Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

Nghiên cứu một số giải pháp góp phần quản lý rừng bền vững tại vườn quốc gia vũ quang, tỉnh hà tĩnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1010.22 KB, 77 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP
-----------------------------

NGUYỄN THƯỢNG HẢI

NGHIÊN CỨU MỘT SỐ GIẢI PHÁP
GÓP PHẦN QUẢN LÝ RỪNG BỀN VỮNG
TẠI VƯỜN QUỐC GIA VŨ QUANG, TỈNH HÀ TĨNH

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP

Hà Nội, 2011


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP
-----------------------------

NGUYỄN THƯỢNG HẢI

NGHIÊN CỨU MỘT SỐ GIẢI PHÁP
GÓP PHẦN QUẢN LÝ RỪNG BỀN VỮNG
TẠI VƯỜN QUỐC GIA VŨ QUANG, TỈNH HÀ TĨNH


Chuyên ngành: Quản lý bảo vệ tài nguyên rừng
Mã số: 60.62.68

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. VƯƠNG VĂN QUỲNH

HÀ NỘI, 2011


MỞ ĐẦU
Vườn Quốc Gia Vũ Quang có diện tích gần 57 nghìn ha, nằm ở phía Tây Bắc
tỉnh Hà Tĩnh. Với trên 30 nghìn héc ta vùng lõi là rừng tự nhiên gần như nguyên
sinh nên trong đó có nhiều loài động, thực vật quý hiếm và chứa đựng nhiều yếu tố
đặc hữu. Nơi đây đã thống kê được 465 loài thực vật bậc cao với nhiều loài quý,
hiếm như: Cẩm lai, Du sam, Lát hoa, Lim, Giổi, Pơ mu, Hoàng đàn, Trầm hương…,
70 loài thú, trong đó có nhiều loài được xếp vào sách đỏ Việt Nam và thế giới như:
Voi, Hổ, Bò tót…. Đặc biệt ở đây vào những năm 1992, 1993 đã phát hiện ra hai
loài thú mới cho khoa học thế giới là: Sao la Pseudoryx nghetinhensis, Mang lớn
Megamuntiacus vuquangensis.
VQG Vũ Quang không chỉ giàu tính đa dạng sinh học (ĐDSH) mà còn có
những cảnh quan sinh thái đẹp, có thể tìm thấy ở đây 2 kiểu rừng chính là: Rừng kín
thường xanh á nhiệt đới phân bố trên độ cao 1.000 m với các loài thực vật ưu thế
thuộc các họ á nhiệt đới như: Đỗ quyên, Hồi, Dẽ, Mộc lan.v.v..; kiểu rừng kín
thường xanh nhiệt đới dưới 1.000 m, với nhiều cây gỗ lớn, có trữ lượng cao, ưu thế
rõ nhất là: Re, Xoan, Bồ hòn.v.v..
Cùng với sự đa dạng của các cảnh quan thiên nhiên, các hệ sinh thái, các
giống loài cùng những mối quan hệ phức tạp giữa chúng với nhau, VQG Vũ Quang
còn là nơi lưu giữ nguồn gen nhiều loài động, thực vật quý hiếm, cung cấp các mẫu

vật và là nơi thực tập cho học sinh, sinh viên về nhiều lĩnh vực khác nhau như: Sinh
vật học, sinh thái học, khí tượng, thủy văn…
Để bảo vệ những cánh rừng nguyên sinh, bảo tồn sự đa dạng sinh học đặc trưng của
vùng rừng phía Tây Nam khu IV, góp phần duy trì sự cân bằng về sinh thái, tăng độ che
phủ của rừng, bảo đảm an ninh môi trường và phát triển về kinh tế, đồng thời phát huy
các giá trị sinh thái phục vụ công tác nghiên cứu khoa học, tham quan và du lịch. Ngày
30/7/2002 Thủ tướng Chính phủ ban hành quyết định số 102/2002/QĐ-TTg chuyển Khu
BTTN Vũ Quang thành Vườn quốc gia Vũ Quang.
Cùng với tình trạng chung trong cả nước, Vườn quốc gia Vũ Quang đang phải
đối mặt với tệ nạn khai thác gỗ, lâm sản ngoài gỗ, săn bắt các loài động vật rừng trái


2

phép, nếu tình trạng này vẫn cứ tiếp diễn thì trong tương lai không xa tài nguyên
rừng VQG Vũ Quang sẽ bị suy thoái, mất đi những giá trị quý báu của nó.
Ngăn chặn những tác động xâm hại đến tài nguyên rừng là điều băn khoăn, trăn
trở của các cấp, các ngành, cán bộ và người dân địa phương. Để góp phần giải quyết
vấn đề trên, trong khuôn khổ một luận văn cao học, tôi tiến hành thực hiện đề tài
“Nghiên cứu một số giải pháp góp phần quản lý rừng bền vững tại Vườn quốc gia
Vũ Quang, tỉnh Hà Tĩnh”.


3

Chương 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Định nghĩa về quản lý rừng bền vững
Từ lâu quản lý rừng bền vững đã được các nhà lâm học xem là vấn đề cơ bản
của kinh doanh rừng. Phần lớn các học thuyết về rừng đều hướng vào phân tích

những quy luật sinh trưởng, phát triển của cá thể và quần thể rừng trong mối quan
hệ với các điều kiện tự nhiên và những tác động của kỹ thuật của con người. Trên
cơ sở đó người ta xây dựng những biện pháp quản lý thích hợp nhằm nâng cao năng
suất và tính ổn định của hệ sinh thái rừng. Những kiến thức liên quan đến quản lý
rừng bền vững được trình bày trong nhiều môn học khác nhau như lâm học, trồng
rừng, quy hoạch rừng, điều chế rừng v.v... Tuy nhiên, trong thời gian gần đây, quản
lý rừng bền vững (QLRBV) đã trở thành một nguyên tắc đối với quản lý kinh doanh
rừng, đồng thời cũng là một tiêu chuẩn mà quản lý kinh doanh rừng phải đạt tới.
Theo tổ chức Gỗ Nhiệt đới (ITTO), QLRBV là quá trình quản lý những lâm
phận ổn định nhằm đạt được một hoặc nhiều hơn những mục tiêu quản lý rừng đã
đề ra một cách rõ ràng, như đảm bảo sản xuất liên tục những sản phẩm và dịch vụ
rừng mong muốn mà không làm giảm đáng kể những giá trị di truyền và năng suất
tương lai của rừng, không gây ra những tác động tiêu cực đối với môi trường tự
nhiên và xã hội [8].
Theo Tiến trình Helsinki, QLRBV là sự quản lý rừng và đất rừng theo cách
thức và mức độ phù hợp đề duy trì tính ĐDSH, năng suất, khả năng tái sinh, sức
sống của rừng và duy trì tiềm năng của rừng trong quá trình thực hiện và trong
tương lai, các chức năng sinh thái, kinh tế và xã hội của rừng ở cấp địa phương, cấp
quốc gia và toàn cầu không gây ra những tác hại đối với các hệ sinh thái khác [8].
Hai khái niệm này đã nêu lên được mục tiêu chung của QLRBV là đạt được sự
ổn định về diện tích, bền vững về tính ĐDSH, về năng Suất kinh tế và đảm bảo
được hiệu quả về môi trường sinh thái của rừng. Tuy nhiên, vấn đề QLRBV cũng
phải đảm bảo tính linh hoạt khi áp dụng các biện pháp quản lý rừng cho phù hợp
với điều kiện cụ thể của từng địa phương, được quốc gia và quốc tế chấp nhận.


