Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

Đánh giá kết quả thực hiện dự án KFW3 pha 2 trên địa bàn huyện tiên yên, tỉnh quảng ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (973.39 KB, 95 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP
-------------------------

PHAN THỊ PHƯƠNG DUNG

ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ THỰC HIỆN DỰ ÁN KFW3 PHA 2
TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN TIÊN YÊN, TỈNH QUẢNG NINH

LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ

Hà Nội, 2011


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP
---------------------------

PHAN THỊ PHƯƠNG DUNG

ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ THỰC HIỆN DỰ ÁN KFW3 PHA 2 TRÊN
ĐỊA BÀN HUYỆN TIÊN YÊN, TỈNH QUẢNG NINH

Chuyên ngành: Kinh tế nông nghiêp̣
Mã số: 60.31.10



LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. PHẠM XUÂN PHƯƠNG

Hà Nội, 2011


1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Hiện nay, trong nền kinh tế quốc dân, rừng có vai trò đặc biệt quan
trọng. Rừng không chỉ là nguồn tài nguyên cung cấp các sản phẩm từ gỗ, lâm
đặc sản mà còn có vai trò bảo vệ môi trường, duy trì cân bằng sinh thái, bảo
tồn nguồn gen cũng như các tác dụng khác nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng
cao của con người.
Dù có vai trò to lớn trong đời sống, nhưng do nhiều nguyên nhân, rừng
Việt Nam đang dần bị suy giảm cả về diện tích và chất lượng. Vào giữa thế kỷ
XX diện tích rừng khoảng 14 triệu ha chiếm 43% diện tích đất tự nhiên. Sau 30
năm chiến tranh, diện tích rừng bị thu hẹp khá nhanh, năm 1976 chỉ còn 11,17
triệu ha (33,8%). Thêm vào đó là sự khó khăn, thiếu thốn về điều kiện vật chất,
cơ sở hạ tầng, phát triển kinh tế, trình độ dân trí của người dân vùng rừng núi
chưa được quan tâm kịp thời... cũng góp phần làm cho rừng bị suy kiệt do phá
rừng bừa bãi, đốt nương làm rẫy. Đầu thập kỷ 90 đã giảm đến mức thấp nhất là
9,1 triệu ha chiếm 27,8% diện tích cả nước. Hậu quả là làm mất cân bằng sinh
thái, đất bị xói mòn, bạc màu, hạn hán, lũ lụt, úng ngập lan tràn nhiều nơi.
Với tiềm năng to lớn về tài nguyên rừng và nguy cơ suy giảm rừng
ngày càng hiện hữu, ngành Lâm nghiệp Việt Nam đã và đang nhận được sự
hỗ trợ phát triển từ chính phủ các nước thông qua các chương trình dự án. Các
dự án đều hướng đến mục tiêu nâng cao hiệu quả kinh tế rừng trồng, từ đó

nâng cao mức sống của người dân. Cùng với đó, các dự án được thực hiện
nhằm nâng cao hiệu quả bảo vệ rừng, điều hoà nguồn nước tại các vùng được
phục hồi rừng và các khu vực lân cận, điều hoà tiểu khí hậu vùng và tăng tính
đa dạng sinh học.
Tuy nhiên, hiệu quả đạt được của từng dự án là rất khác nhau. Các yếu
tố tác động đến hiệu quả của từng dự án phụ thuộc vào thể chế, chính sách


2
của Việt Nam và chính sách của các nhà tài trợ, từ những văn bản đầu vào của
từng dự án đến sự chuẩn bị, thực thi, giám sát và đánh giá trong quá trình thực
hiện dự án. Để nâng cao hiệu quả dự án, công tác đánh giá là một khâu quan
trọng trong chu trình quản lý dự án. Các tiêu chí đánh giá hiệu quả được xác
định bao gồm tất cả các thay đổi về sinh thái, văn hoá xã hội, kinh tế, kỹ
thuật, thể chế và chính sách đem lại bởi các hoạt động của dự án. Việc tìm
kiếm nguyên nhân dẫn đến tình trạng kém hiệu quả của các dự án để khắc
phục trong quản lý các dự án là rất cần thiết.
Chính phủ Cộng hòa liên bang Đức là một trong các nhà tài trợ có uy
tín đối với dự án đầu tư phát triển ngành lâm nghiệp Việt Nam. Dự án “Trồng
rừng tại các tỉnh Bắc Giang, Quảng Ninh và Lạng Sơn”, gọi tắt là KFW3 Pha
2 là một trong các dự án được sự tài trợ của Chính phủ Cộng hòa liên bang
Đức thông qua Ngân hàng tái thiết Đức (KfW). Dự án được thực hiện với
mục tiêu góp phần vào chương trình trồng rừng và bảo vệ đất ở các tỉnh Bắc
Giang và Quảng Ninh thông qua việc giúp người dân sử dụng đất có hiệu quả
và đảm bảo tính bền vững về sinh thái, đồng thời tạo việc làm và nâng cao
mức sống cho người dân trong vùng dự án. Tiên Yên là huyện miền núi của
tỉnh Quảng Ninh được hưởng lợi từ dự án KFW3 Pha 2.
Để góp phần vào việc tìm giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư của dự án
KFW3 Pha 2, tôi đã nghiên cứu đề tài "Đánh giá kết quả thực hiện dự án
KfW3 pha 2 trên địa bàn huyện Tiên Yên, tỉnh Quảng Ninh”.



3

Chương 1

TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Khái niệm về dự án đầu tư
Trong lý thuyết cũng như trong quản lý kinh tế hiện nay còn tồn tại
nhiều quan điểm khác nhau về dự án. Tùy mục đích nghiên cứu, mỗi quan
điểm về dự án xuất phát từ cách tiếp cận khác nhau.
1.1.1. Trên thế giới
Theo từ điển tiếng Anh Oxford: “Dự án là một chuỗi các sự việc tiếp
nối được thực hiện trong khoảng thời gian giới hạn và ngân sách xác định
nhằm xác định mục tiêu là đạt được kết quả duy nhất nhưng được xác định rõ”.
Theo Ngân hàng thế giới - World Bank: Dự án là tổng thể những chính
sách, hoạt động và chi phí liên quan với nhau được thiết kế nhằm đạt được
những mục tiêu nhất định trong một khoảng thời gian nhất định;
Định nghĩa về dự án của David Jary và Julia Jury trong từ điển xã hội
học như sau: Những kế hoạch của địa phương được thiết lập với mục đích hỗ
trợ các hành động cộng đồng và phát triển cộng đồng. Theo định nghĩa này có
thể hiểu Dự án là một kế hoạch can thiệp có mục tiêu, nội dung, thời gian,
nhân lực và tài chính cụ thể. Dự án là sự hợp tác của các lực lượng xã hội bên
ngoài và bên trong cộng đồng. Với cách hiểu như trên thì thước đo sự thành
công của dự án không chỉ là việc hoàn thành các hoạt động có tính kỹ thuật
(đầu tư cái gì, cho ai, bao nhiêu, như thế nào) mà nó có góp phần gì vào quá
trình chuyển biến xã hội tại cộng đồng.
Theo J. Price Gittinger (1982) trong nghiên cứu “Phân tích kinh tế các
dự án nông nghiệp”, khái niệm dự án được đặt trong một hệ thống quản lý
nguồn lực đầu vào và giám sát đánh giá kết quả đầu ra theo một trình tự và



