Tải bản đầy đủ (.docx) (156 trang)

Thực trạng suy dinh dưỡng thấp còi và hiệu quả can thiệp cải thiện khẩu phần ăn cho trẻ em dưới 5 tuổi vùng ven biển tiền hải thái bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.49 MB, 156 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ Y TÊ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y Dược THÁI BÌNH
•A* *2# «ĩ# «ỉ# «1# *2# «2# «2# > «!# «2» »2*
rp #1»

^

#1»

*ĩ> «ĩ«

#Ị^ #f« #Ị» rj> rỊ»

TRẦN QUANG TRUNG

THỤC TRẠNG SUY DINH DƯỠNG THÁP CÒI
VÀ HIỆU QUẢ CAN THIỆP CẢI THIỆN KHẤU PHÀN ĂN
CHO TRẺ EM DUỪI5 TUÓI VÙNG VEN BIEN TIỀN HẢI THÁI BÌNH

LUẶN AN TIEN SY Y TE CONG CỌNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y Dược THÁI BÌNH
ki» kV 4% kG tỉ« t!« 4% 4% 4*4 4*4 4*4

rj>» »Ị»

'ĩ' »1» rỊ% rỊ% »y*

4^t 4*4 4*4



•Ị' «Y» rj» #Ị» «»y»

TRÀN QUANG TRUNG

THÁI BÌNH - 2014


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ Y TÊ

THỤC TRẠNG SUY DINH DƯỠNG THẤP CÒI
VÀ HIỆU QUẢ CAN THIỆP CẢI THIỆN KHẮU PHẦN ĂN
CHO TRẺ EM DUÓÌ 5 TUÓI VÙNG VEN BIÊN TIÈN HẢI THÁI BÌNH

CHUYÊN NGÀNH: Y TẾ CÔNG CỘNG

MÃ SỐ: 62.72.03.01

Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS.TS.Phạm Ngọc Khái
2. GS.TS.Lê Thị Họp

THÁI BÌNH - 2014


3

CHƯƠNG 1. TỒNG QUAN TÀI LIỆU

1.1.

Tình hình suy dinh dưõ’ng ỏ' trẻ em và các yếu tố Hên quan.

/././. Tinh hình suy dinh duỡng thấp còi ở trẻ em trên thế giới

Từ 576 cuộc diều tra đại diện của các quốc gia và vùng lãnh thổ trong
giai doạn 1990 đến 2010 cho thấy năm 1990 trên thế giới tỷ lệ trẻ dưới 5 tuổi bị
SDD thể thấp còi chiếm khoảng 40% tương ứng là 253,1 triệu trẻ. Vùng châu
Mỹ La tinh và Caribe là 24,6% (13,7 triệu). Tỷ lệ SDD thấp còi châu Á năm
1990 là 48,4% (188,7 triệu). Các quốc gia đang phát triển là 44,6% (248,4
triệu); các quốc gia phát triển 6,1% (4,7 triệu). Đến năm 2010 trên toàn cầu,
thấp còi ờ trẻ cm đã giảm từ 39,7% xuống còn 26,7%. Xu hướng này dự kiến
sẽ còn 21,8% vào năm 2020. Tuy nhiên, mức độ giảm tỷ lệ SDD thấp còi có sự
khác nhau rõ rệt giừa các khu vực. Ớ châu Phi tỷ lệ thấp còi hầu như ít thay
đối. Sau 20 năm, tỷ lệ SDD thấp còi vẫn dao động trong mức 40%, trong khi
đó cháu Ả có những chuyển biến mạnh mẽ, giám đáng kể tỷ lệ SDD thấp còi từ
49% năm 1990 xuống còn 28% trong năm 2010. Tuy nhiên, ở đa số các nước
đang phát trien, thấp còi vần còn là một vấn đề có V nghĩa sức khòe cộng dồng
trong giai doạn hiện nay [85J,[86J. Khoảng 80% trẻ dưới 5 tuổi thấp còi trên
thế giới nằm ở 14 quốc gia trong đó 4 nước là Đông Timor, Burundi, Niger và
Madagascar có tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuôi thấp còi cao nhất (hơn một nửa trẻ em
dưới 5 tuổi bị SDD thấp còi). Den năm 2012 tỷ lệ thấp còi chung toàn thế giới
khoảng 25,0%, tương dương với 162 triệu trẻ; trong dó 56% ở Châu Á, 36% ớ
châu Phi [147].
Tỷ lệ SDD trên thế giới hiện giảm bình quân khoảng 0,7%/năm. Khu vực châu Mỹ Latinh
và vùng Carribe đạt mức giảm 0,6%/năm và khu vực châu Phi đạt dược mức giảm
0,3%/năm [147]. Diễn biến tỷ lệ SDD thể thấp



còi cho thấy tốc độ giảm suy SDD không hoàn toàn song hành với mức tăng trưởng
kinh tế, ớ một số quốc gia tuy kinh tế tăng trưởng không cao nhưng tỷ lệ SDD thế
thấp còi giảm nhanh do tiến hành các can thiệp có hiệu quà. Khi tỷ lệ SDD thấp còi
càng xuống thấp thì tốc dộ giảm sẽ càng chậm lại.
Tý lệ thấp còi giảm trong 2 thập kỉ qua và một vài khu vực đâ đạt được nhưng
tiến bộ cáng kế. Khu vực Đông Á và Thái Bình Dương có tỷ lệ thấp còi giảm nhanh
nhất. Khu vực này đã giảm được 30% SDD thấp còi, từ 42% năm 1990 xuống còn
12% năm 2011. Thành tựu này chủ yếu là do sự cải thiện từ Trung Quốc. Tỉ lệ thấp
còi ớ Trung Quốc dã giám trên 30% năm 1990 xuống 10% năm 2010 [85],[147]. Tỉ
lộ thấp còi ớ Mỹ Latinh và vùng Caribe giảm gần một nửa trong thời gian này. Khu
vực phía Nam Châu Á và Trung Dông và khu vực phía bắc Châu Phi cũng giảm
dược hơn 1/3 ti lệ thấp còi từ năm 1990. Tuy nhiên, sự tiến bộ trong giảm thấp còi ở
tiểu vùng Sahara Châu Phi chí giảm 7%, từ 47% năm 1990 xuống 40% năm 2011.
Hơn 1/3 các nước tiểu vùng Sahara Châu Phi vẫn có tỉ lệ thấp còi rất cao, Tây Phi
và Trung Phi giảm rất ít 5%, từ 44% năm 1990 xuống 39% năm 2011, toàn thế giới
giám xuống 14%, từ 40% năm 1990 xuống 26% năm 2011 [136].
Nhìn chung xu hướng tỷ lệ SDD thể thấp còi ờ các nước đang phát triển sẽ
tiếp tục giảm từ 29,8% năm 2000 xuống khoáng 16,3% năm 2020; Tuv nhiên có sự
khác biệt giữa các vùng. Ớ Châu Phi sẽ có mức dộ giảm ít hơn rất nhiều từ 34,9%
xuống còn 31,1% trong khoảng 20 năm tới, nhưng số lượng sẽ tăng từ 44 triệu trẻ
năm 2000 lên 48 triệu vào năm 2020 do tăng dân số. Ở Châu Á, Châu Mỹ Latinh và
Carribe, cả tỷ lệ và số lượng trẻ SDD thể thấp còi sẽ tiếp tục giảm trong cùng một
chu kỳ thời gian. Nhưng trong khi tỷ lệ SDD thấp còi đang giảm chậm thì sự gia
tăng số trẻ em dưới 5 tuổi trong các nước kém phát triển đă làm cho số lượng tré em
bị thấp còi trong nước kém phát triển giảm chậm hơn so với tỷ lệ [85],[ 136].
Ị. 1.2. Tinh hình suy dinh dưỡng thấp còi của trẻ em Việt Nam.