4

Như vậy, QLRBV được hiểu là việc quản lý rừng bằng các biện pháp phù hợp
nhằm đạt được mục tiêu đề ra như: ngăn chặn được tình trạng mất rừng, mà trong

đó việc khai thác lợi dụng rừng không mâu thuẫn với việc duy trì được diện tích và
chất lượng của rừng, đồng thời duy trì và phát huy được chức năng bảo vệ môi
trường sinh thái lâu bền đối với con người và thiên nhiên, bảo tồn đa dạng sinh học,
bảo tồn loài, bảo tồn các hệ sinh thái. Quản lý rừng bền vững nhằm phát huy đồng
thời những giá trị về các mặt kinh tế, xã hội và môi trường của rừng.
Mục tiêu cơ bản của quản lý rừng bền vững là đồng thời đạt được bền vững về
kinh tế, bền vững về xã hội và bền vững về môi trường.
- Bền vững về kinh tế là đảm bảo kinh doanh rừng lâu dài liên tục với năng
suất, hiệu quả ngày càng cao (không khai thác lạm vào vốn rừng; duy trì, phát triển
diện tích, trữ lượng rừng; áp dụng các biện pháp kỷ thuật làm tăng năng suất rừng).
- Bền vững về xã hội là đảm bảo kinh doanh rừng phải tuân thủ các luật pháp,
thực hiện tốt các nghĩa vụ đóng góp với xã hội, đảm bảo quyền hạn và quyền lợi
cũng như mối quan hệ tốt với nhân dân, với cộng đồng địa phương.
- Bền vững về môi trường là đảm bảo kinh doanh duy trì được khả năng phòng
hộ môi trường, duy trì được tính đa dạng sinh học của rừng, đồng thời không gây
tác hại đối với các hệ sinh thái khác.
Trên quan điểm kinh tế sinh thái thì hiệu quả về mặt môi trường của rừng hoàn
toàn có thể xác định được bằng giá trị về kinh tế. Thực chất việc nâng cao giá trị về
môi trường sinh thái của rừng sẽ góp phần giảm những chi phí cần thiết để góp phần
phục hồi và ổn định môi trường sống. Với ý nghĩa này, quản lý sử dụng rừng bền
vững đã trở thành một nhiệm vụ cấp bách, một giải pháp quan trọng cho sự tồn tại
lâu dài của con người và thiên nhiên.
1.2. Khái quát tình hình phát triển và nghiên cứu về quản lý rừng bền vững
1.2.1. Quản lý rừng bền vững trên thế giới
Trên thế giới, lịch sử quản lý rừng được phát triển từ rất sớm. Đầu thế kỷ 18, các
nhà lâm học Đức (G.L.Hartig, 1840; Heyer, 1883, Hundeshagen, 1926...) đã đề xuất
nguyên tắc lợi dụng lâu bền đối với rừng thuần loại đồng tuổi. Cũng vào thời điểm đó,


5


các nhà lâm nghiệp Pháp (Gournand, 1922) và Thuỵ sĩ (H. Biolley, 1922) cũng đã đề ra
phương pháp kiểm tra điều chỉnh sản lượng đối với rừng khác tuổi khai thác chọn.
Trong thời kỳ này, hệ thống quản lý rừng phần lớn vẫn dựa trên các mô hình kiểm soát
quốc gia trung ương. Các khu đất rừng công cộng chiếm từ 25 -75% tổng diện tích đất
đai của nhiều quốc gia. Hiện nay, nhiều chính phủ vẫn giữ nguyên quyền pháp lý độc
nhất kiểm soát toàn bộ khu rừng tự nhiên. Các cơ quan Lâm nghiệp được giao bảo vệ
những khu đất này thường phải đương đầu với các vấn đề vốn và nhân sự do ngân sách
khu vực công cộng bị giảm xuống trong quá trình cải tổ kinh tế.
Trong giai đoạn từ thế kỷ 19 đến giữa thế kỷ 20, hệ thống quản lý rừng thường
mang tính tập trung cao ở nhiều quốc gia, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển.
Trong thời kỳ này, vai trò sự tham gia của cộng đồng trong quản lý rừng không được
chú ý. Mặc dù trong các qui định pháp luật thì rừng là tài sản của toàn dân xong trong
thực tế người dân không hề được hưởng lợi từ rừng và vì vậy người dân cũng không hề
quan tâm đến vấn đề xây dựng và bảo vệ vốn rừng. Họ chỉ biết khai thác tài nguyên
rừng để lấy lâm sản và lấy đất canh tác phục vụ cho nhu cầu cuộc sống của chính họ.
Bên cạnh đó cùng với sự phát triển của các ngành công nghiệp, nhu cầu lâm sản ngày
càng tăng lên nên tình trạng khai thác quá mức đối với tài nguyên rừng trong giai đoạn
này cũng trở thành nguyên nhân quan trọng của tình trạng suy thoái tài nguyên rừng.
Bước sang giai đoạn từ giữa thế kỷ 20 trở lại đây, khi tài nguyên rừng ở nhiều quốc
gia đã bị giảm sút một cách quan trọng, môi trường sinh thái và cuộc sống của đồng bào
miền núi bị đe doạ thì phương thức quản lý tập trung như trước đây không còn thích hợp
nữa. Người ta đã tìm mọi cách cứu vãn tình trạng suy thoái tài nguyên rừng thông qua
việc ban bố một số chính sách nhằm động viên và thu hút người dân tham gia quản lý và
sử dụng tài nguyên rừng. Phương thức quản lý rừng cộng đồng (hay lâm nghiệp cộng
đồng) xuất hiện đầu tiên ở Ấn độ và dần dần biến thái thành các hình thức quản lý khác
nhau như: Lâm nghiệp trang trại, Lâm nghiệp xã hội (Nêpan, Thái lan, Philippin...). Hiện
nay, ở các nước đang phát triển, khi sản xuất nông Lâm nghiệp còn chiếm vị trí quan
trọng đối với người dân nông thôn miền núi, thì quản lý rừng theo phương thức phát triển



6

Lâm nghiệp xã hội sẽ là một hình thức mang tính bền vững nhất về cả phương diện kinh
tế, xã hội lẫn môi trường sinh thái.
1.2.2. Quản lý rừng bền vững ở Việt Nam
Tài nguyên rừng ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập và đời sống kinh tế nói chung
của chừng một phần ba dân số của cả nước. Nó không chỉ cung cấp những sản phẩm
phục vụ sinh hoạt hàng ngày như: gỗ, củi, lương thực, thực phẩm, dược liệu v.v..., mà
còn cung cấp những sản phẩm phục vụ nhu cầu công nghiệp, thủ công nghiệp và xuất
khẩu. Trong nhiều trường hợp rừng mang lại tới 60% tổng thu nhập của người dân.
Ngoài ra, do phân bố ở những vùng sinh thái nhạy cảm như các vùng đầu nguồn rộng
lớn, các vùng ngập mặn, các vùng sình lầy v.v.... rừng còn là một trong những yêú tố
có ảnh hưởng mạnh mẽ nhất đến hoàn cảnh môi trường của đất nước. Nó góp phần
quan trọng vào chống lại biến đổi khí hậu, điều tiết nguồn nước, giảm tần suất và mức
nguy hiểm của các thiên tai như lũ lụt, hạn hán v.v…
Sự thất bại của công tác quản lý rừng và tài nguyên đất đai vùng đầu nguồn
trong những thập kỷ qua đã làm Việt Nam mất đi hàng triệu ha rừng và là nguyên
nhân chủ yếu gây ra những biến đổi khí hậu, gia tăng tần suất xuất và mức độ thiệt
hại của hạn hán và lũ lụt, là nguyên nhân buộc Nhà nước phải đầu tư hàng nghìn tỉ
đồng mỗi năm để củng cố đê điều và chống lũ cho các cánh đồng, là nguyên nhân
của xói mòn và sự hoang hoá tới trên 50% diện tích đất đồi núi. Quản lý rừng không
hiệu quả trong những năm qua cũng làm cho nhiều vùng đất trũng, đất ngập mặn trù
phú bởi các thảm rừng tràm, rừng đước với hàng trăm loài động vật hoang dã có giá
trị cao đã và đang bị thay thế bởi các vùng nuôi tôm, các rừng trồng công nghiệp
với mức độ măn hoá, phèn hoá ngày một nghiêm trọng.
Trước những biến đổi mạnh mẽ của môi trường và hiểm hoạ sinh thái có thể
xảy ra thì quản lý rừng bền vững ngày càng trở lên quan trọng. Phần lớn các chương
trình, dự án quốc tế hỗ trợ ngành lâm nghiệp hiện nay đều hướng vào quản lý rừng
bền vững. Những chương trình phát triển lâm nghiệp lớn của Nhà nước như chương

trình 4304, 327, 5 triệu ha rừng v.v... cũng xem quản lý rừng bền vững như một
mục tiêu quan trọng. Lâm nghiệp đang trở thành ngành kinh tế phát triển không chỉ


