặc trưng bằng sự thống nhất giữa
Chất và Lượng.
 Sự vật bắt đầu vận động, phát triển bằng sự thay đổi về
Lượng (liên tục, tiệm tiến); nếu Lượng thay đổi trong độ,
chưa vượt quá điểm nút thì Chất không thay đổi căn bản;
khi Lượng thay đổi vượt qua độ, quá điểm nút thì Chất sẽ
thay đổi căn bản, bước nhảy xảy ra.
 Bước nhảy làm cho Chất thay đổi (gián đoạn, đột biến) –
Chất (Sự vật ) cũ mất đi, Chất (Sự vật) mới ra đời; Chất
mới gây ra sự thay đổi về Lượng (làm thay đổi quy mô tồn
tại, tốc độ, nhòp điệu vận động, phát triển của sự vật ).
 Sự thay đổi về Lượng gây ra sự thay đổi về Chất; sự thay
đổi về Chất gây ra sự thay đổi về Lượng là phương thức
vận động, phát triển của mọi sự vật trong thế giới; phát

triển vừa mang tính liên tục vừa mang tính gián đoạn.
Phân tích:
Trong quá trình vận động và phát triển, Chất và Lượng
của sự vật cũng biến đổi. Sự thay đổi của Lượng và của Chất
không diễn ra độc lập với nhau, mà chúng có quan hệ chặt
chẽ với nhau. Nhưng không phải bất kỳ sự thay đổi nào của
Lượng cũng ngay lập tức làm thay đổi căn bản Chất của sự
vật. Lượng của sự vật có thể thay đổi trong một giới hạn nhất
đònh mà không làm thay đổi căn bản Chất của sự vật đó. Khi
vượt qua giới hạn đó sẽ làm cho sự vật không còn là nó,
chất cũ mất đi, chất mới ra đời (bước nhảy xảy ra).
Vd: Khi xét các trạng thái tồn tại khác nhau của nước với
tư cách là những chất khác nhau (chất – trạng thái), ứng với
chất – trạng thái đó, Lượng ở đây là nhiệt độ, thì dù Lượng
có thay đổi trong một phạm vi khá lớn (0 độ C< t<100 độ C),
nước vẫn ở trạng thái lỏng (tức là chưa thay đổi về chất –
trạng thái). Khi nhiệt độ của nước giảm đến 0 độ C nước sẽ
chuyển sang trạng thái rắn và khi đạt đến 100 độ C nước sẽ
chuyển sang trạng thái hơi (bước nhảy xảy ra). Ở đây, 0 độ C
và 100 độ được gọi là điểm nút.
Sự thay đổi về chất là kết quả của sự thay đổi về lượng
khi đạt đến điểm nút. Sau khi ra đời, chất mới có tác động trở
lại sự thay đổi của lượng. Chất mới có thể làm thay đổi quy
mô tồn tại của sự vật, làm thay đổi nhòp điệu của sự vận
động và phát triển của sự vật đó.
Ýùnghóa phương pháp luận:
Trong hoạt động nhận thức chủ thể phải:
14



15

 Phát hiện chính xác các quy đònh về chất và lượng của sự
vật; thấy được sự thống nhất giữa chúng để xác đònh
đúng độ, điểm nút của sự vật;
 Phân tích kết cấu và điều kiện tồn tại của sự vật để xác
đònh đúng tính chất, quy mô, tiến độ của bước nhảy có
thể xảy ra;
 Hiểu rằng, chất chỉ thay đổi khi lượng thay đổi vượt quá
độ, quá điểm nút; còn nếu lượng chưa thay đổi qua độ,
chưa qua điểm nút thì bước chưa thể xảy ra, chất chưa thay
đổi căn bản được;
 Xác đònh được chất mới (sau khi sự vật thực hiện bước
nhảy), qua đó xác đònh lượng độ, điểm nút và bước nhảy,
tức đònh hình được sự vật mới phải ra đời thay thế sự vật
cũ như thế nào.
Trong hoạt động thực tiễn chủ thể phải:
 Hiểu rõphương thức vận động và phát triển của sự vật;
từ đó xây dựng các đối sách thích hợp;
 Thông qua hoạt động thực tiễn, sử dụng linh hoạt các công
cụ, phương tiện vật chất can thiệp đúng lúc, đúng chỗ,
đúng mức độ vào tiến trình vận động và phát triểncủa
sự vật, lèo lái nó theo đúng quy luật và hợp lợi ích cùa
chúng ta. Cụ thể:
◊ Muốn có sự thay đổi về chất phải kiên trì tích lũy thay
đổi về lượng;
◊ Muốn duy trì sự ổn đònh của chất phải giữ sự thay đổi
về lượng trong phạm vi giới hạn độ;
◊ Khi lượng thay đổi đạt tới giới hạn độphải kiên quyết
thực hiện bước nhảy.

