Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

TL quản lý nguồn nhân lực “ Thực trạng, phương hướng và giải pháp về quản lý cân đối Ngân sách tại Việt Nam”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (379.62 KB, 36 trang )

BỘ NỘI VỤ
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH
PHÂN VIỆN TÂY NGUYÊN
------

TIỂU LUẬN MÔN
QUẢN LÝ NGUỒN NHÂN LỰC
TRONG KHU VỰC CÔNG
ĐỀ TÀI
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP VỀ QUẢN LÝ NHÂN SỰ
TRONG KHU VỰC CÔNG

Giảng viên: PGS.TS. Nguyễn Thị Hồng Hải
Thực hiện:

Đắk Lắk, 7/2016


Tiểu luận môn Quản lý tài chính công

GVHD: PGS.TS. Trần Văn Giao

LỜI NÓI ĐẦU
Trong xu thế hội nhập kinh tế như hiện nay, vấn đề cân đối ngân sách nhà
nước là rất quan trọng và cần được quan tâm đúng mức. Bỡi lẽ, ngân sách nhà
nước là công cụ tài chính cốt yếu để Nhà nước điều phối toàn xã hội, giải quyết
những vấn đề khó khăn của đất nước, đem lại sự công bằng cho người dân,…
Nhưng để đảm bảo tốt những vai trò trên thì ngân sách nhà nước phải được cân
đối. Thực tế ở Việt Nam trong thời gian vừa qua, ngân sách nhà nước không ổn
định và mất cân đối đã kéo theo những hậu quả làm ảnh hưởng đến sự phát triển
của nền kinh tế và nhiều vấn đề xã hội nãy sinh như: thu vào ngân sách nhà nước


không đủ chi dẫn đến nợ nước ngoài nhiều, lạm phát tăng nhanh, không có nguồn
tài chính để đầu tư đúng mức vào hoạt động kinh tế… Để khắc phục những vấn đề
trên, chính phủ đã có nhiều cố gắng trong việc cải cách quản lý hành chính, đổi
mới chính sách thu, chi ngân sách để hướng tới một ngân sách nhà nước được cân
đối nhằm góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển, ổn định xã hội và kiểm soát tình
trạng lạm phát đang diển ra ở nước ta và đưa Việt Nam tiến vào thời kỳ hội nhập
của nền kinh tế thế giới. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, chỉ đạo sát sao, kịp thời của
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; cùng với sự phối hợp chặt chẽ, vào cuộc quyết
liệt, có hiệu quả của các cấp, các ngành và địa phương, nỗ lực phấn đấu của cộng
đồng doanh nghiệp, đến nay kết quả thực hiện nhiệm vụ đã có diễn biến tích cực.
Cân đối ngân sách nhà nước là một vấn đề phức tạp nhưng nó có một vai trò
quan trọng đối với kinh tế đất nước trong thời kỳ chuyển đổi, hội nhập và cùng với
những lý do nêu trên, tác giả đã lựa chọn đề tài: “ Thực trạng, phương hướng và
giải pháp về quản lý cân đối Ngân sách tại Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu của
mình. Qua đó tôi hy vọng có được những hiểu biết và nhận thức đúng đắn hơn về
vấn đế cân đối ngân sách nhà nước ở Việt Nam, góp phần hoàn thiện những chính
sách về cân đối ngân sách nhà nước trong thời kỳ mới đưa đất nước phát triển cùng
thế giới.

Thực hiện:

Trang 2


Tiểu luận môn Quản lý tài chính công

GVHD: PGS.TS. Trần Văn Giao

NỘI DUNG
PHẦN 1

Những vấn đề lý luận chung về ngân sách nhà nước và
cân đối ngân sách nhà nước
I. Lý luận chung
1. Khái quát về ngân sách nhà nước
1.1.Khái niệm ngân sách nhà nước
Ngân sách nhà nước là một phạm trù rất rộng và bao quát, vừa liên quan đến
lĩnh vực kinh tế vừa liên quan đến góc độ quản lý Nhà nước. Vì vậy hiện nay có
nhiều ý kiến khác nhau định nghĩa về ngân sách Nhà nước, nhưng thể hiện rõ nhất
và đầy đủ nhất về bản chất của ngân sách nhà nước là hai định nghĩa trên hai
phương diện kinh tế và pháp lý.
Theo Điều 1 luật ngân sách nhà nước 2002, ngân sách nhà nước được định
nghĩa là: “ Ngân sách nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước đã
được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một
năm để bảo đảm thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước”.
1.2. Đặc điểm ngân sách nhà nước
Thông qua định nghĩa về ngân sách nhà nước, ta thấy ngân sách nhà nước là
một loại hình ngân sách đặc biệt quan trọng. Nó không chỉ mang những đặc điểm
chung của các loại ngân sách thông thường, mà còn hàm chứa những đặc điểm
riêng thể hiện bản chất của một loại hình ngân sách của một quốc gia như:
- Ngân sách nhà nước vừa là một bảng kế hoạch tài chính vừa là một đạo luật
của một quốc gia. Ngân sách nhà nước chính là toàn bộ các khoản thu, chi của một
quốc gia đã được dự toán thực hiện trong một năm, việc thiết lập ngân sách nhà
nước không chỉ mang tính kỹ thuật nghiệp vụ kinh tế giống như các loại ngân sách
thông thường khác mà nó còn mang tính kỹ thuật pháp lý, ngân sách nhà nước
được soạn thảo và thực hiện bởi cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đặc biệt phải

Thực hiện:

Trang 3



Tiểu luận môn Quản lý tài chính công

GVHD: PGS.TS. Trần Văn Giao

được Quốc hội xem xét, biểu quyết thông qua giống như việc ban hành một đạo
luật.
- Ngân sách nhà nước là bảng kế hoạch tài chính của toàn thể quốc gia, sẽ
được Quốc hội biểu quyết thông qua trước khi trao cho chính phủ thi hành. Đặc
điểm này thể hiện mối liên hệ chặt chẽ giữa cơ quan lập pháp và cơ quan hành
pháp trong quá trình xây dựng và thực hiện ngân sách. Trong đó cơ quan lập pháp
thường có vai trò áp đảo hơn, cơ quan hành pháp chỉ là cơ quan thừa hành thực
hiện bảng kế hoạch tài chính mà Quốc hội đã thông qua, nhưng đồng thời còn phải
chịu sự giám sát của Quốc hội trong khi thực thi nhiệm vụ ngân sách nhà nước
nhằm hạn chế sự lạm quyền của các cơ quan hành pháp bảo đảm tính dân chủ,
công khai, minh bạch trong hoạt động tài chính nhà nước.
- Ngân sách nhà nước được thiết lập và thực thi nhằm phục vụ hoạt động
của bộ máy nhà nước, đảm bảo cho Nhà nước thực hiện chức năng và nhiệm vụ
của mình vì lợi ích chung của toàn xã hội. Bộ máy nhà nước muốn hoạt động được
cần có một số tiền rất lớn để chi tiêu và số tiền đó được trích ra từ ngân sách nhà
nước. Nhà nước thực hiện chức năng và nhiệm vụ của mình nhằm bảo đảm cho sự
phát triển của toàn xã hội, phục vụ lợi ích của toàn dân, không phân biệt người
giàu nghèo hay đẳng cấp địa vị xã hội.
- Ngân sách nhà nước được thiết lập và vận hành theo bốn nguyên tắc cơ
bản sau:
+ Nguyên tắc ngân sách nhất niên: hày hàm chứa hai nội dung cơ bản sau:
Mỗi năm, Quốc hội sẽ biểu quyết ngân sách một lần theo hạn kỳ do luật định và
bản dự toán ngân sách nhà nước này chỉ có hiệu lực thi hành trong một năm, chính
phủ là người được phép thi hành bản dự toán đó. Ở Việt Nam, nguyên tắc này đã
được ghi nhận trong luật, các khoản thu và chi ngân sách nhà nước được thực hiện

trong một năm, tính từ ngày 01/01 đến ngày 31/12 năm dương lịch. Nguyên tắc
này được đặt ra nhằm mục đích giúp cho Nhà nước kiểm soát kịp thời các hoạt
động thu, chi của quốc gia, tránh sự lãng phí, đảm bảo sự dân chủ cho người dân.