7

nhờ vào khả năng cung cấp hàng hoá lâm sản mà còn nhờ vào khả năng cung cấp
các hàng hoá và dịch vụ về môi trường đáp ứng yêu cầu trong nước và quốc tế.
Quản lý rừng bền vững đang được đặt ra như một vấn đề bức xúc cả về quan
điểm, phương pháp luận đến những giải pháp cụ thể. Kết quả nghiên cứu và kinh
nghiệm trong nước và quốc tế về quản lý rừng bền vững thực sự là những bài học
quý cho quản lý rừng ở mỗi địa phương.
Các hoạt động nông nghiệp và khai thác gỗ trong những năm qua phát triển
hết sức mạnh mẽ là nguyên nhân chủ yếu làm suy thoái tài nguyên rừng của Việt
Nam. Các khu rừng nguyên vẹn phần lớn chỉ còn sót lại ở các vùng núi cao, những
nơi hiểm trở. Đó là những nơi còn giữ được sự phong phú của các loài, là những nơi
cư trú cuối cùng của các loài đặc hữu và các loài có nguy cơ bị tuyệt chủng.
Ngoài các nguyên nhân làm mất rừng do sự gia tăng dân số, thiếu thốn về
lương thực, phá rừng lấy đất canh tác, khai thác lâm sản quá mức, rừng Việt Nam
còn bị ảnh hưởng bởi sự huỷ diệt trầm trọng bởi 2 cuộc chiến tranh kéo dài đã làm
cho tài nguyên rừng bị gỉam sút vì bị bom đạn, chất độc hoá học tàn phá quá nặng
nề. Nếu như tỷ lệ che phủ của rừng ở nước ta vào năm 1943 còn 43,3% thì đến năm
1976 chỉ còn 33,8%. Tỷ lệ che phủ thấp nhất là vào năm 1995 với 28,2%. Trong
những năm gần đây nỗ lực của nhà nước với những chính sách đổi mới đã làm cho
diện tích rừng tăng một cách rõ rệt. Đến năm 2009, tỷ lệ che phủ rừng của cả nước
đã nâng lên 39% [12].
Ngày 18 tháng 5 năm 2005, Bộ trưởng Bộ NN&PTNT đã ra Quyết định số
1116/QĐ/BNN-KL về việc công bố diện tích rừng và đất chưa sử dụng toàn quốc năm
2004 như sau:
Loại đất, loại rừng Diện tích (Ha)


Phân theo chức năng sử dụng
Đặc dụng

Phòng hộ

Sản xuất

I. Đất có rừng

12.306.858

1.920.453

5.920.688

4.465.717

1. Rừng tự nhiên

10.088.288

1.837.076

5.105.961

3.145.251

2. Rừng trồng


2.218.570

83.378

814.726

1.320.466

II. Đất chưa có rừng

6.718.576

479.328

3.709.440

2.529.807


8

Qua kết quả kiểm kê rừng cho ta thấy, rừng sản xuất chỉ chiếm khoảng 1/3 tổng
diện tích rừng, còn lại là rừng phòng hộ và đặc dụng. Một số người cho rằng cơ cấu 3
loại rừng như trên trong điều kiện kinh tế nước ta hiện nay là chưa hợp lý, cần xem xét
lại cơ cấu các loại rừng đồng thời cần có kế hoạch mở rộng diện tích rừng sản xuất để
ngành lâm nghiệp có điều kiện đóng góp nhiều hơn cho nền kinh tế quốc dân. Nguồn
quỹ đất chưa có rừng chiếm 20%, đây là điều kiện thuận lợi để nâng cao diện tích rừng
sản xuất đồng thời góp phần hoàn thành mục tiêu nâng độ che phủ rừng nước ta lên
43% trong tương lai. Đây là việc làm khó khăn nhưng hoàn toàn có cơ sở và có khả
năng đạt được. Quản lý rừng bền vững là vấn đề rất cần thiết và hết sức cấp bách, là

nhiệm vụ quan trọng, nặng nề của đất nước. Công tác tổ chức quản lý sử dụng tài
nguyên rừng ở Việt Nam có thể được chia thành 3 thời kỳ như sau.
1.2.2.1. Thời kỳ trước năm 1945
Đơn vị quản lý rừng trong thời kỳ này được gọi là hạt lâm nghiệp có qui mô
tương đương với cấp tỉnh. Nội dung hoạt động lâm nghiệp trong thời kỳ này chủ
yếu là quản lý tài nguyên rừng nhằm để thu thuế là chính. Để thực hiện mục tiêu
khai thác tài nguyên rừng, người ta đã chia rừng thành ba loại.
- Rừng không thuộc quản lý của Nhà nước. Đây là những khu rừng ở vùng
sâu vùng xa với mật độ dân địa phương rất thấp, khó tiếp cận và kiểm soát. Ở những
khu rừng này dân địa phương có quyền tự do khai thác gỗ, lâm sản và phát nương
làm rẫy để đáp ứng các nhu cầu hàng ngày của họ.
- Rừng khai thác là những khu rừng tự nhiên nằm gần các khu dân cư và có
điều kiện giao thông thuận lợi. Rừng được phân chia thành các đơn vị quản lý, được
kiểm kê tài nguyên, điều tra các thông tin cơ bản phục vụ quản lý. Các đơn vị rừng
được chia thành các coup (cúp) khai thác và Nhà nước quy định cấp kính tối thiểu
được phép khai thác. Kiểm lâm đặt các trạm kiểm soát ở cửa rừng, tất cả các gỗ
khai thác ra được chấp nhận, đóng búa, nộp thuế và cho phép lưu thông [8].
- Rừng quan trọng là những khu rừng có vị trí quan trong về kinh tế được
khai thác và bảo vệ trong suốt luân kỳ hoặc là những khu rừng có chức năng quan
trọng khác như rừng đầu nguồn cần bảo vệ nghiêm ngặt.


9

1.2.2.2. Thời kỳ từ năm 1946 - 1990
Sau năm 1945, ngành Lâm nghiệp được quản lý bởi Nha lâm chính thuộc Bộ
canh nông với nhiệm vụ được qui định là Quản lý lâm phận: Ngăn ngừa sự tàn phá
rừng và sự lạm dụng lâm sản, gìn giữ các khu rừng có quan hệ đến sự điều hoà khí
hậu và mực nước của các triền sông, giữ vững các cồn cát để khỏi lấn vào nội địa;
thi hành lâm pháp và thi hành thể lệ về săn bắn.