4
không gian hoạt động nhất định. Từ đó dự án được định nghĩa theo ba quan
điểm: (1) Dự án là sự sắp xếp có hệ thống các nguồn dự trữ cho đầu tư, các
nguồn dự trữ đó được lập kế hoạch, phân tích, đánh giá, thực thi và tiến hành
như một đơn vị độc lập; (2) Dự án được coi như một đơn vị tác nghiệp nhỏ
nhất trong một kế hoạch hay một chương trình, được chuẩn bị và thực thi như
một thể độc lập và thống nhất; (3) Dự án là một hoạt động trong đó các nguồn dự
trữ được sử dụng tốt nhất với khả năng thu hồi và có lãi khi dự án kết thúc [27].
1.1.2. Ở Việt Nam
Cũng như trên thế giới, ở Việt Nam thuật ngữ Dự án được dùng rộng
rãi, tuy nhiên chỉ mới phổ biến trong vài thập kỷ gần đây.
Theo đại bách khoa toàn thư: Dự án (Project) là điều người ta có ý định
làm hay đặt kế hoạch cho một ý đồ, một quá trình hành động…
- Dự án là một nỗ lực tổng hợp bao gồm các nhiệm vụ có liên quan với
nhau được thực hiện trong giới hạn về thời gian, ngân sách và với một mục
tiêu được định nghĩa một cách rõ ràng. Dự án là một tập hợp có tổ chức các
hoạt động và các quy trình đã được tạo ra để thực hiện các mục tiêu riêng biệt
trong các giới hạn về nguồn lực, ngân sách và các kỳ hạn đã được xác định trước.
Theo Viện quản trị Dự án: Dự án là một nỗ lực nhất thời được thực
hiện để tạo ra một sản phẩm hay một dịch vụ độc nhất vô nhị.
Trong một số tài liệu và các tác phẩm của các tác giả Nguyễn Thị
Oanh, Tô Huy Hợp, Lương Hồng Quang, tài liệu hướng dẫn đánh giá tác
động môi trường (Nhà xuất bản Xây Dựng - 2008), đều đưa ra các định nghĩa
về dự án. Nhìn chung, các khái niệm đều mang những nét chung là thể hiện
thống nhất về sự can thiệp của con người trong tổ chức, kế hoạch dự án để có
được những mục tiêu mong muốn.



5
Theo Quy chế quản lý đầu tư, xây dựng và đấu thầu - Bộ Kế hoạch và
Đầu tư (MPI) thì “Dự án là tập hợp những đề xuất về việc bỏ vốn để tạo mới,
mở rộng hay cải tạo những đối tượng nhất định nhằm đạt được sự tăng trưởng
về số lượng, cải tiến hoặc nâng cao chất lượng của sản phẩm hay dịch vụ nào
đó trong một khoảng thời gian xác định”. Cũng theo MPI thì “Dự án đầu tư là
một hệ thống các thuyết minh được trình bày một cách chi tiết, có luận cứ các
giải pháp sử dụng nguồn lực để đạt tới mục tiêu cao nhất của chủ trương đầu tư”.
Mặc dù có sự khác nhau về cách định nghĩa Dự án, nhưng các tác giả
đều thống nhất cho rằng: Dự án là một tập hợp các hoạt động có kế hoạch
định trước với một nguồn tài lực dự kiến trước nhằm đạt được một hoặc một
số mục tiêu định trước trong phạm vi không gian và thời gian nhất định. Mục
tiêu của Dự án đều là tạo sự thay đổi trong nhận thức và hành động, thay đổi
điều kiện sống của cộng đồng trên cả ba mặt kinh tế - xã hội và môi trường.
1.2. Đánh giá kết quả, hiệu quả dự án
Đánh giá dự án là một nhiệm vụ nằm trong các chuỗi hoạt động của dự
án. Tùy thuộc mục tiêu đánh giá mà có quy mô thực hiện đánh giá khác nhau.
Đánh giá giai đoạn hoặc là đánh giá định kỳ là nhằm rà soát, so sánh nhiệm
vụ, mục tiêu theo một kế hoạch nào đó đồng thời dự đoán hiệu quả trong
tương lai.
Tất cả các giai đoạn trong chu trình dự án đều có mối liên quan chặt
chẽ với nhau để tạo thành một chu trình hoàn chỉnh. Do đó các bài học kinh
nghiệm từ những dự án đã thực hiện trước đây có thể được áp dụng cho các
dự án sắp tới, ngay từ giai đoạn lập kế hoạch.
Đánh giá là giai đoạn cuối cùng của chu kỳ dự án, được tiến hành sau
khi thực hiện dự án, nhằm đánh giá làm rõ những thành công, thất bại và rút


