Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Thực trạng cho thuê tài chính ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (425.66 KB, 19 trang )

Bài tiểu luận: Thực trạng thị trường cho thuê tài chính ở Việt Nam

Nhóm 1

I. TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG CHO THUÊ TÀI CHÍNH
1.1. Nguồn gốc và sự ra đời
Từ trước công nguyên đã xuất hiện nhu cầu thuê tài sản để phục vụ cho công việc
và sinh hoạt của nông dân tự do, thợ thủ công… nên một số người có tài sản nhàn rỗi có
thể cho thuê nhằm tìm kiếm thêm thu nhập từ việc nhận được phí cho thuê tài sản. Tài
sản được đem ra giao dịch rất đa dạng bao gồm: công cụ sản xuất nông nghiệp, súc vật
kéo, nhà cửa, đất ruộng… Tài liệu cổ nhất về các giao dịch cho thuê tài sản mà các nhà
nghiên cứu mới tìm ra được đã xuất hiện từ năm 2800 năm trước công nguyên tại thành
phố Sumerian của người UR và để điều chỉnh hoạt động thuê và cho thuê tài sản này thì
nhiều hệ thống pháp lý đã đề cập đến nó. Tuy nhiên, văn bản quan trọng nhất về cho thuê
tài sản được ban hành 1700 năm trước công nguyên khi vua Babilon là Hammurabi đã
kết hợp các hợp đồng cổ của Sumerian và Achian về thuê mướn thành một bộ luật lớn
Trên thế giới, dáng dấp của loại hình cho thuê tài chính xuất hiện vào khoảng thế
kỷ 18 tại Mỹ với mục đích là tài trợ vốn cho ngành vận tải, nhưng loại hình này thực sự
phát triển từ sau Thế chiến 2 ở hầu hết các nước phát triển như Mỹ, Đức, Anh, Pháp,
Nhật...
Tại Mỹ, ngành cho thuê tài chính chiếm khoảng 25-30% tống số tiền tài trợ cho
các giao dịch mua bán thiết bị hàng năm của các doanh nghiệp. Doanh thu từ hoạt động
cho thuê tài chính trung bình hàng năm ở Hàn Quốc là 17 tỉ USD, ở Thái Lan 3 tỉ USD...
Và tống doanh thu hàng năm của ngành này ước đạt trên 500 tỉ USD với đà tăng trưởng
trung bình 7% hàng năm.
Hoạt động cho thuê Tài chính tại Việt nam đã được hình thành trên cơ sở tín dụng
thuê mua nhằm khắc phục nhược điếm nghiệp vụ cho vay và khuyến khích Doanh nghiệp
đối mới máy móc thiết bị, áp dụng công nghệ mới đê’ đẩy mạnh sản xuất. Cho thuê tài
chính chính thức đi vào hoạt động từ 1995 theo Nghị định 64/CP của Chính phủ nay là
Nghị định 16/CP và các văn bản khác.
Page 1




Bài tiểu luận: Thực trạng thị trường cho thuê tài chính ở Việt Nam

Nhóm 1

1.2. Sơ lược về cho thuê tài chính
1.2.1. Khái niệm
Theo Nghị định số 16/2001/NĐ-CP thì CTTC là hoạt động tín dụng trung và dài
hạn thông qua việc cho thuê máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản
khác trên cơ sở hợp đồng cho thuê giữa bên thuê với bên cho thuê. Bên cho thuê cam kết
mua máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác theo yêu cầu của
bên thuê và năm giữ quyền sở hữu đối với các TS cho thuê. Bên thuê sử dụng TS thuê và
thanh toán tiền thuê trong suốt thời hạn thuê đã được hai bên thỏa thuận.
Bên cho thuê cam kết mua máy móc thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động
sản khác theo yêu cầu của Bên thuê và nắm quyền sở hữu đối với các tài sản thuê trong
suốt quá trình thuê.
Bên thuê được sử dụng tài sản thuê, thanh toán tiền thuê trong suốt thời hạn thuê
đã đưdc hai bên thoả thuận và không được hủy bỏ hợp đồng thuê trước thời hạn. Khi kết
thúc thời hạn thuê, Bên thuê được chuyển quyền sở hữu, mua lại hoặc tiếp tục thuê lại tài
sản đó theo các điều kiện đã được hai bên thoả thuận.
1.2.2. Đối tượng
Bao gồm các khách hàng là tố chức và cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế hoạt
động kinh doanh tại Việt Nam có nhu cầu thuê tài sản trực tiếp sử dụng tài sản thuê cho
mục đích hoạt động của mình và đáp ứng đủ điều kiện thuê.
1.2.3. Điều kiện
Về mặt pháp lý: Phải có tư cách pháp nhân, hoạt động theo pháp luật Việt Nam.
Về mặt tài chính: Tình hình tài chính lành mạnh, phương án sản xuất kinh doanh
có hiệu quả kinh tế và đảm bảo khả năng trả nợ.
1.2.4. Đặc điểm của một giao dịch CTTC