Các hoạt động lâm nghiệp trong giai đoạn này luôn gắn liền với nhiệm vụ kháng
chiến và tập trung chủ yếu vào các nhiệm vụ: (i) - Xây dựng chính sách thể chế lâm
nghiệp bao gồm: Xoá bỏ các thể lệ lâm nghiệp độc quyền, xây dựng tổ chức và chính
sách thể chế lâm nghiệp mới; cải tiến chế độ thu tiền bán khoán lâm sản; chính sách phát
triển trồng cây gây rừng; (ii) - Các thể chế về bảo vệ rừng, sản xuất, lưu thông và xuất
nhập khẩu lâm sản; thực hiện nhiệm vụ bảo vệ rừng: Khai thác gỗ và lâm sản phục vụ
yêu cầu kháng chiến; vận động nhân dân trồng cây; đóng góp các nguồn thu của ngành
lâm nghiệp vào ngân sách; đào tạo cán bộ lâm nghiệp; công tác nghiên cứu lâm nghiệp.
Đến giai đoạn 1956 - 1975, được đánh dấu bởi sự thành lập của Tổng cục Lâm
nghiệp như là cơ quan đầu não của ngành lâm nghiệp. Ở cấp tỉnh có các ty lâm nghiệp
để quản lý nhà nước về lâm nghiệp. Hoạt động lâm nghiệp trong thời kỳ này chủ yếu
vẫn là khai thác và bảo vệ rừng tự nhiên. Lượng gỗ khai thác thời kỳ này trung bình
khoảng 1,5 triệu m3/năm. Nhiệm vụ trồng rừng tuy có được chú ý nhưng qui mô nhỏ
(50.000 ha/năm) và tỷ lệ thành rừng rất thấp (khoảng 30%). Giai đoạn 1976 -1990 là
những năm có nhiều thay đổi trong hệ thống tổ chức và chính sách quản lý lâm nghiệp
được đánh dấu bằng sự thành lập Bộ Lâm nghiệp năm 1976 [8].
Năm 1986, rừng được qui hoạch thành ba loại theo chức năng, đó là: Rừng sản
xuất, rừng phòng hộ và rừng đặc dụng. Rừng được giải thửa thành các tiểu khu để làm
đơn vị quản lý. Các hoạt động quản lý và sản xuất lâm nghiệp của ba loại rừng nói trên
được nghiên cứu phát triển và có nhiều đổi mới trong giai đoạn này. Tổ chức của các
hệ thống quản lý ba loại rừng có thể được tóm lược như sau: Đối với rừng sản xuất,
được quản lý bởi các Liên hiệp lâm nông công nghiệp và các lâm trường quốc doanh;
đối với rừng phòng hộ các vùng đầu nguồn trọng yếu như: Sông Đà, Dầu Tiếng, Trị


10

An, Thạch Nham... có các ban quản lý rừng phòng hộ trực thuộc Bộ Lâm nghiệp, các
khu rừng phòng hộ khác do các lâm trường quản lý hoặc các ban quản lý rừng phòng
hộ trực thuộc tỉnh, liên hiệp...; đối với rừng đặc dụng, thành lập các Vườn quốc gia và

các khu bảo tồn thiên nhiên có ban quản lý để bảo vệ nghiêm ngặt theo quy chế riêng.
1.2.2.3. Thời kỳ từ năm 1991 đến nay
Từ tháng 10/1995, Bộ Lâm nghiệp (cũ) cùng với Bộ Thủy lợi (cũ) sát nhập
vào với Bộ Nông nghiệp (cũ) để thành lập Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.
Trong Bộ mới có 2 Cục chuyên ngành Lâm nghiệp đó là Cục Phát triển Lâm nghiệp
và Cục Kiểm lâm.
Tại các tỉnh có Sở NN&PTNT, trong sở có hai cơ quan chuyên ngành lâm
nghiệp đó là Chi cục Phát triển Lâm nghiệp và Chi cục Kiểm lâm, một số tỉnh thì
Chi cục Kiểm lâm trực thuộc UBND tỉnh.
Ở cấp huyện, có phòng NN&PTNT và Hạt kiểm lâm. Phòng NN&PTNT giúp
UBND huyện thực hiện chức năng quản lý nhà nước về nông nghiệp, lâm nghiệp,
thuỷ lợi và phát triển nông thôn; Hạt kiểm lâm trực thuộc Chi cục kiểm lâm cấp tỉnh
và chịu sự lãnh đạo của UBND huyện để thực hiện các nhiệm vụ được giao cho lực
lượng kiểm lâm trên địa bàn huyện.
Ở cấp xã, hiện nay đa số các xã đã có kiểm lâm viên, công tác BVR được tăng
cường đến tận các khu rừng trên địa bàn xã.
Bốn định hướng đổi mới về chiến lược phát triển lâm nghiệp đã được vạch ra
trên cơ sở của dự án “Nghiên cứu tổng quan phát triển Lâm nghiệp Việt Nam”:
Chuyển lâm nghiệp từ ngành kinh tế có nhiệm vụ khai thác tài nguyên rừng là
chính, trở thành một ngành kinh tế có nhiệm vụ cơ bản là xây dựng và phát triển
vốn rừng; chuyển lâm nghiệp từ một ngành kinh tế chỉ có Nhà nước và tập thể sang
một nền lâm nghiệp xã hội, thu hút nhiều thành phần kinh tế trong đó có cả hộ gia
đình, cá nhân và các lực lượng xã hội tham gia xây dựng rừng và kinh doanh rừng;
chuyển lâm nghiệp từ một nền kinh tế chuyên khai thác gỗ tự nhiên sang một ngành
kinh tế kinh doanh nhiều sản phẩm, phát triển nhiều ngành nghề; chuyển lâm nghiệp


11

từ tình trạng quảng canh, trình độ khoa học kỹ thuật thấp sang xây dựng một ngành

lâm nghiệp, thâm canh, có trình độ khoa học kỹ thuật cao.
Để thực hiện định hướng chiến lược có 4 chương trình: Chương trình quản lý
rừng (điều chế rừng), bảo vệ rừng và tổ chức lại sản xuất lâm nghiệp; chương trình trồng
rừng, sử dụng đất trống đồi núi trọc và phát triển lâm nghiệp theo phương thức nông lâm
kết hợp; chương trình khai thác hợp lý và sử dụng có hiệu quả tài nguyên rừng và
chương trình đổi mới tổ chức và cơ chế quản lý lâm nghiệp theo cơ chế thị trường.
Trong giai đoạn này, Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách liên quan đến quản
lý rừng bền vững; đó là Luật đất đai và các chính sách giao đất lâm nghiệp; Luật bảo vệ
và phát triển rừng (1991, năm 2004 ) và các thể chế về tăng cường quản lý bảo vệ rừng;
Qui chế quản lý 3 loại rừng: sản xuất, phòng hộ và đặc dụng. Nghị định của Chính phủ
quy định trách nhiệm quản lý nhà nước của các cấp về rừng và đất lâm nghiệp.
Về cơ sở lý luận, ở Việt Nam đã có nhiều công trình nghiên cứu phân tích
những yếu tố ảnh hưởng đến quản lý sử dụng tài nguyên rừng bền vững. Một số đề
tài nghiên cứu đã bước đầu đề xuất các giải pháp cụ thể áp dụng cho một số vùng
như quản lý sử dụng tài nguyên rừng bền vững lưu vực sông Sê San của Phạm Đức
Lân và Lê Huy Cường [26]; quản lý bền vững rừng khộp ở Ea Súp - Đăc Lắc của
Hồ Viết Sắc [33]; du canh với vấn đề QLRBV ở Việt Nam của Đỗ Đình Sâm [34].
Hiện nay, trên địa bàn các tỉnh Bắc Trung Bộ chưa có một đề tài nghiên cứu nào về
công tác quản lý sử dụng rừng bền vững. Vì vậy, đề tài sẽ nghiên cứu một số giải
pháp chính áp dụng cho công tác quản lý sử dụng rừng theo hướng tổng hợp và bền
vững trên địa bàn VQG Vũ Quang, huyện Vũ Quang, tỉnh Hà Tĩnh là sự cần thiết.


12

Chương 2
MỤC TIÊU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
- Mục tiêu tổng quát: Góp phần quản lý bền vững tài nguyên rừng tại VQG Vũ
Quang.