6
ra những bài học kinh nghiệm để quản lý các dự án khác trong tương lai. Cần

phải tiến hành đánh giá dựa trên các nét cơ bản sau:
(i) Dự án có đạt được mục tiêu trực tiếp đề ra hay không?
(ii) Dự án có góp phần vào tăng trưởng và phát triển nền kinh tế quốc
dân hay không? Mức độ đóng góp là bao nhiêu?
(iii) Hiệu quả của việc đạt được các mục tiêu đó ra sao?
(iv) Những bài học cần rút ra?
"Phát triể n bề n vững là sự phát triển nhằ m thoả mãn mọi nhu cầ u của
thế hê ̣ hiê ̣n tại mà không làm tổ n hại đế n những khả năng phát triển để thoả
mãn mọi nhu cầ u của những thế hê ̣ tiế p theo", (WCED, 1987)
Phát triể n bề n vững phải đảm bảo sử du ̣ng đúng mức và ổ n đinh
̣ các
nguồ n tài nguyên thiên nhiên và bảo vê ̣ đươ ̣c môi trường số ng. Đó không chỉ
là sự phát triể n nề n kinh tế , văn hoá, xã hô ̣i mô ̣t cách vững chắ c nhờ khoa ho ̣c
công nghê ̣ tiên tiế n mà còn đảm bảo ổ n đinh,
̣ cải thiêṇ những điề u kiêṇ tự
nhiên mà con người đang số ng trong đó và chính sự phát triể n đang dựa vào
đó để ổ n đinh
̣ bề n vững. Do đó, trong mỗi hoàn cảnh môi trường và nguồ n tài
nguyên cu ̣ thể , con người phải tìm ra các hướng phát triể n tố i ưu của mình.
Trong những hướng đó bao gồ m sự phố i hơ ̣p chă ̣t chẽ các chính sách kinh tế ,
xã hô ̣i và môi trường, sự hiể u biế t các hê ̣ thố ng kinh tế , xã hô ̣i và sinh thái
cũng như quan hê ̣ phức ta ̣p giữa các hê ̣ thố ng đó, nhằ m bảo đảm mo ̣i lơ ̣i ích
xã hô ̣i không bi ̣ suy giảm. Để đạt được điều đó, cách tiếp cận phổ biến và
khoa học nhất hiện nay là: tiế p cận sinh thái, tiế p cận kinh tế và tiế p cận
mang tính đạo đức xã hội.
Đố i với các nguồ n tài nguyên thiên nhiên có khả năng tái ta ̣o - trong đó
có tài nguyên sinh vật rừng và đất rừng, khái niê ̣m sử du ̣ng bề n vững bao gồ m


7

5 thuô ̣c tính, đó là tính sản xuấ t hiê ̣u quả, tính an toàn, tính bảo vê ̣, tính lâu
bề n và tính chấ p nhận.
Như vậy, so sánh những thuộc tính của dự án với phát triển cho thấy:
bền vững không chỉ là thuộc tính của các dự án mà còn là mục tiêu hướng tới
của các dự án trong thời kỳ hiện nay. Chính vì vậy, dự án và công tác đánh
giá dự án tùy thuộc vào từng lĩnh vực với các quy định riêng nhưng đều dựa
vào các tiêu chí về kinh tế, xã hội, môi trường và tổng hợp các tiêu chí đó là
sự phát triển bền vững của chính dự án và đối tượng của dự án [12].
1.2.1. Trên thế giới
Theo lý thuyết về đánh giá dự án thì tại các công trình nghiên cứu của
một số tác giả như: L.Therse Barker, Who, Jim Woodhill Gittinger, Dixon và
Hufschmidt…, đã thể hiện đánh giá liên quan đến việc đo lường, so sánh và
đưa ra những nhận định về kết quả của hệ thống các hoạt động dự án, so sánh
kết quả với mục tiêu đề ra ban đầu. Đối với một dự án, đánh giá còn là xem
xét một cách logic có hệ thống nhằm xác định tính hiệu quả, mức độ thành
công của dự án, tác động đến các mặt của đời sống xã hội và tự nhiên. Hoạt
động đánh giá là một công tác được triển khai khi đã có một số các hoạt động
chính của dự án diễn ra theo định kỳ hay gọi cách khác là đánh giá giai đoạn,
hoặc khi tổng thể các hoạt động của dự án đã chấm dứt [32].
Joachimtheis, Heather, M.Grady đã phân loại đánh giá dự án bao gồm
đánh giá tiến trình và đánh giá mục tiêu. Đánh giá mục tiêu là xem xét, so
sánh tính hiệu quả của dự án có đạt được mục tiêu hay không. Đánh giá tiến
trình là công việc ngoài sự xem xét các nội dung của dự án để đạt được mục tiêu
thì còn xem xét tiến độ thực hiện dự án theo từng công đoạn của thời gian [28].
Để đánh giá dự án, người ta sử dụng nhiều phương pháp thực hiện như
điều tra khảo sát (servey), phỏng vấn (interview), thảo luận nhóm (focus


8
group), phương pháp phỏng vấn, phương pháp động não… tất cả các nội dung

của hoạt động đánh giá có ý nghĩa quan trọng nhằm điều chỉnh, sửa đổi để
phù hợp khách quan với tình hình thực tế trong quá trình thực hiện dự án.
Đánh giá tác động của dự án là những việc làm để xem xét một cách
toàn diện về các tác động của nó làm ảnh hưởng đến các lĩnh vực của đời
sống xã hội và tự nhiên mà cụ thể là kinh tế, xã hội và môi trường đã định
trước ở mục tiêu của dự án. Về phương pháp đánh giá tác động dự án tùy
thuộc loại dự án mà có phương pháp phù hợp. Theo FAO thì đánh giá tác
động của dự án về mặt kinh tế thường tập trung phân tích lợi ích và chi phí xã
hội nên các lợi ích và các chi phí xã hội phải tính suốt cả thời gian mà sản
phẩm dự án chưa có đoạn kết như dự án trồng rừng phải sau một thời gian
nhất định mới có sản phẩm của rừng [12].
Nhưng nhìn chung, để đánh giá hiệu quả về mặt kinh tế của dự án thì
tổng mức đầu tư khi bắt đầu triển khai dự án đến khi có sản phẩm đầu ra ở
điểm kết thúc dự án và mức chiết khấu nguồn đầu tư.
Đánh giá tác động liên quan về xã hội, H.M Gregersen và Brooks nêu
rằng: bất cứ khi nào có một sự thay đổi phát sinh qua một dự án như tạo việc
làm mới, tăng diện tích canh tác, năng suất sản xuất, chất lượng sản phẩm
tăng lên… thì quá trình đánh giá không những phải xác định phần lợi ích gia
tăng mà còn xác định các yếu tố lợi ích liên quan xã hội, nếu chỉ căn cứ vào
tiền mặt luân chuyển trong quá trình thực hiện dự án thì đây là một phân tích
đánh giá tài chính đơn thuần chứ không phải một đánh giá kinh tế mang tính
xã hội.
Về môi trường UNEP, đã xây dựng bản hướng đánh giá tác động môi
trường của các dự án phát triển. Đây là phương pháp nghiên cứu nhằm dự báo


9
các tác động môi trường của một dự án, thể hiện sự ảnh hưởng của kết quả về
các hoạt động của dự án đối với môi trường.
1.2.2. Ở Việt Nam