SDD protein năng lượng ở tré em vẫn daní> là một thách thức đối với công tác
chăm sóc sức khòe cộng đồng. Vói những định hướng chiến lược Quốc gia về dinh

dường giai đoạn 2011-2020 cùng sự chung tav của cộng đồng đã yêu cầu giảm tỷ lệ
SDD là một trong những chỉ tiêu đánh giá sir phát triển kinh tế, xâ hội [6]. Trong
những năm gần đây các thế SDD nặng dâ giảm rất nhiều, hiện nay SDD chú yếu là
thế nhẹ và vừa, số trẻ em SDD gầv còm cấp tính đă hạ thấp đáng kể, nhưng tỷ lệ
thấp còi vẫn còn rất cao. SDD thấp còi là hậu quả của thiếu dinh dường kéo dài, ảnh
hưởng đến sự phát triến chiều cao của trẻ em. Trong mấy thập kỷ qua, tỷ lệ SDD trẻ
em dưới 5 tuôi ớ Việt Nam dă có những mức giám mạnh tương dương với xu hướng
giảm tỷ lộ SDD trong khu vực [24],[67].
Tỷ lệ SDD thế thấp còi ở trẻ em dưới 5 tuổi đã giảm từ 59,7% năm 1985
xuống 56,5% năm 1990 và 36,5% năm 2000, đến năm 2005 tỷ lệ SDD thế thấp còi
là 29,6% (theo quần thể tham chiếu NCHS). Tuy nhiên kết quá cho thấy tý lệ SDD
thể thấp còi thay đổi 31,9% năm 2009 và 29,3% năm 2010 [66] (do từ năm 2006 sử
dụng quần thế tham chiếu của WHO [144]). Mặt khác giảm SDD thể thấp còi là một
thách thức, khó hơn rất nhiều so với giảm SDD thế nhẹ cân [23],[27],[40]. Nếu như
năm 1999, tỷ lệ SDD nhẹ cân và thấp còi không có sự khác biệt đáng kế thì sau hơn
1 thập kv, 2 tỷ lộ này có sự chênh lệch rất rõ ràng. Từ năm 1999 đến năm 2010 trong
cả nước tỷ lệ SDD thể nhẹ cân giảm xuống một cách bền vừng từ 36,7% xuống còn
17,5%, đến năm 2012 là 16,2%. Tuy nhiên tỷ lệ SDD thể thấp còi giảm chậm hon từ
38,7% năm 1999 xuống 29,6% năm 2005. Đen năm 2006 và 2007 tỷ lệ
SDD thấp còi tăng lcn 3 ] ,9% và 33,9% là do thay đổi việc áp dụng chuẩn từ quần
thể tham khảo của Mỹ sang áp dụng chuẩn của WHO năm 2006 và tiếp tục giảm
xuống 29,3% năm 2010 và đến năm 2012 là 26,7% [67].
SDD thấp còi theo tuổi.


Tỷ lệ SDD trẻ dưới 5 tuôi khác nhau theo lứa tuỏi. Các nghiên cứu đã chí ra
rằng tỷ lệ SDD ở nhóm trẻ dưới 6 tháng tuổi là thấp nhất đối với cá 3 thể (thể nhẹ
cân, thế thấp còi, thể gầy còm), sau đó tăng nhanh và thời kỳ tré 6-24 tháng tuổi, là
thời kỳ trẻ có nguy cơ bị SDD cao hơn do đây là thời kỳ trẻ cai sữa, ăn sam có nhiều
ảnh hưởng đến lượng thức ăn hấp thụ được của tré và cũng là thời kỳ trẻ có nhu cầu

dinh dường rất cao. Sức miễn dịch tự nhiên giảm, dễ mắc các bệnh truyền nhiễm
hơn và mẹ bắt dầu đi làm cùng là những lý do dẫn đến tỷ lệ SDD tại nhóm 6-24
tháng tuổi cao [22],[25],[35]. SDD thể nhẹ cân tăng nhanh trong năm đầu tiên, tiếp
tục tăng trong năm thứ 2 và đạt tỷ lệ cao nhất lúc trẻ được 36 đến 41 tháng tuối.
SDD thấp còi xuất hiện sớm ngay trong 6 tháng tuổi dầu tiên, tăng nhanh từ 6 dến
23 tháng tuồi và gằn như đi ngang, thậm chí giảm đi vào 54 đến 59 tháng tuối [66].
Tỷ lệ SDD thể thấp còi bình quân chung cả nước năm 2010 là 29,3%, có sự
khác biệt rò rệt giữa các vùng sinh thái ở Việt Nam. Tỷ lệ SDD thế thấp còi cao nhất
là ở vùng Tây nguyên (35,2%), Miền núi và Trung du phía Bắc (33,7%), Bắc miền
Trung và ven bien miền Trung (31,4%). Thấp nhất ớ đồng bàng sông Hồng (25,5%)
và Đông Nam Bộ (19,2%). Một số tỉnh miền núi phía Bắc có tỷ lệ SDD cao như Lào
Cai 40,7%, Hà Giang 38%, Cao Bằng 35% [66J. Đặc biệt, tại các khu vực vùng sâu,
vùng xa, khu dân tộc thiếu số tỷ lộ SDD thấp còi rất cao, có thế lên tới 60% trong
nghiên cứu của Nguyễn Thị Thi Thơ tại huyện Văn Yên tinh Yên Bái [54]. Nghiên
cứu của Trần Thị Lan ờ nhóm tuổi 12-36 tháng dân tộc Pako và Vân Kiều ở Quảng
Trị cũng cho biêt tý lệ SDD thâp còi chicm tới 66,5% [41 ]. Như vậy, mặc dù tỷ lệ
SDD thấp còi chung ớ nước ta hiện nay được đánh giá ở mức trung binh theo
khuyến nghị của WHO nhung cá biệt vẫn còn những vùng có tỷ lệ thấp còi ớ mức
cao và rất cao. Sự khác biệt về tỷ lệ SDD giữa các vùng miền là rất rõ ràng.
Tỷ lệ thấp còi cũng có sự khác biệt khá lón giữa thành thị và nông thôn. Ớ
vùng thành thị vào năm 2006 tỷ lệ thấp còi đã gần về điểm đầu của mức trung bình


theo đánh giá của Tổ chức Y tế Thế giới (22,6%), trong khi ớ nông thôn tý lệ này
vẫn còn ớ diêm giữa của mức cao (34,8%) [66J. Nghiên cứu của Hoàng Đức Hạnh
tại Hà Nội năm 2011 cho thấy tỷ lệ SDD trẻ em ở thể nhẹ cân là 8,6%, thể thấp còi
là 17,8% và thể gầy còm là 2,9% [1 8]. Kết qua của Vù Quỳnh Hoa năm 2010 tại
thành phố Hồ Chí Minh cũng cho kết quả tương tự [21J. Trong khi dó, các nghiên
círu ớ những vùng nông thôn khác nhau tren toàn quốc đều cho thấy tỷ lệ SDD thấp
còi chiếm khoảng 1/3 số trẻ dưới 5 tuổi [281,[32],[55]. Nguyên nhân là do sự bất