- Mục tiêu cụ thể:
+ Làm rõ được thực trạng quản lý rừng ở VQG Vũ Quang.
+ Xác định được các yếu tố thuận lợi và khó khăn với quản lý rừng ở VQG Vũ
Quang.
+ Đề xuất một số giải pháp góp phần quản lý rừng bền vững tại VQG Vũ
Quang.
2.2. Nội dung nghiên cứu
Phù hợp với mục tiêu nghiên cứu và những điều kiện cụ thể của địa phương đề
tài tiến hành một số nội dung sau:
- Đánh giá hiện trạng tài nguyên rừng Vườn quốc gia Vũ Quang.
Nội dung này nhằm đánh giá hiện trạng tài nguyên rừng ở Vườn quốc gia Vũ
Quang, bao gồm: Diện tích các loại rừng, quy hoạch sử dụng rừng, sự đa dạng về tài
nguyên thực vật, động vật và các sinh cảnh cũng như sự phân bố của chúng theo không
gian và các vùng địa lý khác nhau. Đồng thời xác định tầm quan trọng của VQG Vũ
Quang đối với đời sống kinh tế, xã hội địa phương cũng như giá trị sinh thái đối với quốc
gia và thế giới.
- Đánh giá thực trạng quản lý và sử dụng tài nguyên rừng ở VQG Vũ Quang
Trong nội dung này đề tài phân tích đặc điểm quản lý tài nguyên rừng, trong
đó tập trung vào các hoạt động bảo vệ, phát triển và sử dụng tài nguyên rừng ở
VQG Vũ Quang và vùng đệm.
- Những yếu tố thuận lợi và khó khăn đối với hoạt động quản lý rừng ở VQG
Vũ Quang
Nội dung này nhằm phân tích nhóm các yếu tố tự nhiên, kinh tế và xã hội có
ảnh hưởng tới hoạt động quản lý rừng ở vườn quốc gia Vũ Quang.


13

- Nghiên cứu những giải pháp để góp phần quản lý bền vững tài nguyên rừng.
Từ kết quả nghiên cứu những nội dung trên để tìm ra những giải pháp góp

phần bảo vệ bền vững tài nguyên rừng tại VQG Vũ Quang.
2.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của đề tài là VQG Vũ Quang
và một số khu vực vùng đệm thuộc địa phận huyện Vũ Quang, Hương Khê và
huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh.
- Phạm vi nghiên cứu: Những vấn đề có liên quan đến tài nguyên rừng, những
giải pháp góp phần quản lý bền vững tài nguyên rừng tại VQG Vũ Quang.
2.4. Phương pháp nghiên cứu
2.4.1. Phương pháp luận
- Đề tài vận dụng quan điểm hệ thống để xây dựng phương pháp nghiên cứu.
Theo quan điểm này rừng vừa là một bộ phận của hệ thống tự nhiên vừa là một bộ
phận của hệ thống kinh tế xã hội.
Rừng là một bộ phận của hệ thống tự nhiên, bởi vì sự tồn tại và phát triển của
nó phụ thuộc những quy luật của tự nhiên, chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác
trong hệ thống tự nhiên như: địa hình, thổ nhưỡng, khí hậu, sinh vật v.v... Do có mối
quan hệ chặt chẽ với các yếu tố tự nhiên mà có thể quản lý rừng bằng tác động vào
các yếu tố tự nhiên. Trên quan điểm hệ thống có thể xem những giải pháp quản lý
rừng như là những giải pháp điều khiển hệ thống tự nhiên để ổn định thành phần và
các mối quan hệ trong hệ sinh thái rừng. Đây là lý do vì sao trong đề tài này, nghiên
cứu ảnh hưởng của các yếu tố tự nhiên đến rừng được coi là một nội dung quan trọng.
Rừng cũng là một bộ phận của hệ thống kinh tế vì sự tồn tại và phát triển của nó
gắn liền với các hoạt động kinh tế của con người như trồng rừng, khai thác lâm sản,
làm nương rẫy, săn bắt chim, thú, phát triển du lịch v.v... Mặt khác, các hoạt động
này lại phụ thuộc vào mức sống kinh tế, cơ cấu ngành nghề, nhu cầu thị trường, khả
năng đầu tư, lợi nhuận v.v... Ngoài ra, rừng cũng tác động mạnh mẽ tới các yếu tố
kinh tế thông qua cung cấp nguyên liệu, năng lượng và thông tin cho nhiều hoạt động
kinh tế của con người. Nó có tác động tới nhiều yếu tố của hệ thống kinh tế từ sản


14


xuất, phân phối, lưu thông, tiêu dùng và tích luỹ v.v... Vì quan hệ chặt chẽ với các
yếu tố trong hệ thống kinh tế nên có thể quản lý rừng bằng việc tác động vào những
yếu tố kinh tế. Đây là lý do vì sao việc nghiên cứu ảnh hưởng của các yếu tố kinh tế
đến hiệu quả của hoạt động quản lý rừng và xây dựng những giải pháp kinh tế cho
quản lý rừng được xác định như một trong những nhiệm vụ của đề tài.
Rừng cũng là một thực thể xã hội, sự tồn tại và phát triển của rừng phụ thuộc
nhiều vào hoạt động của con người. Hoạt động của họ theo hướng bảo vệ và phát
triển rừng hay tàn phá nó luôn bị chi phối bởi nhiều yếu tố xã hội như nhận thức về
giá trị của rừng, ý thức với luật pháp Nhà nước, trách nhiệm với cộng đồng, kiến
thức về quản lý rừng, những phong tục, tập quán liên quan đến quản lý rừng v.v...
Rừng và hiệu quả của hoạt động quản lý rừng cũng phụ thuộc vào những vấn đề thể
chế và chính sách như hoạt động của hệ thống tổ chức Nhà nước trong lĩnh vực
quản lý bảo vệ rừng, các chính sách đất đai, chính sách sở hữu và sử dụng rừng ở
địa phương. Rừng và hiệu quả của quản lý rừng còn phụ thuộc vào sự hiện diện của
các tổ chức cộng đồng và những quy định của cộng đồng. Chúng hỗ trợ Nhà nước
trong việc tuyên truyền vận động người dân, động viên và giám sát họ thực hiện
những chính sách Nhà nước. Do rừng có liên quan chặt chẽ với các yếu tố xã hội
nên có thể quản lý rừng bằng tác động vào những yếu tố xã hội. Đây là lý do vì sao
trong đề tài này phân tích ảnh hưởng của những yếu tố xã hội đến hiệu quả của quản
lý rừng, coi đây là một nội dung quan trọng. Những giải pháp xã hội cho quản lý
rừng bền vững sẽ là những giải pháp tác động vào các mối quan hệ xã hội để lôi
cuốn cộng đồng vào hoạt động quản lý bảo vệ rừng.
- Quản lý rừng là hoạt động vừa mang tính kỹ thuật, vừa mang tính kinh tế và
xã hội nhân văn nên những giải pháp quản lý rừng phải được xây dựng trên quan
điểm đa ngành
Quản lý rừng là hoạt động mang tính kỹ thuật, nhưng cũng là hoạt động mang
tính kinh tế xã hội. Vì vậy, những giải pháp quản lý rừng sẽ bao gồm cả những giải
pháp khoa học công nghệ và giải pháp kinh tế xã hội. Những giải pháp này sẽ liên
quan đến cả lâm nghiệp, nông nghiệp, thuỷ lợi, địa chính, giao thông, môi trường,