-

Quyền sở hữu TS thường được chuyển giao cho người thuê khi bên thuê thanh
toán hết số tiền thuê còn nợ và giá trị còn lại như đã thỏa thuận trong hợp đồng
thuê.
Page 2


Bài tiểu luận: Thực trạng thị trường cho thuê tài chính ở Việt Nam

Nhóm 1

-

Phí thuê có thể được cơ cấu để phù hợp với yêu cầu của bên thuê.
Lãi thanh toán và khấu hao TS trong các giai đoạn CTTC được chiết khấu khi tính

-

thuế VAT.
Một TS được gọi là động sản và có thể chiết khấu đều có thể cho thuê.
Hợp đồng cho thuê TS có quy định quyền chọn mua TS, hai bên có thể thỏa thuận

-

quyền sở hữu hay bán lại TS hay tiếp tục thuê sau khi kết thúc hợp đồng.
Hiện giá của khoản tiền thuê phải lớn hơn hoặc bằng giá trị thị trường của TS tại

-


thời điểm thuê.
Thuê thiết bị, tài sản cho thuê do bên thuê lựa chọn từ nhà cung cấp, không phải

-

do bên cho thuê lựa chọn.
Người cho thuê là chủ sở hữu tài sản cho thuê trong suốt thời gian hợp đồng.
Bên thuê độc chiếm quyền sử dụng tài sản thuê trong suốt thời gian của hợp đồng
nhưng không được chuyển nhượng quyền sử dụng tài sản thuê cho một bên nào

-

khác.
Loại hình cho thuê tài chính có lợi thế là người thuê không cần bỏ toàn bộ số tiền
ra một lúc để có máy móc, thiết bị, đồng thời cũng không cần phải thế chấp tài sản
như trong các giao dịch vay vốn khác; bên đi thuê tài chính không phải chịu những
rủi ro do sự mất giá của tài sản, hao mòn tự nhiên...

1.3.

Các loại hình cho thuê Tài chính
Các
Các loại
loại
cho
cho thuê
thuê
tài
tài chính
chính


Cho
Cho thuê
thuê
tài
tài chính
chính
hai
hai bên
bên

Cho
Cho thuê
thuê

Cho
Cho thuê
thuê

tài
tài chính
chính

tài
tài chính
chính


cơ bản
bản


đặc
đặc biệt
biệt

Cho
Cho thuê
thuê
tài
tài chính
chính
ba
ba bên
bên

Mua
Mua

và cho
cho
thuê
thuê lại
lại

Cho
Cho thuê
thuê
Cho
Cho thuê
thuê

tài
tài chính
chính
liên
liên kết
kết

Page 3

Cho
Cho thuê
thuê

tài
tài chính
chính

tài
tài chính
chính

hợp
hợp tác
tác

giáp
giáp lưng
lưng



Bài tiểu luận: Thực trạng thị trường cho thuê tài chính ở Việt Nam

Nhóm 1

1.3.1. Cho thuê tài chính cơ bản:
a) Cho thuê tài chính hai bên:
Là nghiệp vụ cho thuê tài chính có hai bên tham gia: Người cho thuê và người đi
thuê
Người cho thuê thường là các nhà sản xuất –họ sử dụng thiết bị sẵn có và trực tiếp
tài trợ cho người cho thuê nhằm đẩy mạnh việc tiêu thụ sản phẩm đồng thời tăng khả
năng thu hồi lợi nhuận và giảm bớt hao mòn vô hình cuả máy móc, thiết bị.
Quy trình Cho Thuê Tài Chính Hai Bên
Ký hợp đồng thuê tài chính

Người cho thuê (Cty sản xuất)

Chuyển quyền sử dụng

Các dịch vụ bảo trì và phụ tùng

Người thuê (KH)

Trả tiền thuê dịch vụ
và phụ tùng
Bán lại tài sản lạc hậu

b) Cho thuê tài chính ba bên
Có ba bên: Người đi thuê, Nhà cung cấp và Người cho thuê.
Bên cho thuê mua tài sản theo yêu cầu của bên đi thuê và được hai bên thỏa thuận
theo hợp đồng thuê.