Hàng loạt các công trình về đánh giá hiệu quả và tác động của các dự
án, đặc biệt là các dự án trong lĩnh vực lâm nghiệp của Việt Nam đã được các
nhà nghiên cứu thực hiện trong những năm qua, nhất là trong thời gian gần
đây khi mà xu thế quản lý rừng bền vững trong bối cảnh biến đổi khí hậu toàn
cầu đòi hỏi tất cả các nước phải giám sát chặt chẽ các tác động từ các hoạt
động dự án mang lại.
Nhóm chuyên gia của chương trình phát triển Nông thôn miền núi Việt
Nam - Thụy Điển (MRDP - Mountainous Rrural Devenlopment Programe) và
viện điều tra quy hoạch rừng đã nghiên cứu sự thay đổi của thảm thực vật và
độ che phủ rừng trong giai đoạn 10 năm (1989 - 1998), trên địa bàn 5 tỉnh Lào
Cai, Yên Bái, Phú Thọ, Tuyên Quang và Hà Giang” Nghiên cứu đã đánh giá
sự thay đổi chung của 5 tỉnh và đánh giá chi tiết sự thay đổi của 20 xã trong đó
có 10 xã được sự hỗ trợ của chương trình Hợp tác xã Lâm nghiệp (FCP Forestry Cooperation Program) và 10 xã ngoài 2 chương trình đó.
Trong báo cáo đánh giá tác động “Dự án lâm nghiệp xã hội sông Đà
trong chương trình hợp tác kỹ thuật Việt Đức đối với hệ thống canh tác trên
địa bàn các huyện Yên châu Tỉnh Sơn La và huyện Tủa Chùa tỉnh Lai Châu”,
do Annette Luibrand (2000), thông qua phương pháp điều tra hộ gia đình đã
tiến hành đánh giá tác động của Dự án đến phương pháp canh tác của các hộ
nông dân trên các loại hình sử dụng đất mà gia đình hiện có.
Nghiên cứu tác động “Công tác giao đất đến một số yếu tố kinh tế, xã
hội ở cấp gia đình” thuộc Dự án Lâm nghiệp xã hội Sông Đà - chương trình
hợp tác kỹ thuật Việt - Đức đối với hệ thống canh tác trên địa bàn các huyện


10
Yên Châu tỉnh Sơn La và huyện Tủa Chùa tỉnh Lai Châu”. Scott Fritzen đã đi
sâu vào việc phân tích một số mô hình sử dụng đất cấp thôn và hộ gia đình,
phân tích hiện trạng sử dụng đất nông nghiệp và lâm nghiệp của các hộ gia
đình, đánh giá chiến lược phát triển kinh tế hộ, sản xuất cấp thôn và tác động
của công tác giao đất do Dự án thực hiện đến đời sống kinh tế xã hội của các

hộ gia đình về các mặt chủ yếu như cơ cấu thu nhập, chi phí, khả năng tiếp
cận thị trường.
Đoàn Hoài Nam (1996) với công trình “Bước đầu đánh giá hiệu quả
kinh tế, sinh thái của một số mô hình rừng trồng tại Yên Hưng - Hàm Yên Tuyên Quang” đã đề cập đến hiệu quả tổng hợp về mặt kinh tế, sinh thái, tuy
nhiên hiệu quả xã hội vẫn chưa được đánh giá.
Đỗ Doãn Triệu (1997) đã đề cập đến phương pháp phân tích hiệu quả
đầu tư các dự án trồng rừng và phân biệt được sự khác nhau giữa phân tích tài
chính và kinh tế của dự án. Toàn bộ nội dung này được giới thiệu trong bài
giảng “Đánh giá kinh tế các dự án đầu tư trồng rừng trong cơ chế thị trường” do
chính tác giả biên soạn [24].
Cao Danh Thịnh (1998) đã đề cập đến vấn đề định lượng các chỉ tiêu
đánh giá thông qua các trọng số trong việc tính toán hiệu quả tổng hợp kinh tế
- môi trường. Theo tác giả thì phương pháp tính trọng số bằng tương quan cho độ
chính xác cao nhất [22].
Trong báo cáo tổng kết đề án “Nghiên cứu đề xuất một số giải pháp
kinh tế xã hội nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đất ở vùng lòng hồ huyện
Mộc Châu tỉnh Sơn La”, Đỗ Đức Bảo và cộng sự đã sử dụng phương pháp ma
trận môi trường để đánh giá tác động của các loại hình canh tác và phương án
canh tác lâm nghiệp ở vùng lòng hồ Huyện Mộc Châu tỉnh Sơn La. Các loại
hình canh tác được đánh giá bao gồm: vườn tạp, cây ăn quả, Nông lâm kết
hợp, rừng tự nhiên... Trong phương pháp ma trận môi trường, việc phân tích


11
số liệu dược thể hiện thông qua các hàng và các cột (hàng - các chỉ tiêu đánh
giá; cột - trị số của chỉ tiêu đánh giá). Bằng phương pháp này có thể đưa ra
hàng loạt các chỉ tiêu khác nhau thuộc các lĩnh vực chịu tác động như: kinh tế,
xã hội và môi trường. Những tác động cụ thể của từng hoạt động của từng
phương án được đánh giá qua tổng điểm, mức tổng điểm càng cao thì dự án
càng có hiệu quả. Tuy nhiên, chính tác giả cũng thừa nhận rằng phương pháp

ma trận môi trường là phương pháp “bán định hướng” và chỉ mang tính tương
đối bởi vì việc cho điểm phụ thuộc nhiều vào yếu tố chủ quan. Yếu tố này chủ
yếu dựa vào trình độ và kinh nghiệm của nhóm nghiên cứu. Mặc dù vậy đây
là phương pháp đơn giản dễ vận dụng nên cho đến nay nó vẫn được sử dụng
phổ biến trong nhiều nghiên cứu đánh giá tác động môi trường.
Khi nghiên cứu “Đánh giá và kiến nghị hoàn thiện mô hình trang trại
lâm nghiệp hộ gia đình tại Lục Ngạn - Bắc Giang”, Trần Ngọc Bình đã phân
tích đánh giá hiệu quả của các mô hình trang trại đến việc phát triển kinh tế,
xã hội và môi trường sinh thái trong khu vực. Nhưng để đánh giá, tác giả chỉ
sử dụng một chỉ tiêu phân loại kinh tế hộ gia đình nên tính mức độ thuyết
phục của đề tài còn chưa cao.
Tháng 5/1997 Viện nghiên cứu chiến lược và chính sách khoa học và
công nghệ đã đưa ra “Báo cáo nghiên cứu ban đầu về tác động kinh tế xã hội
trực tiếp của Dự án khu Công nghiệp cao Hà Nội tại 5 xã thuộc tỉnh Hà Tây”,
Báo cáo nghiên cứu đề cập chủ yếu đến việc khảo sát hiện trạng và chiến lược
phát triển kinh tế xã hội của địa phương đến năm 2010, đồng thời dự kiến một
số tác động chính khi dự án triển khai trên địa bàn. Báo cáo nghiên cứu cũng
đưa ra một số khuyến nghị trong quá trình thực hiện để phát huy tối đa các tác
động tích cực, hạn chế tối thiểu các tác động tiêu cực của Dự án đến đời sống
kinh tế xã hội trong vùng.