15

văn hoá, giáo dục, quốc phòng v.v... và được xây dựng trên cơ sở những kiến thức
khí tượng học, thuỷ văn học, lâm sinh học, dân tộc học, xã hội học, thể chế kinh tế,
môi trường và phát triển v.v... Chúng được lồng ghép với nhau, hỗ trợ và bổ sung
cho nhau để đạt được mục tiêu đặt ra và giảm đến mức thấp nhất những chi phí của
xã hội và vẫn đạt được mục tiêu quản lý rừng.
- Quản lý rừng bền vững là một hoạt động phát triển
Quản lý rừng bền vững hướng vào cải thiện chất lượng cuộc sống con người,
vì vậy, nghiên cứu những quản lý rừng phải được thực hiện theo cách tiếp cận của
nghiên cứu phát triển. Trong đề tài này các giải pháp quản lý rừng luôn hướng vào
mục tiêu phát triển kinh tế xã hội và được lồng ghép với những hoạt động phát triển
kinh tế xã hội khác. Trình tự của nghiên cứu trong đề tài này là: phân tích thực
trạng, xác định nguyên nhân và xây dựng giải pháp phù hợp với hoàn cảnh địa
phương. Đây là lý do vì sao trong đề tài này coi phương pháp nghiên cứu tham dự là
một trong những phương pháp chủ đạo.
2.4.2. Phương pháp thu thập thông tin
Quá trình thu thập và sử lý thông tin được tiến hành theo các phương pháp
chủ yếu sau:
- Kế thừa các tư liệu trong và ngoài nước
Những tài liệu được tham khảo trong quá trình phân tích thực trạng tìm kiếm
các giải pháp quản lý rừng ở địa phương như sau:
+ Những tài liệu khí hậu thủy văn, kết quả điều tra đất, thực vật, động vật, tài
liệu thống kê tài nguyên đất đai, dân số và lao động, chính sách kinh tế - xã hội, tài
liệu về lịch sử làng xã.
+ Những kết quả nghiên cứu liên quan đến quản lý rừng ở địa phương.
+ Những tài liệu về kinh nghiệm quản lý rừng của các nước, những nguyên tắc
và tiêu chuẩn QLRBV của các tổ chức quốc tế.

- Phương pháp đánh giá nhanh nông thôn RRA và đánh giá nông thôn có sự
tham gia PRA


16

+ Lựa chọn đối tượng: Nhóm đối tượng phỏng vấn, thảo luận thu thập thông
tin đa dạng, phong phú như, mức sống khác nhau, địa bàn cư trú khác nhau, địa vị
xã hội khác nhau, lĩnh vực quản lý khác nhau nhưng đều có sự hiểu biết về các vấn
đề có liên quan đến quản lý rừng.
Những chủ đề phỏng vấn tập trung vào:
• Điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội và nhân văn
• Thực trạng quản lý sử dụng rừng
• Ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội nhân văn đến hiệu quả
quản lý sử dụng tài nguyên rừng
• Giải pháp nhằm góp phần QLRBV ở Vườn quốc gia Vũ Quang.
Một số công cụ PRA được áp dụng trong quá trình khảo sát như sau:
+ Lược sử thôn bản;
+ Biểu đồ hướng thời gian;
+ Lịch thời vụ;
+ Bảng câu hỏi phỏng vấn bán định hướng;
Phương pháp đánh giá nông thôn tham dự (PRA) được áp dụng để kiểm tra kết
quả và xác định những yếu tố quan trọng nhất đang thúc đẩy hay cản trở, thách thức
quá trình quản lý rừng; lựa chọn những giải pháp ưu tiên, đề xuất những khuyến
nghị sử dụng hợp lý tài nguyên rừng tại địa phương. PRA được thực hiện sau
nghiên cứu RRA thông qua một số cuộc thảo luận với những nhóm người dân, cán
bộ thôn, xã, huyện ở địa bàn nghiên cứu. Một số công cụ PRA được lựa chọn trong
quá trình khảo sát như sau:
+ Lược sử thôn bản. Công cụ lược sử thôn bản được sử dụng để tìm hiểu quá
trình hình thành các buôn làng, quá trình di cư, chuyển đổi các hình thái tổ chức sản

xuất, diễn biến của hoạt động sử dụng rừng và đất rừng, sự thay đổi về quan điểm,
nhận thức, kiến thức của người dân và những nguyên nhân thay đổi này ở địa
phương.
+ Biểu đồ hướng thời gian. Công cụ này được sử dụng để thu thập và phân
tích thông tin liên quan đến quản lý sử dụng tài nguyên rừng.
+ Lịch thời vụ. Công cụ này được sử dụng để thu thập thông tin về bố trí cơ
cấu cây trồng, biện pháp kỹ thuật gieo trồng ở địa phương để có thể xem xét đánh
giá các kiến thức bản địa cổ truyền tương ứng.


17

+ Bảng câu hỏi phỏng vấn bán định hướng. Các câu hỏi phỏng vấn là câu hỏi
bán định hướng, chúng được sắp xếp theo chủ đề phỏng vấn.
- Phương pháp chuyên gia.
Đề tài sử dụng phương pháp chuyên gia để điều chỉnh và hoàn thiện những
giải pháp đã được hình thành sau khi phân tích tài liệu ngoại nghiệp. Với phương
pháp này đề tài dự kiến sẽ gửi báo cáo sơ bộ của luận án cho một số chuyên gia có
kinh nghiệm trong lĩnh vực quản lý rừng và phát triển nông thôn miền núi. Những ý
kiến của họ sẽ được sử dụng để điều chỉnh và hoàn thiện các giải pháp quản lý bền
vững rừng ở địa phương.
2.4.3. Phương pháp xử lý thông tin
Trong quá trình xử lý tài liệu, đề tài tiến hành chỉnh lý và sắp xếp các thông tin
được thu thập theo thứ tự ưu tiên, mức độ quan trọng của vấn đề, phân tích các ý
kiến, quan điểm để lựa chọn và tìm giải pháp. Đồng thời phải tính định lượng một
số vấn đề có thể thực hiện được và liên hệ với các kết quả điều tra nhanh. Những
thông tin thu thập được có những thông tin định tính và những thông tin định lượng,
các thông tin này đều có giá trị quan trọng như nhau khi sử dụng xây dựng luận văn.
Toàn bộ những thông tin, số liệu thu thập được sẽ được chỉnh lý, tổng hợp phân tích
đánh giá về các mặt sau:

+ Phân tích đánh giá các thông tin về điều kiện tự nhiên như địa hình, địa mạo,
khí hậu thuỷ văn, tài nguyên đất và tài nguyên sinh vật bằng cách thống kê sắp xếp,
phân tích đánh giá các thông tin.
+ Phân tích đánh giá các thông tin về chính sách trong công tác quản lý sử
dụng và phát triển rừng, những tồn tại vướng mắc về chế độ chính sách trong quá
trình thực hiện công tác quản lý sử dụng rừng bằng phương pháp SWOT.
+ Thống kê phân tích tổng hợp đánh giá các thông tin về xã hội.
+ Tổng hợp đánh giá các thông tin về kinh tế, đánh giá hiệu quả sản xuất theo
các mô hình canh tác theo chỉ tiêu tổng hợp lợi nhuận, bằng phương pháp dựa trên
các yếu tố tĩnh.
+ Hiệu quả kinh tế của các mô hình sử dụng đất và phương án sử dụng đất của
các hộ dân trong vùng nghiên cứu.


