Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

Đánh giá kết quả trồng rừng dự án 661 giai đoạn 1998 đến 2010, huyện Tiên Yên tỉnh Quảng Ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2 MB, 84 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM






NGUYỄ N THANH KHƢƠNG






ĐÁNH GIÁ KẾ T QUẢ TRỒ NG RƢ̀ NG DỰ ÁN 661
GIAI ĐOẠ N 1998-2010, HUYỆN TIÊN YÊN
TỈNH QUẢNG NINH




Chuyên ngà nh: Lâm họ c
M s: 60 62 02 01



LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP




Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS Đặng Kim Vui



Thái Nguyên - 2012
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


2
ĐẶT VẤN ĐỀ
Rừng là một bộ phận của môi trường sống, là tài nguyên quý báu của đất
nước, có khả năng tái tạo rất phong phú, có giá trị to lớn về nhiều mặt đối với
nền kinh tế quốc dân, an ninh quốc gia, văn hóa cộng đồng, du lịch sinh thái
và nghiên cứu khoa học.
Việt Nam là một Quốc gia nằm ở khu vực Đông Nam Á, có tổng diện
tích tự nhiên 33,12 triệu ha và hơn 3.000 Km bờ biển chạy dài từ bắc đến
nam; địa hình phức tạp, bị chia cắt nhiều và có hệ thống sông suối ngắn, dốc.
Trong đó hơn 60% diện tích tự nhiên là rừng và đất lâm nghiệp, Như vậy,
ngành lâm nghiệp đã và đang thực hiện hoạt động quản lý và sản xuất trên
diện tich đất lớn nhất trong các ngành kinh tế quốc dân, theo số liệu diễn biến
rừng và đất lâm nghiệp năm 2009, diện tích rừng Toàn quốc là 13.258.843 ha,
trong đó có 10.339.305 ha rừng tự nhiên và 2.919.538 ha rừng trồng; độ che
phủ rừng là 39,1% (Quyết định số 2140/QĐ-BNN-TCLN ngày 09/8/2010 của
Bộ NN&PTNT). Tuy diện tích rừng có tăng, nhưng chất lượng rừng tự nhiên
cũng như rừng trồng còn thấp, chưa đáp ứng yêu cầu sản xuất và phòng hộ.
Hiện trạng diện tích đất chưa sử dụng Toàn quốc còn 6,66 triệu ha, trong đó
đất trống đồi núi trọc là 6,06 triệu ha, chủ yếu là đất bị thoái hoá. Để phát huy
nguồn tiềm năng và khắc phục sự suy thoái nghiêm trọng tài nguyên rừng
trong những năm gần đây Chính phủ nước ta đã quan tâm về quy mô, tốc độ,
nguồn vốn đầu tư được thể hiện thông qua hàng loạt các chương trình, dự án

đã và đang thực hiện điển hình như: Dự án PAM, Chương trình 327, Dự án
trồng rừng Việt – Đức (KfW)…Đặc biệt là Chương trình trồng mới 5 triệu ha
rừng theo Nghị quyết số 08 ngày 5/2/1998 của Quốc hội khoá X thông qua và
được Thủ tướng Chính phủ cụ thể hoá bằng quyết định số 661/QĐ-TTg ngày
29/7/1998 của Thủ tướng Chính phủ với số vốn lên tới 31.650 tỷ đồng. Dự án
đã được triển khai trên cả nước, với khoảng 700 dự án cơ sở. Qua 13 năm
thực hiện dự án, những nhận thức và trách nhiệm về bảo vệ, phát triển rừng
của địa phương và người dân đã có những bước chuyển biến tích cực, độ che
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


3
phủ rừng đã được tăng lên qua các năm, môi trường sinh thái, nguồn sinh thủy
được cải thiện đáng kể, tạo thêm việc làm tăng thu nhập, xóa đói giảm nghèo,
phát triển kinh tế - xã hội đặc biệt là khu vực miền núi, vùng cao;
Tiên Yên là một huyện miền núi nằm ở phía đông của tỉnh Quảng Ninh,
cách thủ đô Hà Nội khoảng 240 km. Gồm 01 thị trấn và 11 xã. Tài nguyền
rừng của Tiên Yên có tính đa dạng cao. Độ che phủ của rừng đến năm 2010 là
52,8%. Diện tích tự nhiên chủ yếu là đất lâm nghiệp, mật độ dân cư thưa nằm
rải rác tại các thôn, bản, trình độ dân trí thấp, thành phần dân tộc đa dạng, tập
quán canh tác lạc hậu. Hoạt động sản xuất Nông lâm nghiệp là chính do vậy
đời sống nhân dân còn gặp rất nhiều khó khăn.
Dự án 661 được triển khai tại huyện Tiên Yên từ năm 1998 với mục
tiêu bảo vệ diện tích rừng hiện có, tăng độ che phủ của rừng, góp phần đảm
bảo an ninh môi trường, giảm nhẹ thiên tai, tăng khả năng sinh thủy, sử dụng
có hiệu quả diện tích đất trống đồi núi trọc tạo thêm nhiều việc làm cho người
lao động, góp phần xóa đói giảm nghèo.
Kết quả và ‎ý nghĩa mà dự án 661 mang lại trong việc xây dựng và phát
triển rừng trồng phòng hộ là rất lớn đối với huyện Tiên Yên, tuy nhiên, cho
đến nay chưa có một công trình nghiên cứu, đánh giá một cách toàn diện và

hệ thống về vấn đề này, chủ yếu mới dừng lại đánh giá tình hình triển khai
thực hiện kế hoạch. Xuất phát từ yêu cầu đó, đề tài Đánh giá kết quả trồng
rừng thuộc Dự án 661 giai đoạn 1998 – 2010 tại huyện Tiên Yên - tỉnh
Quảng Ninh đặt ra là rất cần thiết và có ý nghĩa thực tiễn to lớn nhằm tổng
kết và đánh giá được kết quả trồng rừng phòng hộ dự án 661 tại huyện Tiên
Yên, tỉnh Quảng Ninh, rút ra những bài học kinh nghiệm cũng như đề xuất
một số khuyến nghị cho việc triển khai các Dự án trồng rừng tiếp theo trên địa
bàn cũng như ở những nơi khác có điều kiện tương tự.



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


4
Chƣơng 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Trên thế giới
1.1.1. Đánh giá dự án
- Theo Cleland và King (1975): Dự án là sự kết hợp giữa các yếu tố
nhân lực và trí lực trong một thời gian nhất định để đạt được mục tiêu cụ thể.
Vấn đề quan trọng được đặt ra là dự án phải có mục tiêu nhất định và quá
trình thực hiện dự án phải hướng tới các mục tiêu đó.
- Theo Clipdap: Dự án là một tập hợp các hoạt động để giải quyết một
vấn đề hay hoàn thiện một trạng thái đặc biệt nào đó. Nội dung được nhấn
mạnh ở đây là các hoạt động có tính định hướng của dự án để giải quyết một
vấn đề cụ thể nào đó.
- Theo tài liệu hội thảo PIMES [14] (Hội chữ thập đỏ, 2002-Chương
trình phòng ngừa thảm họa) đã đưa ra hai khái niệm:
+ Dự án là quá trình gồm các hoạt động đã được lập kế hoạch nhằm đạt