Câu 11: Phân tích nội dung quy luật phủ định của phụ định và vạch ra ý nghĩa phương
pháp luận.
a/ KN phủ định biện chứng, phủ định của phủ định:
Phủ định biện chứng là phạm trù triết học dùng để chỉ một mắt khâu của q trình tự phát
triển của sự vật đưa đến sự ra đời của cái mới tiến bộ hơn so với cái cũ bị phủ định. Phủ định
biện chứng cũng là sự khẳng định. Phủ định biện chứng gắn liền với giải quyết mâu thuẫn và
bước nhảy về chất xảy ra bên trong sự vật; nó mang tính khách quan – nội tại, tính kế thừa –
tiến lên.
Phủ định của phủ định là phạm trù triết học dùng để chỉ sự xác lập lại cái cũ , tức khằng định
lại cái bị phủ định, ở một trình độ cao hơn trong q trình tự phát triển của bản thân sự vật.
Trong sự phủ định của phủ định, cái cũ bị phủ định trong lần phủ địnhthứ nhất đưa đến sự ra
đời của cái mớ; cái mới này chứa sự phủ định mình trong lần phủ định sau đó. Lần phủ định
nào làm xuất hiện cái mới, tức ái được khẳng định, nhưng trong cái mới này có lặp lại (yếu
15


16

tố) cái cũ, đã bị phủ định trong lần phủ định thứ nhất, ở một trình độ cao hơn thì lần phủ định
đó được gọi là phủ định của phủ định.
Qua nhiều lần phủ định biện chứng ( có cả phủ định của phủ định) sự vật loại dần cái tiêu
cực, tích lũy dần cái tích cực, làm cho cái mới ra đời quay về với cái cũ, cái khẳng định quay
trở lại với cái bị phủ định ở một trình độ cao hơn.
b/ Nội dung quy luật:
Theo quan điểm duy vật biện chứng, triết học Mac thấy rõ sự chuyển hoá từ
những thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất, sự đấu tranh của các mặt đối lập
dẫn tới mâu thuẫn được giải quyết, sự vật cũ mất đi và sự vật mới ra đời. Mỗi sự thay thế
ấy làm thành một chuỗi mắc xích phát triển của hiện thực và tư duy. Sự ra đời cái mới là
kết quả của sự phụ định cái cũ, cái lỗi thời. Do đó, mọi sự vật đều liên hệ lẫn nhau và
luôn vận động, phát triển; phát triển là một chuỗi các lần phủ định biện chứng có gắn liền

với việc giải quyết mâu thuẫn và thực hiện bước nhảy về chất xảy ra bên trong sự vật.
Những nhà triết học theo quan điểm siêu hình hiểu phủ định là sự can thiệp của
những lực lượng bên ngoài là phá huỷ, thủ tiêu sự vật, chấm dứt sự phát triển của nó cả
trong tự nhiên và xã hội , làm mất đi cái cũ và xuất hiện cái mới tiến bộ hơn. Do vậy ,
phủ định là vòng khâu liên hệ giữa cái mới với cái cũ, cái mới ( cái được khẳng định) ra
đời trên cơ sở laọi bỏ yếu tố tiêu cực, đồng thời lưu giữ, cải tạo những yếu tố tích cực của
cái cũ ( cái bị phủ định).
Phủ định biên chứng mang tính khách quan - nội tại do mâu thuẫn của bản
thân sự vật tự quy định. Hơn nữa, phương thức phủ định sự vật cũng không tuỳ thuộc ý
muốn chủ quan của con nguời. Ngoài ra phủ định biên chứng không phải là sự thủ tiêu
hoàn toàn cái cũ bị phủ định. Trái lại, dẫn tới sự ra đời của cái mới, quá trình phủ định
biên chứng bao hàm trong nó nhân tố giữ lại những nội dung tích cực của cái bị phủ định.
Do vậy, phủ định biện chứng là sự phủ định mang tính kế thừa – tiến lên
Qua một số lần phủ định biên chứng xuất hiện phủ định của phủ định, xác lập
lại cái cũ ( khẳng định lại cái cũ đã bị phủ định ) ở một trình độ cao hơn. Phủ định của phủ
định làm xuất hiện cái mới như là kết quả tổng hợp tất cả các yếu tố tích cực, được khôi
phục duy trì và phát triển. sự phủ định của phủ định là giai đoạn kết thúc một chu kì phát
triển, đồng thời lại là điểm xuất phát của một chu kỳ phát triển tiếp theo . Do đó, phủ định
của phủ định mang tính chu kỳ hở.
Quy luật này nói lên mối liên hệ, sự kế thừa giữa cái bị phủ định và cái phủ
định; do sự kế thừa đó , phủ định biện chứng không phải là sự phủ định sạch trơn, bác bỏ
tất cả sự phát triển trước đó, mà là điều kiện cho sự phát triển, nó duy trì và gìn giữ nội
dung tích cực của các giai đoạn trước, lặp lại một số đặc điểm cơ bản của cái xuất phát,
nhưng trên cơ sở mới cao hơn. Do vậy, phủ định của phủ định vạch ra khuynh hướng phát
triển xoắn ốc tiến lên của mọi sự vật trong thế giới.
c/ Ý nghĩa phương pháp luận:
- Quy luật phủ định của phủ định vạch rõ phương hướng tiến lên của quá trình phát
triển. Do đó trong nhận thức và hoạt động thực tiễn phải có quan điểm phát triển.
- Xây dựng cái mới phải đi đôi với xóa bỏ cái cũ, cái lạc hậu và kế thừa có chọn lọc các
yếu tố tích cực của cái cũ , cải biến nó theo yêu cầu của cái mới. Cần chống cả hai

