Tải bản đầy đủ (.pdf) (75 trang)

Điêu tra, đánh giá các cây có ích được đồng bào dân tộc mường và dao sử dụng tại huyện lương sơn, tỉnh hòa bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (721.57 KB, 75 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP
---------------------

NGUYỄN KHẮC YẾN

“ĐIỀU TRA, ĐÁNH GIÁ CÁC CÂY CÓ ÍCH
ĐƯỢC ĐỒNG BÀO DÂN TỘC MƯỜNG VÀ DAO SỬ DỤNG
TẠI HUYỆN LƯƠNG SƠN, TỈNH HÒA BÌNH”

Chuyên ngành: Quản lý bảo vệ tài nguyên rừng
Mã số: 60.62.68
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. TRẦN MINH HỢI

HÀ NỘI, NĂM 2011


1

MỞ ĐẦU
Ngay từ khi mới hình thành, loài người đã biết sử dụng cây cỏ vào mục
đích duy trì sự tồn tại và phát triển. Từ thuở sơ khai, con người sử dụng thực
vật chỉ đơn giản là phục vụ nhu cầu sinh hoạt, đó là cái ăn, chỗ ở. Dần dần
theo sự phát triển, con người bắt đầu khai thác thực vật vào các mục đích xã
hội khác như: đồ mặc, đồ trang trí, chăm sóc sức khỏe,… Theo thời gian, vốn
kiến thức về mối quan hệ giữa con người và cây cỏ ngày càng phong phú và
được chọn lọc một cách kỹ càng.
Ngày nay, do sự tiến bộ khoa học kỹ thuật, nhiều mặt hàng được sản


xuất với giá thành rẻ và khối lượng lớn; đồng thời sự giao lưu và tự do thương
mại làm cho nhiều ngành thủ công không có điều kiện phát triển, nhiều kinh
nghiệm sử dụng thực vật đã và đang bị lãng quên. Nghiên cứu thực vật dân
tộc không chỉ tìm hiểu về mối quan hệ giữa con người và cây cỏ mà còn góp
phần gìn giữ vốn kiến thức và bản sắc văn hóa của dân tộc.
Việt Nam nằm trong vành đai khí hậu nhiệt đới gió mùa nóng và ẩm,
với sự thay đổi từ điều kiện khí hậu nhiệt đới điển hình ở những vùng đất thấp
phía Nam đến các đặc điểm mang tính chất cận nhiệt đới ở các vùng núi cao
phía Bắc. Thêm vào đó, Việt Nam có nhiều dạng địa hình khác nhau tạo điều
kiện cho sự đa dạng sinh vật và phong phú về tài nguyên.
Theo các công bố gần đây, Việt Nam có 10.800 loài thực vật bậc cao có
mạch, 800 loài Rêu, 600 loài Nấm và hơn 2000 loài Tảo đã được xác định. Về
động vật, có 224 loài Thú, 828 loài Chim, 258 loài Bò sát và 5500 loài Côn
trùng,… trong đó có nhiều loài có giá trị kinh tế cũng như đã được nhân dân
sử dụng vào các mục đích khác nhau.
Việt Nam với 54 dân tộc, mỗi cộng đồng sinh sống tại những vùng
khác nhau đã đúc kết và tích lũy riêng cho mình những kiến thức, kinh
nghiệm trong sử dụng thực vật cho nhiều mục đích và nhu cầu cuộc sống


2

hàng ngày. Cho tới nay, hầu hết các kinh nghiệm chỉ được lưu truyền và ứng
dụng trong nội bộ mỗi cộng đồng. Hiện nay, các nhà nghiên cứu trên thế giới
thừa nhận rằng tri thức và kinh nghiệm sử dụng thực vật của các dân tộc là tài
nguyên phi vật thể quý giá của mỗi quốc gia. Nhiều tri thức, kinh nghiệm có
thể ứng dụng để sản xuất các sản phẩm mới, góp phần phát triển kinh tế-xã
hội và nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên thực vật. Tuy nhiên, do bị tác
động của nhiều yếu tố, tri thức và kinh nghiệm sử dụng thực vật của các dân
tộc thiểu số hiện đang có nguy cơ xói mòn và lãng quên. Vì vậy, điều tra,

nghiên cứu những tri thức, kinh nghiệm sử dụng thực vật của các cộng đồng
dân tộc được đặc biệt quan tâm trong những năm gần đây ở nhiều quốc gia.
Qua điều tra sơ bộ, chúng tôi nhận thấy tại huyện Lương Sơn, tỉnh Hoà
Bình, hai cộng đồng dân tộc Mường và Dao có nhiều tri thức và kinh nghiệm
sử dụng các cây có ích rất phong phú, mang bản sắc riêng. Để góp phần bổ
sung thêm vào kho tàng tri thức thực vật dân tộc Việt Nam và của địa phương
về những tri thức, kinh nghiệm trong sử dụng thực vật dân tộc của đồng bào
Mường và Dao, chúng tôi đã chọn đề tài “Điều tra, đánh giá các cây có ích
được đồng bào dân tộc Mường và Dao sử dụng tại huyện Lương Sơn, tỉnh
Hòa Bình”