được những thay đổi mong muốn hoặc đạt được một mục tiêu cụ thể nào đó.
+ Dự án là quá trình phát triển có kế hoạch, được thiết kế nhằm đạt
được mục tiêu cụ thể với khoản ngân sách xác định trong thời gian xác định.
Thông thường thì trong vòng 3 năm hoặc 5 năm sau khi kết thúc dự án
thì các Bộ hay Công ty độc lập sẽ tiến hành đánh giá dự án. Tâm điểm là đánh
giá tác động và tính bền vững của dự án so với mục tiêu ban đầu. Trong sổ tay
hướng dẫn Giám sát đánh giá của Ngân hàng thế giới cũng đã đưa ra nhiều
khái niệm và phương pháp đánh giá tác động cho các dự án. Tuy nhiên, tất cả
chỉ mang tính khái quát chung chung do đó việc áp dụng các lý thuyết và
hướng dẫn này cũng cần phải linh hoạt [56].
Trong quá trình thực hiện dự án, hoạt động đánh giá có thể được tiến
hành vào những giai đoạn quan trọng, thường gọi là đánh giá giai đoạn
(Gittinger 1982). Có nhiều tác giả cho rằng, điều quan trọng là phải tiến hành
đánh giá có sự tham gia của các bên có liên quan mà quan trọng nhất là người
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


5
hưởng lợi từ dự án (Theo Katherine Warnerm, Auguctamolnar jonh B.
Raintree, 1989-1991) [51].
Trước những năm 1990, thuật ngữ “đánh giá dự án” mới chỉ giới hạn ở
đánh giá hiệu quả dự án trong đó có hiệu lực thực thi. Từ sau năm 1990 các
hoạt động đánh giá được thực hiện đã bao gồm cả đánh giá tác động dự án,
tức là xem xét các hoạt động của dự án đó có bền vững sau khi dự án kết thúc
không (John et al, 2000). Hiện nay, việc đánh giá tác động được coi như bắt
buộc đối với tất cả các hoạt động đánh giá, bao gồm tất cả các thay đổi về
sinh thái, văn hoá - xã hội, kinh tế, kỹ thuật, thể chế và chính sách đem lại bởi
các hoạt động của một chương trình, dự án.
FAO (1979) đã xuất bản tài liệu “Phân tích các dự án Lâm nghiệp” do Hans
M - Gregersen và Amoldo H. Contresal biên soạn. Đây là tài liệu giảng dạy dùng

cho các địa phương mà tổ chức FAO có đầu tư dự án trồng rừng và phát triển lâm
nghiệp; tài liệu này tương đối đầy đủ và phù hợp với điều kiện đánh giá hiệu quả
các dự án lâm nghiệp ở các nước đang phát triển, trong đó có nước ta.
1.1.2. Nghiên cứu xói mòn đất và thủy văn rừng
Công trình nghiên cứu đầu tiên về xói mòn đất và dòng chảy được nhà
bác học Volni người Đức thực hiện trong thời kỳ 1877 đến 1885 (Hudson N,
1981 [11]) . Những ô thí nghiệm được sử dụng để nghiên cứu ảnh hưởng của
nhiều nhân tố như: Thực bì, loại đất, độ dốc mặt đất, lượng mưa tới dòng chảy
và xói mòn đất. Trong công trình này Volni cũng nghiên cứu ảnh hưởng của
loại đất và độ dốc mặt đất tới dòng chảy và xói mòn đất. Tuy nhiên, phần lớn
các kết luận chưa được định lượng rõ ràng.
Bằng thí nghiệm trong phòng, Ellison (theo Hudson N, 1981[11]) thấy
rằng các loại đất khác nhau có biểu hiện khác nhau trong các pha xói mòn đất
do nước. Ellison là người đầu tiên phát hiện ra vai trò của lớp phủ thực vật
trong việc hạn chế xói mòn đất và vai trò cực kỳ quan trọng của hạt mưa rơi
đối với xói mòn. Phát hiện của Ellison đã mở ra một phương hướng mới trong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


6
nghiên cứu xói mòn đất, đã làm thay đổi quan điểm nghiên cứu về xói mòn và
khẳng định khả năng bảo vệ đất của lớp thảm thực vật.
Kết quả quan trọng của nghiên cứu xói mòn và khả năng bảo vệ đất,
bằng các kết quả nghiên cứu thực nghiệm các nhà nghiên cứu đã xây dựng
được phương trình mất đất ở trường Đại học Tổng hợp Pardiu (Mỹ) vào cuối
năm 1950 (Hudson N, 1981[11]). Sau đó phương trình này được W. H,
Wischmeier hoàn chỉnh dần (W. H, Wischmeier, 1978 [57]). Phương trình mất
đất làm sáng tỏ vai trò của từng nhân tố ảnh hưởng tới xói mòn. Nó còn có tác
dụng định hướng cho nhiều nghiên cứu sau này nhằm xác định quy luật xói
mòn và nghiên cứu các mô hình canh tác bền vững ở các khu vực có điều kiện

địa lý khác nhau.
Việc nghiên cứu định lượng ảnh hưởng của các yếu tố tới xói mòn đất
lần đầu tiên được V.A. Sing (1940) đưa ra khi tìm cách xác định ảnh hưởng
của chiều dài sườn dốc (L) và độ dốc (S) đến hoạt động của xói mòn. Sau đó
Smith D.D (1941) đã xác định lượng đất xói mòn cho phép và lần đầu tiên đã
đánh giá ảnh hưởng của các nhân tố cây trồng (C), cũng như việc áp dụng các
biện pháp bảo vệ đất (P) ở các mức độ khác nhau đến xói mòn đất bằng các
công trình nhân tạo. Tiếp đó, nhiều phương trình dự báo xói mòn đã được
nghiên cứu và công bố, trong đó phương trình của Wischmeier W.H - Smith
D.D đã được thừa nhận và ứng dụng rộng rãi.
Lượng nước mưa giữ lại trên tán là một trong những chỉ tiêu phản ánh
khả năng giữ nước, từ đó ảnh hưởng đến khả năng phòng hộ của rừng. Các
công trình nghiên cứu cho thấy tỷ lệ lượng nước mưa giữ lại trên tán lá rừng
lá kim ôn đới chiếm tới 20 - 40% (Vương Lễ Tiên và Lý Á Quang, 1991 [36]).
Những nghiên cứu về tỷ lệ lượng mưa ngăn giữ bởi tán rừng ở các kiểu thảm
thực vật rừng tương ứng với các đới khí hậu khác nhau ở Trung Quốc cho
thấy, phạm vi biến động của tỷ lệ lượng mưa bị ngăn giữ lại trong khoảng
11,4 - 34,3%, hệ số biến động 6,68 - 55,05%, trong đó tỷ lệ lượng nước mưa
giữ lại trên tán rừng lá kim thường xanh á nhiệt đới, trên núi cao ở miền Tây
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