khuynh hướng sai lầm là phủ định sạch trơn hoặc kế thừa nguyên vẹn cái cũ.
16


17

- Phát triển là tiến lên nhưng quanh co, phức tạp , do đó phại biết phát hiện cái mới, ủng
hộ cái mới, cái tiến bộ và tạo điều kiện cho nó mau chiến thắng cái cũ.
Câu 12: Bằng lý luậnvà thực tiễn. Anh chị hãy chứng minh rằng cuộc đấu tranh giữa
cái cũ và cái mới luân là qúa trình khó khăn, lâu dài, phức tạp, cái mới có thể thất bại
tạm thời nhưng cuối cùng nó sẽ chiến thắng cái cũ.
* Về mặt lý luận:
+ Quy luật phủ định của phủ định của phép tư duy biện chứng chỉ ra rằng: Bất cứ sự vật hiện
tượng nào trong thế giới đều trải qua quá trình sinh ra, tồn tại, phát triển và diệt vong. Sự vật
cũ mất đi được thay bằng sự vật mới. Sự thay thế đó là tất yếu của quá trình vận động và
phát triển của sự vật.
+ Sự vật là một tập hợp các yếu tố tương tác với nhau, trong sự tương tác đó nảy sinhvài yếu
tố (biến đổi) trái ngược nhau, tạo nên cơ sở các mặt đối lập trong sự vật. Các mặt đối lập này
không tách rời nhau, chứa những yếu tố giống nhau cùng tồn tại trong sự vật, tác động qua
lại lẫn nhau. Dù vậy, các mặt đối lập luôn đấu tranh với nhau, tác động qua lại theo xu hướng
loại bỏ lẫn nhau.
+ Sự thống nhất của các mặt đối lập nay chỉ mang tính tương đối nhưng sự đấu tranh mang
tính tuyết đối. Sự đấu tranh này gắn liền với sự vận động và thay đổi của sự vật. Mâu thuẫn
biện chứng phát triển tương ứng với quá trình thống nhất giữa các mặt đối lập còn sự đấu
tranh giữa các mặt đối lập thì chuyển dần từng bước từ bình lặng tới quyết liệt, làm xuất hiện
khả năng chuyển hoá của các mặt đối lập.
+ Mâu thuẫn biện chứng là nguồn gốc của mọi sự phát triển, chúng đều trải qua các giai
đoạn: từ sự xuất hiện của các mặt đối lập, sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập,
rồi chuyển hoá các mặt đối lập. Khi mâu thuẫn được giả quyết , cái cũ mất đi cái mới ra đời
tiến bộ, ưu việt hơn cái cũ và tự nó cũng chứa đựng những mâu thuẫn mới, hay thay đổi

những vai trò tác động cảu các mâu thuẫn cũ.
* Về mặt thực tiễn:
+ Thực tế đã chứng minh vận cuộc đấu tranh giữa cái cũ và cái mới luôn là qúa trình khó
khăn, lâu dài, phức tạp, cái mới có thể thất bại tạm thời nhưng cuối cùng nó sẽ chiến thắng
cái cũ. Điều đó được minh chứng rõ ràng trong cuộc đấu tranh giữa giai cấp phong kiến và
giai cấp công nhân trong xã hội ta đưa đất nước đi lên từ chế độ phong kiến bỏ qua tư bản
chủ nghĩa đi lên chủ nghĩa xã hội.
+ Cùng là hai giai cấp tồn tại tong cùng một chế độ xã hội nhưng giữa các giai cấp này luôn
chứa đựng những mâu thuẫn, phủ định lẫn nhau, mâu thuẫn lên đến cao trào chính là cuộc
đấu tranh của giai cấp công nhân lao động lật đổ giai cấp phong kiến. Quá trình đấu tranh ấy
diễn ra lâu dài và quyết liệt, mặc dù có gặp phải những khó khăn chống cự của chế độ cũ
nhưng rồi lực lượng lao động mới tiến bộ hơn vẫn chiến thắng. Thay thế chế độ phong kiến
lác hậu, là chế độ xã hội chủ nghĩa với những tiến bộ mới, tuy nhiên trong nó vẫn chứa đựng
những mâu thuẫn chưa thể xoá bỏ giữa tầng lớp nhân dân lao động với tàn dư của chế độ
phong kiến, với giai cấp tư sản đang hình thành trong nền kinh tế.
Câu 13: Anh / Chị hãy giải thích câu nói của V.I.Lênin: “Có thể định nghĩa vắn tắt phép
biện chứng là học thuyết về sự thống nhất của các mặt đối lập. Như thế là nắm được
17