cập trong việc tiếp cận dịch vụ y tế, trình độ dân trí và khoáng cách giàu nghèo ngày
càng lớn giữa khu vực nông thôn, miền núi so với các thành phố lớn và các khu đô
thị [66].
Tinh hình SDD thắp còi tại tinh Thái Bình vù huyện Tiền Hài.
Kết quả của một số nghiên cứu cho thấy tình trạng SDD trẻ em của tỉnh Thái
Bình còn rất cao, năm 1991 tỷ lệ SDD thể nhẹ cân (CN/T) là 58,5%, và thấp còi
(CC/T) là 59,9% mặc dù Thái Bình là vựa lúa cùa miền bắc là tỉnh đồng bằng sông
nồng [36]. Năm 2006 kết quả nghiên cứu tại huyện Tiền Hải cho thấy tỷ lệ SDD thể
nhẹ cân là 22,6%, về nhận thức của bà mẹ có con SDD có tới 51% bà mẹ vẫn cho là
con phát trien bình thường [57]. Năm 2010 tỷ lệ SDD thể nhẹ cân của Thái Bình
giảm xuống còn 17,3%, SDD thâp còi là 26,7% cao hơn so với tỷ lệ chung cúa vùng
đông bằng sông Ilồng là 25,5% [66].
1.1.3. Nguyên nhăn của suy dinh dưỡng
Suy dinh dưỡng do tác động của nhiều yếu tố có mối quan hệ chặt chẽ với y
tế, lương thực thực phâm và thực hành chăm sóc trẻ tại hộ gia đình. Các nguyên
nhân gồm: nguyên nhân trực tiếp, nguyên nhân quan trọng, nguyên nhân cơ bản và
nó ảnh hưởng đến SDD nói chung và SDD thấp còi ở các cấp độ khác nhau.
1.1.3. Ị. Nguyên nhân trực tiếp


Nguyên nhân trực tiếp dẫn đến SDD ờ trẻ là thiếu ăn về số lượng, không đảm
bảo chất lượng và mắc các bệnh nhiễm khuấn. Trong đó, chất lượng khấu phần ăn
cần xem xét hơn là số lượng khấu phần, trong đó vai trò của protein dộng vật chất
béo, vitamin, vi chất, acid amin và acid béo cần thiết. Ncu khẩu phần ăn cua trẻ
không đám bảo đú nhu cầu protcin trỏ sẽ chậm tăng cân, rồi giảm cân dẫn đến chậm
phát triển chiều cao, trong trường họp thiếu protein kéo dài thi trẻ sẽ bị thấp còi
[39],[40],[146]Quỹ nhi dồng Liên hợp quốc dã coi nuôi con bằng sữa mẹ là một trong bốn
bien pháp bảo vệ sức khòc trẻ cm, do sữa mẹ là thức ăn tốt nhất cho trẻ. Trong thời
gian 4-6 tháng đầu sau sinh, sữa mẹ là nguồn cung cấp đầy đủ các chất dinh dường
cần thiết cho sự phát triển của trẻ, có tỷ lệ các chất dinh dường cân dối và dề hấp

thu, dặc biệt là protein và vitamin A. Thêm vào dó, sừa mẹ được xem là yếu tố khởi
đầu, phát triến thành phần vi khuấn chí đường ruột [89]. Sữa mẹ chứa
oligosaccharides làm tăng sự phát triển của các loài vi khuân bilìdobacteria, đây là
loại vi khuân có mặt sớm trong dường tiêu hóa. Và sự có mặt của chúng trong
đường tiêu hóa là tốt cho sức khỏe cúa trẻ. Hộ vi sinh vật của trẻ được nuôi bằng
sữa mẹ không những cỏ nhiều vi khuẩn bifidobacteria mà còn chứa ít các vi khuẩn
gây bệnh có hại so với trẻ bú sữa ngoài, điều này giải thích tại sao tỷ lệ mắc mới của
bệnh nhiễm khuấn là thấp ớ tré dược nuôi bằng sữa mẹ [114J. Sữa mẹ làm giảm
đáng kế nguy cơ tử vong ớ tré em. Tuy nhiên rất nhiều nghiẻn cứu đã chứng minh
tình trạng thiếu nhiều vi chất dinh dưỡng đặc biệt là sắt, kẽm, và vitamin nhóm B
trong sữa mẹ và thực phẩm bổ sung [8],[30]. Trẻ dưới 6 tháng tuổi (nhóm đang được
bú sừa mẹ) vẫn bị thiếu vitamin A tiền lâm sàng tồn tại với mức ý nghĩa sức khỏe
cộng đồng [8J. Do vậy bồ sung vitamin A liều cao được khuyến nghị từ 6 tháng tuồi
[40].


Kiến thức thái độ của bà mẹ về giá trị của sữa mẹ cũng làm ảnh hường đến
việc nuôi con bằng sừa mẹ cho tré như: việc lo ngại cho con bú làm cho bộ ngực
xấu di và sữa non là không tốt, chí cỏ sữa ôn định là sữa tốt cho sức khỏe, một số
còn cho rằng sữa non là bắn cần vứt bó đi . Một lý do khác ảnh hướng đến nuôi con
bằng sữa mẹ là do mẹ thiếu sữa, thiếu sừa khiến bà mẹ phải cai sừa cho con trước 6
tháng tuổi, việc thiếu sữa xảy ra phổ biến ở các bà mẹ ở thành phố do căng thăng
công việc, do phải di làm sớm, số lần cho trẻ bú ít đi là nguyên nhân gây thiếu sữa ớ
các bà mẹ [89].
Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng khấu phần ăn của trẻ ở nông thôn Việt Nam chỉ
đáp ứng khoảng 30- 50% nhu cầu protein động vật và vi chất dinh dưỡng L39J,[40J,
[48j. Kết quả điều tra về tình trạng thiếu da vi chất dinh dưỡng ớ trẻ nhỏ tại các
vùng nông thôn Việt Nam của Nguyễn Văn Nhiên và cộng sự cho thấy tỷ lệ thiếu
kẽm, selenium, magnesium, và đồng theo thứ tự là 86,9%, 62,3%, 51,9%, và 1,7%,.
Mặt khác, 55,6% trẻ bị thiếu máu và 11,3% số tré bị thiếu vitamin A. Thiếu đồng

thời từ 2 vi chất dinh dưởng trớ lên chiếm tới 79,4% trẻ [121]. Người ta đă ước tính
có khoảng 600-700 triệu người tren toàn thô gỉớỉ bị thiôu săt [145]. Thiêu máu và
thiêu săt ớ trẻ nhỏ có thể dẫn tới chậm phát triển cả về tinh thần và thế chất và ảnh
hướng xấu tới sức khỏe [83],[131]. ở Việt Nam, một số điều tra về thiếu máu do
thiếu sắt ở trẻ em tại một số vùng nông thôn (Sóc Sơn, ngoại thành Hà Nội) cua tác
giả Lê Thị Hợp và cộng sự [98], nghiên CÍR1 của Berger, Khúc Thị Tuyết Hường,
Trần Thị Lan cho thấy tỷ lệ thiếu máu ở tré em Việt Nam vẫn còn ở mức rất cao
[32],[41],[72].
Năm 2006, tỷ lệ thiếu máu trung bình ớ tre em chung toàn quốc là 29,2%, tỷ lệ
thiếu máu cao nhất ớ nhóm 6-12 tháng tuổi, tới 56,9%; có xu hướng giảm khi tuổi
của trỏ tăng lên: 45% ớ nhóm 12-24 tháng tuổi, 38% ở nhóm 24-36 tháng tuồi. Khi
chế độ ăn thiếu sất như thiếu sữa mẹ, cho ăn dặm chưa đúng cách làm trẻ bị thiếu