18

Chương 3
ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ XÃ HỘI KHU VỰC NGHIÊN CỨU
3.1. Lược sử hình thành và phát triển của Vườn quốc gia Vũ Quang
Vũ Quang trong thời kỳ thực dân Pháp đô hộ là một khu bảo tồn rừng với diện
tích khoảng 30.000 ha và vì thế, cấm mọi hoạt động xâm hại rừng đối với cộng
đồng dân cư địa phương. Đến những năm 1960 – 1977, các lâm trường Trại Trụ, Vũ
Quang được thành lập để khai thác nguyên liệu gỗ phục vụ cho phát triển kinh tế, xã
hội của đất nước. Trong thời gian này, gỗ ở khu vực Vũ Quang bị khai thác mạnh,
cấu trúc rừng bị phá vỡ, nhất là khu vực núi thấp. Năm 1986, rừng Vũ Quang được
Chính phủ công nhận là Khu bảo tồn thiên nhiên theo quyết định số 194, ngày
09/08/1986 của Chủ tịch hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ) với diện
tích 16.000 ha. Năm 1992, các nhà khoa học đã phát hiện ở khu vực Vũ Quang 2
loài thú mới là Sao la và Mang lớn. Sau phát hiện gây chấn động này, Dự án đầu tư
Khu bảo tồn thiên nhiên Vũ Quang được Viện Điều tra Quy hoạch rừng và Quỹ Bảo

vệ thiên nhiên Quốc tế (WWF) hoàn thành, trong đó đề xuất diện tích khu bảo tồn
thiên nhiên với diện tích 55.950 ha. Do đó, ngày 30/7/2002, Thủ tướng Chính phủ
ban hành Quyết định số 102/2002/QĐ-TTg chuyển hạng khu BTTN Vũ Quang
thành Vườn Quốc Gia Vũ Quang với tổng diện tích là là 55.058 ha.
Năm 2006, UBND tỉnh Hà Tĩnh đã đề xuất Thủ tướng Chính phủ chuyển đổi
2,17 ngàn ha rừng đặc dụng VQG Vũ Quang sang mục đích khác để phục vụ cho
phát triển kinh tế, xã hội trên địa bàn (quyết định số 1404/QĐ-TTg, ngày
30/10/2006) [36], đồng thời ban hành Quyết định số 3209/QĐ-UBND, ngày
29/12/2006 về việc phê duyệt quy hoạnh 3 loại rừng thì diện tích VQG là 56.915,6
ha, trong đó có 52.881,7 ha rừng đặc dụng.
3.2. Điều kiện tự nhiên
3.2.1. Vị trí địa lí
Vườn Quốc gia Vũ Quang nằm ở Bắc Trung bộ của Việt Nam, cách thủ đô Hà
Nội 350 km về phía nam, cách Thành phố Hà Tĩnh 70 km về phía tây, nằm gọn trong
tỉnh Hà Tĩnh và chiếm 9% diện tích của tỉnh, trên địa bàn hành chính 3 huyện, 8 xã.


19

Vườn quốc gia Vũ Quang có toạ độ địa lí: từ 18o09’ đến 18o27’ vĩ độ Bắc và
từ 105o16’ đến 105o35’ độ kinh Đông. Ranh giới phía Đông giáp rừng phòng hộ
Sông Tiêm và khu dân cư xã Hòa Hải, huyện Hương Khê. Phía Nam và Tây giáp
với nước Cộng hòa DCND Lào và rừng phòng hộ Công ty TNHH lâm nghiệp và
dịch vụ Hương Sơn. Phía Bắc giáp khu dân cư và trụ Sở UBND huyện Vũ Quang.
Vườn được kẹp giữa 3 vùng thượng nguồn sông Rào Nổ, Ngàn Trươi và Ngàn Phố.
3.2.2. Đặc điểm địa chất, khí hậu thủy văn
3.2.2.1. Địa hình địa mạo [19]
Vườn Quốc gia Vũ Quang có nhiều đỉnh núi với các độ cao khác nhau từ núi
thấp đến núi cao. Trong đó có đỉnh Rào Cỏ cao với 2286 m. Sườn núi Đông của hệ
núi trùm lên một phần lớn diện tích vùng núi của Hà Tĩnh đến tận thung lũng của

Hương Khê. Vườn có sườn phía Nam giáp Lào, địa hình khá thoải về thung lũng
Nậm Ca Đinh của Lào, với nhiều diện tích bằng phẳng trải rộng. Địa hình Vườn
Quốc gia Vũ Quang được đặc trưng bởi các kiểu sau đây:
- Kiểu địa hình núi diện tích 31.180 ha chiếm 56,6% diện tích VQG, phân bố
chạy dọc theo biên giới Việt Lào. Độ cao của địa hình núi từ 301 – 2.000 m với
nhiều đỉnh cao độ dốc 20o – 35o có nơi hơn 35o. Đây là kiểu địa hình đặc trưng có ý
nghĩa quan trọng trong bảo tồn đa dạng sinh học.
- Kiểu địa hình đồi đai cao <300 m có diện tích 23.681 ha chiếm 43% tổng
diện tích VQG, độ dốc nhỏ hơn so với kiểu địa hình núi là từ 15 o – 30o phân bố chủ
yếu ở phân khu hồi sinh thái. Thực vật ở kiểu địa hình này chụi nhiều tác động của
con người, đặc biệt năm 1986 trở về trước là khu vực dành riêng cho khai thác lâm
sản. Kiểu địa hình đồi có ý nghĩa trong việc phục hồi hệ sinh thái bản địa góp phần
bảo tồn nguồn gen, đa dạng sinh học.
- Kiểu địa hình đồng bằng dốc tụ và thung lũng có diện tích rất ít 197 ha
chiếm 0,4% VQG, phân bố theo dạng đồng bằng ở Hương Quang và dạng thung
lũng ở Hoà Hải, hiện đang được sử dụng canh tác nông lâm ngư nghiệp và dân cư.
Nhìn chung VQG Vũ Quang có nhiều đỉnh núi cao hiểm trở, độ dốc lớn và
nhiều khe suối nên đã chia cắt địa hình thành nhiều lưu vực, lòng chảo, có sườn


20

nghiêng, và bãi bằng dưới các đỉnh núi. Vì vậy đã tạo ra tính đa dạng về dạng lập
địa và các kiểu vùng khí hậu. Đây là nguyên nhân hình thành nhiều hệ sinh thái điển
hình, đặc trưng là kiểu rừng hỗn hợp cây lá rộng, lá kim ẩm á nhiệt đới với loài
Pơmu (Fokienia hodginsii) sống đại trà; kiểu rừng lùn đỉnh núi (rừng cảnh tiên) với
các loại cây hạt trần như: Đỗ quyên (Phododeudron spp), Dẻ lá nhỏ
(Quereusuyreinae folia).
3.2.2.2. Địa chất và thổ nhưỡng
Toàn bộ VQG Vũ Quang nằm ở sườn Đông Bắc của dãy Trường Sơn giai

đoạn tán kiến tạo được nâng lên do những chuyển động đôi khi xảy ra những hoạt
động phun trào mắc ma, tạo nền đỏ bazan ở một vài điểm nhỏ ở gần biên giới Việt
Lào, còn các vùng trũng có cuội kết thô, cát kết, bột kết màu đỏ, chính những vận
động địa chất ấy đã tạo nên dạng kiến trúc không đối xứng trong khu vực. Do đó địa
chất được chia thành hai nhóm chính sau [19]:
- Nhóm đá mắc ma axít kết tinh chua: Phân bố chủ yếu ở trên kiểu địa hình
núi. Do có độ dốc lớn nên đất hình thành ở nhóm đá này thường có kết cấu không
bền vững, hàm lượng mùn thấp, khi mưa rất dễ bị xói mòn rửa trôi trở thành đất trơ
sỏi đá.
- Nhóm đá phiến thạch sét: Phân bố chủ yếu ở địa hình đồi, phần lớn ở phân
khu phục hồi sinh thái. Đất có hàm lượng khoáng dễ tiêu (N, P, K, Mg…) tương đối
cao, kết cấu tương đối tốt.
- Đất feralit mùn vàng đỏ phát triển trên đá phún xuất kết tinh chua (FH) trên
núi trung bình và cao, phân bố từ 700 m trở lên.
- Đất feralit vàng đỏ: phát triển trên đá phún xuất kết tinh chua ở vùng đồi và
núi thấp, phân bố ở độ cao dưới 700m, đất có tầng trung bình đến dày, độ pH =3,5
phân bố chủ yếu ở vùng phòng hộ sinh thái.
- Đất phù sa được bồi hàng năm ở vùng đồng bằng ven cửa sông có thành
phần cơ giới cát pha hoặc thịt trung bình, không chua, độ pH=5,6.