12
Trong nghiên cứu “Đánh giá tác động Dự án hồ chứa nước Nàng Hươm
- Xã Mường Nhà huyện Điện Biên tỉnh Lai Châu”, Vũ Thị Lộc, đã tiến hành
phân tích những ảnh hưởng của Dự án đến khả năng mở rộng diện tích, thay
đổi hệ số sử dụng đất nông nghiệp và vấn đề ổn định dân cư vùng dự án.
Theo Vũ Nhâm có 10 bước công việc tiến hành trước khi đánh giá dự
án và một số công trình nghiên cứu về đánh giá hiệu quả kinh tế cho các dự
án trồng rừng gỗ nguyên liệu được tiến hành vào thập kỷ 90 như: Năm 1990,

Per - H. Stahl, chuyên gia về lâm sinh học cùng với nhà kinh tế học Heime
Krekula, đã tiến hành đánh giá hiệu quả kinh tế cho hoạt động kinh doanh
rừng bạch đàn trồng làm nguyên liệu giấy tại khu Công nghiệp giấy Bãi Bằng
- Phú Thọ. Trong công trình này, các tác giả nói trên chủ yếu đề cập đến các
chỉ tiêu NPV, IRR còn các chỉ tiêu về môi trường - sinh thái và xã hội thì mới
được đề cập một cách sơ bộ, chưa đi sâu phân tích kỹ nên cuối cùng trong kết
quả các tác giả chỉ mới đưa ra những dự đoán chung chung [18].
“Đánh giá tác động môi trường - Phương pháp luận và kinh nghiệm
thực tiễn” (Năm 1994), Lê Thạc Cán, đã có công trình tạo cơ sở khoa học cho
các nhà nghiên cứu về môi trường thực hiện những nghiên cứu tiếp theo.
Trần Hữu Dào (1995) đã đánh giá hiệu quả kinh tế, xã hội và môi
trường của mô hình trồng Quế thâm canh, thuần loài, quy mô hộ gia đình tại
huyện Văn Yên - Yên Bái. Tuy nhiên, việc nghiên cứu về cơ chế đầu tư và
quản lý chưa làm sáng tỏ và các chỉ tiêu xã hội và môi trường những năm đó
còn để ngỏ cần nghiên cứu tiếp [9].
“Bảo vệ đất và đa dạng sinh học trong các Dự án trồng rừng bảo vệ môi
trường” (1994) Hoàng Xuân Tý, đã tiến hành những nghiên cứu về kinh tế,
môi trường. Tuy nhiên trong các phân tích và đánh giá, tác giả thường thiên
về một mặt hoặc là kinh tế hoặc là môi trường hay xã hội mà không đánh giá
một cách toàn diện các mặt trên.


13
Năm 2000, Hubertus Kraienhorst, TS. Ulrich Apel và các cộng sự đã
nghiên cứu đánh giá Dự án KfW1, thông qua kết quả khảo sát tại hiện trường,
nghiên cứu tập trung vào việc đánh giá kết quả thực hiện các Dự án, phân tích
ưu nhược điểm của các hoạt động, đề xuất một số giải pháp kỹ thuật nhằm
nâng cao hiệu quả thực hiện Dự án. Báo cáo đánh giá cũng đã nêu bật những
thành công của dự án tại 2 tỉnh Bắc Giang và Lạng Sơn, trong đó nhấn mạnh:
i) Đã góp phần đưa độ che phủ bình quân của các xã vùng dự án từ 15% đến

36%; ii) Tạo công ăn việc làm và phát triển kinh tế hộ cho một bộ phận dân
cư miền núi; iii) Mô hình hỗ trợ công lao động thông qua tài khoản tiền gửi
(TKTG) tỏ ra rất hữu hiệu trong việc quản lý nguồn vốn của dự án đúng mục
tiêu và là đòn bẩy kinh tế quan trọng trong việc thúc đẩy các hộ nông dân
tham gia trồng rừng; iv) Nhận thức của nông dân cũng được thay đổi khi được
tiếp cận với những kiến thức về một nền lâm nghiệp bền vững; v) Về môi
trường còn quá sớm để đưa ra nhận định một cách chính xác và có định
lượng, tuy nhiên đã nhận thấy những dấu hiệu tích cực trong cải thiện môi
trường tại khu vực: nguồn nước cho sinh hoạt và sản xuất dồi dào hơn, chim
và thú nhỏ đã xuất hiện trở lại trong các khu rừng trồng, cây tái sinh đã bắt
đầu xuất hiện trên các lập địa xấu mà trước khi trồng rừng không có… Đồng
thời tác giả cũng nhấn mạnh tính rủi ro cao khi mà 84% diện tích rừng trồng
(lập địa D) của dự án là cây thông Mã vĩ, sẽ vấp phải những vấn đề: cháy, sâu
bệnh, đơn điệu về sản phẩm, cần phải có những biện pháp kỹ thuật lâm sinh
phù hợp.
Gần đây, Phạm Xuân Thịnh (2002) nghiên cứu “Đánh giá tác động của
dự án KFW1 tại vùng dự án xã Tân Hoa, huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang”.
Công trình đã đánh giá tác động của dự án trên các mặt kinh tế, xã hội và môi
trường. Quá trình đánh giá đã sử dụng các chỉ tiêu, chỉ báo có sự so sánh các
lĩnh vực trước và sau dự án. Tuy nhiên, việc đánh giá mới chỉ dừng lại ở mặt