các thức ăn nguồn gốc động vật là những nguồn quan trọng cung cấp sắt dẫn dến
thiếu máu [100J. Trong nhừng trường hợp nhu cầu sắt lớn hơn bình thường khi đó
sữa mẹ thường không đu thỏa mãn nhu cầu sắt của cơ thể trẻ, những trẻ này cần
được bắt đầu bổ sung sắt sớm, tối thiểu là từ 2 tháng tuổi, tốt nhất là trong suốt sáu
tháng đầu đời của trẻ [145].
Ớ Việt Nam, kết quả của một số nghiên cứu đã cho thấy tý lệ thiếu kẽm ớ trẻ
sơ sinh cao tới 30-40% [31]. Các tác giả Berger và cộng sự năm 2004 đã đánh giá tỷ
lệ thiếu kẽm ở trẻ em tại cộng đồng, dựa vào nồng độ kẽm huyết thanh thấp (<10,7
pmol/L) dao động trong khoảng 25 - 40% tùy theo địa phương và nhóm tuối nghiên
cứu [72]. Trong Chiến lược toàn cầu về nuôi dưỡng trẻ sơ sinh và trẻ nhò WHO và
UNICEF dã đưa ra chương trình các khuyến nghị về việc áp dụng phương pháp bổ
sung đa vi chất dinh dường hàng ngày thay vì bổ sung sắt để phòng thiếu máu do
thiếu sắt ở giai đoạn trẻ dưới 2 tuổi [135].
Mắc các bệnh tậi và nhiễm khuân.
Vòng xoắn giữa bệnh nhiễm trùng và SDD đâ gây lên hậu quả tình trạng SDD
càng nặng thêm. Người ta ước đoán nhiễm trùng ảnh hưởng đến 30% sự giảm chiều

cao của tre. Tỷ lệ SDD của trẻ tăng lên rõ rệt vào những mùa có các bệnh nhiễm
trùng ký sinh trùng như tiêu chảy, nhiễm khuấn hô hấp, sốt rét [58].
Thiếu vitamin A tiền lâm sàng vẫn ảnh hưởng đến khoảng 140-250 triệu trẻ em
ở các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam và tình trạng này liên quan đến tỷ
lệ tử vong và mắc bệnh còn cao. Châu Phi có số trẻ trước tuồi học đường bị quáng
gà cao nhất (2,55 triệu), và chiếm gần một nửa số trẻ bị quáng gà trên toàn cầu
[82],f 104],[ 121].
Tiêu chảy làm cho trẻ mất nước và một số chất dinh dường quan trọng như
kẽm và dồng. Nếu không dược bù nước và các chất dinh dường này, trẻ có thế bị
mất nước nghicm trọng, SDD, chậm tăng trường và tử vong trong các trường hợp


nguy hiểm. Trong một nghiên cứu theo chiều dọc ở Philippin, trẻ em được theo dõi
từ khi sinh ra cho đến 24 tháng tuổi, người ta thấy tác dộng tích lũy của nhiễm
khuấn dường hô hấp kèm theo sốt dến nguy cơ SDD thấp còi cũn£ tương tự như tác
động của bệnh tiêu chảy. Có mối quan hệ “liều đáp ứng” giữa gánh nặng tiêu chảy
tích lũy (ví dụ như số ngày bị tiêu chảy) và khả năng bị thấp còi lúc 24 tháng, tuồi
[88].
Ớ Indonesia, hiệu quả của việc bố sung Vitamin A liều cao dối với sự tăng
trướng tuyến tính ở trẻ tiền học đường phụ thuộc vào mức độ của tình trạng nhiễm
khuẩn đường hô hấp [101]. Năm 2010 về đánh giá tình trạng carotenoid và retinol
huyết thanh và thiếu máu ở 682 trẻ nhỏ ở các vùng miền núi phía Bấc cùa Việt Nam,
tác giả Nguyễn Công Khấn, Phan Văn
Huân và cộng sự đã phát hiện thây tỷ lộ thiêu máu và thicu vỉtamin A ớ những vùng
này vẫn rất cao và đưa ra khuyến nghị về các nghiên círu trong tương lai cần xác
định xem nếu tăng tiêu thụ tiền vitamin A - carotenoids thì có giảm dược tỷ lệ thiếu
máu ở trẻ nhó hav không [102]. Các bệnh lý khác như dị tật bấm sinh, tim tiên thiên,
các bệnh của các cơ quan bộ phận khác trong cơ thể cũng làm ảnh hướng đến quá
trình phát triền của trẻ và làm cho trẻ bị SDD.
1.1.3.2. Nguyên nhãn quan trọng: Do sự hắt cập trong dịch vụ chăm sóc hà mẹ trẻ

em, kiến thức chăm sóc cùa người nuôi trẻ, nước sạch vệ sinh mói trường.
Người ta thấy rằng tình trạng thiếu dịch vụ chăm sóc y tế, vệ sinh môi trường
kém, không có hệ thống nước sạch, dẫn đến bệnh tật phát sinh và không được ngăn
chặn dấy lùi sẽ làm tăng tỷ lệ SDD của trẻ [120J. Một tình trạng tiền lâm sàng có xu
hướng phố biến ớ các nước đang phát triển là bộnh đường ruột do môi trường (EE environmental enteropathy) hav còn gọi là bệnh đường ruột nhiệt đới. Loại bệnh này
không có biểu hiện ra bên ngoài nhưng có thế làm rối loạn hấp thu chất dinh dường
do làm thay dổi cấu trúc và chức năng của ruột non. cỏ giả thiết cho rằng EE gây ra


tình trạng chậm tăng trưởng và có thê làm giảm hiệu quả của các can thiệp dinh
dương. Các nhà nghiên cứu suy đoán rằng việc tiếp xúc liên tục với vi khuẩn gây
bệnh có thế làm cho trẻ mẳc bệnh EE và hạn chế khả năng hấp thu tốt và sử dụng tối
đa các chất dinh dưỡng từ thức ăn dù trẻ cỏ bị tiêu cháy hay không [108].
Sự khác biệt về tỷ lệ SDD nhất là SDD thấp còi tại các vùng có điều kiện
kinh tế xã hội khác nhau đâ phản ánh tinh trạng an ninh thực phẩm hộ gia đình ảnh
hưởng đến tình trạng SDD của trẻ. Tỷ lệ tré em dưới 5 tuổi năm 2010 bị SDD thấp
còi cùa vùng Đông Nam Bộ là 19,2% trong đỏ thành phố
Hồ Chí Minh chỉ có 7,8%, trong khi vùng Tây Nguyen là 35,2%, vùng trung du
miền núi phía Bẳc là 33,7% [66].
Kiến thức, thực hành về dinh dưỡng của bà mẹ và người chăm sóc trẻ cỏ vai
trò quan trọng trong công tác phòng chống SDD trẻ em [4],[20],[42]. Mặc dù kiến
thức và thực hành nuôi dường trẻ cứa bà mẹ khá tốt, nhưng vẫn tồn tại khoáng cách
giừa kiến thức và thực hành. Các hoạt động cần chú trọng tới việc tác động tới các
niềm tin về kết quả của nuôi dưỡng trẻ nhỏ, niềm tin về khá năng thực hiện thực
hành nuôi dường tre nhó, và nhận thức về chuấn mực xã hội và ủng hộ của gia dinh,
xã hội [57j,[59J.
1.1.3.3. Nguyên nhân cơ bản: Do cơ sớ hạ tầng kinh tế xã hội thắp kém, tình
trạng nghèo đói lạc hậu và mất bình đảng về kinh tế.
Thực tế thống kè của các nước trên thế giới về tình hình SDD cho thấy như tỷ
lệ SDD thấp còi chung của châu Phi là khoáng 40%. SDD là hậu quả của đỏi nghèo,

lạc hậu về các mặt phát trien nói chung, bao gồm cá mất bình đẳng về kinh tế. Với
cấu trúc chính trị xã hội và cơ sở hạ tầng kinh tế thấp kém là nguyên nhân cơ bản
của SDD. Ở một đất nước có nền kinh tế chậm phát triển thì dẫn đến kinh tế thấp
kém, kinh tế thấp kém dẫn dến vấn dề an ninh lương thực không được đảm bảo tỷ lệ