18

hạt nhân của phép chứng, nhưng điều đó đòi hỏi phải có những sự giải thích và sự phát
triển thêm”
Trả lời:
- PBC là hệ thống các nguyên lý, quy luật, phạm trù chuyển hóa lẫn nhau phản ánh mối liên
hệ và sự vận động, phát triển của thế giới vật chất.
* Nguyên lý là những luận điểm xuất phát, những tư tưởng chủ đạo của một học thuyết hay
lý luận mà tính chân lý của chúng là hiển nhiên, không thể hay không cần phải chứng minh
nhưng không mâu thuẫn với thực tiễn và nhận thức về lĩnh vực mà học thuyết hay lý luận đó

phản ánh.
- Với tính cách là một học thuyết triết học, PBCDV được xây dựng dựa trên 2 nguyên lý cơ
bản: NL về mối liên hệ phổ biến và NL về sự phát triển.
- NL về mối liên hệ phổ biến: Khi khái quát từ những biểu hiện cụ thể của MLH xảy ra trong
các lĩnh vực khác nhau của thế giới, NL về mối liên hệ phổ biến có nội dung như sau:
+ Mọi sự vật, hiện tượng, quá trình trong thế giới đều tồn tại trong muôn vàn MLH
ràng buộc qua lại lẫn nhau.
+ Trong muôn vàn MLH chi phối sự tồn tại của SV, HT, QT trong thế giới có MLH
phổ biến. MLH phổ biến tồn tại khách quan – phổ biến, nó chi phối một cách tổng quát sự
VĐ và PT của mọi SV, HT, QT trong thế giới.
- NL về sự phát triển: Khi khái quát từ những biểu hiện cụ thể của sự phát triển xảy ra trong
các lĩnh vực khác nhau của thế giới, NL về sự phát triển có nội dung như sau:
+ Mọi SV, HT trong thế giới đều không ngừng VĐ và PT.
+ PT mang tính khách quan – phổ biến, là khuynh hướng vận động tổng hợp tiến lên
từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện của một hệ
thống vật chất do việc giải quyết mâu thuẫn, thực hiện bước nhảy về chất gây ra và hướng
theo xu thế phủ định của phủ định.
* Quy luật: là những mối liên hệ khách quan, bản chất, tất nhiên, chung, lặp lại giữa các sự
vật, hiện tượng và chi phối sự vận động, phát triển của chúng. PBCDV gồm 3 quy luật cơ
bản sau:
1 – QL thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập:
- Mặt đối lập: SV là một tập hợp các yếu tố (thuộc tính) tương tác với nhau và với môi
trường. Kết quả của sự tương tác này là các yếu tố tạo nên bản thân SV có một sự biến đổi
nhất định, trong đó có một vài yếu tố biến đổi trái ngược nhau. Những yếu tố trái ngược nhau
(bên cạnh những yếu tố giống hay khác nhau) tạo nên cơ sở của các mặt đối lập trong SV.
MĐL tồn tại k.quan và phổ biến.
- Thống nhất của các mặt đối lập là các MĐL kg tách rời nhau tức MĐL này lấy MĐL
kia làm điều kiện, tiền đề cho sự tồn tại của mình; là các MĐL đồng nhất nhau tức trong
chúng chứa những yếu tố giống nhau cho phép chúng đồng tồn tại trong SV; là các MĐL tác
động ngang nhau, tức sự thay đổi trong MĐL này tất yếu sẽ kéo theo sự thay đổi trong MĐL

kia, và ngược lại.
- Đấu tranh của các MĐL: Dù tồn tại trong sự thống nhất, song các MĐL luôn đấu
tranh với nhau, tức chúng luôn tác động qua lại theo xu hướng bài trừ, phủ định hay loại bỏ
lẫn nhau. Hình thức và mức độ đấu tranh của các MĐL rất đa dạng, trong đó thủ tiêu lẫn
nhau là một hình thức đặc biệt của các MĐL.
18


19

- Mâu thuẫn BC, tức sự thống nhất và đấu tranh của các MĐL, tồn tại k.quan phổ biến
và đa dạng (MT bên trong – MT bên ngoài; MT cơ bản – MT kg cơ bản; MT chủ yếu – MT
thứ yếu; MT trong tự nhiên – MT trong xã hội – MT trong tư duy). Sự tác động lên bản
thân sự vật là nguồn gốc, động lực của mọi sự vận động, phát triển xảy ra trong thế giới.
- Chuyển hóa của các MĐL (giải quyết MTBC): sự thống nhất mang tính tương đối
gắn liền với sự ổn định của SV; sự đấu tranh mang tính tuyệt đối gắn liền với sự VĐ, thay
đổi của SV. MTBC phát triển tương ứng với quá trình thống nhất các MĐL chuyển từ mức
độ trừu tượng sang cụ thể; còn sự đấu tranh các MĐL chuyển từ mức bình lặng sang quyết
liệt từ đó làm xuất hiện các khả năng chuyển hóa của các MĐL. Khi đk k.quan hội đủ, một
trong khả năng đó biến thành hiện thực, các MĐL tự thực hiện quá trình chuyển hóa. MTBC
sẽ được giải quyết khi các MĐL tự phủ định chính mình để biến thành cái khác. Với hai
phương thức chuyển hóa như sau: MĐL này chuyển hóa thành MĐL kia ở trình độ mới và cả
hai MĐL cùng chuyển hóa thành một cái thứ 3 nào đó.
- Nd quy luật: Các MTBC khác nhau tác động kg giống nhau đến quá trình vận động
và phát triển của sự vật. Mỗi MTBC đều trải qua các giai đoạn từ sinh thành (sự xuất hiện
của các MĐL) sanh hiện hữu (sự thống nhất và đấu tranh của các MĐL), rồi giải quyết (sự
chuyển hóa của các MĐL). MTBC được giải quyết, cái cũ mất đi cái mới ra đời với những
MTBC mới hay thay đổi vai trò tác động của MTBC cũ. MTBC là nguồn gốc của mọi sự
vận động và phát triển. Do đó, VĐ và PT trong thế giới vật chất là tự bản thân nó.
-> Phép biện chứng đòi hỏi xem xét sự thống nhất của các mặt đối lập một cách cụ thể,