14
tích cực, còn mặt tiêu cực của dự án chưa thấy tác giả đề cập đến [23].
Việc đánh giá tác động của dự án trên cả 3 mặt kinh tế, xã hội và môi
trường cũng được các tác giả Đàm Đình Hùng (2003), Lại Thị Nhu (2004),
Nguyễn Xuân Sơn (2005), Hoàng Phú Mỹ (2008), Nguyễn Hoàng Linh (2008),
thực hiện. Trong quá trình đánh giá, các tác giả này đã sử dụng các chỉ tiêu, chỉ
báo có sự so sánh các lĩnh vực trước và sau dự án. Nhìn chung những nghiên cứu
này đã đánh giá được tác động tổng hợp của một số dự án trên cả 3 lĩnh vực kinh

tế, xã hội và môi trường, tuy nhiên phạm vi đánh giá của các tác giả cũng có sự
khác nhau và đều chưa làm rõ những ảnh hưởng của cơ chế đầu tư và cơ chế
quản lý [13], [14], [17], [19], [21].
Nguyễn Xuân Sơn (2005) với công trình “Đánh giá tác động của dự án
lâm nghiệp xã hội và bảo tồn thiên nhiên tỉnh Nghệ An đến vùng đệm Vườn
Quốc gia Pù Mát”. Ngoài việc đánh giá tác động của dự án trên 3 lĩnh vực
kinh tế, xã hội, môi trường, tác giả còn phân tích được hiệu quả kinh tế của
một số cây trồng dài ngày, tuy nhiên tác giả chỉ đánh giá với chu kỳ 5 năm là
chưa hợp lý, chưa thấy hết được những tác động mà các loài cây trồng có thể
mang lại [21] .
Cao Lâm Anh (2007) đã đánh giá tác động của dự án trồng rừng
KFW4, đến sinh kế của người dân vùng dự án huyện Thạch Thành tỉnh Thanh
Hóa. Nghiên cứu này đã đề cập đến lý thuyết tác động trên cơ sở đưa ra các
giả thuyết tác động cùng các chỉ số, chỉ báo tác động. Tuy nhiên, tác giả mới
chỉ dừng lại ở việc đánh giá tác động của dự án đến sinh kế của người dân mà
chưa đề cập đến việc đánh giá hiệu quả, hiệu suất, tính thích hợp và khả năng
duy trì dự án, mặt khác việc đánh giá mới chỉ ở giai đoạn trước mắt mà chưa
phân tích được những tác động lâu dài trong cả chu kỳ của dự án [1], [15].


15
Trương Tất Đơ (2009) đã tiến hành đánh giá tác động xã hội của công
tác quản lý rừng tại lâm trường Văn Chấn tỉnh Yên Bái, đây có thể xem là
công trình đầu tiên đi sâu về đánh giá tác động xã hội trong công tác quản lý
rừng, tác giả đã phân tích kỹ mối quan hệ tác động qua lại giữa cộng đồng, địa
phương với hoạt động sản xuất kinh doanh của Lâm trường; chỉ ra sự phù hợp
và chưa phù hợp của từng tiêu chí, chỉ số về mặt xã hội theo tiêu chuẩn trong
bộ tiêu chuẩn QLRBV của Việt Nam, từ đó đề xuất hệ thống các giải pháp
nhằm hoàn chỉnh các tiêu chí về mặt xã hội để tiến tới QLRBV và cấp chứng
chỉ rừng cho Lâm trường trên cơ sở những dự báo về sự biến đổi của kinh tế xã hội. Tuy nhiên, những tác động về mặt kinh tế, môi trường có ảnh hưởng

qua lại đến những tác động về mặt xã hội nhưng chưa được tác giả quan tâm,
đánh giá [11].
Vào năm 2004 và 2007, TS. Ulrich Apel và các cộng sự đã thực hiện
cuộc đánh giá cuối kỳ đối với 2 dự án “Trồng rừng ở các tỉnh Bắc Giang,
Quảng Ninh và Lạng Sơn - KfW3” và “Trồng rừng ở các tỉnh Bắc Giang và
Quảng Ninh - KfW3 pha 2”. Trong các báo cáo đã nêu rõ: Ngoài những thành
quả nổi bật đã đạt được giống như dự án KfW1 trước đây về: độ che phủ, bảo
vệ nguồn nước va chống xói mòn, góp phần phát triển kinh tế xã hội; báo cáo
cũng nhận định: ở cả 2 dự án tính chất phát triển bền vững của các dự án KfW
được củng cố hơn; những tác động tích cực tới môi trường, tới sự phát triển
kinh tế và ổn định xã hội đã thể hiện ngày rõ nét bởi các tác động của dự án
đã mang lại. Những tiềm năng rủi ro đã nêu trong các báo cáo đánh giá về dự
án KfW1 và KfW2 (Trồng rừng tại các tỉnh Hà Tĩnh, Quảng Bình và Quảng
Trị” đã được 2 dự án KfW3 và KfW3 pha 2 cải thiện hoặc hạn chế như: Tăng
cường diện tích trồng cây bản địa trong cơ cấu cây trồng, cải thiện việc kiểm
soát trong lập và quản lý TKCN, cải thiện và phân cấp trách nhiệm trong hệ


16
thống giám sát nội bộ các hoạt động của dự án, cải thiện các khâu trong đo
đạc giao đất và thiết kế trồng rừng.
Bên cạnh công tác giám sát, có thể nói đánh giá tác động dự án, đặc
biệt là các dự án đầu tư trong lĩnh vực lâm nghiệp là một hoạt động không thể
thiếu được và đòi hỏi phải được tuân thủ nghiêm ngặt. Chỉ có như vậy mới có
thể nhìn thấy rõ hiệu quả cũng như khiếm khuyết trong quá trình đầu tư. Đánh
gíá tác động cần phải được thực hiện một cách toàn diện trên cả 3 mặt: kinh
tế, xã hội và môi trường; chỉ có như vậy mới có đủ cơ sở đề xuất những giải
pháp cho quá trình phát triển bền vững của đất nước nói chung và của ngành
lâm nghiệp nói riêng theo tinh thần của Hội nghị quốc tế về môi trường năm
1992, tại Rio de Janeiro (Braxin) đã đi đến tiếng nói chung là: “Phải kết hợp

hài hoà giữa bảo vệ môi trường và phát triển kinh tế - xã hội, hướng tới một
sự phát triển bền vững trong phạm vi từng nước và trên toàn thế giới”.
Mặc dù khác với những nước đang phát triển, Việt Nam trong những
năm gần đây mới chú trọng đến công tác nghiên cứu đánh giá tác động của
các dự án. Tuy nhiên cũng đã đạt được những kết quả nhất định góp phần tạo
tiền đề để hoạt động này phát triển hơn, hệ thống hơn là thước đo đánh giá
hiệu quả của công tác đầu tư.
1.3. Phân loại dự án và dự án ODA
Tùy vào cách tiếp cận mà dự án được phân loại như sau:
- Theo quy mô và tính chất: dự án quốc gia do Quốc hội xem xét, quyết
định về chủ trương đầu tư; các dự án còn lại được phân thành 3 nhóm A, B, C
tùy theo mức độ vốn và quy mô đầu tư
- Theo nguồn vốn đầu tư:
+ Dự án sử dụng vốn Ngân sách nhà nước