7
là lớn nhất, của rừng hỗn giao cây lá rộng thường xanh với cây lá rộng rụng lá
á nhiệt đới, miền núi là nhỏ nhất (Vu Chí Dân - Christohp Peisert - Dư Tân
Hiểu, 2001 [5]).
Vật rơi rụng có khả năng ngăn giữ nước tương đối lớn, nên có tác dụng
bổ sung nước cho đất và cung cấp nước cho thực vật (Vu Chí Dân & Vương
Lễ Tiên, 2001 [6]). Ngoài ra, do vật rơi rụng có những lỗ hổng lớn và nhiều
hơn so với đất, nên lượng nước ngăn giữ lại dễ dàng bốc hơi đi. Những

nghiên cứu của Black và Kelliher (1998) (dẫn theo Vu Chí Dân & Vương Lễ
Tiên, 2001[6]) cho thấy rằng, lượng nước bốc hơi từ vật rơi rụng của các kiểu
rừng khác nhau chiếm khoảng 3 - 21% tổng lượng nước bốc hơi trên mặt đất
rừng.
Nhìn chung, đất rừng tự nhiên có khả năng thấm nước cao và ít khi
xuất hiện dòng chảy bề mặt (Doulass 1997; Pritchett, 1979) Tuy nhiên, khi
rừng bị chặt hạ trở nên thưa thớt và độ dốc mặt đất lớn, có thể tạo ra nhiều
lượng nước chảy trên bề mặt (Ruxton B P, 1967; Imeson A C và Vis, 1982).
1.1.3. Các biện pháp kỹ thuật xây dựng và các mô hình rừng phòng
hộ
Ở Liên Xô và Trung Quốc thường dùng công thức để xác định diện tích
rừng chống xói mòn ở đất dốc là: F =
h
PxkAxK 21
với F là diện tích rừng bảo
vệ dốc (ha), A là diện tích bậc thang mà diện tích rừng bảo vệ dốc phải phòng
chống xói mòn (ha), P là diện tích đồng cỏ mà diện tích rừng bảo vệ dốc phải
phòng chống (ha); K1 là độ dày tầng nước mặt lớn nhất của dòng nước mặt
sản sinh ra trên mỗi ha ruộng bậc thang (mm/phút); k2 là độ đầy tầng nước
mặt lớn nhất của dòng nước mặt sản sinh ra trên mỗi ha đồng cỏ (mm/phút)
và h là sức hút nước của đất rừng (mm/phút) [38].
Đối với rừng phòng hộ đầu nguồn, một số nước trên thế giới đã áp
dụng phương pháp khoanh nuôi xúc tiến tái sinh, trồng bổ sung, bảo vệ ngăn
ngừa các tác động xấu tới rừng. Tại Malaysia đã xây dựng rừng nhiều tầng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


8
với việc sử dụng 2 loài cây trồng khác nhau; Nhật Bản cũng đã tạo rừng nhiều
tầng bằng cách khai thác rừng theo băng rộng 4-5 m và sau đó trồng mới vào

các băng rừng đã chặt.
Biện pháp kỹ thuật xây dựng rừng phòng hộ ven biển cũng được quan
tâm nghiên cứu. Các công trình nghiên cứu của V.A Lômitcôsku (1809),
Dokuchaep (1982), X. A Timiriazep (1983, 1909, 1911) đều cho rằng trên các
hoang mạc muốn cải thiện tiểu khí hậu và cải tạo đất phải trồng rừng phòng
hộ thành hệ thống đai theo mạng lưới ô vuông, có kết cấu kín, có hỗn giao
nhiều tầng. Ở Trung Quốc và các nước Trung Đông, miền Đông và Tây Châu
Phi thì Phi lao được coi là loài cây chủ đạo trồng trên các vùng cát thành các
hệ thống đai có chiều rộng ít nhất ít nhất 100 - 200 m. Sau đai rừng Phi lao là
các đai rừng hỗn giao hoặc thuần loài của Bạch đàn, Keo, Thông nhựa, phía
trong cùng sau các đai rừng dùng để canh tác nông nghiệp.
1.1.4. Các chính sách tổ chức, quản lý rừng phòng hộ
Từ giữa thế kỷ 20 trở lại đây, khi tài nguyên rừng ở nhiều quốc gia đã bị
giảm sút nghiêm trọng, môi trường sinh thái và cuộc sống của đồng bào miền
núi bị đe doạ thì phương thức quản lý tập trung như trước đây không còn thích
hợp nữa. Người ta đã tìm mọi cách cứu vãn tình trạng suy thoái rừng thông qua
việc ban bố một số chính sách nhằm động viên và thu hút người dân tham gia
quản lý và sử dụng tài nguyên rừng. Phương thức quản lý rừng cộng đồng (hay
lâm nghiệp cộng đồng) xuất hiện đầu tiên ở Ấn Độ và dần dần biến thái thành
các hình thức quản lý khác nhau như lâm nghiệp trang trại, lâm nghiệp xã hội
(Nêpan, Thái Lan, Philippin, ) [34].
Nhằm khắc phục tình trạng khai thác rừng quá mức, các nhà khoa học
cũng đã nghiên cứu và đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý rừng
như: Các nhà lâm học Đức (G.L.Hartig - 1840; Heyer - 1883; Hundeshagen -
1926) [55] đã đề xuất nguyên tắc lợi dụng lâu bền đối với rừng thuần loại
đồng tuổi; Các nhà lâm học Pháp (Gournand - 1922) và Thuỵ Sỹ (H.Biolley -
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


9

1922) đã đề ra phương pháp kiểm tra điều chỉnh sản lượng với rừng khai thác
chọn khác tuổi,
Vào cuối thế kỷ XX, khi tài nguyên rừng đã bị suy thoái nghiêm trọng
thì con người mới nhận thức được rằng tài nguyên rừng là có hạn và đang bị
suy giảm nhanh chóng, nhất là tài nguyên rừng nhiệt đới. Nếu theo đà mất
rừng mỗi năm khoảng 15 triệu ha như số liệu thống kê của FAO thì chỉ hơn
100 năm nữa rừng nhiệt đới hoàn toàn bị biến mất, loài người sẽ chịu những
thảm hoạ khôn lường về kinh tế, xã hội và môi trường [46].
Theo báo cáo của Oli Krishna Prasad (1999), tại Khu bảo tồn Hoàng
gia Chitwan ở Nepal, để quản lý rừng bền vững, cộng đồng dân cư vùng đệm
được tham gia hợp tác với một số bên liên quan trong việc quản lý tài nguyên
vùng đệm phục vụ cho du lịch. Lợi ích của cộng đồng khi tham gia quản lý tài
nguyên là khoảng 30% - 50% thu được từ du lịch hằng năm sẽ được đầu tư
trở lại cho các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội của cộng đồng [52].
1.2. Ở Việt Nam
2.2.1. Đánh giá dự án
Theo Vũ Nhâm bất kỳ một dự án nào khi đi vào hoạt động để đạt được
mục tiêu của mình một cách hiệu quả, cần đáp ứng được yêu cầu cơ bản của
dự án như sau: tính khoa học; tính thực tiễn; tính pháp lý và tính thống nhất
[9].
Ở Việt Nam, các dự án đầu tư cho phát triển rừng đã được tiến hành
cách đây trên nửa thế kỷ nhưng chỉ vài chục năm gần đây mới được thực hiện
trên quy mô lớn. Thời kỳ đầu chúng ta mới chỉ chú trọng đến hiệu quả kinh tế
còn hiệu quả về xã hội và môi trường sinh thái hầu như chưa được quan tâm
đến.
Lại Thị Nhu (2004) khi nghiên cứu “Đánh giá tác động của dự án
trồng rừng nguyên liệu ván dăm giai đoạn 1999 - 2003 của Công ty Lâm
nghiệp Thái Nguyên” [21] đã đánh giá về các mặt kinh tế, xã hội và môi
trường, quá trình đánh giá có sử dụng các chỉ tiêu chỉ báo, có sự so sánh các
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