Đây là phương thức cho thuê áp dụng phổ biến nhất hiện nay
Trên thế giới 80% hợp đồng cho thuê áp dụng theo phương thức này
Page 4


Bài tiểu luận: Thực trạng thị trường cho thuê tài chính ở Việt Nam

Nhóm 1

Quy trình Cho Thuê Tài Chính Ba Bên

Người cho thuê (Cty cho thuê)
Thanh toán tiền
Hợp
mua
đồng
tài sản
mua tài
Quyền
sản sở hữu

Hợp đồng thuêTrả
tàitiền
chính
thuêQuyền
tài sảnsử dụng tài sản

Chọn tài sản
Giao tài sản


Người thuê (KH)

Bảo trì và phụ tùng thay thế

Nhà sản xuất hoặc nhà cung cấp
Thanh toán tiền bảo dưỡng và phụ tùng thay thế

1.3.2. Cho thuê tài chính đặc biệt:
a) Mua và cho thuê lại:
Doanh nghiệp bán tài sản cho Công ty cho thuê sau đó thuê lại tài sản đó
Người đi thuê tăng được vốn lưu động ; Có tài sản sử dụng
Tình huống: Các công ty ở trong tình trạng tài chính khó khăn không thể vay vốn
ngân hàng.

Page 5


Bài tiểu luận: Thực trạng thị trường cho thuê tài chính ở Việt Nam

Nhóm 1

Quy trình Cho Thuê Tài Chính Mua và Cho thuê lại

Công ty cho thuê tài chính

Thoả thuận mua bán tài sản

Chủ sở hữu ban đầu

Quyền sở hữu pháp lý


Người mua

Thanh toán tiền mua tài sản

Người bán

Quyền sử dụng tài sản

Người

Trả tiền thuê

cho thuê

Người thuê

Hợp đồng thuê mua

b) Cho thuê tài chính liên kết:
Là loại hình đồng tài trợ (nhiều bên tài trợ cho một người thuê).
Tình huống: Tài sản cho thuê có giá trị >> khả năng tài trợ của một công ty cho thuê
tài chính hoặc để phân tán rủi ro.
Nhiều nhà chế tạo hợp tác để tài trợ cho bên thuê => liên kết theo chiều ngang
Các định chế tài chính hay các nhà chế tạo giao tài sản cho các chi nhánh của họ
thực hiện giao dịch tài trợ cho khách hàng thì hình thành liên kết theo chiều dọc.

Page 6



Bài tiểu luận: Thực trạng thị trường cho thuê tài chính ở Việt Nam

Nhóm 1

Quy trình Cho Thuê Tài Chính liên kết
Ký hợp đồng thuê mua

Các định chế tài chính và các nhà chế tạo

Chuyển quyền sử dụng
Liên kết
Thanh toán tiền thuê

Người thuê

Các nhà chế tạo và các chi nhánh của nhà chế tạo
Các mối quan hệ tương tự như CTTC cơ bản

c) Cho thuê tài chính hợp tác:
Có 4 bên: Người đi thuê, Người cho thuê, Người cho vay và Nhà cung cấp thiết bị
Cho thuê TC hợp vốn là hoạt động cho thuê TC của một nhóm cty cho thuê TC đối
với bên thuê, do một cty cho thuê TC làm đầu mối.
ĐK cho thuê TC hợp vốn
*Nhu cầu thuê TC của bên thuê vượt quá giới hạn cho thuê TC của 1ctycho thuê TC
(30%VTC của cty cho thuê tài chính đối với một KH và 80%VTC đối với một nhóm KH
có liên quan).
*Khả năng TC, NV và TS của một cty cho thuê TC không đáp ứng được nhu cầu
cho thuê TC; nhu cầu phân tán rủi ro của 1 cty cho thuê TC.
*Bên thuê có nhu cầu thuê TC từ nhiều cty cho thuê TC.


Page 7


Bài tiểu luận: Thực trạng thị trường cho thuê tài chính ở Việt Nam

Nhóm 1

Quy trình Cho Thuê Tài Chính hợp tác
Nhà
sản xuất,

Bên
Lựa chọn

đi thuê

Người
cho vay

Trả tiền vay

cung ứng

(NHTM)

HĐ mua tàiTrả
sản
tiền
Chuyển
muaquyền sở hữu

HĐtàiChuyển
thuê
sản mua
quyền sử dụng
Trả tiền
tài sản
thuê

Hợp đồng vay Phát tiền vay

Người cho thuê

d) Cho thuê tài chính giáp lưng:
Là loại hình mà trong đó được sự đồng ý của người cho thuê, người đi thuê thứ nhất
cho người thuê thứ hai thuê lại tài sản mà người thuê thứ nhất đã thuê.
Với phương thức này, mặc dù doanh nghiệp không đủ điều kiện để trực tiếp thuê
với bên cho thuê, vẫn thuê được tài sản để sử dụng cho sản xuất kinh doanh.

Page 8


Bài tiểu luận: Thực trạng thị trường cho thuê tài chính ở Việt Nam

Nhóm 1

Đặc điểm :
* Thời hạn cho thuê: thời hạn của một hợp đồng trung và dài hạn.
* Quyền hủy bỏ hợp đồng: bên cho thuê và bên đi thuê không được phép hủy bỏ
hợp đồng.
* Trách nhiệm bảo trì, đóng bảo hiểm và thuế tài sản: bên đi thuê đóng.