xem xét những mối quan hệ cụ thể. Đây cũng là bản chất của sự đồng nhất mang tính biện
chứng, sự đồng nhất có chứa đựng các yếu tố khác biệt.
-> Nhấn mạnh tính chất quan trọng của sự thống nhất của các mặt đối lập, V.I.Lênin
đưa ra một định nghĩa nữa về phép biện chứng: “Có thể định nghĩa vắn tắt phép biện chứng
là học thuyết về sự thống nhất của các mặt đối lập. Như thế là nắm được hạt nhân của phép
biện chứng, nhưng điều đó đòi hỏi phải có những sự giải thích và một sự phát triển thêm”.
Phép biện chứng là sự phát triển của nó, các mặt đối lập và mâu thuẫn - hạt nhân của phép
biện chứng.
2 – QL chuyển hóa từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất và ngược lại:
Mọi SV đều được đặc trưng bằng sự thống nhất giữa lượng và chất. SV bắt đầu bằng sự thay
đổi về lượng một cách liên tục hay tiệm tiến); nếu lượng chỉ thay đổi trong độ; chưa vượt quá
điểm nút thì chất kg thay đổi căn bản; khi lượng thay đổi vượt qua độ, quá điểm nút thì chất
sẽ thay đổi căn bản, bước nhảy nhất định sẽ xảy ra. Bước nhảy làm cho chất thay một cách
gián đoạn hay đột biến; chất cũ mất đi chất mới ra đời. Chất mới gây ra sự thay đổi về lượng.
Sự thay đổi về lượng gây ra sự thay đổi về chất và sự thay đổi về chất gây ra sự thay đổi về
lượng là phương thức VĐ, PT của SV trong thế giới.
3 – QL phủ định của phủ định: Mọi SV đều liên hệ lẫn nhau và luôn vận động phát triển.
Phát triển là một chuỗi các lần phủ định BC có gắn liền với việc giải quyết mâu thuẫn và
thực hiện bước nhảy về chất xảy ra bên trong SV. PĐBC man tính k.quan – nội tại, kế thừa –
tiến lên. Qua một số lần PĐBC xuất hiện PĐ của PĐ, xác lập cái cũ ở một trình độ cao hơn.
PĐ của PĐ vạch ra khuynh hướng phát triển xoắn ốc tiến lên của mọi SV trong thế giới.

19


20

* Ngoài những nguyên lý và QL, PBC còn có sáu cặp phạm trù: cái riêng và các chung,
nguyên nhân và kết quả, tất nhiên và ngẫu nhiên, nội dung và hình thức, bản chất và hiện
tượng, khả năng và hiện thực.

Tóm lại, PBC DV là hệ thống các quan điểm của con người về thế giới, là hệ thống
các phương pháp nhận thức và cải tạo thế giới, là hệ thống các giá trị để con người đánh giá
và điều chỉnh các hành vi trong hoạt động của mình.
Câu hỏi 14: Cơ sở nào để khẳng định nguyên tắc lịch sử - cụ thể (LS-CT) là “linh hồn”
phương pháp luận của triết học Mác – Lênin? Nêu những yêu cầu cơ bản của nguyên
tắc LSCT.
a/ - Cơ sở khẳng định nguyên tắc lịch sử - cụ thể (LS-CT) là “linh hồn” phương
pháp luận của triết học Mác – Lênin
- Triết học Mác-Lênin kế thừa và phát triển những thành tựu quan trọng nhất của tư
duy triết học trong lịch sử nhân lọai.
- Triết học Mác-Lênin xem xét lịch sử xuất phát từ con người và cho rằng con người
là sản phẩm của lịch sử.
b/- Những yêu cầu cơ bản của nguyên tắc LS-CT
1.
Trong hoạt động nhận thức, chủ thể phải tìm hiểu quá trình hình thành, tồn tại
và phát triển cụ thể của những sự vật cụ thể trong những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể.
Nghĩa là:
Phải biết sự vật đã ra đời và đã tồn tại như thế nào, trong những điều kiện,
hoàn cảnh nào, bị chi phối bởi những quy luật nào;
Hiện giờ sự vật đang tồn tại như thế nào trong những điều kiện, hoàn cảnh ra
sao, do những quy luật nào chi phối;
Trên cơ sở đó, phải nắm bắt được sự vật có thể sẽ phải tồn tại như thế nào (trên
những nét cơ bản) trong tương lai ..
2.
Trong hoạt động thực tiễn, chủ thể phải xây dựng được những đối sách cụ thể,
áp dụng cho những sự vật cụ thể, đang tồn tại trong những điều kiện, hoàn cảnh, quan hệ
cụ thể mà không nên áp dụng những khuôn mẫu chung chung cho bất cứ sự vật nào, trong
bất kỳ điều kiện, hoàn cảnh, quan hệ nào.
3.
Nguyên tắc LS-CT được V.I. Lênin cô đọng trong nhận định: “Xem xét mỗi