Thực hiện:

Trang 4


Tiểu luận môn Quản lý tài chính công

GVHD: PGS.TS. Trần Văn Giao

Nhân dân có quyền tham gia vào việc quản trị nguồn tài chính của đất nước thông
qua người đại diện của mình là Quốc hội.
+ Nguyên tắc ngân sách đơn nhất: Nguyên tắc này hiểu theo cách thông
thường, là mọi khoản thu và chi tiền tệ của quốc gia trong một năm chỉ được phép
trình bày trong một văn kiện duy nhất, đó là bản dự toán ngân sách sẽ được chính
phủ trình quốc hội quyết định để thực hiện. Ở nước ta chưa có một quy định cụ thể,
chính thức nào về nguyên tắc này, nhưng trong luật ngân sách nhà nước có quy
định: “ Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp được quyền quyết định điều chỉnh
dự toán ngân sách nhà nước các cấp trong trường hợp cần thiết…” đã thể hiện sự
vận dụng linh hoạt nguyên tắc này ở nước ta.
+ Nguyên tắc ngân sách toàn diện: được thể hiện qua hại nội dung sau: Mọi
khoản thu và chi đều phải được ghi cụ thể, rỏ ràng trong bảng dự toán ngân sách
hàng năm đã được Quốc hội quyết định; các khoản thu và chi không được phép bù
trừ cho nhau mà mọi khoản thu dùng để tài trợ cho mọi khoản chi. Thực hiện tốt
nguyên tắc này, bảng dự toán ngân sách nhà nước sẽ đảm bảo được thiết lập rỏ
ràng, cụ thể, minh bạch và đầy đủ. Nước ta cũng đã ghi nhận và vận dụng nguyên
tắc này bằng những quy định cụ thể trong luật.

+ Nguyên tắc ngân sách thăng bằng: Nguyên tắc này cũng đã được ghi
nhận trong luật ngân sách nhà nước Việt Nam hiện hành. Nguyên tắc này đã giúp
xác định được tình trạng ngân sách nhà nước đang ở mức thăng bằng, bội thu hay
thâm hụt tại một thời điểm để từ đó đưa ra những hướng giải quyết vấn đề ngân
sách nhà nước cho phù hợp. Hiện nay nguyên tắc ngân sách thăng bằng vẫn chưa
đảm bảo thực hiên tốt ở nhiều quốc gia, do những biến đổi về tình hình kinh tế- xã
hội liên tục xãy ra như: khủng hoảng kinh tế, lạm phát, thiên tai,…
2. Khái quát về cân đối ngân sách nhà nước
2.1. Các học thuyết về cân đối ngân sách nhà nước
2.1.1. Lý thuyết cổ điển về cân bằng ngân sách
Theo lý thuyết này, nội dung của cân bằng ngân sách rất đơn giản: “ Mỗi
năm số thu phải ngang với số chi”. Quan điểm này bao gồm hai nguyên tắc cơ bản

Thực hiện:

Trang 5


Tiểu luận môn Quản lý tài chính công

GVHD: PGS.TS. Trần Văn Giao

sau: Một là, tổng số những khoản chi không được quá tổng số những khoản thu.
Hai là, tổng số những khoản thu của ngân sách không bao giờ được lớn hơn tổng
số những khoản chi của ngân sách. Tức là ngân sách nhà nước phải được cân bằng
tuyệt đối, bội chi hay bội thu ngân sách đều biểu hiện sự lãng phí về nguồn lực
trong nhân dân.Ngoài ra, thuyết này còn đòi hỏi ngân sách nhà nước phải cân bằng
cả khi lập dự toán và trong quá trình thực hiện, nếu chỉ cân bằng khi lập dự toán
còn trong quá trình thực hiện lại không cân bằng thì không thể coi là cân bằng thực
sự.

2.1.2. Các học thuyết hiện đại về cân đối ngân sách nhà nước
Khi nền kinh tế chuyển sang cơ chế thị trường tự do cạnh tranh thì sự can
thiệp của Nhà nước vào hoạt động kinh tế đóng một vai trò rất quan trọng, đảm bảo
sự ổn định và phát triển của nền kinh tế, lúc này cân đối ngân sách lại trở thành
một công cụ thiết yếu hơn. Trong bối cảnh đó, quan điểm về cân đối ngân sách nhà
nước cũng có nhiều thay đổi.
- Lý thuyết về ngân sách chu kỳ
Nền kinh tế trãi qua một chuỗi dài các chu kỳ, mỗi chu kỳ đều trãi qua giai
đoạn phồn thịnh và suy thoái. Ở giai đoạn phồn thịnh của nền kinh tế thì của cải
vật chất tạo ra nhiều, năng suất lao động xã hội cao, thất nghiệp ít,…Do đó nguồn
thu vào ngân sách nhà nước sẽ lớn hơn nhu cầu chi tiêu và ngân sách nhà nước
thường ở tình trạng bội thu. Vì vậy nếu không xem xét cân đối ngân sách nhà nước
theo chu kỳ, Nhà nước rất dễ dùng số bội thu này chi tiêu vào những việc không
cần thiết. Ngược lại, khi có khủng hoảng xãy ra nền kinh tế chuyển sang giai đoạn
suy thoái, của cải vật chất tạo ra ít, năng suất lao động của xã hội thấp, thất nghiệp
gia tăng,…Dẫn đến việc thu ngân sách gặp nhiều khó khăn, ngoài ra Nhà nước còn
chi tiền để phục hồi nền kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội phát sinh làm cho
ngân sách nhà nước dễ rơi vào tình trạng bội chi.
- Lý thuyết về ngân sách cố ý thiếu hụt
Lý thuyết cổ điển đã chỉ ra, muốn thăng bằng ngân sách trong giai đoạn suy
thoái thì phải giảm thu hoặc tăng chi. Nhưng cả hai phương pháp này đều kiềm

Thực hiện:

Trang 6


Tiểu luận môn Quản lý tài chính công

GVHD: PGS.TS. Trần Văn Giao


hãm sự phát triển kinh tế, làm cho nền kinh tế càng đình trệ hơn. Do vậy khi kinh
tế rơi vào giai đoạn suy thoái, phải tránh sự kiềm hãm đó bằng cách cố găng hy
sinh thăng bằng ngân sách, phải sử dụng sự mất cân đối ngân sách, tăng chi tiêu để
đưa nền kinh tế thoát khỏi suy thoái. Tuy nhiên, việc cố ý tạo sự thiếu hụt ngân
sách nhà nước có thể ảnh hưởng xấu đến chính sách tiền tệ, lạm phát gia tăng.
Nhưng những người ủng hộ thuyết này cho rằng: “ Sự phục hồi kinh tế sẽ đem lại
nguồn để ngân sách nhà nước trở về tình trạng cân bằng và đẩy lùi lạm phát”.
- Thuyết hạn chế tiêu dùng thi hành trong thời chiến
Thuyết này cho rằng, vì muốn thỏa mãn nhu cầu của chiến tranh ngân sách
nhà nước phải chi tiêu rất nhiều, trong khi đó khối lượng tài sản cung cấp trên thị
trường lại khan hiếm hơn thời bình. Lúc này ngân sách nhà nước phải thiết lập một
chế độ hạn chế chi tiêu và kiểm soát giá cả. Chế độ này sẽ hướng người dân đến
việc chi tiêu không hết số thu nhập có khả năng sử dụng của mình, do đó Nhà nước
sẽ tìm cách thu hồi số tiền dư đó vào ngân sách nhà nước bằng cách đánh thuế
hoặc phát hành công trái.
2.2. Khái niệm cân đối ngân sách nhà nước
Cân đối ngân sách là sự cân bằng giữa tổng số thu và tổng số chi bằng tiền
của nhà nước trong một tài khóa nhất định.
Cân đối NSNN không chỉ thực hiện định kỳ khi năm tài chính kết thúc mà
phải thực hiện ngay từ khi lập dự toán NSNN. Trên thực tế dù có cố gắng đến đâu
NSNN cũng không thể luôn đạt trạng thái cân bằng. Do nhu cầu chi tiêu của nhà
nước phát sinh thường xuyên trong khi thu ngân sách lại phát sinh định kỳ, vì vậy
xét vào một thời điểm nhất định NSNN có thể cân bằng, thặng dư hoặc thâm hụt.
Xét trong năm tài chính, các quốc gia luôn cố gắng tìm kiếm các biện pháp để cân
bằng NSNN. Việc cân bằng NSNN giúp cho nhà nước cũng như các cấp chính
quyền địa phương thực hiện được nhiệm vụ kinh tế - xã hội đã được ấn định. Tuy
nhiên, trải qua các giai đoạn khác nhau của lịch sử với biến động không ngừng của
các hoạt động kt-xh, đã có nhiều nhà nghiên cứu kinh tế đưa ra các quan điểm khác
nhau về duy trì trạng thái cân đối NSNN