21

3.2.2.3. Khí hậu và thuỷ văn
Vườn Quốc gia Vũ Quang có chế độ khí hậu kết hợp giữa khí hậu Lào và khí
hậu miền Trung Việt Nam.
- Chế độ khí hậu trên núi cao
Ở các vùng núi cao dọc biên giới, khí hậu chịu ảnh hưởng của khí hậu Lào.
Ở đây, mùa mưa bắt đầu từ tháng 5 với gió mùa từ Lào và kết thúc cùng với mùa
mưa ở miền Trung Việt Nam vào tháng 11. Kết quả là đã có một sự tương phản

giữa mùa hè nóng khô ở vùng đồng bằng của VQG với lượng mưa phong phú và
gió mạnh ở các vùng núi cao. Ở phía Lào của dãy Trường Sơn, mùa đông tương đối
khô với gió mùa thổi từ Ấn độ dương đạt đỉnh điểm vào tháng 6, 7 và 8. Trong khi
phía Lào có một mùa mưa không rõ ràng và phía Việt Nam nhận được lượng mưa
tương đối lớn vào các tháng 6, 7 và 8, thì các đỉnh núi lại có lượng mưa cao từ tháng
5 đến tháng 10 và không có mùa khô. Chế độ mưa như vậy là nét độc đáo của chế
độ khí hậu Vũ Quang, nó ảnh hưởng tới thực vật của khu vực và sự phân bố của các
loài động vật quý hiếm ở đây.
- Chế độ khí hậu vùng đồng bằng và đồi núi thấp
+ Ở vùng đồng bằng và vùng đồi thấp, khí hậu có ba mùa. Mùa đông từ tháng
12 đến tháng 3 với thời tiết lạnh và độ ẩm cao, mùa nóng từ tháng 4 đến tháng 8 và
mùa mưa với các trận mưa rào lớn và thường xảy ra lụt lội từ tháng 9 đến tháng 11.
Đôi khi có những cơn mưa lớn bất thường vào tháng 5 gây ra lụt tiểu mạn. Ở vùng
này không có mùa khô rõ ràng.
+ Nhiệt độ trung bình năm là 25,60C. Tháng 7 là tháng nóng nhất có nhiệt độ
tối cao trung bình là 30,50C, tháng Giêng (một) lạnh nhất với nhiệt độ trung bình
19,60C, nhiệt độ thấp nhất tuyệt đối là 2,60C. Biên độ nhiệt độ cao nhất và nhiệt độ
thấp nhất trong ngày lớn nhất vào tháng 6, 7 và nhỏ nhất vào tháng 1 và tháng 2.
+ Lượng mưa: Tổng lượng mưa trung bình hàng năm của Vũ Quang là 2.697,6
mm, tập trung nhiều vào các tháng 8, 9 và 10 là. Số ngày mưa trong tháng tương đối
đồng đều quanh năm từ 10 đến 18 ngày. Mùa đông lượng mưa không lớn, chủ yếu là
mưa phùn, trong khi mùa thu thường có mưa rào.


22

+ Độ bốc hơi và độ ẩm: VQG Vũ Quang có một đặc điểm là độ ẩm cao quanh năm
(lớn hơn 70%). Độ ẩm cao nhất 80,4% là vào tháng 12 khi nhiệt độ thấp và biên độ dao
động nhiệt trong ngày thấp. Khí hậu tháng 1, tháng 2 có đặc điểm là nhiều sương mù và
mưa phùn. Độ ẩm thấp nhất vào tháng 6 khi số giờ nắng và nhiệt độ đều đạt tối đa.

+ Chế độ gió: Gió là một yếu tố khí hậu có ảnh hưởng lớn tới thảm thực vật
của vườn quốc gia. Từ tháng 4 đến tháng 8 thường có gió Tây nam (gió Lào) khô
nóng thổi từ Ấn Độ và Pakistan qua với vận tốc 10-15m/s, có khi nhiệt độ lên đến
40 – 500C, thường thổi từ lúc bình minh đến giữa buổi chiều và theo chu kỳ 3 đến 4
ngày, giữa các đợt gió thường kèm theo mưa rào.
- Một số nét chính của khí hậu VQG Vũ Quang:
+ Nhiệt độ bình quân năm:

25,60C.

+ Nhiệt độ trung bình cao nhất : 30,50C.
+ Nhiệt độ trung bình thấp nhất : 19,60C.
+ Lượng mưa trung bình năm:

2.697,6 mm.

+ Độ ẩm trung bình năm:

75,4 %.

+ Số giờ nắng bình quân năm: 1.215 giờ
Để thấy được sự tương quan giữa nhiệt độ và độ ẩm ta có thể xem hình 3.1 sau

82

50

80

45


78

40

76

35

74

30

72

25

70

20

68

15

66

10

64


5
T.1

T.2

T.3

T.4

T.5

T.6

T.7

T.8

T.9

T.10

T.11 T.12

TB

Hình 3.1: Biểu đồ độ ẩm và nhiệt độ

Nhiệt độ (độ C)


Độ ẩm (%)

đây.

Độ ẩm
Nhiệt độ


23

Qua việc phân tích các yếu tố khí hậu ở VQG Vũ Quang ta thấy đây là một vùng
có khí hậu rất khác biệt với nhiều nơi trong cả nước, là sự giao thoa giữa khí hậu Lào
và khí hậu miền Trung Việt Nam. Chính sự khác biệt này làm cho nơi đây có nhiều
sinh cảnh rất độc đáo và chứa đựng nhiều loài động, thực vật có yếu tố đặc hữu.
- Chế độ thuỷ văn
Vũ Quang là vùng có hệ thống sông ngòi tương đối dày và là khu vực
thượng nguồn của 3 con sông chính: Sông Ngàn Phố ở huyện Hương Sơn, sông
Ngàn Sâu và Ngàn Trươi ở huyện Hương Khê. Có thể chia hệ thống thuỷ văn của
VQG thành ba hệ thuỷ rõ rệt.
+ Về phía Tây là hệ thuỷ Khe Tre thuộc huyện Hương Sơn. Vùng thượng lưu
bắt nguồn từ độ cao trên 1.400m và đổ xuống theo một độ nghiêng rất dốc trên một
đoạn dài 8 km xuống độ cao 300m và chảy tiếp với độ dốc không đáng kể đến tận
trạm bảo vệ rừng Khe Tre, sau đó nhập với sông Ngàn Phố. Các suối ở đây rất dốc
ngắn và hẹp nên dòng chảy rất mạnh.
+ Sông Ngàn Trươi dài 30 km, rộng 30m đến 35m, bắt nguồn từ các suối ven
biên giới Việt Lào có độ cao 1.000m. Đoạn thượng nguồn rất dốc nhiều đá nổi và
thác, gây nhiều khó khăn trong việc đi lại. Đoạn đường từ đồn biên phòng đến sông
Ngàn Sâu chảy dọc theo thung lũng tương đối bằng phẳng, độ dốc thấp nên có thể
đi lại bằng thuyền nhỏ.
+ Sông Rào Nổ nằm phía Bắc Vườn quốc gia thuộc huyện Hương Khê, tập

trung nước của các khe Mang Đằng, Hỗ chảy qua các xã Hoà Hải và Hương Thọ.
Sông có những đoạn đổ dốc rất khó khăn cho việc đi lại.
Trong khu vực Vũ Quang, suối có đặc điểm là ngắn và dốc nhiều thác ghềnh.
Khi mưa lũ lên rất nhanh nhưng xuống cũng rất nhanh, khả năng điều tiết nước
kém, mùa lũ xuất hiện từ tháng 8 đến tháng 11. Đây là một đặc điểm gây khó khăn
cho các hoạt động bảo vệ rừng và du lịch sinh thái.
Lượng mưa và lượng bốc hơi khu vực vườn quốc gia VQG Vũ Quang được
thể hiện qua biểu đồ sau:


×