vấn đề theo quan điểm sau đây: một hiện tượng nhất định đã xuất hiện trong lịch sử như thế
nào, những hiện tượng đó đã trải qua những giai đoạn phát triển chủ yếu nào, và đứng trên
quan điểm của sự phát triển đó để xem xét hiện nay nó đã trở thành thế nào”.
Điều này có nghĩa là nguyên tắc LS-CT đỏi hỏi phải phân tích sự vật cụ thể trong
những tình hình cụ thể để thấy được:
Sự vật đang (đã hay sẽ) tồn tại thông qua những chất, lượng nào; thể hiện qua
những độ nào; đang (đã hay sẽ) thực hiện những bước nhảy nào để tạo nên những chất,
lượng mới nào?...
Sự vật đang (đã hay sẽ) bị tác động bởi những mâu thuẫn nào; những mâu
thuẫn đó đang nằm ở giai đoạn nào, có vai trò như thế nào đến sự vận động, phát triển của
sự vật?...
20


21

Sự vật đang (đã hay sẽ) trải qua những lần phủ định biện chứng nào; cái cũ nào
đang (đã hay sẽ) phải mất đi, cái mới nào đang (đã hay sẽ) xuất hiện?..
Trong mối quan hệ với những sự vật khác, những điều gì được coi là những cái
riêng hay cái đơn nhất, điều gì là cái chung hay cái đặc thù / cái phổ biến; chúng quy định
nhau, chuyển hóa lẫn nhau như thế nào?
Bản chất của sự vật là gì, nó được thể hiện qua những hiện tượng nào; hiện
tượng nào chỉ là giả tượng, hiện tượng nào là điển hình …
Nội dung của sự vật là gì, nó đang (đã hay sẽ) tồn tại thông qua những hình
thức nào; hình thức nào phù hợp với nội dung của sự vật, hình thức nào không phù hợp với
nội dung, cái gì làm cho nội dung của sự vật biến đổi?..
Trong bản thân sự vật, hiện thực là gì; hiện thực đó đang (đã hay sẽ) nảy sinh
ra những khả năng nào; mỗi khả năng đó, trong những điều kiện cụ thể nào có độ tất yếu
hiện thực hóa ra sao?...
4.

Nguyên tắc LS-CT đòi hỏi chúng ta phải bao được các sự kiện xảy ra trong
nghiên cứu khoa học hay các biến cố xảy ra trong các tiến trình lịch sử nhân loại.
Tuy nhiên, nó không cho phép chúng ta kết hợp các sự kiện khoa học như những cái
ngẫu nhiên thuần túy của tự nhiên hay mô tả các biến cố lịch sử như những cái vụn vặt đơn
lẻ của xã hội, mà nó đòi hỏi chúng ta phải tái hiện chúng, mô tả chúng trên cơ sở vạch ra
được cái tất yếu lô gích, cái chung (quy luật, bản chất) của chúng, chỉ ra được những trật tự
nhân quả quy định chúng.
Nguyên tắc này đòi hỏi chúng ta phải xây dựng được bức tranh khoa học về thế giới,
để qua đó chúng ta nhận thức được tính muôn vẻ của tự nhiên, tính phong phú của lịch sử
trong sự thống nhất.
5.
Nguyên tắc LS-CT đã được các lãnh tụ của giai cấp vô sản vận dụng: Xuất
phát từ tình hình cụ thể của CNTB ở giai đoạn tiền độc quyền, tự do cạnh tranh mà C. Mác
cho rằng, cách mạng XHCN chỉ có thể thắng lợi ở tất cả các nước TBCN tiên tiến.
Sang thế kỷ 20, CNTB đã chuyển sang giai đoạn độc quyền, đế quốc chủ nghĩa. Khi
vận dụng nguyên tắc này vào xem xét tình hình thế giới lúc này có những thay đổi lớn mà
V.I. Lênin đã đi đến kết luận đúng đắn là: cách mạng XHCN chỉ có thể thắng lợi ở vài
nước, ở khâu yếu nhất của CNTB.
Đảng CS Việt Nam, Đảng CS Trung Quốc cũng đang quán triệt và vận dụng sáng tạo
nguyên tắc này vào thực tiễn cách mạng mỗi nước để xây dựng cho quốc gia mình một con
đường riêng đi lên CNXH.
Vận dụng nguyên tắc LS-CT, từ năm 1930, Đảng ta đã lựa chọn con đường CNXH.
Ngày nay, để xây dựng thành công CNXH, Đảng đề ra đường lối xây dựng nền kinh tế thị
trường, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất,
đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng XHCN; phát huy cao độ nội
lực đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát
triển nhanh, có hiệu quả và bền vững; thực hiện tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển
văn hóa, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ
và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường; kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với
tăng cường an ninh, quốc phòng; bảo vệ và xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh.