Thực hiện:

Trang 7


Tiểu luận môn Quản lý tài chính công

GVHD: PGS.TS. Trần Văn Giao

2.3. Đặc điểm cân đối ngân sách nhà nước
Cân đối ngân sách nhà nước phản ánh mối quan hệ tương tác giữa thu và chi
ngân sách nhà nước trong năm ngân sách nhằm đạt được các mục tiêu đã đề ra. Nó
vừa là công cụ thực hiện các chính sách xã hội của Nhà nước, vừa bị ảnh hưởng
bởi các chỉ tiêu kinh tế- xã hội. Cân đối ngân sách nhà nước không phải là để thu
chi cân đối hoặc chỉ là cân đối đơn thuần về mặt lượng, mà cân đối ngân sách nhà
nước nhằm thực hiện các mục tiêu chiến lược kinh tế- xã hội của Nhà nước đồng
thời các chỉ tiêu kinh tế- xã hội này cũng quyết định sự hình thành về thu, chi ngân
sách nhà nước. Tuy nhiên việc tính toán thu, chi không phản ánh một cách thụ
động các chỉ tiêu kinh tế- xã hội, mà cân đối ngân sách nhà nước có tác động làm
thay đổi hoặc điều chỉnh một cách hợp lý các chỉ tiêu kinh tế- xã hội, bằng khả
năng quản lý hoặc phân bổ nguồn lực có hiệu quả.
Cân đối ngân sách nhà nước là cân đối giữa tổng thu và tổng chi, giữa các
khoản thu và các khoản chi, cân đối về phân bổ và chuyển giao nguồn lực giữa các
cấp trong hệ thống ngân sách nhà nước, đồng thời kiểm soát được tình trạng ngân
sách nhà nước đặc biệt là tình trạng bội chi ngân sách nhà nước. Cân bằng thu- chi
ngân sách nhà nước chỉ là tương đối chứ không thể đạt mức tuyệt đối được vì hoạt
động kinh tế luôn ở trạng thái biến động Nhà phải điều chỉnh hoạt động thu, chi
cho phù hợp. Bên cạnh đó, cần phân bổ nguồn thu cho hợp lý để đảm bảo sự ổn
định về kinh tế- xã hội giữa các địa phương. Mặt khác, nếu ngân sách không cân

bằng mà rơi vào tình trạng bội chi thì cần đưa ra những giải quyết kịp thời để ổn
định lại ngân sách nhà nước.
Cân đối ngân sách nhà nước mang tính định lượng và tính tiên liệu.Trong
quá trình cân đối ngân sách nhà nước, người quản lý phải xác định các con số thu,
chi ngân sách nhà nước so với tình hình thu nhập trong nước, chi tiết hóa từng
khoản thu, chi nhằm đưa ra cơ chế sử dụng và quản lý nguồn thu phù hợp với hoạt
động chi, từ đó để làm cơ sở phân bổ và chuyển giao nguồn lực giữa các cấp ngân
sách. Cân đối ngân sách nhà nước phải dự đoán được các khoản thu, chi ngân sách
một cách tổng thể để đảm bảo thực hiện các mục tiêu kinh tế- xã hội.

Thực hiện:

Trang 8


Tiểu luận môn Quản lý tài chính công

GVHD: PGS.TS. Trần Văn Giao

2.4. Vai trò của cân đối ngân sách nhà nước
Cân đối ngân sách nhà nước là một công cụ quan trọng để Nhà nước can
thiệp vào hoạt động kinh tế- xã hội của đất nước, với vai trò quyết định đó thì cân
đối ngân sách nhà nước trong nền kinh tế thị trường có các vai trò sau:
- Cân đối ngân sách nhà nước góp phần ổn định kinh tế vĩ mô. Nhà nước
thực hiện cân đối ngân sách nhà nước thông qua chính sách thuế, chính sách chi
tiêu hàng năm và quyết định mức bội chi cụ thể nên có nhiều tác động đến hoạt
động kinh tế cũng như cán cân thương mại quốc tế. Từ đó góp phần ổn định việc
thực các mục tiêu của chính sách kinh tế vĩ mô như: Tăng trưởng mức thu nhập
bình quân trong nền kinh tế, giảm tỷ lệ thất nghiệp, lạm phát được duy trì ở mức
ổn định và có thể dự toán được,…

- Cân đối ngân sách nhà nước góp phần phân bổ, sử dụng nguồn lực tài chính
có hiệu quả, để đảm bảo được vai trò này ngay từ khi lập dự toán Nhà nước đã lựa
chọn trình tự ưu tiên hợp lý trong phân bổ ngân sách nhà nước và sự gắn kết chặt
chẽ giữa chiến lược phát triển kinh tế- xã hội với công tác lập kế hoạch ngân sách.
- Cân đối ngân sách nhà nước góp phần đảm bảo công bằng xã hội, giảm
thiểu sự bất bình đẳng giữa các địa phương. Nước ta với mỗi một vùng lại có một
điều kiện kinh tế- xã hội khác nhau, có những vùng điều kiện kinh tế- xã hội rất
khó khăn làm ảnh hưởng đến thu nhập và chất lượng cuộc sống của người dân, có
những vùng điều kiện kinh tế- xã hội thuận lợi, phát triển làm cho thu nhập và cuộc
sống của người dân được nâng lên. Vì vậy cân đối ngân sách nhà nước sẽ đảm
được sự công bằng, giảm thiểu sự bất bình đẳng giữa người dân và các vùng miền.
Nhà nước có thể huy động nguồn lực từ những người có thu nhập cao, những vùng
có kinh tế phát triển để hổ trợ, giúp đỡ những người nghèo có thu nhập thấp và
những vùng kinh tế kém phát triển.
Tóm lại, , Ngân sách nhà nước vừa là công cụ tài chính quan trọng, vừa là
đạo luật của một quốc gia. Nó được thiết lập và vận hành cùng với sự tồn tại và
phát triển của quốc gia đó. Đặc biệt trong thời kỳ chuyển đổi và hội nhập như hiện
nay, ngân sách nhà nước và vấn đề cân đối ngân sách càng đóng vai trò quan trọng

Thực hiện:

Trang 9


Tiểu luận môn Quản lý tài chính công

GVHD: PGS.TS. Trần Văn Giao

hơn vào sự phát triển đất nước, bình ổn xã hội. Hiểu và vận dụng tốt các học thuyết
về cân đối ngân sách nhà nước sẽ giúp nước ta có thể giải quyết những vấn đề còn