* Mức thu hồi vốn của một hợp đồng thuê: tổng số tiền thuê gần bằng hoặc lớn hơn
giá trị tài sản.
* Chuyển quyền sở hữu hoặc bán tài sản: trong hợp đồng thuê thường có điều
khoản thỏa thuận chuyển quền sở hữu hoặc bán hoặc cho thuê tiếp.
* Trách nhiệm về rủi ro liên quan đến tài sản: bên đi thuê chịu phần lớn các rủi ro,
kể cả rủi ro không phải do mình gây ra.
Từ khái niệm “Cho thuê tài chính” nêu trên, có thể ra một số đặc điểm đặc thù của
hoạt động cho thuê tài chính là:
Thứ nhất: Tài sản thuê và nhà cung cấp tài sản do bên thuê lựa chọn mà không phụ
thuộc vào những kỹ năng và ý kiến của bên cho thuê.
Chính vì đặc điểm này mà bên cho thuê không chịu trách nhiệm về việc tài sản
không được giao hoặc không giao đúng với các điều kiện cho bên thuê thỏa thuận với bên
cung ứng (Khoản 1 Điều 24 Nghị định 16).
Thứ hai: Thời hạn thuê là trung hoặc dài hạn, chiếm phần lớn thời gian hữu dụng
của tài sản và không thể bị hủy ngang theo ý chỉ của một bên. Đặc điểm này nêu bật rõ
những lợi ích mà cho thuê tài chính mang lại không chỉ riêng cho các chủ thể tham gia
hợp đồng mà cho cả nền kinh tế.
Thứ ba: Phần lớn những chi phí cho việc vận hành, bảo dưỡng, bảo hiểm tài sản
được chuyển giao từ bên cho thuê sang bên thuê.
Page 9


Bài tiểu luận: Thực trạng thị trường cho thuê tài chính ở Việt Nam

Nhóm 1

Theo quy định tại khoản 5,6 điều 26 nghị định 16:” Bên thuê chịu mọi rủi ro về việc
mất mát, hư hỏng đối với tài sản thuê và chịu trách nhiệm về mọi hậu quả do việc sử
dụng tài sản thuê gây ra đối với tổ chức và cá nhân khác trong quá trình sử dụng tài sản
thuê. Đồng thời, bên thuê phải có nghĩa vụ bảo dưỡng, sửa chữa tài sản thuê trong thời

hạn thuê. Không được tẩy xóa, làm hỏng ký hiệu sở hữu gắn trên tài sản thuê”./.
2.THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG THUÊ TÀI CHÍNH TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY

2.1.Thị trường cho thuê tài chính ở Việt Nam
Ở Việt Nam, công ty cho thuê tài chính đầu tiên được thành lập năm 1996 và
hoạt động cho thuê tài chính cũng đã manh nha ở các ngân hàng trước đó nhưng
phải cho đến khi Chính phủ ban hành Nghị định 16/2001/NĐ-CP ngày 02/05/2001
thì hoạt động cho thuê tài chính ở Việt nam mới thực sự hình thành và ngày càng
phát triển mạnh mẽ. Đến nay có trên 20 công ty cho thuê tài chính đang hoạt động,
bao gồm các công ty CTTC nhà nước, cổ phần, liên doanh và nước ngoài.
Hoạt động thuê tài chính thường chọn phân khúc khách hàng là doanh
nghiệp vừa và nhỏ hoặc siêu nhỏ hoặc những doanh nghiệp không có đủ khả năng
tiếp cận nguồn vốn ngân hàng hoặc không thể huy động vốn trên thị trường chứng
khoán. Khi tham gia hoạt động thuê tài chính, thuê mua hoặc thuê vận hành, doanh
nghiệp sẽ sử dụng được công nghệ mới, đổi mới được kỹ thuật và tiếp cận được
gần như 100% nguồn vốn hình thành nên tài sản từ các công ty cho thuê tài chính.
Cho thuê tài chính và công ty cho thuê tài chính ra đời và phát triển ở Việt
Nam đã khá lâu, gần 20 năm. Nhưng kết quả một vài bài nghiên cứu đã cho thấy,
dịch vụ này không được mấy doanh nghiệp quan tâm. Đồng thời, sự phát triển của
các công ty cho thuê tài chính cũng trở nên èo uột và đối diện với tương lai chưa
mấy sáng sủa. Cụ thể, một cuộc khảo sát 1.000 doanh nghiệp thuộc các ngành nghề
khác nhau thì hơn 70% số doanh nghiệp trả lời rằng họ biết rất ít và chưa bao giờ
tìm hiểu dịch vụ thuê tài chính từ công ty cho thuê tài chính; gần 20% hoàn toàn
Page 10