10
lĩnh vực trước và sau dự án. Tuy nhiên, tác giả mới chỉ dừng lại ở những tác
động tích cực mà chưa đi sâu phân tích những tác động tiêu cực của dự án.
Dự án “Đánh giá tác động môi trường Lâm nghiệp Việt Nam qua một
số mô hình liên kết quản lý rừng cộng đồng tại Yên Bái và Hà Giang” cũng
đã có các nghiên cứu đánh giá chính sách Lâm nghiệp thông qua các mô hình
liên kết quản lý rừng tại hai tỉnh miền núi phía Bắc và cũng có những kết luận
và kiến nghị để có thể duy trì các thành công của dự án: (i) rà soát lại các quỹ
đất rừng do Lâm nghiệp quản lý (ii) rà soát lại các hợp đồng khoán QLBV,
khoanh nuôi và trồng rừng do các đơn vị kinh doanh quản lý (iii) kết hợp chặt
chẽ chức năng phòng hộ với chức năng sản xuất (iv) có chính sách cho người
hưởng lợi từ khi được giao đất giao rừng hay khoán BVR và trồng rừng (v)
phát triển thị trường lâm sản địa phương (vi) xây dựng quỹ bảo vệ và tái tạo
rừng của thôn bản (vii) khẳng định vị trí pháp lý của cộng đồng thôn bản để
quản lý sử dụng rừng như những chủ thể khác [1].
1.2.2. Nghiên cứu xói mòn đất và thủy văn rừng
Nghiên cứu về xói mòn đất là cơ sở khoa học quan trọng cho việc xây
dựng rừng phòng hộ đầu nguồn. Ở nước ta vấn đề này được nhiều tác giả rất
quan tâm. Theo Nguyễn Quang Mỹ (1984) [18] thì vấn đề xói mòn đất đã bắt
đầu được quan tâm ở nước ta từ trước những năm 1954, bước đầu mới chỉ là
những biện pháp chống xói mòn sơ khai như làm ruộng bậc thang, xây kè
cống.
Trong những năm 1980, các công trình nghiên cứu đã tập trung vào xói
mòn đất và khả năng giữ nước của một số thảm cây trồng nông nghiệp và
công nghiệp, đặc biệt là ở các tỉnh vùng Tây Nguyên. Trong thời gian này
nhiều khu nghiên cứu quan trắc định vị đã được xây dựng kiên cố bằng gạch
và xi măng, gỗ, kim loại, Hàng loạt công trình mang nhiều sắc thái và đi vào
định lượng như công trình nghiên cứu của Nguyễn Quang Mỹ, Quách Cao

Yêm, Hoàng Xuân Cơ (1984) [18]. Những công trình nghiên cứu này đã làm
rõ ảnh hưởng của nhân tố địa hình tới xói mòn, vai trò chống xói mòn của một
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


11
số thảm thực vật nông nghiệp, đã chú ý tới độ che phủ gắn liền với các giai
đoạn phát triển của cây trồng, định hướng cho việc xây dựng các giải pháp
phòng chống xói mòn trên sườn dốc. Tuy nhiên, khả năng giữ nước của các
thảm thực vật còn ít được chú ý (Phạm Văn Điển, 2004) [8].
Trong công trình nghiên cứu xói mòn đất ở Thanh Hoà (Vĩnh Phúc),
Nguyễn Quang Mỹ và Đào Đình Bắc (1985) đã đưa ra một số nhận xét về đặc
điểm xói mòn đất ở Việt Nam như sau: quá trình xói mòn đất ở Việt Nam
hiện tượng xói mòn theo bề mặt gây tác hại to lớn hơn cả, tiếp sau là xói mòn
theo dòng, còn xói mòn do gió chỉ hoạt động ở một số nơi có điều kiện thích
hợp như ở Tây Nguyên và giải đồng bằng hẹp ven biển miền Trung. Việc
chống xói mòn ở Việt Nam phải mang đặc điểm riêng của miền nhiệt đới ẩm,
chứ không thể theo khuôn mẫu của các nước Âu, Mỹ; cường độ xói mòn đất ở
Việt Nam rất mạnh (150 - 200 tấn/ha/năm), song các biện pháp chống xói
mòn còn rất thô sơ và chưa được triển khai rộng rãi. Nhận định này của tác
giả có lẽ hơi phiến diện, vì lượng đất xói mòn 150 - 200 tấn/ha/năm chỉ xảy ra
ở một số nơi có độ dốc lớn, đất có kết cấu không tốt, nghèo mùn, thảm thực
vật trơ trụi, chứ không thể là lượng đất xói mòn bình quân ở nước ta.
Vai trò của rừng trong việc giữ nước là rất quan trọng. Nghiên cứu của
Võ Minh Châu (1993 - dẫn theo Vương Văn Quỳnh, 1999) [24] cho thấy sự
suy giảm diện tích rừng đầu nguồn sông Ngàn Mọ từ 23.971 ha xuống còn
6.000 ha đã làm cho lượng nước hồ Kẻ Gỗ giảm đi đáng kể từ 340 triệu m
3

xuống còn 60 triệu m

3
nước, do đó không đảm bảo nước cho sản xuất nông
nghiệp trên diện tích 6 nghìn ha.
Các nghiên cứu của Bùi Ngạnh và Nguyễn Danh Mô (1977) [19]; Bùi
Ngạnh và Nguyễn Ngọc Đích (1985) [20] cho thấy sự thay đổi dòng chảy mặt
ở một số dạng rừng khác nhau, trên cơ sở đó các tác giả đã đề xuất những mô
hình bố trí các đai rừng giữ nước trên sườn dốc. Năm 1981, Lê Đăng Giảng
và Nguyễn Thị Hoài Thu (1981) [9] đã tổng kết kết quả nghiên cứu về khả
năng giữ nước, điều tiết dòng chảy của rừng thứ sinh hỗn giao lá rộng tại núi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


12
Tiên, Hữu Lũng, Lạng Sơn. Các tác giả đã đề nghị việc xây dựng và thiết kế
rừng phòng hộ ở các triền sông phải phát huy được khả năng giữ nước cao
nhất của nó trong những thời điểm lượng mưa mùa tập trung cao.
Nghiên cứu của Võ Đại Hải (1996) [12], Nguyễn Ngọc Lung và Võ Đại
Hải (1997) [17] cho thấy vai trò điều tiết nước, chống xói mòn đất của rừng
rất lớn: lượng nước mưa bị tán rừng ngăn cản dao động từ 5,75 - 11,6% tùy
thuộc vào từng loại rừng; lượng nước tạo thành dòng chảy ngầm và các dạng
khác từ 88,2% - 92,5% tổng lượng nước mưa; lượng nước tạo thành dòng
chảy bề mặt ở những nơi có rừng rất thấp, qua đó hạn chế khả năng hình
thành lũ và lũ quét. Một thành quả được thể hiện rõ nét qua công trình nghiên
cứu này là việc xác định cấu trúc hợp lý của thảm thực vật rừng chống xói
mòn đất. Hai tác giả đã xây dựng được bảng tra hệ số thảm thực vật (hệ số C)
tương ứng với đặc điểm và cấu trúc của một số thảm rừng. Đỗ Đình Sâm, Ngô
Đình Quế và Vũ Tấn Phương (2002) [30] đã đưa ra dẫn liệu lưu lượng dòng
chảy tại nơi có rừng thấp hơn từ 2,5 đến 27 lần so với khu vực canh tác nông
nghiệp, rừng tự nhiên có tác dụng tốt hơn rừng trồng trong việc giảm dòng
chảy mặt; dòng chảy kiệt ở nơi có rừng cao hơn ở nơi không có rừng.