tồn đọng về ngân sách nhà nước trong thời gian vừa qua. Ngân sách nhà nước
được cân đối, ổn định sẽ giúp Nhà nước thực hiện tốt chức năng và nhiệm vụ của
mình đối với toàn dân, toàn xã hội.
2.5. Nguyên tắc cân đối ngân sách nhà nước
Theo luật ngân sách nhà nước 2002 thì ngân sách nhà nước được cân đối dựa
trên nguyên tắc sau:
Tổng số thu từ thuế, phí, lệ phí phải lớn hơn tổng số chi thường xuyên và
góp phần tích lũy ngày càng cao vào chi đầu tư phát triển, trường hợp còn bội chi,
thì số bội chi phải nhỏ hơn chi đầu tư phát triển, tiến tới cân bằng thu, chi ngân
sách. Nguyên tắc này đã phân định ranh giới giữa chi đầu tư phát triển và chi
thường xuyên, thể hiện sự thận trọng trong chính sách tài khóa của Việt Nam.
Bội chi ngân sách nhà nước được bù đắp bằng nguồn vay trong nước và
nước ngoài. Vay bù đắp bội chi ngân sách nhà nước phải đảm bảo nguyên tắc
không sử dụng cho tiêu dùng, chỉ được sử dụng cho mục đích phát triển và bảo
đảm bố trí ngân sách để chủ động trả hết nợ khi đến hạn. Trong điều kiện kinh tế
thị trường như hiện nay thì vấn đề bội chi ngân sách là không thể tránh khỏi đối
với một quốc gia. Nguyên tắc vay bù đắp bội chi nên dành cho mục đích phát triển
và đảm bảo bố trí ngân sách để chủ động trả hết nợ khi đến hạn là rất cần thiết để
đảm bảo ngân sách nhà nước được cân đối, tận dụng được nguồn vốn vay một cách
có hiệu quả. Chi cho tiêu dùng là hoạt động chi không mang tính chất thu hồi vốn
và không tạo thặng dư, do đó nguồn vay bù đắp bội chi chỉ để dành cho mục đích
phát triển. Về nguyên tắc, ngân sách địa phương được cân đối với tổng số chi
không vượt quá tổng số thu; trường hợp tỉnh thành phố trực thuộc trung ương có
nhu cầu đầu tư xây dựng công trình kết cấu hạ tầng thuộc phạm vi ngân sách cấp
tỉnh bảo đảm, thuộc danh mục đầu tư trong kế hoạch 5 năm đã được hội đồng nhân
dân cấp tỉnh quyết định, nhưng không vượt quá khả năng cân đối của ngân sách

Thực hiện:

Trang 10



Tiểu luận môn Quản lý tài chính công

GVHD: PGS.TS. Trần Văn Giao

cấp tỉnh năm dự toán, thì được phép huy động vốn không vượt quá 30% vốn đầu tư
xây dựng cơ bản trong nước hàng năm của ngân sách cấp tỉnh.
Ngoài những nguyên tắc cân đối ngân sách nhà nước theo quy định của luật
hiện hành, thì trong quá trình cân đối ngân sách nhà nước thì cần phải dựa trên hệ
thống các nguyên tắc lập ngân sách và quản lý chi tiêu công hiệu quả như:
- Tính tổng thể và tính kỷ luật tài chính: Để kiểm soát được các nguồn tài
chính có hiệu quả, yêu cầu trong cân đối ngân sách nhà nước phải đánh giá đúng
nguồn lực tài chính đó và lựa chọn những công cụ thích hợp nhất để phân bổ
nguồn lực nhằm đạt được mục tiêu ngân sách đã đề ra.
- Tính linh hoạt và tính tiên liệu: Trong cân đối ngân sách nhà nước, tính linh
hoạt và tính tiên liệu là cần thiết, vì nó giúp nhà quản lý đưa ra cách xử lý và điều
phối nguồn lực tài chính một cách hợp lý, tạo điều kiện thuận lợi để nhà nước thực
hiện các mục tiêu kinh tế- xã hội đã đề ra.
- Tính trung thực: Khi cân đối ngân sách nên dựa vào những dự toán đã
được lập từ thực tế tình hình kinh tế- xã hội của đất nước, mà không có sự thiên vị
về vấn đề thu hoặc chi ngân sách nhà nước.
- Thông tin, minh bạch và trách nhiệm: Đây là vấn đề rất cần thiết trong cân
đối ngân sách nhà nước. Tính minh bạch và trách nhiệm trước hết yêu cầu những
người ra quyết định phải có tất cả những dữ liệu và thông tin thích hợp, phải chịu
trách nhiệm về quyết định của mình.

Thực hiện:

Trang 11



Tiểu luận môn Quản lý tài chính công

GVHD: PGS.TS. Trần Văn Giao

PHẦN HAI
Thực trạng thực hiện quản lý cân đối ngân sách
tại Việt Nam năm 2015
I. Mục tiêu ngân sách
Trong bối cảnh kinh tế quốc tế và trong nước có dấu hiệu tích cực nhưng vẫn
còn nhiều khó khăn, thách thức, ảnh hưởng tới NSNN; mục tiêu của dự toán
NSNN năm 2015 được xác định là: Huy động, phân phối, quản lý, sử dụng có hiệu
quả các nguồn lực tài chính quốc gia, từng bước cơ cấu lại NSNN, đảm bảo an
ninh tài chính, góp phần tích cực giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm
phát, đảm bảo nền kinh tế phát triển bền vững và tăng trưởng hợp lý, giải quyết tốt
các vấn đề xã hội, quốc phòng - an ninh trong tình hình mới.
II. Công tác điều hành ngân sách nhà nước
Ngay từ đầu năm 2015, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 01/NQ-CP
ngày 03 tháng 01 năm 2015 về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu chỉ đạo, điều
hành thực hiện kế hoạch phát triển KT-XH và dự toán NSNN năm 2015. Trong quá
trình thực hiện, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 19/NQ-CP ngày 12 tháng 3
năm 2015 về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu tiếp tục cải thiện môi trường kinh
doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia hai năm 2015-2016.
Trước diễn biến không thuận của giá dầu thô thế giới, ảnh hưởng đến cân đối
NSNN năm 2015, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 06/CT-TTg ngày
21 tháng 4 năm 2015 về việc tăng cường chỉ đạo điều hành thực hiện nhiệm vụ tài
chính - NSNN năm 2015, với nhiều giải pháp quan trọng nhằm tập trung tháo gỡ
khó khăn, tạo môi trường thuận lợi phát triển sản xuất - kinh doanh (SX-KD), nâng
cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, đẩy mạnh xuất khẩu, tăng cường quản

lý thu, chi, chủ động điều hành trong tình hình mới và giữ vững cân đối NSNN
năm 2015 theo dự toán đã được Quốc hội phê duyệt. Các bộ, ngành và địa phương
đã khẩn trương cụ thể hóa các giải pháp đã đề ra, trên cơ sở đó tập trung chỉ đạo
triển khai quyết liệt, có hiệu quả chương trình, kế hoạch hành động của ngành
Thực hiện:

Trang 12


Tiểu luận môn Quản lý tài chính công

GVHD: PGS.TS. Trần Văn Giao

mình, địa phương mình. Nhờ đó, tình hình KT-XH tiếp tục có chuyển biến và đạt
được những kết quả khá toàn diện, tích cực, chính trị - xã hội ổn định, quốc phòng
- an ninh được giữ vững, an sinh xã hội được đảm bảo.
1. Điều hành thu NSNN
Bên cạnh việc tổ chức chỉ đạo triển khai thực hiện tốt các luật thuế mới ban
hành, trong năm 2015 đã triển khai nhiều giải pháp nhằm tiếp tục ổn định kinh
tế vĩ mô, tạo điều kiện phát triển SX-KD, thúc đẩy tăng trưởng và góp phần tăng
thu NSNN. Đồng thời, tiếp tục rà soát sửa đổi, bổ sung, ban hành mới các chính
sách về tài chính, thuế phù hợp với tình hình thực tế và thực hiện các cam kết
hội nhập quốc tế; tăng cường công tác quản lý thu kết hợp cải cách thủ tục hành
chính; phấn đấu tăng thu nội địa, thu từ hoạt động xuất nhập khẩu đạt và vượt
dự toán để bù đắp số giảm thu từ dầu thô. Cụ thể:
+ Điều chỉnh chính sách thuế bảo vệ môi trường đối với mặt hàng xăng,
dầu;
+ Miễn, giảm tiền sử dụng đất đối với hộ gia đình, cá nhân được giao đất ở
trái thẩm quyền trước Luật Đất đai năm 2003;
+ Ban hành định mức hành lý, tài sản di chuyển, quà biếu, quà tặng, hàng

mẫu được miễn thuế, xét miễn thuế, không chịu thuế,...
+ Thực hiện đồng bộ, có hiệu quả các giải pháp nâng cao chất lượng công
tác quản lý thu, trong đó tập trung đẩy mạnh công tác tuyên truyền, hỗ trợ người
nộp thuế; tăng cường các hoạt động thanh tra, kiểm tra, chống buôn lậu và gian lận
thương mại; tăng cường xử lý nợ đọng thuế;
+ Triển khai Nghị quyết số 19/NQ-CP ngày 12 tháng 3 năm 2015 của Chính
phủ, trong đó tập trungtháo gỡ khó khăn, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính,
nâng cao năng lực cạnh tranh, tạo môi trường thuận lợi để doanh nghiệp đầu tư
phát triển SX-KD, góp phần tăng nguồn thu cho ngân sách.