Bài tiểu luận: Thực trạng thị trường cho thuê tài chính ở Việt Nam

Nhóm 1


không biết về dịch vụ tài chính này, thậm chí có doanh nghiệp hiểu cho thuê tài
chính như hoạt động trả góp và không hiểu đây là nghiệp vụ cấp tín dụng, cũng
như tính ưu việt lẫn hiệu quả.
2.1.1.Quy mô
Việt Nam hiện đang có 12 công ty CTTC theo công bố từ NHNN, trong đó
có 7 công ty CTTC là công ty con của các ngân hàng thương mại. Số còn lại là các
công ty 100% vốn nước ngoài và một công ty trong nước là Công ty CTTC Công
nghiệp Tàu thuỷ Vinashin (VFL).
Danh sách các công ty cho thuê tài chính tại Việt Nam theo công bố của NHNN tính
đến 30/06/2014

Cũng theo thống kê của NHNN đến cuối tháng 06/2014, tổng vốn điều lệ
của các công ty tài chính và CTTC gần 18,823 tỷ, tăng nhẹ so với mức cuối năm
2013, tổng tài sản giảm 3.8% xuống gần 62,960 tỷ với chỉ số lợi nhuận trên tổng
tài sản (ROA) 0.43%. Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu chỉ ở mức 5.83% trong khi tỷ lệ
tối thiểu theo quy định đối với các tổ chức tín dụng là 13%. Đáng chú ý tỷ lệ cấp
tín dụng so với vốn huy động gần 240% trong khi cuối tháng 5/2014 là 400%.
Mặc dù, theo thống kê từ NHNN có đến 12 công ty cho thuê tài chính đang
hoạt động, nhưng gần đây hoạt động này dần rơi rụng và thu hẹp quy mô hoạt
động. Theo báo cáo từ Hiệp hội các công ty cho thuê tài chính, hiện nay có 8 thành
Page 11


Bài tiểu luận: Thực trạng thị trường cho thuê tài chính ở Việt Nam

Nhóm 1

viên đăng ký tham gia Hiệp hội, nhưng trên thực tế, chỉ còn 5 công ty hoạt động
bình thường với dư nợ hơn 7.400 tỷ đồng. Ba công ty còn lại hầu như không còn
hoạt động kinh doanh, mà chủ yếu tập trung xử lý nợ xấu với số lượng chiếm 75%

- 99% tổng dư nợ, trong đó có ALC1 và ALC2 . Mới đây, Ngân hàng Nhà nước đã
thu hồi giấy phép hoạt động của Công ty Cho thuê tài chính ANZ/V-TRAC (công
ty hoàn toàn độc lập với Ngân hàng ANZ). Theo Hiệp hội Cho thuê tài chính, trên
thực tế, công ty này đã ngừng hoạt động từ lâu và việc rút giấy phép chỉ là hoàn tất
về mặt thủ tục. Ngoài ANZ/V-TRAC, công ty cho thuê tài chính 100% vốn nước
ngoài khác là Kexim cũng gần như đã ngừng hoạt động cho thuê tài chính. Hai
công ty 100% vốn nước ngoài còn lại trong lĩnh vực này cũng hoạt động không
mấy hiệu quả. Không chỉ công ty 100% vốn nước ngoài, mà nhiều công ty cho
thuê tài chính trong nước cũng rơi vào tình trạng thua lỗ hoặc nợ xấu cao, như
Công ty Cho thuê tài chính II- Agribank, Công ty Cho thuê tài chính I- Agribank,
Công ty TNHH một thành viên Cho thuê tài chính Vinashin… Trong khi đó, một
chuyên gia tài chính khẳng định, đa phần công ty cho thuê tài chính trong nước đều
có vốn điều lệ rất nhỏ, vốn huy động cũng không lớn, nhưng lại thường xuyên mua
các tài sản có giá trị cao để cho thuê như tàu, dây chuyền công nghệ, tài sản thế
chấp lại không có. Vì vậy, hầu hết các công ty này đều phải đối mặt với rủi ro
thanh khoản rất lớn.
2.1.2. Tiềm năng
Đơn vị : Triệu đồng
Tổng tài sản Có
Số
Tốc độ
tuyệt
Chỉ tiêu