1.2.3. Các biện pháp kỹ thuật xây dựng và các mô hình rừng phòng
hộ
Theo Luật Bảo vệ và Phát triển rừng (2004) thì rừng phòng hộ đầu
nguồn phải được xây dựng thành rừng tập trung, liền vùng, nhiều tầng. Tại
điều 28 Quyết định 186/TTg ngày 14/8/2006 của thủ tướng chính phủ về việc
ban hành Quy chế quản lý rừng quy định: Đối với rừng phòng hộ đầu nguồn
phải đạt được độ tàn che từ 0,6 trở lên để rừng có khả năng duy trì, điều tiết
nguồn nước, bảo vệ đất, giảm xói mòn. Đây là những cơ sở khoa học và pháp
lý quan trọng cho việc xây dựng rừng phòng hộ đầu nguồn nước ta.
Theo Nguyễn Anh Dũng (2006) thì ở nước ta hiện nay có 2 giải pháp
kỹ thuật chủ yếu để phục hồi và phát triển rừng, đó là trồng rừng và khoanh
nuôi xúc tiến tái sinh có trồng bổ sung. Vấn đề khoanh nuôi phục hồi rừng ở
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


13
nước ta đã được đặt ra từ rất sớm, vào khoảng những năm 1950 sau khi miền
Bắc được giải phóng, vấn đề này được đề cập đến trong thuật ngữ “khoanh
núi nuôi rừng”. Tuy nhiên, vì nhiều lý do mà trong một thời gian rất dài sau
đó người ta chỉ chú ý đến khai thác rừng tự nhiên là chính. Mãi đến những
năm 1990, cái được gọi là “khoanh núi nuôi rừng” mới được định hình và
phát triển theo cụm thuật ngữ “phục hồi rừng bằng khoanh nuôi xúc tiến tái
sinh”. Điều này được thể hiện trong 2 quy phạm ngành QPN 14-92 và QPN
21-98.
Võ Đại Hải (2000) [13] trong khi nghiên cứu những giải pháp cho quản
lý và xây dựng rừng phòng hộ đầu nguồn ở Tây Nguyên đã đưa ra một số mô
hình phục hồi rừng phòng hộ đầu nguồn khá thành công là các mô hình tại
Kbang - Sơ Pai tiểu vùng Kon Hà Nừng; mô hình trên quốc lộ 22 gần huyện
Kông - Plông miền Đông Kon Tum; mô hình ở Tỉnh Lộ 674 Phú Thiệu -
Kông cho vùng Đông Nam Pleiku; mô hình gần quốc lộ 20 vùng hồ Thuỷ

Tiên - Đà Lạt. Đây đều là các đối tượng rừng sau khai thác kiệt và rừng phục
hồi sau nương rẫy. Sau khi áp dụng khoanh nuôi có trồng bổ sung các đối
tượng rừng trên đều phục hồi tốt.
Việc nghiên cứu và xác định cấu trúc hợp lý của rừng phòng hộ làm cơ
sở cho việc xây dựng các khu rừng phòng hộ có chất lượng cao cũng được
quan tâm. Năm 1996, Nguyễn Ngọc Lung và Võ Đại Hải đã công bố công
trình “Kết quả bước đầu nghiên cứu tác dụng phòng hộ nguồn nước của một
số thảm thực vật chính và các nguyên tắc xây dựng rừng phòng hộ nguồn
nước”, trong đó các tác giả đã đánh giá được năng lực phòng hộ của một số
dạng cấu trúc thảm thực vật rừng về mặt chống xói mòn và điều tiết nguồn
nước. Trên cơ sở đó đề xuất những mô hình rừng phòng hộ đầu nguồn có cấu
trúc hợp lý.
Theo Hoàng Liên Sơn và các cộng sự (2005) [33] cho biết Dự án 661
giai đoạn 1998 - 2004 đã xây dựng được khá nhiều mô hình rừng trồng phòng
hộ đầu nguồn. Kết quả tổng hợp số liệu báo cáo của các tỉnh có trồng rừng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


14
phòng hộ đầu nguồn cho thấy các mô hình khá đa dạng, tổng số có tới 188 mô
hình trồng rừng phòng hộ đầu nguồn, mật độ trồng rừng rất khác nhau tuỳ
thuộc vào từng loài cây và kỹ thuật áp dụng trong mỗi mô hình. Căn cứ vào
các loài cây trồng rừng phòng hộ đầu nguồn có thể chia các mô hình trồng
rừng phòng hộ đầu nguồn thành 4 nhóm chính là cây bản địa trồng hỗn giao
với nhau và cây bản địa hỗn giao với cây phù trợ; các loài Thông trồng thuần
loài và Thông trồng hỗn giao với các loài cây khác; các loài Keo trồng thuần
loài và Keo trồng hỗn giao với các loài cây khác; các loài Tre, luồng trồng
thuần loài. Trong những năm gần đây, các mô hình này đa dạng và được phát
triển rộng hơn ở nhiều tỉnh. Ngoài ra, rừng tre luồng có khả năng chống xói
mòn tốt do lá rụng nhiều và khó phân huỷ, rễ cây nhiều chủ yếu phân bố ở bề

mặt đất nên che phủ đất tốt.
1.2.4. Các chính sách tổ chức, quản lý rừng phòng hộ
Việc tổ chức quản lý rừng phòng hộ đã được quy định cụ thể trong
nhiều các văn bản pháp quy của Nhà nước như Luật Bảo vệ và Phát triển
rừng năm 2004 [26]; Quy chế quản lý rừng ban hành kèm theo Quyết định số
186/2006/ QĐ-TTg ngày 14/8/2006 của Thủ tướng Chính phủ [29]; Nghị định
số 23/2006/NĐ-CP ngày 03 tháng 3 năm 2006 của Chính phủ về thi hành
Luật Bảo vệ và phát triển rừng theo đó việc tổ chức, quản lý rừng phòng hộ
nước ta có thể tóm tắt như sau:
Rừng phòng hộ nói chung và rừng phòng hộ đầu nguồn nói riêng được
Nhà nước thống nhất quản lý và xác lập thành hệ thống các khu rừng phòng
hộ quốc gia do Bộ NN & PTNT trực tiếp quản lý. Trong khung tổ chức quản
lý của Bộ NN & PTNT có 2 Cục liên quan đến quản lý rừng phòng hộ đầu
nguồn là: 1) Cục Lâm nghiệp - chịu trách nhiệm về các hoạt động phục hồi,
phát triển vốn rừng phòng hộ, các chính sách quản lý và khuyến lâm; 2) Cục
Kiểm lâm - chịu trách nhiệm bảo vệ, phòng chống cháy rừng, theo dõi diễn
biến tài nguyên rừng, ở cấp tỉnh có Chi cục Lâm nghiệp và Chi cục Kiểm lâm
trực thuộc Sở NN & PTNT; ở cấp huyện có các phòng Kinh tế (phòng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