Thực hiện:

Trang 13


Tiểu luận môn Quản lý tài chính công

GVHD: PGS.TS. Trần Văn Giao

2. Điều hành chi NSNN
Việc điều hành chi NSNN năm 2015 được thực hiện theo nguyên tắc chặt
chẽ theo đúng dự toán được duyệt; không ban hành các chính sách, chế độ mới làm
tăng chi NSNN khi chưa có nguồn đảm bảo;...
Trong tổ chức thực hiện, căn cứ diễn biến tình hình thực tế, nhằm ứng phó
với tác động thu ngân sách do giá dầu giảm, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ
thị số 06/CT-TTg ngày 21 tháng 4 năm 2015việc tăng cường chỉ đạo điều hành
thực hiện nhiệm vụ tài chính - NSNN năm 2015, trong đó đã yêu cầu các bộ, cơ
quan Trung ương và địa phương:
- Tập trung đẩy nhanh tiến độ thi công và giải ngân vốn đầu tư phát triển,
nhất là đối với nguồn vốn đầu tư từ NSNN, vốn trái phiếu Chính phủ (TPCP), vốn

chương trình mục tiêu quốc gia, vốn ODA; thực hiện nghiêm các quy định của
Luật Đầu tư công và các quy định về quản lý vốn đầu tư, xử lý nợ đọng xây dựng
cơ bản (XDCB) từ nguồn NSNN và vốn TPCP.
- Nghiêm túc thực hiện chủ trương thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong
quản lý chi thường xuyên. Trong đó: (i) Chủ động rà soát, sắp xếp để cắt giảm
hoặc lùi thời gian thực hiện đối với các khoản chi chưa thực sự cần thiết, cấp bách,
các khoản mua sắm trang bị; tiết giảm tối đa chi phí điện, nước, điện thoại, văn
phòng phẩm, xăng dầu...; (ii) Thực hiện nghiêm quy định về không mua xe công;
(iii) Không bổ sung các đề án, chương trình, ban hành các chính sách mới, hoặc
nâng định mức làm tăng chi NSNN mà chưa xác định được nguồn đảm bảo.
- Tạm giữ lại tại Kho bạc nhà nước 10% dự toán chi thường xuyên 2 8 tháng
cuối năm 2015 của các đơn vị sử dụng ngân sách. Điều hành chặt chẽ nguồn dự
phòng các cấp, chủ động dành 50% dự toán dự phòng để xử lý cân đối ngân sách
khi nguồn thu NSNN giảm lớn.
- Không ứng trước dự toán NSNN năm sau; trường hợp đặc biệt (thiên tai,
bão lũ, dịch bệnh, nhiệm vụ cấp thiết về quốc phòng, an ninh,...), Chính phủ báo
cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định.

Thực hiện:

Trang 14


Tiểu luận môn Quản lý tài chính công

GVHD: PGS.TS. Trần Văn Giao

- Rà soát, quản lý chặt chẽ các khoản chi chuyển nguồn, chỉ thực hiện
chuyển nguồn đối với một số khoản chi còn nhiệm vụ và thật sự cần thiết theo
đúng quy định của pháp luật.

- Yêu cầu các địa phương tích cực, chủ động, phấn đấu thu đạt và vượt dự
toán để đảm bảo dự toán chi ngân sách đã được cấp có thẩm quyền thông qua;
NSTW chỉ xem xét hỗ trợ hoặc tạm ứng kinh phí cho địa phương trong trường hợp
thực sự cấp bách, vượt quá khả năng đáp ứng của địa phương.
Đến cuối năm, căn cứ vào tiến độ thực hiện thu NSNN, Thủ tướng Chính
phủ đã cho phép sử dụng số tiết kiệm 10% dự toán chi thường xuyên 8 tháng cuối
năm 2015 và dự phòng ngân sách các cấp được giữ lại theo hướng: Đối với NSTW,
giữ lại 10% kinh phí tiết kiệm chi thường xuyên của các Bộ, cơ quan trung ương
và dự phòng NSTW để bù giảm thu cân đối NSTW; Đối với các địa phương được
sử dụng nguồn kinh phí trên để bù đắp giảm thu nếu có, trường hợp thu đạt và vượt
dự toán, được tiếp tục sử dụng để chi cho các nhiệm vụ đã bố trí trong dự toán đầu
năm.
Qua đó, đã đạt được những kết quả tích cực: kỷ luật tài chính được tăng
cường, tiến độ thực hiện các nhiệm vụ chi được đảm bảo, đúng mục đích, đúng
chính sách, chế độ; hiệu quả sử dụng NSNN có tiến bộ.
II. Đánh giá thực hiện thu chi NSNN
1. Thực hiện thu NSNN
Dự toán thu NSNN là 911.100 tỷ đồng, thực hiện cả năm đạt 996.870 tỷ
đồng, vượt 9,4% so với dự toán, tăng 15,4% so với thực hiện năm 2014.
1.1. Thu nội địa
Dự toán thu 638.600 tỷ đồng, thực hiện cả năm đạt 740.062 tỷ đồng, vượt
15,9% so với dự toán, tăng 26,8% so với thực hiện năm 2014; không kể thu tiền sử
dụng đất (67.548 tỷ đồng, vượt 73,2% so với dự toán) thì đạt 672.514 tỷ đồng,
vượt 12,2% so với dự toán. Trong đó: Thu từ khu vực doanh nghiệp nhà nướcthực
hiện đạt 227.022 tỷ đồng, tăng 2,8% so dự toán, tăng 20,7% so với thực hiện năm
2014; Thu từ khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thực hiện đạt

Thực hiện:

Trang 15



Tiểu luận môn Quản lý tài chính công

GVHD: PGS.TS. Trần Văn Giao

141.019 tỷ đồng, giảm 1,0% so dự toán, tăng 14% so với thực hiện năm 2014; Thu
từ khu vực kinh tế công thương nghiệp - ngoài quốc doanh thực hiện đạt 129.585
tỷ đồng, vượt 8,4% so dự toán, tăng 15,5% so thực hiện năm 2014; Các khoản thu
từ nhà, đất thực hiện đạt 83.530 tỷ đồng, vượt 79,3% so dự toán, tăng 53,6% so
thực hiện năm 2014; riêng thu tiền sử dụng đất đạt 67.548 tỷ đồng, vượt 73,2% so
dự toán, tăng 53,5% so thực hiện năm 2014.
1.2. Thu từ dầu thô
Dự toán thu 93.000 tỷ đồng, trên cơ sở dự kiến sản lượng là 14,74 triệu tấn,
giá 100 USD/thùng.
Bình quân cả năm 2015, giá dầu thô đạt khoảng 56,2 USD/thùng, giảm 43,8
USD/thùng so giá xây dựng dự toán; sản lượng dầu thanh toán cả năm ước đạt
16,75 triệu tấn, tăng 2,01 triệu tấn so với kế hoạch. Ước thực hiện thu từ dầu thô cả
năm đạt 67.510 tỷ đồng, giảm 27,4% so dự toán và giảm 32,5% so với thực hiện
năm 2014.
1.3. Thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất nhập khẩu
Dự toán thu 175.000 tỷ đồng, trên cơ sở dự toán tổng số thu từ hoạt động
xuất nhập khẩu là 260.000 tỷ đồng, hoàn thuế giá trị gia tăng theo chế độ là 85.000
tỷ đồng.
Hoạt động xuất nhập khẩu cả năm 2015 tăng khá, với tổng kim ngạch xuất
nhập khẩu đạt 327,7 tỷ USD, tăng 10% so với năm 2014, trong đó: kim ngạch xuất
khẩu là đạt 162,1 tỷ USD, tăng 7,9%; kim ngạch nhập khẩu đạt 165,6 tỷ USD, tăng
12% so với năm 2014.
Nhờ có tăng trưởng mạnh mẽ về kim ngạch xuất nhập khẩu, kết hợp với
những sửa đổi, bổ sung về cơ chế, chính sách, tăng cường hỗ trợ về thủ tục thông

quan điện tử, cơ chế thông quan một cửa... đồng thời tăng cường công tác quản lý
thu trong lĩnh vực hải quan nên đã cơ bản bù đắp được số phải thu từ hoạt động
xuất nhập khẩu do tác động của giá dầu giảm sâu so với dự toán. Thu ngân sách từ
hoạt động xuất nhập khẩu cả năm ước đạt 262.293 tỷ đồng, tăng 0,9% so dự toán.
Sau khi thực hiện hoàn thuế giá trị gia tăng 85.000 tỷ đồng, thu cân đối ngân sách