đối

tăng
trưởng

Vốn tự có

Tốc độ
Số tuyệt
tăng
đối
trưởng

Page 12

Tỷ lệ cấp
Tỷ lệ an
tín dụng
toàn vốn
so với
tối thiểu nguồn vốn
huy động


Bài tiểu luận: Thực trạng thị trường cho thuê tài chính ở Việt Nam

Công
cho

Nhóm 1

ty
thuê

62.958

-3.80%


2.22

-16.97

3.35%

237.86%

tài chính
(Nguồn NHNN năm 2014)
Từ nguồn dữ liệu của NHNN, hoạt động cho thuê tài chính đầy tiềm năng
khi hoạt động ở Việt Nam, nơi mà có doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm trên 95%
tổng số doanh nghiệp. Tuy nhiên, tổng dư nợ và tài sản Có của loại hình này đang
ngày càng giảm. Đặc biệt, giá trị vốn tự đang suy giảm trầm trọng, và có những
công ty đã âm vốn chủ sở hữu với số tiền khá lớn. Đồng thời, tỷ lệ an toàn vốn tối
thiểu (CAR) của toàn ngành chỉ 3,35%, trong khi đó, yêu cầu tối thiểu phải là 13%.
Đến đây, mệnh lệnh tái cơ cấu hoạt động công ty cho thuê tài chính bắt buộc phải
diễn ra và phải ngày càng khẩn trương.
Hiện tại, đến năm 2016, Việt Nam có 11 Cty cho thuê tài chính được cấp
phép hoạt động, trong đó có 7 công ty trực thuộc các NHTM, 1 Cty liên doanh và 3
Cty 100% vốn đầu tư nước ngoài.
Theo một chuyên gia kinh tế, vốn cho DNNVV là một bài toán khó vì
DNNVV không có tài sản thế chấp, không có báo cáo tài chính rõ ràng minh bạch
nên NH khó cho vay. Trong khi đặc thù của công ty CTTC khác với NH, DNNVV
có thể thuê máy móc, thiết bị để sản xuất trong một thời gian theo thỏa thuận hợp
đồng mà không cần tài sản đảm bảo. Đặc biệt trong bối cảnh nhiều DN trong lĩnh
vực công nghiệp chế biến, thực phẩm, sản xuất hàng tiêu dùng, công nghiệp chế
tạo đang muốn mở rộng sản xuất kinh doanh để đón đầu các cơ hội đến từ TPP,
ASEAN+1… nhưng không đủ tài sản thế chấp để vay NH đầu tư có thể tìm đến

công ty CTTC. Nhưng để cung cầu gặp nhau phải có cơ chế đặc thù hỗ trợ hai bên
và có thị trường riêng, vì nếu công ty CTTC cũng hướng đến khách hàng của
NHTM sẽ khó có thể được DN lựa chọn. Chính vì vậy, khi lực tài chính yếu, việc

Page 13


Bài tiểu luận: Thực trạng thị trường cho thuê tài chính ở Việt Nam

Nhóm 1

quản trị điều hành của công CTTC còn hạn chế, sản phẩm dịch vụ nghèo nàn là
nguyên nhân khiến thị phần ngày càng sụt giảm.
Mới đây, Chính phủ đã ban hành Nghị định 39/2014/NĐ-CP về hoạt động
của công ty tài chính và công ty CTTC, trong đó có quy định các trường hợp chấm
dứt trước hạn hợp đồng cho thuê như khi thuê không thanh toán tiền thuê hoặc vi
phạm một trong các điều khoản, điều kiện: bên thuê bị tuyên bố phá sản, giải thể,
tài sản cho thuê bị mất, hỏng không thể phục hồi sửa chữa.
Tuy nhiên, nhiều ý kiến cho rằng, nếu quy định như vậy đơn vị cho thuê vẫn
thiệt hại, rủi ro nợ xấu vẫn cao, dễ đẩy các công ty CTTC rời khỏi thị trường.
/>(mà t thêm thắt sửa chữa chỗ này r)
Có thể thấy hoạt động cho thuê tài chính trên thế giới đã có từ lâu nhưng
công ty cho thuê tài chính đầu tiên tại Việt Nam chỉ mới ra đời gần hai thập niên kể
từ năm 1996. Trong chặng đường còn non trẻ, Công ty CTTC cũng đã góp phần
quan trọng trong việc dẫn vốn vào nền kinh tế - Một hình thức tổ chức tín dụng phi
ngân hàng. Tuy nhiên, do dặc thù riêng nên hoạt động CTTC tại Việt Nam vẫn còn
gặp nhiều khó khăn với rủi ro cao, dẫn đến tình trạng gần đây Ngân hàng Nhà nước
(NHNN) đã phải yêu cầu các ngân hàng thương mại phải khẩn trương đẩy mạnh
việc cơ cấu lại các công ty con là công ty CTTC theo Đề án cơ cấu lại hệ thống các
tổ chức tín dụng giai đoạn 2011-2015.