15
NN&PTNT) và Hạt Kiểm lâm.
Mỗi khu rừng phòng hộ được xác lập, tổ chức quản lý theo mục đích sử
dụng trên từng địa bàn cụ thể và có chủ quản lý. Chủ rừng được giao quản lý
rừng và quyền sử dụng đất, chịu trách nhiệm quản lý, bảo vệ, xây dựng và sử
dụng hợp lý tài nguyên rừng theo quy định của pháp luật và không được trái
với Quy chế quản rừng phòng hộ, Luật Bảo vệ Phát triển rừng.
Tuỳ theo quy mô, tính chất, mức độ quan trọng của mỗi khu rừng
phòng hộ đầu nguồn để thành lập Ban quản lý, trường hợp đặc biệt có quy mô

diện tích tập trung từ 5.000 ha trở lên được thành lập Ban quản lý, hoạt động
theo cơ chế đơn vị sự nghiệp kinh tế có thu. Khu rừng phòng hộ có diện tích
tập trung từ 20.000 ha trở lên, được tổ chức Hạt Kiểm lâm trực thuộc Ban
quản lý rừng phòng hộ, đồng thời chịu sự chỉ đạo về chuyên môn nghiệp vụ
của cơ quan Kiểm lâm cấp tỉnh. Những khu rừng phòng hộ có diện tích dưới
5.000 ha (tập trung hoặc không tập trung) không thành lập Ban quản lý mà
giao cho các tổ chức khác, hộ gia đình, cá nhân quản lý, bảo vệ, xây dựng.
1.3. Nhận xét và đánh giá chung
Điểm qua các công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài nghiên cứu
có thể rút ra một số nhận xét sau đây.
- Rừng phòng hộ, đặc biệt là rừng phòng hộ đầu nguồn được quan tâm
chú ý ở nhiều nước trên thế giới. Các công trình nghiên cứu được tiến hành
khá đồng bộ trên nhiều các khía cạnh khác nhau, chủ yếu tập trung vào xói
mòn đất, xác định cấu trúc hợp lý của rừng, thuỷ văn rừng, các biện pháp kỹ
thuật xây dựng rừng và các chính sách tổ chức quản lý rừng, Về đánh giá dự
án cũng đã có nhiều nghiên cứu thực hiện ở các mức độ khác nhau, nhìn
chung đã xây dựng được phương pháp luận, nội dung đánh giá các tác động
của dự án, đặc biệt chú trọng về hiệu quả kinh tế, xã hội và môi trường. Kết
quả các nghiên cứu này là những tài liệu tham khảo có giá trị, định hướng cho
đề tài nghiên cứu.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


16
- Ở Việt Nam, việc nghiên cứu xây dựng và phát triển rừng phòng,
rừng phòng hộ đầu nguồn được Nhà nước đặc biệt quan tâm, rất nhiều các
công trình nghiên cứu, các Dự án quy hoạch vùng phòng hộ đầu nguồn được
phê duyệt và triển khai. Các văn bản pháp luật được ban hành đã tạo hành
lang pháp lý quan trọng cho việc xây dựng và phát triển rừng phòng hộ ở
nước ta. Trong thời gian qua, các công trình nghiên cứu chủ yếu tập trung vào

xói mòn đất, thủy văn rừng, cấu trúc hợp lý của rừng phòng hộ, việc đánh
giá các mô hình rừng trồng phòng hộ cũng được một số tác giả quan tâm
nhưng nói chung còn ít. Đặc biệt là trong Dự án 661 đã xây dựng một khối
lượng khá lớn rừng trồng phòng hộ, nhưng những nghiên cứu, đánh giá về
vấn đề này còn rất ít hoặc nếu có thì mới chỉ thực hiện trên diện rộng, thiếu
những nghiên cứu cụ thể cho từng vùng, từng địa phương. Huyện Tiên Yên,
tỉnh Quảng Ninh là một trong những đơn vị tham gia thực hiện Dự án 661 từ
năm 1998 và đã đạt được nhiều kết quả. Cho đến nay chưa có một công trình
đánh giá nào có hệ thống và toàn diện về các kết quả đã đạt được của dự án
trên địa bàn. Xuất phát từ yêu cầu đó đề tài: “Đánh giá kết quả trồng rừng
Dự án 661 giai đoạn 1998 – 2010 tại huyện Tiên Yên, tỉnh Quảng Ninh"
đặt ra là rất cần thiết.











Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


17
Chƣơng 2
MỤC TIÊU, ĐỐI TƢỢNG, GIỚI HẠN, NỘI DUNG
VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Mục tiêu đề tài
* Về khoa học:
- Tổng kết và đánh giá được kết quả trồng rừng phòng hộ, các biện
pháp kỹ thuật, cơ chế chính sách, suất đầu tư, các mô hình lâm sinh đã áp
dụng trong dự án 661 giai đoạn 1998 - 2010 tại huyện Tiên Yên, tỉnh Quảng
Ninh.
- Phân tích các khoảng trống, sự thiếu hụt trong hướng dẫn kỹ thuật,
suất đầu tư và việc áp dụng trong thực tiễn dự án 661 trên địa bàn.
* Về thực tiễn:
- Đề xuất được loài cây và mô hình rừng trồng phòng hộ có triển vọng
tại địa bàn nghiên cứu.
- Đề xuất được một số khuyến nghị về các biện pháp kỹ thuật, cơ chế
chính sách, suất đầu tư cho Dự án 661 giai đoạn 2008 - 2010 và trồng rừng
phòng hộ tại huyện Tiên Yên.
2.2. Đi tƣợng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là rừng trồng phòng hộ tại huyện Tiên
Yên, tỉnh Quảng Ninh thuộc Dự án 661 giai đoạn 1998 - 2010.
2.3. Giới hạn nghiên cứu
- Về địa bàn nghiên cứu: Giới hạn trong huyện Tiên Yên, tỉnh Quảng
Ninh.
- Về nội dung nghiên cứu:
+ Đánh giá kết quả trồng rừng phòng hộ dự án 661: giới hạn trong việc
đánh giá diện tích trồng rừng, cơ cấu nguồn vốn đầu tư trồng rừng phòng hộ,
loài cây, lập địa, biện pháp kỹ thuật trồng rừng phòng hộ;
+ Đánh giá chất lượng rừng trồng phòng hộ: Chỉ đánh giá tình hình
sinh trưởng của rừng trên các dạng lập địa theo các chỉ tiêu D
0
, D
1,3
, Hvn, Dt,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