Thực hiện:

Trang 16


Tiểu luận môn Quản lý tài chính công

GVHD: PGS.TS. Trần Văn Giao

cả năm đạt 177.293 tỷ đồng, tăng 1,3% dự toán, tăng 2,3% so với thực hiện năm
2014.
1.4. Thu viện trợ
Dự toán 4.500 tỷ đồng, kết quả thực hiện cả năm đạt 12.005 tỷ đồng, tăng
66,8% so dự toán, tăng 86,6% so với thực hiện năm 2014, do tăng số viện trợ ghi
thu - ghi chi cho các dự án.
2. Thực hiện chi NSNN
Dự toán chi cân đối NSNN năm 2015 là 1.147.100 tỷ đồng. Ước thực hiện
chi NSNN cả năm đạt1.262.870 tỷ đồng, tăng 10,1% so dự toán. Trong đó:
II.1. Chi đầu tư phát triển
Dự toán chi 195.000 tỷ đồng, thực hiện chi cả năm đạt khoảng 236.832 tỷ
đồng, vượt 21,5% so dự toán, chủ yếu do tăng giải ngân vốn ODA theo Nghị
Quyết của Quốc hội (30 nghìn tỷ đồng).
II.2. Chi trả nợ và viện trợ
Dự toán chi 150.000 tỷ đồng, ước cả năm đạt 150.000 tỷ đồng, bằng 100% dự

toán; đảm bảo thanh toán đầy đủ, kịp thời nghĩa vụ nợ đến hạn theo cam kết.
II.3. Chi phát triển sự nghiệp kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an
ninh, quản lý hành chính
Dự toán chi 777.000 tỷ đồng, thực hiện chi cả năm đạt khoảng 790.168 tỷ
đồng, vượt 1,7% so dự toán. Công tác quản lý, điều hành ngân sách đã đảm bảo
các nhu cầu chi theo dự toán đã được Quốc hội quyết định và xử lý kịp thời các
nhiệm vụ cấp thiết phát sinh: khắc phục hậu quả hạn hán và thiệt hại do bão lũ gây
ra; đảm bảo kinh phí cho công tác quốc phòng, an ninh, an sinh xã hội; đồng thời,
Chính phủ đã xuất cấp 108 nghìn tấn gạo dự trữ quốc gia để cứu trợ, cứu đói cho
nhân dân và hỗ trợ cho học sinh vùng khó khăn.
3. Cân đối NSNN
Dự toán bội chi NSNN năm 2015 Quốc hội quyết định là 226.000 tỷ đồng
(5,0% GDP). Với kết quả thu, chi NSNN năm 2015 nêu trên, bội chi NSNN năm

Thực hiện:

Trang 17


Tiểu luận môn Quản lý tài chính công

GVHD: PGS.TS. Trần Văn Giao

2015 là 256.000 tỷ đồng, bằng 5,71% GDP kế hoạch,tăng 30.000 tỷ đồng so với dự
toán, tương ứng với số bổ sung kế hoạch vốn vay ODA.
Tổng kết lại, trong điều kiện phát sinh nhiều khó khăn và thách thức, thực
hiện các Nghị quyết của Đảng và Quốc hội, có sự phối kết hợp và nỗ lực phấn đấu
của cả hệ thống chính trị, nhiệm vụ tài chính - NSNN năm 2015 đã hoàn thành
tương đối toàn diện, góp phần tích cực vào việc hoàn thành nhiệm vụ phát triển
kinh tế - xã hội năm 2015 và cả giai đoạn 2011-2015, bảo đảm quốc phòng, an

ninh và an sinh xã hội.

Thực hiện:

Trang 18


Tiểu luận môn Quản lý tài chính công

GVHD: PGS.TS. Trần Văn Giao

PHẦN BA
Phương hướng và giải pháp hoàn thiện cân đối ngân sách nhà nước
I. Thuận lợi, khó khăn trong cân đối NSNN và phương hướng cân đối
NSNN
1. Thuận lợi
Hệ thống chính trị ổn định, Đảng và Nhà nước có sự quan tâm đúng mức đến
đề cân đối NSNN nhằm hướng tới một NSNN bền vững, ổn định làm điều kiện để
thực hiện tốt các mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội. Những quy định pháp luật về
cân đối NSNN ngày càng hoàn thiện hơn giúp cho tiến trình thực hiện cân đối
NSNN ngày càng thuận lợi hơn, với sự ra đời, sữa đổi và bổ sung của Luật NSNN.
Hội nhập kinh tế quốc tế đã mỡ ra nhiều hướng phát triển cho nền kinh tế nước, thu
hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam làm môi trường đầu tư được cải thiện, từ đó
đã tạo ra sự tăng trưởng mạnh mẽ trong nguồn thu NSNN. Chính phủ đã chú trọng
đến khai thác nguồn thu nội địa trong điều kiện nền kinh tế nhiều biến động. Nhà
nước đã có những điều chỉnh về thuế, cơ chế thu chi khi tham gia vào WTO để vấn
đề cân đối NSNN ngày được đảm bảo hơn.
2. Khó khăn
Bên cạnh những thuận lợi có được, nước ta cũng gắp nhiều khó khăn để cân
đối NSNN trong thời gian sắp tới. Nguồn thu ngân sách nhà nước có thể không ổn

định, chi têu NSNN có thể tăng lên, do đất nước đang bước vào thời kỳ hội nhập
kinh tế quốc tế Nhà nước phải thực hiện các cam kết quốc tế về thuế quan, do ảnh
hưởng từ những biến động và suy thoái của nền kinh tế thế giới nguồn ODA có thể
bị sụt giảm, Nhà nước phải hỗ trợ nhiều cho nền kinh tế như: trợ gía xăng dầu,
nông sản,…Năng lực và trình độ quản lý của bộ máy nhà nước còn nhiều yếu kém.
Những vấn đề trên có thể là những trở ngại lớn để nước ta thực hiện cân đối
NSNN.

Thực hiện:

Trang 19


Tiểu luận môn Quản lý tài chính công

GVHD: PGS.TS. Trần Văn Giao

3. Phương hướng cân đối NSNN trong thời gian tới
Từ những thuân lợi và thách thức trong thời gian sắp tới, nước ta cần phải
định hướng xây dựng và thực hiện cân đối NSNN bền vững đủ sức đương đầu với
những bất ổn trong điều kiện hội nhập quốc tế. Nhà nước cần đánh giá và khai thác
tốt nguồn thu, phân bổ và sử dụng nguồn lực hợp lý để đạt được các mục tiêu kinh
tế- xã hội đề ra, thực hiện chi tiêu hợp lý tránh lãng phí, xử lý tốt vấn đề bội chi
NSNN và những vấn đề còn bất cập của cơ chế phân cấp quản lý các cấp NSNN
trong hệ thống NSNN. Đảm được các vấn đề nêu trên thì cân đối NSNN trong thời
gian tới sẽ đạt được nhiều kết quả khả quan.
Dự kiến năm 2016 kinh tế trong nước ta tiếp tục đà phục hồi ổn định. Các
nhân tố kinh tế vĩ mô được duy trì ổn định. Lạm phát dự kiến tiếp tục được kiểm
soát ở mức thấp. Các động lực tăng trưởng chủ yếu trong năm 2016 tiếp tục được
phát huy như: (i) giữ vững đà tăng trưởng cao của ngành công nghiệp chế biến, chế