17
+ Dự án sử dụng vốn tín dụng do Nhà nước bảo lãnh, vốn tín dụng đầu
tư phát triển của Nhà nước
+ Dự án sử dụng vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp nhà nước
+ Dự án sử dụng vốn khác bao gồm cả vốn tư nhân hoặc sử dụng hỗn
hợp nhiều nguồn vốn.
Trong các loại hình dự án còn có một loại dự án đặc biệt quan trọng đối
với nền kinh tế quốc dân nói chung, đó là dự án sử dụng nguồn vốn hỗ trợ
phát triển chính thức (ODA). Chính sách ODA với mục đích chính nhằm thúc
đẩy sự phát triển ổn định nền kinh tế quốc tế chủ yếu thông qua hỗ trợ cho sự
phát triển bền vững các nguồn tài nguyên, kinh tế và cơ sở hạ tầng ở các nước
đang phát triển, đặc biệt là để giúp các nước này giải quyết những khó khăn
kinh tế phải đối mặt. Các dự án ODA có được phụ thuộc nhiều vào các đối tác
hợp tác phát triển.

Tại Việt Nam, ODA là hoạt động hợp tác phát triển giữa Nhà nước
hoặc Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam với nhà tài trợ là
chính phủ nước ngoài, các tổ chức song phương và các tổ chức liên quốc gia
hoặc liên chính phủ. ODA là nguồn vốn quan trọng của ngân sách nhà nước,
được sử dụng để hỗ trợ thực hiện các chương trình, dự án ưu tiên về phát triển
kinh tế xã hội của Chính phủ, trong lĩnh vực phát triển nông nghiệp và nông
thôn (nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy lợi, thủy sản) kết hợp xóa đói giảm
nghèo; xây dựng hạ tầng cơ sở, bảo vệ môi trường,...
Các hình thức cung cấp ODA bao gồm:
+ ODA không hoàn lại: là hình thức cung cấp ODA không phải hoàn
trả cho nhà tài trợ.
+ ODA vay ưu đãi (tín dụng ưu đãi): là khoản vay với các ưu đãi về lãi
suất, thời gian ân hạn và thời gian trả nợ.


18
+ ODA vay hỗn hợp: là các khoản viện trợ không hoàn lại hoặc các
khoản vay ưu đãi được cung cấp đồng thời các khoản tín dụng thương mại.
Nhóm ngân hàng Phát triển có vốn đầu tư lớn nhất tại Việt Nam là
Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB), Cơ quan phát triển Pháp (AFD), Quỹ
Hợp tác và phát triển kinh tế (ECDF), Ngân hàng hợp tác quốc tế Nhật Bản
(JBIC), Ngân hàng tái thiết Đức (KfW) và Ngân hàng thế giới (WB). Hiệu
quả sử dụng nguồn vốn ODA tại Việt Nam thời gian qua được đánh giá tương
đối cao.
Vốn ODA đã được sử dụng để phục hồi, nâng cấp và phát triển kết cấu
hạ tầng kinh tế - xã hội, giải quyết một số vấn đề xã hội như xoá đói, giảm
nghèo, phát triển y tế, giáo dục và khoa học công nghệ; bảo vệ môi trường;
cải cách hành chính, pháp luật; hỗ trợ một số lĩnh vực sản xuất. Nhiều công
trình đầu tư bằng nguồn vốn ODA (đặc biệt trong các lĩnh vực giao thông vận
tải, bưu chính viễn thông, công nghiệp năng lượng, nông nghiệp và phát triển

nông thôn, cấp thoát nước và phát triển đô thị, y tế và giáo dục) đã được đưa
vào sử dụng, góp phần tăng trưởng kinh tế và cải thiện đời sống nhân dân.
Tuy nhiên, khối lượng vốn ODA được giải ngân trong thời gian qua mới chỉ
đạt khoảng 70 - 80% kế hoạch đề ra.
Thực hiện chính sách đổi mới và mở cửa của Đảng và Nhà nước, trong
vài thập kỷ qua nguồn vốn ODA đầu tư vào lĩnh vực Lâm nghiệp ngày càng
tăng. Các dự án ODA lâm nghiệp có cách tiếp cận liên ngành, đa lĩnh vực,
phát triển nông thôn tổng hợp và mang tính chất của dự án phát triển kinh tế
xã hội nông thôn miền núi. Đến nay các dự án đã trồng được 270.000 ha rừng,
trồng nông lâm kết hợp 12.000 ha; đã hoàn thành 50 công trình thủy lợi vừa
và nhỏ; đầu tư cơ sở hạ tầng cho nông thôn gồm 647km đường, 21.000 m 2
trường học và trạm y tế; nâng cao một bước đời sống và dân trí cho người dân


19
vùng nông thôn với việc tạo công ăn việc làm cho khoảng 140.000 hộ gia
đình, đào tạo cho hơn 8.100 cán bộ và tập huấn cho 76.400 nông dân.
Hiệu quả của các dự án ODA Lâm nghiệp đã góp phần nâng độ che phủ
của rừng, bảo tồn đa dạng sinh học, tạo công ăn việc làm, xóa đói giảm nghèo
và phát triển nông thôn bền vững. Vì thế thu hút vốn đầu tư ODA để tiếp tục
phục vụ các mục tiêu phát triển là hết sức cần thiết. Trước mắt chúng ta cần
thực hiện tốt các dự án hiện có, trên cơ sở đó rút kinh nghiệm và bài học cần
thiết cho các dự án ODA sau này, trong các lĩnh vực khác nhau.