18
tỷ lệ sống, độ che phủ, Vì điều kiện và thời gian nghiên cứu có giới hạn nên
không đánh giá được khả năng phòng hộ của rừng.
+ Đánh giá hệ thống cơ chế, chính sách dự án 661: Tập trung vào chính
sách tổ chức quản lý triển khai thực hiện dự án, chính sách đầu tư, hưởng lợi.
2.4. Nội dung nghiên cứu:
Để đạt được các mục tiêu nghiên cứu đề ra, luận văn tập trung vào các
nội dung nghiên cứu sau:
- Đánh giá kết quả trồng rừng Dự án 661 giai đoạn 1998 - 2010 tại
huyện Tiên Yên, tỉnh Quảng Ninh;.
- Tổng kết và đánh giá các biện pháp kỹ thuật trồng rừng phòng hộ Dự
án 661 giai đoạn 1998 - 2010 tại huyện Tiên Yên.
- Đánh giá tình hình sinh trưởng rừng trồng phòng hộ Dự án 661 giai
đoạn 1998 - 2010 trên địa bàn nghiên cứu.
- Tổng kết và đánh giá hệ thống cơ chế chính sách, suất đầu tư trồng
rừng trong dự án 661 tại huyện Tiên Yên, tỉnh Quảng Ninh.
- Đề xuất một số khuyến nghị nhằm nâng cao hiệu quả trồng rừng
phòng hộ cho Dự án 661 cho những giai đoạn tiếp theo và trồng rừng phòng
hộ nói chung tại tỉnh Quảng Ninh.
2.5. Phƣơng pháp nghiên cứu
2.5.1. Quan điểm và cách tiếp cận trong nghiên cứu
- Kế thừa các kết quả nghiên cứu, đánh giá đã có về tình hình thực hiện,
triển khai và các cơ chế chính sách, các hướng dẫn kỹ thuật, các mô hình lâm
sinh áp dụng trong Dự án 661 tại huyện Tiên Yên, tỉnh Quảng Ninh. Các văn
bản, chính sách chỉ đạo thực hiện, số liệu tổng kết dự án 661 ở Trung ương và
của tỉnh Quảng Ninh.
- Kết hợp giữa tổng kết và đánh giá của địa phương thông qua các báo

cáo tổng kết đánh giá thực hiện dự án 661 giai đoạn 1998 - 2010 với kết quả
khảo sát, đánh giá trên thực tế.
+ Tiếp cận kết quả tổng kết và đánh giá Dự án 661 của địa phương:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


19
Tham khảo báo cáo kết quả thực hiện dự án 661 giai đoạn 1998 - 2010
của huyện Tiên Yên, của tỉnh Quảng Ninh, các hướng dẫn kỹ thuật, cơ chế
chính sách đã áp dụng trong dự án 661 của tỉnh .
+ Tiếp cận, khảo sát tình hình thực hiện, triển khai dự án và các cơ chế
chính sách, các hướng dẫn kỹ thuật và các mô hình lâm sinh trên thực tế: Lựa
chọn các xã thực hiện dự án 661 để khảo sát, đánh giá chi tiết.
- Việc áp dụng, triển khai các hướng dẫn kỹ thuật, các cơ chế chính
sách và các mô hình lâm sinh trên thực tế phải dựa trên sự đồng bộ, phù hợp
và thống nhất với trình độ dân trí, điều kiện kinh tế xã hội của địa phương.
2.5.2. Phương hướng giải quyết vấn đề
Đề tài bắt đầu từ việc thu thập các tài liệu, số liệu đã có liên quan đến
các nội dung của đề tài ở Ban quản lí dự án 661 Trung ương, Ban quản lí dự
án 661 tỉnh Quảng Ninh và dự án 661 ở Tiên Yên về 2 vấn đề:
i) Kỹ thuật trồng rừng phòng hộ;
ii) Cơ chế, chính sách và suất đầu tư.
Từ đó tiến hành điều tra, khảo sát thực địa để tổng kết và đánh giá các
mô hình rừng trồng phòng hộ, các biện pháp kỹ thuật, cơ chế chính sách đã áp
dụng trong thực tiễn để tìm ra những khoảng trống, thiếu hụt về kỹ thuật và
chính sách làm cơ sở cho việc đề xuất các giải pháp cho giai đoạn tới.
Phương hướng và cách giải quyết vấn đề của đề tài được mô hình hoá
theo sơ đồ dưới đây:









Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


20



























Hình 2.1: Sơ đồ phương hướng giải quyết vấn đề của đề tài
2.5.3. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể
2.5.3.1. Thu thập các thông tin, số liệu, kết quả nghiên cứu đã có
Thu thập các thông
tin, số liệu đã có
Các thông tin ở Ban
điều hành dự án
661 TW và của tỉnh
Các thông tin về kỹ
thuật
Các thông tin về cơ
chế, chính sách, suất
đầu tư
Điều tra, khảo sát
các mô hình rừng
trồng phòng hộ
Đề xuất các khuyến
nghị
Phân tích, xử lý
thông tin, số liệu
Các thông tin ở dự
án 661 huyện Tiên
Yên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



21
- Thu thập các văn bản hướng dẫn kỹ thuật, các quyết định, chỉ thị của
Chính phủ, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Cục Lâm nghiệp, các
thông tư hướng dẫn liên bộ và của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn,
liên quan đến kỹ thuật trồng rừng phòng hộ và chính sách trong Dự án 661;
Các thông tin chung về tình hình thực hiện, triển khai dự án và những vấn đề
có liên quan từ Ban quản lý 661 Trung ương, tỉnh Quảng Ninh và dự án 661
cơ sở.
- Thu thập các báo cáo khoa học, các kết quả nghiên cứu về kỹ thuật
trồng rừng phòng hộ, các báo cáo đánh giá dự án 661 giai đoạn 1998-2010 và
các báo cáo hàng năm; các mô hình rừng trồng phòng hộ trong thời gian qua
trên địa bàn hoặc tại những vùng khác có điều kiện tương tự.
- Thu thập các hướng dẫn kỹ thuật, cơ chế chính sách và loài cây, các
mô hình áp dụng trong dự án 661 của tỉnh. Các thông tin, số liệu về tình hình,
tiến độ thực hiện dự án tại Ban quản lý dự án 661 tỉnh, Ban quản lý dự án cơ
sở.
2.5.3.2. Phương pháp khảo sát, đánh giá trên thực địa
Phương pháp đánh giá chung được áp dụng là lập ô tiêu chuẩn, kết hợp
với điều tra sơ thám và phỏng vấn bán cấu trúc cán bộ kỹ thuật, người dân
tham gia trồng rừng phòng hộ, những người tham gia quản lý, điều hành và
thực hiện dự án 661 tại huyện Tiên Yên và tỉnh Quảng Ninh. Các bước của
quá trình khảo sát, đánh giá như sau:
- Làm việc với lãnh đạo Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Chi
cục Lâm nghiệp, Ban quản lí dự án 661 của tỉnh và Ban quản lí dự án cơ sở
trực thuộc để nắm được tình hình chung về việc triển khai thực hiện dự án,
các hướng dẫn kỹ thuật, các cơ chế chính sách và các mô hình lâm sinh đã áp
dụng, các loài cây trồng rừng, biện pháp kỹ thuật (lập địa, xử lý thực bì, làm
đất, phương thức trồng, mật độ trồng, bón phân, thời vụ ) chủ yếu áp dụng

trong Dự án 661, tình hình tổ chức thực hiện, những khó khăn, vướng mắc mà
các địa phương gặp phải và các kiến nghị, đề xuất của lãnh đạo, cán bộ và
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