đói nghèo cao làm cho không có khả năng đảm bảo lương thực thực phẩm cho con
người và đối tượng dễ bị tốn thương nhất là bà mẹ trẻ em. Ngay cả các cấu trúc kiến
trúc chính trị xã hội cùng ảnh hưởng đến tình trạng SDD như phong tục tập quán lạc
hậu làm cho đời sống sinh hoạt lạc hậu, kiông khem quá mức, coi thường ngược đãi
phụ nữ trẻ em các hiêu biết về khoa học y tế chăm sóc sức khóe thấp kém dẫn đến
cuộc sống phó mặc vào tự nhiên làm tác động xấu đến đời sống sức khóe mà bà mẹ
trẻ em là đối tượng bị ảnh hướng nhiều nhất đến sức khòe bệnh tật phát sinh và dẫn
đến bị SDD và tử vong. Khúng hoảng kinh tế làm
cho việc đám bảo an ninh lương thực và khá năng cung câp các dịch vụ
dinh dưỡng tại các nước đang phát triển càns trở lên khó khăn [401.
Sơ đồl.l: Mô hình nguyên nhân SDD

V





/. ¡.4. Đặc diêm dinh dưỡng của trẻ dưới 5 tuôi.

L 1.4.1. Nhu cầu dinh dưỡng của trẻ dưới 5 tuối
Theo y văn dinh dường học quốc tế, nhu cầu dinh dương khuyến nghị
(NCDDKN) là: Mức tiêu thụ năng lượng và các chất dinh dường dược coi là
đầy dủ đế duy trì sức khoẻ và sự sống cúa mọi cá thể bình thường trong một

quần thể dân cư.
Theo FAO/WHO 2004, nhu cầu ăn vào (nutrient intakes) tương đương với
mức nhu cầu trung binh ước tính (Estimated Average Requyrements - EARs)
dế đảm nhu cầu cho 50% cá thế bình thường trong một quần thể dân cư. Trong
khi đó, NCDDKN tương đương với mức nhu cầu trung bình ước tính cộng với
2 độ lệch chuẩn (EARs + 2SD), hay nói cách khác, nhu cầu khuyến nghị là nhu
cầu đảm bảo cho 97,5% các cá thể trong quần thể luôn khỏe mạnh.
Theo Tố chức Y tế Thế giới và FAO/UNU, trên thực tế NCDDKN giao
động trong khoảng nhu cầu trung binh ước tính cộng với 2 độ lệch chuấn (SD)
của chính nó. Đây là giới hạn tiêu thụ vừa an toàn, vừa đáp ứng được nhu cầu
các chất dinh dường của hầu hết (97,5%) các cá thể theo từng nhóm tuối và
giới.
Nhu cầu khuyển nghị được tính theo công thức sau đối với tất cả các chất
NCDDKN = NCTBƯT + 2 SD
dinh dưởng, trừ năng lượng:

Trong đó:
NCTBUT là mức nhu cầu tiêu thụ trung bình ước tính.


SD (Standard Deviation) là độ lệch chuấn của mức tiêu thụ trung bình ước
tính.
Nhu cầu năng lượng chuyến hóa cơ bản dựa vào cân nặng của trẻ được tính
(Kcal/ ngày) ờ nhóm tuổi 0-3 tuổi Nam: 60,9 w - 54; nữ 61 w - 51 ở nhóm 3-10
tuổi nam: 22,7 w + 495; nữ: 22,5 w + 499 (W là cân nặng của cơ thể, tính bằng
kg). Do nhu cầu phát triển nhanh và vận động nhiều nên tré em cần được cung
cấp năng lượng rất cao. Dựa vào cân nặng theo tháng và năm tuổi có thể tính ra
nhu cầu năng lượng cần thiết cho trẻ. Trong diều kiện hiện nay, nhu cầu năng
lượng cho trẻ dưới 10 tuối và trẻ em lứa tuối vị thành niên Việt Nam được điều
chỉnh dựa vào các tham khảo quốc tế và trong khu vực Đông Nam Á. Các mức

khuyến nghị về nhu cầu năng lượng cho trẻ em đến 9 tuổi không phân biệt
giới, nhóm 0-3 tuổi nhu cầu năng lượng là 1.180 (Kcal), nhóm 4-6 tuổi 1.470
(Kcal) 164J.
Sau năm đầu tiên của cuộc đời, tiêu hao năng lượng của trẻ lớn do trẻ vui
chơi, đùa nghịch nhiều vì lúc này trẻ đă biết đi, biết chạy, biết tiếp xúc với môi
trường xung quanh. Năng lượng cần được cung cấp đủ qua bừa ăn của tré gồm
có:
Tý lộ giừa các chất sinh năng lượng nôn cân đối ớ mức tương quan giữa
Đạm: Béo: Đường bột = 12-15: 25-40: 45-55 tùy theo từng độ tuổi [64].
Tương ứng với mức nhu cầu năng lượng, nhu cầu protein khuyến nghị và tính
cân dối của khẩu phần trẻ em 0-3 tuổi là (35-44 g/ngàv); trẻ 4-6 tuối là 44-55
(g/ngày).
Nhu cầu khuyến nghị về lipid cho trẻ em rất cao. Đối với trẻ 1-3 tuổi năng
lượng do lipid cưng cấp là 35-40%. Cũng xuất phát từ quan điểm trên, các tác
giả Mv khuyến cáo rằng trong bất kể một loại thức ăn thay thế sữa mẹ


(Fomulas) nào (trong trường hợp cần thiết phải sử dụng cho trẻ) cũng phải đảm
bảo 40% năng lượng từ lipid, tối đa có thể tới 57% [64].
Như vậy lipid (dầu/ mở) vừa cung cấp năng lượng cao, làm tăng cảm giác
ngon miệng lại giúp trẻ hấp thu và sử dụng tốt các vitamin tan trong chất béo
như vitamin A, vitamin D, vitamin E, vitamin K... rất cần cho trẻ.
/. 1.4.2. Các nghiên cửu can thiệp khấu phần ăn của trẻ.