Câu 15. Phép biện chứng tư duy, tư duy biện chứng là gì? Mối quan hệ giữa chúng?
21


22

Phép biện chứng tư duy là một hệ thống tư tưởng phản ánh những mối liên hệ cơ bản
và phổ quát – các nguyên lý, quy luật biện chứng – chi phối những hình thức tư duy biện
chứng. Về nguồn gốc, phép biện chứng tư duy chính là sự phản ánh của phép biện chứng
khách quan vào trong bộ óc con người.
Tư duy biện chứng là một hệ thống các nguyên tắc có quan hệ với nhau điều phối hoạt
động của chủ thể tư duy trong việc nhận thức và cải tạo thực tiễn thế giới. Về nguồn gốc, tư
duy biện chứng được xây dựng từ những nội dung cơ bản của phép biện chứng tư duy, trước
hết là từ nội dung của các nguyên lý, quy luật cơ bản.
 Mối quan hệ giữa phép biện chứng tư duy và tư duy biện chứng
Phép biện chứng tư duy có nhiệm vụ giải thích những gì xảy ra trong quá trình tư duy
nhận thức, đồng thời vạch ra những mối liện hệ phổ biến giữa các tiến trình tư duy và diễn
đạt điều đó bằng hệ thống các phạm trù của phép biện chứng duy vật. Trong khi đó, tư duy
biện chứng – công cụ nhận thức hiệu quả được xây dựng từ nội dung của phép biện chứng tư
duy nói riêng, phép biện chứng duy vật nói chung – được chủ thể sử dụng để nắm bắt bản
chất của sự vật trong quá trình vận động, phát triển của chính nó.
Phép biện chứng tư duy thực hiện chức năng chính là giải thích, nó chỉ ra các quy luật mà
tư duy biện chứng tuân theo, các hình thức mà tư duy biện chứng phải dựa vào. Còn tư duy
biện chứng thực hiện chức năng điều tiết, nó chỉ ra chủ thể tư duy phải xử sự như thế nào,
phải thực hiện những thao tác nào để đạt được mục đích là hiểu thấu bản chất của sự vật
trong sự vận động và phát triển của nó – khách thể biện chứng.
Không nên đồng nhất phép biện chứng của tư duy với tư duy biện chứng mặc dù chúng cùng
phản ánh một đối tượng là tư duy lý luận hiện đại. Nói đến phương thức tư duy lý luận khoa
học không nên chỉ chú trọng đến các nguyên tắc chi phối tư duy mà cần phải làm rõ các quy
luật, hình thức thể hiện của nó.

Câu 16: Lý luận? thực tiễn? Anh / chị hãy phân tích những yêu cầu cơ bản của
nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn.
1. Phạm trù thực tiễn

22


23

Thực tiễn là hoạt động vật chất “cảm tính”, có mục đích, có tính lịch sử xã hội, nhằm cải tạo
tự nhiện và xã hội. Phạm trù “thực tiễn” là một trong những phạm trù nền tảng, cơ bản của
triết học Mác- Lê nin nói chung và lý luận nhận thức mácxít nói riêng.
I.1.

Thực tiễn là một hoạt động vật chất

Trong hoạt động vật chất, con người sử dụng các phương tiện, công cụ, sức mạnh vật chất
của mình để tác động vào tự nhiên, xã hội nhằm cải tại, biến đổi chúng phù hợp với nhu cầu
của mình. Đây là một quá trình tương tác giữa chủ thể và khách thể. Trong đó, chủ thể hướng
vào việc cải tạo khách thể. Cho nên thực tiễn trở thành khâu trung gian nối liền ý thức con
người với thế giới bên ngoài.
I.2.

Hoạt động thực tiễn có mục đích

1.2.1 Hoạt động thực tiễn là bản chất của con người.
1.2.2 Động vật chỉ hoạt động theo bản năng để phù hợp với thế giới bên ngoài một cách thụ
động. Con người chủ động thích nghi với thế giới bên ngoài bằng cách cải tạo thể giới
thoả mãn theo nhu cầu của mình.
1.2.3 Khi hoạt động thực tiễn, để đạt hiệu quả cao, con người tạo ra những vật phẩm không

có sẵn trong tự nhiên, đó chính là những công cụ, và sử dụng chúng.
I.3.

Thực tiễn có tính chất lịch sử xã hội

1.3.1 Trình độ và hình thức hoạt động thực tiễn thay đổi qua các giai đoạn khác nhau của xã
hội.
1.3.2 Hoạt động thực tiễn không thể được tiến hành không chỉ một vài cá nhân mà là tòan
xã hội
I.4.

Các dạng cơ bản và không cơ bản của thực tiễn

I.4.1. Dạng cơ bản:
 Hoạt động sản xuất vật chất – là một dạng họat động nguyên thủy và cơ bản và
nó quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người.
 Hoạt động chính trị xã hội nhằm cải tạo, biến đổi xã hội, phát triển các quan hệ
xã hội, chế độ xã hội.
 Hoạt động thực nghiệm khoa học do nhu cầu phát triển của cuộc cách mạng
khoa học kỹ thuật hiện đại.
23


24

I.4.2. Dạng không cơ bản: là những họat động được hình thành và phát triển từ những dạng
cơ bản, chúng là dạng thực tiễn phái sinh. Ví dụ: họat động trong một số lĩnh vực như
đạo đức, nghệ thuật, giáo dục, tôn giáo …
2. Phạm trù “lý luận”
2.1.