22
người dân địa phương. Từ đó chọn ra các địa điểm để điều tra, khảo sát và
đánh giá chi tiết. Cụ thể như sau:
Điều tra thực địa 4 địa điểm nghiên cứu thuộc các xã có diện tích rừng
trồng phòng hộ lớn là xã Hà Lâu; Yên Than, Đại Dực, Đông Ngũ; tại mỗi
điểm nghiên cứu, lập 3 ô tiêu chuẩn hình chữ nhật diện tích 500 m
2
(20m x
25m), trong trường hợp số cây còn lại < 30 cây thì diện tích OTC sẽ được mở
rộng hơn để đảm bảo có ít nhất 30 cây còn sống cho mỗi loài.
Dung lượng mẫu: Sẽ đo đếm đại diện rừng trồng phòng hộ thuộc dự án
661 trồng từ năm 1998-2010.
+ Trên các ô tiêu chuẩn, tiến hành đo đếm thu thập các số liệu về: loài
cây, phương thức trồng, lập địa trồng, kỹ thuật trồng, năm trồng (tuổi rừng),
Do, D
1,3
, Hvn, Dt, độ tàn che, che phủ, tỷ lệ sống, đặc biệt là cách bố trí các
cây hỗn giao, khoảng cách giữa các cây, mối quan hệ của chúng với nhau. kết
quả điều tra sẽ được ghi vào mẫu phiếu điều tra chi tiết sau:
Mẫu biểu 01: phiếu điều tra cây gỗ trên ÔTC rừng trồng
Số ÔTC:………… Hướng dốc:……………… Độ che phủ:………….
Vị trí:…………… Độ dốc: ………………… Ngày điều tra:…………
Tọa độ địa lý:…… độ tàn che: …………… Người điều tra:…………
STT
Loài

cây
Tuổi
cây
D
1.3
(cm)
Chiều
cao (m)
Đường kính
tán (m)
Phân
cấp
Ghi
chú
ĐT
NB
TB
H
vn
ĐT
NB
TB
















2.5.3.3. Phương pháp phân tích và xử lý số liệu
Sử dụng phần mềm Excel để xử lý số liệu điều tra ô tiêu chuẩn rừng
trồng, tính toán các chỉ tiêu sinh trưởng.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


23

Chƣơng 3
ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ HỘI KHU VỰC
NGHIÊN CỨU

3.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội
3.1.1. Điều kiện tự nhiên
3.1.1.1. Vị trí.
Tiên Yên là huyện miền núi hải đảo, là ngã ba niềm đông của tỉnh
Quảng Ninh, trung tâm huyện lỵ cách Thành phố Hạ Long 90 km về phía
Đông, huyện có toạ độ địa lý như sau:
- Từ 21
o
11’ - 21
o

33’ vĩ độ Bắc
- Từ 107
o
13’ - 107
o
32

kinh độ Đông
Phía Đông giáp huyện Đầm Hà.
Phía Tây giáp huyện Ba Chẽ và huyện Đình Lập - tỉnh Lạng Sơn.
Phía Nam giáp xã Cộng Hoà – thành phố Cẩm Phả.
Phía Bắc giáp huyện Bình Liêu.
3.1.1.2 Địa hình, địa thế
Tiên Yên có địa hình dốc, độ cao trung bình 300 - 500m, đỉnh núi cao
nhất là đỉnh núi Vân Mây cao tới 689,5m và đỉnh Nà Hắc cao 633,5 m so với
mặt nước biển. Độ dốc các sườn núi tập trung từ 20 - 25
o
và trên 25
o
, vì thế
tiềm năng của Tiên Yên chủ yếu là nghề rừng và là điều kiện tốt để phát triển
chăn nuôi đại gia súc, ít có đất Nông nghiệp canh tác.
Địa hình Tiên Yên bị chia cắt bởi các dãy núi và các sông suối tạo
thành những thung lũng nhỏ hẹp vì thế đất canh tác bị hạn chế. Do địa hình
phức tạp chủ yếu là đồi núi, nên việc bố trí hệ thống tưới tiêu cho sản xuất,
khả năng thâm canh, tăng vụ, bố trí phát triển hệ thống giao thông, cơ sở hạ
tầng không những gặp nhiều khó khăn trong quá trình thiết kế mà còn tốn
kém trong chi phí. Một hạn chế khó khăn nữa là hạn hán kéo dài vào mùa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên



24
khô, mùa mưa thường xảy ra lũ quét làm cho đất bị xói mòn, rửa trôi, gây ảnh
hưởng không nhỏ đến sản xuất và đời sống của nhân dân trong huyện.
3.1.1.3 Khí hậu, thủy văn
Tiên Yên nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió ẩm, gió mùa vùng núi
nên nóng ẩm, mưa nhiều. Theo số liệu của trạm dự báo và phục vụ khí tượng
thuỷ văn Quảng Ninh [31] thì khí hậu Tiên Yên có những đặc trưng như sau:
- Nhiệt độ không khí trung bình năm 21 - 23
o
C, về mùa hè nhiệt độ
trung bình giao động từ 26 -28
o
C, nhiệt độ tối cao tuyệt đối đạt tới 37,6
o
C vào
tháng 6, nhiệt độ tối thấp tuyệt đối 1
o
C vào tháng 1.
- Độ ẩm không khí tương đối trung bình hàng năm là 83%, cao nhất
vào tháng 3, tháng 4 đạt 88%, thấp nhất vào tháng 11, 12 đạt 76%.
- Lượng mưa trung bình hàng năm khoảng 2.285 mm. Lượng mưa
phân bố không đều trong năm, phân hoá theo mùa tạo ra hai mùa rõ rệt, mùa
mưa nóng ẩm bắt đầu từ tháng 4 đến tháng 10; mùa khô hanh, lạnh, ít mưa có
rét kéo dài từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau.
- Lượng nước bốc hơi trung bình hàng năm 868 mm. Lượng bốc hơi
tăng mạnh vào mùa khô hanh, các đợt gió mùa Đông Bắc thổi mạnh.
- Tiên Yên thịnh hành 2 loại gió chính là gió đông bắc và gió đông
nam:
+ Gió Đông Bắc: Thịnh hành từ tháng 10 đến tháng 4 năm sau là gió

bắc và gió đông bắc.
+ Gió Đông Nam: Thịnh hành từ tháng 5 đến tháng 9 là gió nam và
đông nam.
- Do địa hình vùng núi cao, nhiều thung lũng hẹp nên Tiên Yên chịu
ảnh hưởng sương mù và sương muối vào những tháng mùa đông.
Đặc điểm chung của khí hậu thời tiết Tiên Yên là mùa đông rét lạnh
kéo dài, gió mùa đông bắc khô hanh, mùa hè tương đối mát mẻ, mưa nhiều,
ẩm độ cao. Khí hậu thích hợp với nhiều loại cây trồng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


25
Các chỉ tiêu khí hậu bình quân các tháng (Giai đoạn 1998-2010) tại khu
vực nghiên cứu được thể hiện ở bảng 3.1.
Bảng 3.1: Một số chỉ tiêu khí hậu bình quân của các tháng trong năm
Tháng
Lượng mưa
(mm)
Lượng bốc
hơi (mm)
Nhiệt độ không
khí (
0
C)
Độ ẩm không
khí (%)
1
28,2
97,1
11,2

78
2
33,6
89,1
15,3
82
3
61,1
83,1
18,6
83
4
121,9
70,5
24,5
84
5
288,8
76,0
27,7
85
6
328,4
56,3
28,2
86
7
476,2
62,7
28,4

88
8
488,1
57,6
27,6
88
9
306,8
52,1
25,3
84
10
73,1
67,6
22,1
83
11
41,3
77,1
17,8
79
12
37,3
78,5
14,2
76
∑ năm
2.284,8
867,7
21,7

83

Từ số liệu tại bảng 3.1, mô tả Biểu đồ biến động 3 yếu tố khí hậu thuỷ văn
qua hình 3.1:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

×