20

Chương 2

MỤC TIÊU, ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG

VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
2.1.1. Mục tiêu tổng quát
Đánh giá kết quả thực hiện dự án KfW3 pha 2 trên địa bàn huyện Tiên
Yên - tỉnh Quảng Ninh làm cơ sở đề xuất giải pháp duy trì, phát huy hiệu quả
của dự án, góp phần vào việc bảo vệ và phát triển rừng tại tỉnh Quảng Ninh.
2.1.2. Mục tiêu cụ thể
- Đánh giá kết quả thực hiện của dự án KfW3 pha 2 tại huyện Tiên Yên
- tỉnh Quảng Ninh; làm rõ kết quả, tồn tại hạn chế và bài học kinh nghiệm.
- Đề xuất giải pháp nhằm duy trì, phát huy kết quả của dự án, góp phần
vào việc bảo vệ và phát triển rừng tại tỉnh Quảng Ninh.
2.2. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: các hoạt động, các kết quả thực hiện dự án
KfW3 pha 2 tại huyện Tiên Yên - tỉnh Quảng Ninh.
- Phạm vi nghiên cứu: xã Hà Lâu và Phong Dụ - huyện Tiên Yên tỉnh Quảng Ninh.
2.3. Nội dung nghiên cứu
- Tình hình thực hiện các hoạt động của dự án KfW3 pha 2 tại khu vực
nghiên cứu.
- Đánh giá kết quả thực hiện các mục tiêu cơ bản của dự án KfW3 pha
2 tại huyện Tiên Yên - tỉnh Quảng Ninh.
- Đánh giá hiệu quả của dự án KfW3 pha 2 tại huyện Tiên Yên - tỉnh
Quảng Ninh.


21
- Đề xuất giải pháp nhằm duy trì, phát huy kết quả của dự án, góp phần
bảo vệ và phát triển rừng tại tỉnh Quảng Ninh.
2.4. Phương pháp nghiên cứu
2.4.1. Phương pháp thu thập số liệu
2.4.1.1. Thông tin thứ cấp: Phương pháp kế thừa kết quả nghiên cứu

- Nghiên cứu các tài liệu có liên quan đến dự án (giáo trình, bài giảng,
báo cáo khoa học…)
- Nghiên cứu các báo cáo, tài liệu liên quan đến đánh giá dự án tại tỉnh
Quảng Ninh.
- Thông tin chung về dự án đầu tư của KfW tại Việt Nam.
- Các văn bản luật pháp, các chương trình và dự án khác có liên quan
đến quản lý và thực hiện dự án tại khu vực.
- Tài liệu về tình hình tự nhiên, dân sinh kinh tế tại huyện Tiên Yên Tỉnh Quảng Ninh tại các thời điểm trước, trong và sau khi thực hiện dự án.
- Các tài liệu về quá trình thực hiện dự án trên khu vực.
- Bản đồ hiện trạng sử dụng đất, tài nguyên rừng… tại các thời điểm
trước, trong và sau khi kết thúc dự án.
- Phương án quy hoạch tổng thể, quy hoạch lâm nông nghiệp của vùng
trong thời gian thực hiện dự án.
- Các nghiên cứu, đánh giá về môi trường, kinh tế, xã hội tại khu vực.
Các tài liệu thu thập tại các nguồn đáng tin cậy và cần được xác định,
kiểm tra về tính xác thực, tính cập nhật.
2.4.1.2. Thông tin sơ cấp
Áp dụng phương pháp đánh giá nông thôn có sự tham gia của người
dân (PRA):


22
- Phỏng vấn bán cấu trúc: Phỏng vấn bán cấu trúc là phương pháp đánh
giá có sự tham gia của người dân, giúp xác định nguyên nhân thay đổi và thu
được nhiều dữ liệu để giải thích kết quả đạt được từ phương pháp quan sát
trực tiếp. Phương pháp này đặc biệt hữu ích khi khuyến khích sự tham gia của
các cá nhân thuộc các cơ quan hay các hộ gia đình do linh hoạt và được thực
hiện thông qua các cuộc nói chuyện.
- Chọn mẫu ngẫu nhiên và chọn mẫu không ngẫu nhiên: lựa chọn các
đối tượng phỏng vấn (người tham gia) đảm bảo đại diện cho một nhóm nào

đó (không ngẫu nhiên), trong nhóm này lại tiếp tục chọn ra một số đối tượng
ngẫu nhiên để phỏng vấn. Phương pháp này đảm bảo dữ liệu thu thập được
đầy đủ để có thể phân tích khách quan và có nghĩa.
- Nhóm trọng tâm là phương pháp để đánh giá những thay đổi định tính
tại hiện trường và kiểm chứng tiến độ thực hiện cũng như những thay đổi định
lượng khi xem xét lại tài liệu đã thu thập dựa trên việc tổng hợp ý kiến của
một số người theo các vấn đề đã đặt ra trước theo các tiêu chí đánh giá. Phiếu
tổng hợp thảo luận nhóm nông dân về các mục tiêu đánh giá, phiếu tổng hợp
thảo luận nhóm cán bộ.
- Thực hiện phỏng vấn các đối tượng với dung lượng: Tại mỗi xã phỏng
vấn 10 cán bộ, 30 hộ dân trong đó 15 hộ tham gia dự án và 15 hộ không tham
gia dự án có sự tương đồng nhất định về các điều kiện: kinh tế, xã hội…
- Thảo luận, trao đổi thông tin.
2.4.2. Phương pháp xử lý, phân tích số liệu và viết báo cáo
- Phương pháp thống kê, phân tích kinh tế
- Phương pháp so sánh.
- Phương pháp khái quát hoá.


23
- Sử dụng sơ đồ, đồ thị, bảng biểu….
2.4.3. Phương pháp đánh giá tác động của dự án
2.5.3.1. Phương pháp đánh giá tác động dự án.
* Đánh giá hiệu quả kinh tế của một số mô hình rừng dự án
Dự án KfW3 pha 2 là dự án sử dụng kinh phí tài trợ không hoàn lại.
Tuy nhiên, do đặc thù chu kỳ kinh doanh (CKKD) cây lâm nghiệp thường dài
nên phương pháp tính toán hiệu quả kinh tế ở đây được tính theo phương
pháp động với giả thiết là phải chịu lãi suất tín dụng theo quy định được áp
dụng cho các chương trình và dự án khác. Cách làm này tuy làm giảm về hiệu
quả kinh tế của dự án song lại phù hợp với thực tế sản xuất hiện nay khi phải

vay vốn đầu tư và chịu lãi suất tiết kiệm, các chỉ tiêu kinh tế ở đây được tính
toán gồm:
NPV: Giá trị hiện tại của thu nhập ròng: (theo công thức của DK. Paul)

Bt - Ct 
t
t 0 1  r 
n

NPV 

Trong đó:

(2.1)

NPV: là giá trị hiện tại thuần tuý.
Bt: Tổng các khoản thu nhập của năm thứ t.
Ct: Tổng các khoản chi của năm thứ t.
r: Tỷ lệ lãi suất.
t: thời gian (chỉ số năm t = 0 – n).

Nếu NPV > 0 kinh doanh đảm bảo có lãi, phương án được chấp nhận.
Nếu NPV < 0 kinh doanh bị thua lỗ, phương án không được chấp nhận.
Nếu NPV = 0 kinh doanh hoà vốn.


×