tạo; (ii) hoạt động đầu tư sản xuất kinh doanh trong nước được cải thiện nhờ chi
phí vốn đầu vào thấp, xuất khẩu được đẩy mạnh nhờ thực hiện cam kết các hiệp
định thương mại (FTAs), cộng đồng kinh tế ASEAN và dự kiến là TPP; khu vực
FDI tiếp tục phát triển ổn định; (iii) sức mua và tổng cầu tiếp tục được cải thiện
mạnh nhờ kinh tế tăng trưởng khá, cộng với lạm phát thấp làm tăng sức mua của
đại bộ phận nhân dân; (iv) tăng trưởng của đầu tư, cải thiện tốt hơn môi trường
kinh doanh, tinh giản thủ tục hành chính, đầu tư tạo đà thúc đẩy tốt cho việc cải
thiện môi trường kinh doanh trong nước.
Tuy nhiên, kinh tế cũng phải đối mặt với một số khó khăn lớn. Tác động
không thuận của hội nhập quốc tế, sự thích ứng của doanh nghiệp còn chậm, quá
trình tái cơ cấu nền kinh tế còn khó khăn, chi phí lớn; tình hình thời tiết diễn biến
bất thường, thiên tai hạn hán, nguy cơ dịch bệnh bùng phát, gây khó khăn cho hoạt
động sản xuất nông nghiệp và đời sống nhân dân. Cùng với đó, tình hình địa -chính
trị dự kiến tiếp tục diễn ra phức tạp tại Syria, Ukraine, Thổ Nhĩ Kỳ...; các nhân tố
ngoại lai ảnh hưởng mạnh khác đến xuất khẩu của Việt Nam là đà suy giảm các
nền đối tác xuất khẩu chính của Việt Nam tiếp tục suy giảm (Trung Quốc, Ấn

Thực hiện:

Trang 20


Tiểu luận môn Quản lý tài chính công

GVHD: PGS.TS. Trần Văn Giao

Độ,..), ngoài ra, lộ trình tăng lãi suất của FED cũng gây tác động không nhỏ đến
tình hình tài chính, công tác điều hành tiền tệ, tỷ giá hối đoái trong nước.
Mục tiêu nhiệm vụ và các chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch phát triển kinh tế xã hội năm 2016
Mục tiêu tổng quát của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2016: “Giữ

vững ổn định kinh tế vĩ mô, phấn đấu tăng trưởng kinh tế cao hơn năm 2015, chú
trọng cải thiện chất lượng tăng trưởng, đảm bảo phát triển bền vững. Đẩy mạnh
thực hiện các đột phá chiến lược, tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình
tăng trưởng, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh. Tháo gỡ
khó khăn cho doanh nghiệp, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh. Phát triển văn hóa,
thực hiện tiến bộ công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, nâng cao phúc lợi xã
hội và cải thiện đời sống nhân dân. Quản lý và sử dụng hiệu quả tài nguyên, chủ
động phòng, chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu, bảo vệ môi trường. Đẩy
mạnh cải cách hành chính, tăng cường kỷ cương, kỷ luật hành chính và xã hội;
nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước; tạo sự chuyển biến rõ nét về phòng,
chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Tăng cường quốc phòng,
an ninh, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia; bảo đảm an ninh
chính trị và trật tự, an toàn xã hội. Nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại và hội
nhập quốc tế”.
Các chỉ tiêu kinh tế - xã hội chủ yếu năm 2016: Tổng sản phẩm trong nước
(GDP) tăng khoảng 6,7%; kim ngạch xuất khẩu tăng khoảng 10%; tỷ lệ nhập siêu
so với tổng kim ngạch xuất khẩu khoảng 5%; tốc độ tăng chỉ số giá tiêu dùng (CPI)
khoảng 5%; tổng nguồn vốn đầu tư phát triển toàn xã hội chiếm khoảng 31% GDP;
tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều giảm 1,3-1,5%, riêng các huyện nghèo
giảm 4%; tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị dưới 4%.
Nguồn: Niên giám thống kê - Tổng Cục thống kê, Nghị quyết số
98/2015/QH13 ngày 10/11/2015 của Quốc hội về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội năm 2016; Báo cáo số 485/BC-CP ngày 10/10/2015 của Chính phủ trình Quốc
hội tại Kỳ họp thứ 10 Quốc hội khoá XIII về tình hình kinh tế - xã hội năm 2015

Thực hiện:

Trang 21



Tiểu luận môn Quản lý tài chính công

GVHD: PGS.TS. Trần Văn Giao

và kế hoạch phát triển kinh tế xã hội năm 2016; Báo cáo số 52/BC-CP ngày
3/3/2016 của Chính phủ trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội đánh giá bổ sung kết
quả thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2015 và triển khai kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội năm 2016.
II. Giải pháp hoàn thiện cân đối ngân sách nhà nước
1. Tăng cường kiểm soát bội chi NSNN và biện pháp bù đắp bội chi
NSNN đảm bảo vấn đề cân đối NSNN
1.1 Tăng cường công tác kiểm soát bội chi NSNN
Chính phủ cần nâng cao vai trò, trách nhiệm của mình hơn nữa trong việc
kiểm soát bội chi NSNN. Vì thực tế một trong những nguyên nhân dẫn đến vấn đề
bội chi NSNN ( tức là thu vượt quá chi NSNN) là do sự yếu kém trong năng lực và
trình độ quản lý của bộ máy nhà nước, không phát hiện và xử lý kịp thời những
trường hợp vi phạm nguyên tắc và dự toán NSNN đã đề ra, nguồn vốn vay bù đắp
bội chi chưa sử dụng hiệu quả. Vì vậy trong thời gian tới, Chính phủ cần tăng
cường rà soát, cắt giảm những khoản chi tiêu NSNN chưa thật cần thiết và kém
hiệu quả, từ đó có sự chuyển đổi linh hoạt trong chi tiêu NSNN để không làm mất
cân đối NSNN, không lãng phí nguồn thu NSNN vào những hoạt động chi không
cần thiết, không hiệu quả. Nhà nước phải kiểm soát chặt chẽ ngay từ khâu vay vốn
để bù đắp bội chi và sử dụng cho đầu tư phát triển, duy trì mức bội chi cho phép
hàng năm do Quốc hội quyết định. Bên cạnh đó, Nhà nước cần tạo điều kiện cho
người dân tham gia giám sát, theo dỏi quá trình thực hiện nhiệm vụ ngân sách của
các cấp, các ngành bằng cách Nhà nước phải cung cấp những thong chính xác, đầy
đủ và kịp thời cho người dân biết qua các phương tiện truyền thanh, báo chí. Có sự
phối hợp giám sát chặt chẽ này sẽ góp phần thúc đẩy tính minh bạch và trách
nhiệm của người sử dụng và quản lý NSNN.
Vấn đề vay nợ ở địa phương cũng phải được kiểm soát và quản lý hiệu quả

hơn, không để tình trạng địa phương còn kết dư ngân sách mà vẫn tiếp tục đi vay
nợ. Mục tiêu mà NSNN năm 2009 hướng tới là không cho bôi chi NSNN gia tăng
mà kiềm chế và giảm xuống ở mức 4,8% GDP. Thực hiện tốt được các vấn đề nêu

Thực hiện:

Trang 22


Tiểu luận môn Quản lý tài chính công

GVHD: PGS.TS. Trần Văn Giao

trên sẽ góp phần giảm bớt bội chi NSNN, giảm bớt gánh nặng về nợ cho Nhà nước
và thực hiện tốt nhiệm vụ ngân sách đề ra. Để thực hiện tốt chức năng kiểm soát
NSNN, Quốc hội cần phải chú trọng ngay từ khâu lập dự toán, cụ thể hóa từng
khoản chi và phân chia nguồn thu hợp lý và trong khâu chấp hành và quyết toán
NSNN cần có sự đồng tâm nhất trí cao của các Bộ, ngành và địa phương giám sát
thực hiện dự toán đó. Bên cạnh đó cần thực hiện triệt để chính sách có thu mới có
chi, không để bội chi NSNN tăng quá cao, nếu cần thiết nên giảm tỷ lệ bội chi
NSNN so với GDP dưới mức 5%, ở khoảng 3-4%, đây sẽ là mức bội chi NSNN
tích cực thúc đẩy kinh tế tăng trưởng, phát triển. Đồng thời, tiến tới tiến tới tính
toán cân đối các nguồn phát hành trái phiếu, công trái giáo dục một cách hiệu quả
hơn, nếu chưa thật cần thiết hoặc chưa đủ thủ tục cắt giảm .
1.2. Hoàn thiện biện pháp bù đắp bội chi NSNN đảm bảo cân đối NSNN
Theo Luật NSNN năm 2002, biện pháp bù đắp bội chi NSNN là vay nợ
(trong và ngoài nước). Đây là biện pháp mang lại hiệu quả cao nhưng không dẫn
đến lạm phát và nhà nước có thể huy động các nguồn lực trong và ngoài nước để
đảm bảo cân đối NSNN. Nhằm khắc phục những yếu kém còn tồn đọng trong thời
gian tới cần có một số thay đổi về cách thức vay nợ và sử dụng nguồn vay này hợp

lý hơn để vấn đề xử lý bội chi NSNN được đảm bảo theo những mục tiêu năm
ngân sách đặt ra.
- Về hoạt động vay nợ trong nước: Để phù hợp với cơ chế chỉ bội chi cho
đầu tư phát triển, cần giảm phát hành các loại trái phiếu chính phủ kỳ hạn 1 năm và
2 năm, thay vào đó là phát hành trái phiếu chính phủ 5 năm; 10 năm; 20 năm.
Cũng cố và mỡ rộng thị trường trái phiếu chính phủ và thị trường trái phiếu chính
quyền địa phương theo hướng nâng cao tính thanh khoản của thị trường, mỡ cữa
thị trường trái phiếu thu hút nhà đầu tư nước ngoài vào đầu tư trên các lĩnh vực trái
phiếu đồng hoàn thiện hệ thống thuế đánh vào thu nhập từ trái phiếu. Nhờ đó,
Chính phủ sẽ linh hoạt hơn trong việc cân đối nhu cầu vay nợ để bù đắp bội chi.
- Về hoạt động vay nợ nước ngoài: Vay nợ nước ngoài để bù đắp bội chi
NSNN được thể hiện qua các khoản vay ưu đãi. Do vậy để tăng tính chủ động

Thực hiện:

Trang 23


Tiểu luận môn Quản lý tài chính công

GVHD: PGS.TS. Trần Văn Giao

trong cân đối NSNN, Chính phủ cần làm hài hòa các thủ tục tiếp nhận các nguồn
vốn ODA và tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện các chương trình, dự án
ODA giữa Việt Nam và các nhà tài trợ.
Tuy vậy, cơ cấu vay lãi này là phải trả nợ nếu về lâu dài không kiểm soát tốt
được bội chi NSNN sẽ tăng gánh năng về nợ cho chính phủ. Vì vậy, hoàn thiện các
biện pháp vay nợ để thuận lợi hơn khi chính phủ thực hiện vay nợ bù đắp bội chi,
chứ không khuyến khích tăng bội chi và tăng nhu cầu vay nợ lên. Nhà nước cần
đảm bảo mức vay nợ trong nước chiếm tỷ trong lớn để giảm sự lệ thuộc vào nước

ngoài, khai thác được nội lực. Trong thời gian sắp tới, cần phải xác định mối tương
quan giữa vay nợ trong nước và vay nợ nước ngoài để đảm bảo bù đắp bội chi
NSNN đạt hiệu quả nhất.
Bên cạnh đó, cần phải nghiên cứu và tìm hiểu nguyên dẫn đến bội chi NSNN
để từ đó lựa chọn những giải pháp cho phù hợp. Chính phủ có thể linh hoạt xử lý
bội chi NSNN bằng cách cắt giảm những khoản chi tiêu bất hợp lý, không hiệu quả
và phát triển nguồn thu để giảm bớt thâm hụt NSNN. Tăng cường tính minh bạch
và trách nhiệm trong cách quản lý và sử dụng NSNN, tránh lãng phí và tham
nhũng góp làm giảm bội chi NSNN đạt mục tiêu trong năm ngân sách. Chính phủ
cần nghiên cứu thay đổi phương pháp xác định bội chi NSNN đầy đủ và toàn diện
phù hợp với thông lệ quốc tế phản ánh đúng thực chất của bội chi NSNN.
2. Hoàn thiện phân cấp quản lý NSNN để đảm bảo cân đối trong hệ thống
NSNN
Qua thực trạng phân cấp quản lý NSNN, vấn đề đáng chú ý gây nhiều bất
cập làm ảnh hưởng đến sự cân đối tổng thể trong NSNN đó là: NSTW thực hiện
cân đối thay cho NSĐP khi có thiếu hụt xãy ra ở địa phương. Sau những ưu điểm,
cơ chế này đã tạo cho địa phương quá bị động và không đảm bảo tính trách nhiệm
cũng như minh bạch trong quá trình sử dụng và quản lý nguồn lực tài chính ở địa
phương. Vì vậy trong thời gian tới cần khắc phục tình trạng NSTW cân đối thay
cho NSĐP trên cơ sở tăng tính chủ động và trách nhiệm của địa phương.

Thực hiện:

Trang 24


Tiểu luận môn Quản lý tài chính công

GVHD: PGS.TS. Trần Văn Giao


2.1. Mỡ rộng phân định nguồn thu và xác định rỏ ràng nhiệm vụ chi của
từng cấp chính quyền phù hợp với chức năng và năng lực của từng cấp chính
quyền địa phương
Để tăng nguồn lực cho địa phương, nâng cao khả năng chủ động và tích cực
trong khai thác nguồn thu nhằm giúp địa phương linh động hơn trong xử lý cân đối
NSĐP mình giảm bớt sự lệ thuộc vào sự hổ trợ của NSTW, Chính phủ cần thay đổi
và mỡ rộng cho địa phương một số nguồn thu gắn liền với kết quả tăng trưởng kinh
tế trên địa bàn đó, theo hướng chuyển dần một số khoản thu điều tiết giữa trung
ương và địa phương sang khoản thu địa phương được hưởng 100%, để kích thích
địa phương nuôi dưỡng và khai thác tốt nguồn thu ở địa phương mình. Như đối với
Thuế thu nhập cá nhân là khoản thu điều tiết giữa trung ương và địa phương, với
mục đích nhà nước có thể thực hiện vai trò điều tiết thu nhập tạo công bằng cho xã
hội, có thể chuyển sang nguồn thu 100% cho NSĐP, vì đây là nguồn thu phát sinh
chủ yếu ở địa phương nếu địa phương được giữ lại hoàn toàn thì sẽ thúc đẩy địa
phương quan tâm hơn, quản lý chặt chẽ nguồn thu này hơn và trong tương lai
nguồn thu này sẽ mang lại hiệu quả cao hơn. Trong thực tế nguồn thu này chưa đạt
hiệu quả cao, vì tình trạng trốn thuế vẫn còn xãy ra, kê khai thuế không đúng sự
thật, gần đây với hiệu lực của Luật thuế thu nhập cá nhân mới vào năm 2009 vấn
đề này sẽ được xử lý triệt để hơn.
Bên cạnh đó, cần phải nâng tỷ lệ thu NSĐP trong NSNN lên để đảm báo tính
chủ động của địa phương trong điều kiện hội kinh tế thì nên cho địa phương quyết
định thuế suất của một số sắc thuế hoặc tự đặt ra sắc thuế riêng cho mình. Vì mỗi
địa phương có điều kiện kinh tế- xã hội khác nhau, chính địa phương đó sẽ quản lý
được vấn đề là mỗi loại thuế ứng với mức thuế suất bao nhiêu là khả thi và đạt mức
thu hiệu quả nhất.Tuy nhiên, biện pháp này có vẽ không khả thi và chưa phù hợp
với điều kiện nước ta hiện nay, vì năng lực và trình độ quản lý của chính quyền địa
phương còn yếu kém. Nếu thực hiện không tốt sẽ gây ra nhiều bất cập hơn, làm
giảm tính thống nhất trong quản lý, điều hành hệ thống thuế của cả nước, tạo sự
cạnh tranh về thuế giữa các địa phương.


Thực hiện:

Trang 25


×