Việt Nam hiện đang có 12 công ty CTTC theo công bố từ NHNN, trong đó
có 7 công ty CTTC là công ty con của các ngân hàng thương mại. Số còn lại là các
công ty 100% vốn nước ngoài và một công ty trong nước là Công ty CTTC Công
nghiệp Tàu thuỷ Vinashin (VFL).
Danh sách các công ty cho thuê tài chính tại Việt Nam theo công bố của NHNN tính
đến 30/06/2014

Page 14


Bài tiểu luận: Thực trạng thị trường cho thuê tài chính ở Việt Nam

Nhóm 1

Cũng theo thống kê của NHNN đến cuối tháng 06/2014, tổng vốn điều lệ của các
công ty tài chính và CTTC gần 18,823 tỷ, tăng nhẹ so với mức cuối năm 2013,
tổng tài sản giảm 3.8% xuống gần 62,960 tỷ với chỉ số lợi nhuận trên tổng tài sản
(ROA) 0.43%. Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu chỉ ở mức 5.83% trong khi tỷ lệ tối thiểu
theo quy định đối với các tổ chức tín dụng là 13%. Đáng chú ý tỷ lệ cấp tín dụng so
với vốn huy động gần 240% trong khi cuối tháng 5/2014 là 400%.

Trước đây, theo quy định tại Thông tư 13, tổ chức tín dụng phi ngân hàng chỉ được
sử dụng nguồn vốn huy động để cấp tín dụng không được vượt quá tỷ lệ 85%. Mặc
Page 15


Bài tiểu luận: Thực trạng thị trường cho thuê tài chính ở Việt Nam

Nhóm 1


dù đến Thông tư 19, tỷ lệ này đã được hủy bỏ và không có giới hạn nhưng với tỷ lệ
quá cao, các công ty CTTC sẽ gặp nhiều rủi ro.
Bên cạnh đó, với đặc thù của mảng CTTC, theo quy định của pháp luật, dư
nợ CTTC phải chiếm tối thiểu 70% tổng dư nợ cấp tín dụng. Thông thường
khoản tín dụng cấp cho khách hàng khá lớn để mua những tài sản có giá trị như tàu
biển, đội xe tải, cần cẩu… trong khi vốn điều lệ và huy động từ khách hàng khá
khiêm tốn.
Với đặc thù riêng, các công ty CTTC luôn phải đối mặt với rủi ro nợ xấu,
mất vốn hay nguy cơ ôm tài sản mà việc tìm khách hàng khác để cho thuê không
dễ dàng gì. Khách hàng chủ yếu ở đây là các doanh nghiệp vừa và nhỏ nên số liệu
tài chính đều không có kiểm toán, không đòi hỏi tài sản đảm bảo nên rủi ro cao
cũng là điều đương nhiên.
Theo lời kể của một nhân viên tại Công ty CTTC của một ngân hàng lớn,
hoạt động cho thuê gặp rủi ro rất cao, có thời điểm khách hàng “bỏ của chạy lấy
người”, buông tài sản cho thuê để chạy trốn khiến nhân viên công ty có pha “truy
đuổi” hồi hộp không kém gì phim hành động.
Xét về yếu tố nợ xấu, theo thông tin từ Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia,
nợ xấu của các công ty CTTC đứng ở mức cao nhất, trong đó tỷ lệ nợ xấu của một
số công ty CTTC lên tới gần 50% trong năm 2012. Cùng với đó, thời gian qua,
hàng loạt bê bối cũng dính đến nhóm công ty này như Công ty CTTC Công nghiệp
Tàu thuỷ Vinashin (VFL) trong vụ việc Vinashin; CTTC của Agribank là ALC 2 bị
điều tra về vụ án tham nhũng, truy tố các bị can về lừa đảo chiếm đoạt, tham ô hay
lợi dụng chức vụ…
Về phía lợi nhuận, các công ty CTTC nước ngoài thường không có nhiều
thông tin, chỉ riêng Công ty CTTC Quốc tế VN công bố lãi ròng 20 tỷ và 19 tỷ
đồng trong năm 2012 và 2013. Còn đối với nhóm công ty CTTC trong nước, số
liệu có được chủ yếu từ nhóm công ty trực thuộc ngân hàng và hầu hết đều làm ăn
Page 16



Bài tiểu luận: Thực trạng thị trường cho thuê tài chính ở Việt Nam

Nhóm 1

có lãi trong những năm gần đây nhưng đã có dấu hiệu giảm sút trong năm 2013.
Riêng Công ty CTTC BIDV (BLC) lỗ trong năm 2011 và 2012, đặc biệt lỗ của
năm 2012 lên đến 219 tỷ đồng.
Kết quả hoạt động qua các năm của một số công ty cho thuê tài chính
ĐVT: tỷ đồng