Năm 1981 Tổ chức Y tế thế giới đã đưa ra phác đồ điều trị SDD trong
dó sử dụng chế độ ăn giàu năng lượng và protein được cung cấp chủ yếu từ sữa
các loại và dầu thực vật. Tại hội nghị dinh dưỡng Quốc tế tháng 12 năm 1992
tại Roma đâ xác định thanh toán nạn đói và SDD là mục tiêu trọng tâm của
nhân loại. Nhiều nước đã có kinh nghiệm trong hoạt động phòng chống SDD
trẻ em, có 4 nhóm chính, trong đó tạo nguồn lương thực thực phẩm bổ sung tại

chỗ nhàm nâng cao chất lượng khấu phần ăn cho trẻ là một giải pháp quan
trọng [40].
Các chiến lược then chốt để loại trừ thiếu dinh dưỡng gồm: 1. Các chiến
lược dựa vào thực phẩm như đa dạng hoá bữa ăn, làm vườn gia đình, tăng
cường vi chất vào thực phẩm và nuôi trồng; 2. Các chiến lược bổ sung như bổ
sung viên nang vitamin A, viên sắt acid folic cho các đối tượng nguy cơ; 3.
Các chiến lược chăm sóc sức khoe cộng đồng như khống chế các bệnh nhiễm
trùng và kí sinh trùng, tiêm chúng mớ rộng, thúc đẩy nuôi con bằng sữa mẹ
[38].
Chiến lược can thiệp dựa veto thực phẩm:
Biện pháp tốt nhất để cải thiện tình trạng thiếu vi chất dinh dưỡng qua
việc dùng các thực phẩm sán có ở địa phương trên nguyên tắc cơ bản là tất cả
những vi chất cần thiết đcu có thể được cải thiện bằng biện pháp giáo dục kiến


thức và "đa dạng hóa bữa ăn". Tuy nhiên, biện pháp này cũng phụ thuộc vào
nhicu yếu tố, mà điều khó khăn nhất là không thể thay đổi về kinh tế và tập
quán ăn uống trong một thời gian ngắn. Hơn thế nữa, các vi yếu tố từ các thực
phẩm rẻ tiền, các loại rau xanh thì việc hấp thu của chúng rất hạn chế.
Ớ Việt Nam có nhiều kinh nghiệm xây đựng hệ sinh thái VAC (vườn ao
chuồng) trực tiếp cải thiện cơ cấu bữa ăn gia đình, nhà trẻ đế phòng chống
SDD cho trẻ em. Việc nghiên cứu sử dụng các loại bột dinh dường có chất
lượng cao được bổ sung vi chất dinh dưỡng tại cộng đồng để phục hồi dinh
dương được nghiên cứu và áp dụng thành công vừa có giá trị dinh dương cao,
cân dối vừa có khá năng tránh dị ứng và nhiễm khuẩn đường tiêu hóa [16],
[411. Một số tác giả cho thấy rằng việc tăng cường hướng dần các kỹ thuật chế
biến tại cộng đồng đâ giúp cho việc cải thiện tình trạng dinh dương tré em
[52],[59].
1.2.


Tình hình thiếu vi chất dinh diĩỡng ờ trẻ em.
Nhiều nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước đă cho thấy tình

trạng thiếu dinh dương trẻ em kéo dài đồng thời thiếu nhiều vi chất dinh
dường, đâ làm ảnh hưởng đến sự phát triển tầm vóc cơ thế và sự phát triến trí
tuệ cứa trẻ hiện tại cũng như sau này [15],[99J,[110J. SDD và thiếu vi chất ở
trẻ em là nguyên nhân tử vong của hơn 3 triệu trẻ em hàng năm hav chiếm tới
45% nguyên nhân tử vong trẻ trong năm 2011 [74]. Vì vậy, thực hiện các can
thiệp bổ sung đa vi chất và bổ sung sớm có tác dụng cải thiện dáng kế lên tình
trạng dinh dường và sự phát triển của trẻ L43J,[44J,[49],[50J.
1.2.1.

Sắt vỉỉ sự phát triển của cơ thể.
Nhu cầu sắt hàng ngày đối với trẻ bú mẹ: 1 mg/kg/ngày từ 4-6 tháng, trẻ

có cân nặng sơ sinh thấp: 2-4 mg/kg/ngày từ 1 tháng đến 12 tháng, cho tới liều


tối đa có thể 15mg/ngày. Bổ sung sắt dường uống dạt hiệu quả cải thiện nồng
độ hemoglobin ở nhỏm trẻ 0-59 tháng tuổi thiếu máu hoặc thiếu sất. Ỡ nhóm
tré thiếu máu hoặc thiếu sắt, nồng độ hemoglobin đã được cải thiện khi bổ
sung sắt [133],[149]. Việc bổ sung phối hợp các vi chất hoặc biện pháp tăng
cường vi chất vào thực phấm giúp hỗ trợ hấp thu và giảm tỷ lệ thiếu máu ở trẻ
nhỏ [ 17],[34],[35].
Kết quả của một số nghiên cứu khác cũng cho thấy vai trò cúa sắt và sự
miễn dịch của cơ thể. Các tác giả nhận thấy rằng khi bệnh nhân bị thiếu máu
nặng có thể giảm khoảng 20% tế bào bạch cầu. Người ta cũng thấy có sự giám
của bạch cầu trung tính trong trường họp thiếu sất; thiếu sắt làm tăng nguy cơ
bệnh tật và tử vong ờ bà mẹ và trẻ em. Nhiều nghiên cứu đã cho thấy nhũng trẻ
bị thiếu máu vừa và nặng có chỉ số thông minh và các chức năng khác thấp hơn

trẻ binh thường. Thiếu máu làm giàm sự tập trung và ảnh hưởng đến sự phát
triển nhận thức của trẻ [ 126],[ 129],[ 133].
1.2.2.

Vai trò của kẽm với sự phát triển trẻ em.
Vai trò của kẽm bắt đầu dược đánh giá và ghi nhận từ năm 1869 trên sinh

vật thực nghiệm nhưng phải 1 thế kỷ sau đó vấn đề thiết yếu của kẽm đối với
con người và nguy cơ thiếu hụt kẽm mới chỉ được công nhận sau một khám
phá của Prasad [125],[130]. Trong 50 năm qua, hàng ngàn công trình nghiên
cứu đã cho thấy sự thiếu hụt kẽm ờ người là khá phổ biến. Thiếu hụt kem có
thc anh hướng đến gần 2 tý người trên thế giới. Nguyên nhân do khẩu phần
nghèo kẽm hoặc hàm lượng phytat cao trong thực phẩm dẫn tới ức chế hấp thu
kẽm [125].
Sự hấp thu kẽm


Trong điều kiện tiêu chuẩn, tỷ lệ hấp thu kẽm khoảng 33%, tỷ lệ hấp thu
tuỳ thuộc nhiều vào các điều kiện như hàm lượng kẽm trong thức ăn, nguồn
gốc thức ăn và sự có mặt của các chất kích thích hay ức chế sự hấp thu kẽm.
Hàm lượng kẽm trong thức ăn càng thấp thì tỷ lệ hấp thu càng cao. Lượng kẽm
dự trữ trong co thế càng thấp thỉ sự bài tiết kẽm nội sinh càng hạn chế. Cơ chế
và vai trò bài tiết kẽm nội sinh chưa được nghiên cứu kỹ nhưng có sự liên quan
giữa sự bài tiết kèm với vai trò của tuy và các tế bào ruột. Người ta thấy răng
hàm lượng kẽm tá tràng cao hơn hàm lượng kẽm trong thức ăn. Điều đó chính
là sự bài tiết kẽm của niêm mạc ruột, sau khi đă bài tiết kẽm ra ngoài lòng ruột,
niêm mạc ruột tái hấp thu lại một phần lượng kẽm đó đê giữ cân bằng. Tại tá
tràng 40-70% lượng kẽm được hấp thu [76].
Một số yếu tố dóng vai trò ức chế và một số khác có vai trò kích thích hấp
thu kem. Phytat được chứng minh nhiều trên thực nghiệm làm giảm mức độ