Lý luận là hệ thống những tri thức được khái quát từ thực tiễn, phản ánh những mối
liên hệ bản chất bản chất, những quy luật của các sự vật hiện tượng.

2.2.

Lý luận là trình độ cao hơn về chất so với kinh nghiệm. Trên cơ sở tổng kết kinh
nghiệm lý luận được hình thành, không tự phát và cũng không bắt buộc mọi lý luận
đều xuất phát từ kinh nghiệm. Muốn hình thành lý luận, con người phải thông qua quá
trình nhận thức kinh nghiệm. Trong quá trình nhận thức, con người đi từ nhận thức
kinh nghiệm thông thường đến nhận thức kinh nghiệm khoa học.

2.3.

Chức năng cơ bản của lý luận là phản ánh hiện thực khách quan và chức năng phương
pháp luận chỉ đạo hoạt động thực tiễn và hoạt động nhận thức của con người

2.4.

Lý luận có hai cấp độ khác nhau, cấp độ lý luận ngành và cấp độ lý luận triết học ( tùy
vào phạm vi phản ánh của nó và vai trò của phương pháp luận).

3. Những yêu cầu cơ bản của nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
3.1.

Thực tiễn và lý luận có mối quan hệ biện chứng cho nhau. Thực tiễn là cơ sở, là động
lực, là mục đích và là tiêu chuẩn của lý luận. Lý luận hình thành, phát triển phải xuất
phát từ thực tiễn, đáp ứng được yêu cầu thực tiễn.

3.1.1 Như ở trên ta đã nói, thực tiễn là cơ sở của lý luận. Con người nhận thức giới tự nhiên

đầu tiên bằng hoạt động thực tiễn . Sự tác động của con người buộc giới tự nhiên bộc
lộ những thuộc tính, quy luật để từ đó con người có kinh nghiệm. Quá trình phân tích,
tổng hợp, khái quát kinh nghiệm thành một môn khoa học lý luận. Thực tiễn đề ra
những vấn đề mà lý luận phải trả lời.
3.1.2 Thực tiễn là động lực của lý luận. Qua hoạt thực tiễn luôn nảy sinh những vấn đề đòi
hỏi lý luận phải hoàn thiện chính mình để bao quát và giải quyết tốt các vấn đề do
thực tiễn đặt ra. Điều này càng làm cho lý luận ngày càng đầy đủ, phong phú và sâu
sắc hơn.
24


25

3.1.3 Thực tiễn là mục đích của lý luận. Không có thực tiễn thì lý luận không thể đem lại
lợi ích cao hơn, thỏa mãn nhu cầu ngày càng tăng của con người và qua thực tiễn đã
giúp cho lý luận hoàn thành được mục đích của mình. Lý luận hướng dẫn chỉ đạo thực
tiễn làm cho thực tiễn ngày càng hiệu quả hơn.
3.1.4 Thực tiễn là tiêu chuẩn chân lý của lý luận: Lý luận chỉ được coi là chân lý khi nó phù
hợp với thực tiễn khách quan mà nó phản ánh, và đồng thời nó được thực tiễn kiểm
nghiệm. Thông qua thực tiễn những lý luận đạt đến chân lý sẽ được bổ sung vào kho
tang tri thức nhân loại.
3.2.

Lý luận phải được vận dụng vào thực tiễn, tiếp tục bổ sung và phát triển trong thực
tiễn. Thực tiễn phải được chỉ đạo bởi lý luận để làm cho thực tiễn có hiệu quả nhất.

3.2.1. Hoạt động thực tiễn của con người muốn có hiệu quả nhất thiết phải có lý luận soi
đường. Khi lý luận đạt đến chân lý thì lý luận có khả năng định hướng mục tiêu, xác
định lực lượng, phương pháp, biện pháp thực hiện. Lý luận còn dự báo được khả năng
phát triển của các mối quan hệ thực tiễn.

3.2.2. Vận dụng lý luận vào thực tiễn cần phân tích rõ từng tình hình cụ thể, tránh vận dụng
lý luận máy móc, giáo điều kinh viện . Như vậy chẳng những hiểu sai giá trị của lý
luận mà còn làm phương hại đến thực tiễn, làm sai lệch sự thống nhất tất yếu giữa lý
luận và thực tiễn
3.2.3. Từ lý luận xây dựng mô hình thực tiễn phát huy những nhân tố tích cực, hạn chế
những yếu tố tiêu cực nhằm đạt kết quả cao.
3.2.4. Bám sát diễn biến của thực tiễn để kịp thời bổ sung những khuyết điểm của lý luận
hoặc có thể thay đổi lý luận cho phù hợp với thực tiễn.
Câu 18: Anh/Chị hãy nêu ra những nguyên nhân cơ bản của bệnh kinh nghiệm và bệnh
giáo điều. Để khắc phục triệt để bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều, chúng ta cần phải
quán triệt nguyên tắc nào trong triết học Mác – Lênin? Phân tích các yêu cầu cơ bản
của nguyên tắc đó.
1/. Những nguyên nhân cơ bản của bệnh kinh nghiệm:
- Bệnh kinh nghiệm là khuynh hướng tư tưởng tuyệt tối hóa kinh nghiệm, coi thường
lý luận khoa học, khuếch đại vai trò thực tiễn để hạ thấp vai trò lý luận.
25


×