Dẫn theo lời của Triết gia Aristotle: “Sự giàu có thực sự không phải nằm
trong quyền sở hữu tài sản mà là trong quyền sử dụng nó”. Theo đó, nếu sử dụng
tài sản đúng cách thì doanh nghiệp có thể tạo ra tối đa lợi nhuận và các công ty
CTTC sẽ còn có nhiều tiềm năng để phát triển khi đây vẫn là một kênh dẫn vốn
hiệu quả.
Sự ra đời và phổ biến của hoạt động cho thuê tài chính và công ty cho thuê
tài chính là điều tất yếu trong sự hoàn thiện hệ thống tài chính. Những đóng góp
của công ty cho thuê tài chính sẽ giúp cân bằng sự phát triển giữa thị trường tiền tệ
và thị trường vốn, đồng thời gia tăng thêm nguồn vốn trung dài hạn trong lựa chọn
hình thành tài sản dài hạn của doanh nghiệp. Nên nhớ, “sự giàu có không phải nằm
trong quyền sử hữu tài sản mà là trong quyền sử dụng nó” và các doanh nghiệp với
phương án sử dụng tài sản khả thi lẫn nhận thức được vai trò của hoạt động thuê tài
chính sẽ tối đa được lợi nhuận theo đuổi. Còn các công ty cho thuê tài chính sẽ
đóng vai trò lớn trong kênh truyền dẫn vốn trung dài hạn đến các chủ thể kinh tế.
Chắc chắn, hoạt động cho thuê tài chính ở Việt Nam trong tương lai là một tiềm
năng cần khai thác.
/>Page 17


Bài tiểu luận: Thực trạng thị trường cho thuê tài chính ở Việt Nam


Nhóm 1

Từ khi thị trường chính thức được khởi tạo bằng sự ra đời của công ty CTTC
Quốc tế Việt Nam (VILC) vào năm 1996, thì tính đến thời điểm giữa năm 2015,
theo NHNN, cả nước có 11 công ty CTTC với giấy phép hoạt động còn hiệu lực.
Trong số này có 7 công ty là công ty con của các NHTM, 3 công ty 100% vốn
nước ngoài và 1 công ty trực thuộc tập đoàn Vinashin. Hầu hết các công ty CTTC
tại Việt Nam hiện đang hoạt động tại 2 trung tâm phát triển nhất của đất nước là
TP. Hồ Chí Minh và Hà Nội. Các công ty CTTC thuộc khối công ty con của
NHTM tận dụng hệ thống, mạng lưới của ngân hàng mẹ để mở rộng phạm vi thông
qua uỷ thác đến các chi nhánh ngân hàng; nhận hỗ trợ hoạt động về vốn, chiến lược
kinh doanh và đôi khi là cả nguồn nhân lực từ ngân hàng mẹ.
Xét về quy mô vốn, hiện nay công ty CTTC Ngân hàng Công thương Việt
Nam (VietinBank Leasing) đứng đầu hệ thống với mức vốn điều lệ 800 tỷ đồng,
trong khi đó các công ty CTTC còn lại có mức vốn điều lệ đều trên 200 tỷ đồng.
Thử làm một phép so sánh về số lượng, về quy mô vốn, về phạm vi phủ sóng thì
rất dễ đi đến kết luận rằng hệ thống các công ty CTTC quá nhỏ bé trong tương
quan với hệ thống NHTM. Chính bởi sự nhỏ bé đó, các công ty CTTC bị giới hạn
về khả năng tài trợ cho các dự án lớn có tính khả thi cao, từ đó mà phân khúc DN
vừa và nhỏ là đối tượng khách hàng trọng tâm mà các công ty CTTC nhằm vào.
Theo thống kê của Hiệp hội CTTC Việt Nam (VILEA), trong tổng số 8
thành viên của Hiệp hội thì tính đến hết năm 2014, 4/8 công ty CTTC hoạt động có
hiệu quả và không có lỗ luỹ kế là: VietinBank Leasing, Vietcombank Leasing,
ACB Leasing và Sacombank Leasing. Các công ty CTTC trong diện tái cơ cấu
gồm: Vinashin Leasing, Agribank Leasing I và Agribank Leasing II.
Cũng theo NHNN, đến cuối năm 2014, tổng dư nợ và tài sản có của loại hình
CTTC đã ngày càng giảm theo thời gian. Đáng chú ý, giá trị vốn tự có đang giảm
sâu và có những công ty đã âm vốn chủ sở hữu với số tiền khá lớn. Cùng với đó, tỷ
Page 18



Bài tiểu luận: Thực trạng thị trường cho thuê tài chính ở Việt Nam

Nhóm 1

lệ an toàn vốn tối thiểu (CAR) của toàn hệ thống chỉ ở mức rất thấp là 3,35% so
với yêu cầu về tỷ lệ này dành cho các TCTD là 9%. Áp lực phải chuyển đổi hoặc
thậm chí “xoá sổ” các công ty CTTC yếu kém đang hiện hữu trước mắt.
/>
Page 19



×