hoà tan kẽm nên ảnh hướng xấu đến hấp thu kẽm. sất vô cơ có thể làm giảm
hấp thu kẽm, nhiều nghiên cứu còn chứng tỏ sắt hem cũng có tác dụng ức chế
hấp thu kẽm tương tự. Canxi làm tăng bài tiết kẽm và do đó làm giảm tý lệ hấp
thu kẽm. Mức độ hoà tan của kem có một vai trò rất quan trọng trong hấp thu
kẽm. Kẽm tham gia vào quá trinh tồng hợp protein vận chuyển retinol trong
gan (RBP) và có tác dụng làm tăng hiệu quả bô sung vitamin A trong diều trị
hội chứng thiếu vitamin A tương ứng với nồng dộ RBP tăng. Ngược lại thiếu
vitamin A cũng ảnh hưởng đến hấp thu kcm do giảm tống họp protein vận
chuyến kẽm ở ruột [76].
Nhu cầu kẽm được khuyến nghị hàng ngày ở trẻ nhỏ từ 0 đến 4 tháng tuôi
là 1,25 mg/ ngày; ở trẻ 5-12 tháng tuôi là 1,1 mg/ ngày; ớ trẻ trai từ 1-10 tuôi là
1,6 mg/ ngày; ơ trẻ gái từ 1 -9 tuôi là 1,55 mg/ ngày, tuy nhiên tùy vào tý lệ
hâp thu mà lượng kẽm khuyên nghị dùng hàng ngày cỏ thê tăng từ 2,5 lần đến


10 lần. Ngưỡng nồng độ kẽm huyết thanh ở trẻ em thấp khi hàm lượng kẽm
huyết thanh dưới 70 pg/dl [78].
Vai trò của kẽm trong hoạt động của các enzym:
Kẽm có một vai trò sinh học không thể thiếu đối với sức khỏe con người.
Nó tham gia vào thành phần của trên 300 enzym khác nhau, là chất xúc tác
không thề thiếu được của ARN- polymerase trong quá trình nhân bản ADN và
tồng họp chất protein. Dây là chức năng quan trọng £Ìúp kích thích tăng trướng
của trẻ em. Kẽm vừa là cấu trúc, vừa tham gia duy trì hàng loạt các cơ quan
quan trọng trong cơ thế. Kẽm có độ tập trung cao trong não nen thiếu kẽm có
thể dẫn đến các rối loạn dẫn truyền thần kinh. Kẽm tham gia điều hòa chức
năng cua hệ thống nội tiết và có trong thành phần của hormon một số tuyến nội
tiết như tuyến yên, tuyến thượng thận, sinh dục. Kẽm còn có tác dụng chống
oxy hóa, chống lại các tổn thương do nhiễm trùng và nhiễm các độc tố, bảo vệ
tế bào niêm mạc, giúp mau lành vết thương [76].
Vai trò của kẽm và mối liên quan với IGF-1 tói tăng trưởng vò phát triến

Kẽm có ánh hướng tốt dến sự phát triển của cơ thể, ảnh hưởng này có
thể giải thích nhiều tác dụng như: tăng hấp thu, tăng tồng hợp protein, tăng
cảm giác ngon miệng và tác động lẻn hormon tăng trưởng (GIl-Grovvth
Hormon); hormon ỈGF-1. Một số nghiên cứu đã chứng tỏ rằng kẽm có tác dụng
kích thích tăng trưởng ở trẻ nhờ tác dụng trung gian làm tăng hormon tăng
trướng giống insulin trong máu (IGF-1). IGF-lvới nhiều nhóm có cấu trúc
polypeptid có liên quan tới quá trình tăng sinh và biệt hỏa tế bào lần đầu tiên
được đề cập tới như nhừng yếu tố kích thích tăng trưởng. Cơ chế hoạt dộng của
IGF-lcũng giống như các vếu tố có cấu trúc polypeptid khác là gắn với nhưng
thụ thề đặc hiệu của tế bào để thúc đẩy quá trình vận chuyển chất qua màng tế
bào [761.


Nhiều nghiên círu đã được tiến hành để đánh giá hiệu quả của việc bồ
sung kẽm đến sự tăng trướng của tré em. Việc can thiệp của kẽm thử nghiệm
đầu tiên đă không thành công trong việc cải thiện chiều cao của những nam
sinh đang độ tuổi đến trường. Bởi vì kẽm được bố sung thêm đâ được hấp thu
kém khi hấp thu cùng với tỉ lệ xơ sợi cao, chất phytate cao trong các bữa ăn ờ
Trung Đông, hay do nghiên cứu không đu thời gian [130J. Trong những năm
1970 và 1980 đã có một vài nghiên cứu về ảnh hướng của bố sung kẽm cho trẻ
thấp còi ớ Mỹ và Canada. Nhóm Hambidge đã nghiên cứu tại Denver,
Colorado và đưa ra nhận xét những đứa trẻ ở gia đình cỏ thu nhập thấp và
trung bình có nồng độ kẽm trong tóc thấp, kém cảm nhận hương vị và chán ăn
[96J. Hambidge và cs thấy rằng 35% trẻ 3 đến 5 tuối thuộc trong trường
chương trình trc cỏ thu nhập thấp của thành phố Denver có chiều cao theo tuổi
thấp hơn hoặc dưới 10% giá trị của quần thể tham khảo [97]. Ở Trung Quốc trẻ
em từ 1 đến 6 tuổi tăng trướng chậm được bổ sung kẽm 1-2 mg/ ngàv trong 6
tháng kết quả tăng cân và chiều cao rõ rệt [80J.
Tác giả Brown và cộng sự đã tiến hành phân tích tồng họp 33 nghicn
cứu thử nghiệm lâm sàng kết quả cho thấy bổ sung kẽm có ý nghĩa trong việc

phát triến chiều cao, với mức tăng trung bình khoảng 0,22 SD. Ớ những nghiên
cứu bố sung kẽm cho trẻ SDD thấp còi mức tăng trung bình là 0,49 SD [77],
Hiộu quá bổ sung kẽm trong phát triển chiều cao có thể do kem đâ tác động lên
hormon điều chinh tăng trướng, hoặc tác động lên ngon miệng hoặc giảm nguy
cơ mac bệnh nhiễm trùng.
Tại Bangladesh nghiên cứu bổ sung kẽm 70mg hàng tuần trong 12 tháng cũng cho
thấy giám có ý nghĩa thống kê tỷ lệ mắc bệnh viêm phối và
nhiễm trùng khác ở trẻ em [70],[71]. Nghiên cứu cộng đồng cúa Nguyễn Xuân
Ninh và cộng sự năm 1996 bổ sung kẽm cho trẻ từ 6 đến 36 tháng tuổi bị SDD


có kết quả tăng mức cân và chiều cao tốt hơn. Tác giả còn nhận thấy trẻ được
bố sung kẽm có mức hormon tăng trướng (IGF-1) trong máu cao hơn có ý
nghĩa thống kê so với nhóm chứng và cho rằng vai trò kích thích tăng trưởng
của kẽm được thông qua mức IGF-1 trong máu. Mặc dù xương cần có những
dường chất thành phần như các amino acid, calcium, phosphor và magne, rối
loạn hoạt động các hooc-mon có vai trò diều hòa tạo thành xương ớ đĩa xương
tăng trướng có thế hạn chế tăng trưởng xương [122]. IGF-1 là chất đưa tin
quan trọng của tín hiệu dinh dường dẫn đến xương dài ra. Nhiều nghiên cứu
gần đây cho thấy, ờ những trẻ thiếu hụt kẽm, IGF-1 nhạy với tình trạng kẽm
của cơ thể, bổ sung kẽm dần đến tăng trướng chiều cao dáng kê [111 j,[128].
Một số nghiên cứu đánh giá tác dụng của kẽm đơn độc hoặc kết họp đối
với tình trạng dinh dường của cơ thể, kết quả cho thấy bồ sung kẽm đơn thuần
hoặc bổ sung kẽm kết hợp với sắt cũng không gây tác dụng âm tính lên tình
trạng sắt, trong khi dó nếu bố sung sất liều cao có thế gây hậu quả thiếu kem
nặng hơn [90],[107]. Trong một nghiên cứu ở Việt Nam do Berger và các
chuyên gia của Viện dinh dường năm 2006 cho thấy kết họp bổ sung sắt và
kẽm cho hiệu quá dương tính rõ rệt về tình trạng sắt và kẽm ở trẻ nhỏ. Tuy vậy
hiệu quả dương tính của bố sung kẽm dơn lẻ lên tình trạng kẽm và tốc độ tăng
cân cho thấy sự tương tác âm tính cua sắt khi bổ sung vào cùng kẽm [72]. Một

số nghiên cứu khác cũng cho kết quá tương tự [91],[107],[109].
Nghiên cứu tiến hành tại Việt Nam của các tác giá Berger J, Nguyền
Xuân Ninh, Nguyễn Công Khẩn và cộng sự năm 2006 về kết hợp bổ sung sắt
và kcm cho trẻ sơ sinh cũng đã cho thấy hiệu quả lên việc cải thiện tình trạng
vi chất dinh dưỡng và tốc độ phát triển của trẻ [721. Tác già Nguyễn Thanh
Danh đã cho thấy tác dụng của bổ sung kẽm đối với triệu chúng chán ăn kéo
dài ớ trẻ và nó còn có tác dụng cải thiện các rối loạn giấc ngủ ở tré ern [9],[10],


[11J. Chính quá trình cải thiện giấc ngú và tăng cảm giác thèm ăn đà tác động
gián tiếp lên quá trình tăng trưởng và phát triển của trẻ.
Lê Thị Hợp và cộng sự năm 2005 đã tiến hành nghiên cứu thử nghiệm
lâm sàng ngẫu nhiên, mù đôi cỏ nhóm chứng về bổ sung đa vi chất dinh dương
nhằm cải thiện tình trạng thiếu máu và vi chất dinh dưỡng cũng như tốc độ
phát triến của trẻ nhỏ Việt Nam [98]. Kết quả cho thấy trên đối tượng 306 trẻ
từ 6-12 tháng tuổi, chia thành 4 nhóm điều trị: nhóm nhận đa vi chất dinh
dường hàng ngày, nhóm nhận da vi chất dinh dường hàng tuần, nhóm chửng và
nhóm nhận bố sung sắt trong 6 tháng. Kết quá cho thấy sự thay đổi Ferritin cao
hơn có

V

nghĩa thống kê ớ nhóm đa vi chất hàng ngày và nhóm bổ sung sắt,

nhưng hiệu quả cao hơn rõ ở nhóm bổ sung đa vi chất dinh dương hàng ngày
[98].
Nghiên cứu ớ Jamaica dã chứng minh tác dụng của việc cung cấp thực
phẩm bố sung cho tre em SDD nặng cùng với bổ sung kẽm 0,16- lmg/kg/ngày
cho trẻ em được nuôi dưỡng bằng sữa đậu nành hoặc sữa bò công thức giúp
phục hồi SDD protein năng lượng [92]. Bổ sung kẽm giúp tăng khối nạc và

tăng tống trọng lượng trong cơ thể dơ tăng hiệu quả sử dụng năng lượng ăn
vào.
Vai trò của kẽm trong hệ miền dịch
Hệ thống miền dịch đặc biệt nhạy cảm với tình trạng kẽm của cơ thế.
Thiếu kẽm gây suy giảm miễn dịch và chức năng của hầu hết các tế bào mien
dịch, bao gôm cả tê bào T, te bào B và đại thực bào làm ánh h- ướng xấu tới sự
phát triển của trẻ [79]. Ở chuột bị thiếu kẽm có biểu hiện thiếu sản lách và
tuyển ức, giảm sản xuất các globulin miền dịch, bao gồm cả IgA, IgM và IgG.


Hiện tượng hoạt hoá đại thực bào và hiện tượng thực bào bị suy giảm được
nhận thấy rõ ớ cả súc vật thí nghiệm cũng như ớ tré em bị thiếu kẽm [76].
Trong một vài năm gần đây, một số nghiên cứu đã xác định hiệu quá của
bố sung kẽm lên tỷ lệ mắc bệnh, trong một số trường hợp làm giám mức dộ
nặng của bệnh, thời gian mắc bệnh viêm phối, sốt rét, lao, tiêu cháy [119],
[138],[140],[141]. Một số nghiên cứu thử nghiệm trên cộng đồng cho biết bổ
sung kẽm đã làm giảm 23% nguy cơ tử vong do tiêu chảy [115],[141]. Liệu
pháp sử dụng liều kẽm gấp 2 lần nhu cầu hàng ngày trên những trẻ bị viêm
phối trong 5-6 ngày hoặc dùng kéo dài cho dến khi trẻ khỏi cho thấy nhóm trẻ
được bố sung kem có thời gian mắc bệnh trung bình ngắn hơn một cách có ý
nghĩa thống kẻ so với nhóm chúng [105],[106]. Sử dụng gấp 3 lần kẽm so vơi
nhu cầu hàng ngày ở trẻ tiêu cháy cấp giúp tăng nồng dộ kẽm huyết thanh và
giảm mức dộ nặng cua bệnh [75J.
Bổ sung kẽm có thể có tác động mạnh trong sự phát triển của trẻ bú mẹ
và trẻ bị bệnh tiêu chảy. Trong điều kiện này có sự gia tăng đào thải kẽm trong
phân cũng như giảm hấp thu điều đó làm giảm lượng kẽm vào cơ thế. Sự giảm
hấp thu và tăng bài tiết gây lên sự mất cân bằng mạnh cỏ hại cho quá trình và
làm giảm lượng kẽm ngav trong thời gian ngắn sau đó. Tiêu chảy nặng có thô
gây ra triệu chứng lâm sàng thiếu kẽm và nhu cầu 200 - 300 ịxg kem hàng
ngày giúp cải thiện sức khỏe và các triệu chúng trên. Bổ sung kẽm giúp giảm

nguy cơ nhiễm khuấn dườnạ hô hấp ớ trẻ em tiêu chảy, giám tỷ lệ tử vong,
giảm mức độ và thời gian điều trị do tiêu cháy gây ra [70],[73].
Như vậy, hầu hết các nghicn cứu đều cho thấy bồ sung kẽm cho trẻ dưới
5 tuổi có tác động tích cực trong phòng bệnh và kích thích tốc độ phát triển của
trẻ. Vì vậy cần triển khai rộng rãi trên những đối tượng nguy cơ ở Việt Nam và


×