3

Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Tình hình nghiên cứu và sử dụng các nhóm cây có ích trên Thế giới
1.1.1.Vai trò của các nhóm cây có ích trong đời sống con người
Từ khi lịch sử mới hình thành, con người đã biết cách khai thác thế giới
tự nhiên để phục vụ đời sống của mình. Ban đầu chỉ là để đáp ứng các nhu
cầu sinh hoạt là cái ăn và nơi cư trú. Nhưng dần dần qua quá trình khai thác
thiên nhiên, quá trình thích nghi và chống chịu với thiên nhiên, đấu tranh với
thiên nhiên để tồn tại và phát triển thì lúc này cũng xuất hiện nhu cầu về thuốc
chữa bệnh và chất độc để săn bắt. Con người liên tục tìm tòi các phương
thuốc phòng và chữa bệnh để bảo vệ sức khoẻ, chống lại bệnh tật, chống lại
sự tấn công của động vật…. Khi mà xã hội loài người phát triển hơn nữa thì
các nhu cầu xã hội cũng hình thành và nhanh chóng trở thành nhu cầu không
thể thiếu được. Lúc này họ sống không chỉ ăn mà phải ăn ngon, họ không còn
để cơ thể mình một cách tự nhiên nữa mà phải có cái che thân, rồi thành mặc
đẹp…. Vai trò của cây cỏ gần như bao trùm toàn bộ đời sống con người:

lương thực - thực phẩm, nơi cư trú, thuốc, may mặc, săn bắt và cả các nghi lễ
tôn giáo.
Cây cỏ không chỉ đáp ứng nhu cấu sinh hoạt của con người mà nó còn
là nguồn nguyên liệu cho các mục đích khác. Từ việc sử dụng trực tiếp cây cỏ
vào các mục đích cụ thể đến việc chế biến thành các sản phẩm khác, từ việc
khai thác tự nhiên về dùng ngay đến dự trữ, bảo quản; đến chọn lọc, trồng và
thuần hoá về trồng ở vườn nhà…. Tất cả các quá trình đó cứ xảy ra dân dần,
từng bước, từng bước và người dân qua đó tích luỹ lại các kinh nghiệm thực
tế. Kinh nghiệm của người dân có được qua các con đường: truyền từ thế hệ
này sang thế hệ khác, học hỏi lẫn nhau giữa những người cùng một thế hệ và


4

kinh nghiệm tự tích luỹ được qua quá trình lao động. Sự phát triển của loài
người luôn được đi kèm bởi quá trình khai thác thế giới thực vật. Đến nay, bất
cứ một cuộc thảo luận nào về sự phát triển của con người sẽ bị coi là không
đầy đủ nếu không bàn đến vai trò của cây cỏ trong quá trình phát triển ấy.
Các tài liệu sớm nhất ghi lại việc sử dụng thực vật của người phương
Tây là vào khoảng 1770 năm trước công nguyên của người Neanderthal và
vào khoảng 1550 năm trước Công nguyên của người Ai cập cổ đại. Người Ai
Cập cổ tin tưởng vào giá trị của cây cỏ không chỉ cho người sống mà còn ảnh
hưởng mạnh mẽ tới các vua Ai Cập cổ (Pharaohs) của họ đã chết. Một số cây
cỏ cũng đã được tìm thấy trong các kim tự tháp, được cho là có liên quan để
ướp xác hoặc dùng trong lễ mai táng.
Lịch sử nên y học Trung Quốc, Ấn Độ đều ghi nhận về việc sử dụng
các cây cỏ làm thuốc cách đây khoảng 3000 - 5000 năm. Từ 3000 năm trước
đây, Kinh Vê Đà, Ấn Độ đã nói về hương hoa để cúng bái. Trung Quốc là
một trong những nước phát hiện và sử dụng nhiều dược thảo (trong đó có
hoa) sớm nhất thế giới. Từ thời Tam quốc (222-265 CN), danh y Hoa Đà đã

sử dụng Đàn hương, Tử đinh huơng để chế hương nang (túi thơm), sử dụng
tính phương hương (hương thơm) của chúng để chống lại bệnh lao phổi và lỵ.
Ông còn dùng hoa Cúc, Kim ngân phơi khô cho vào chiếc gối để gối đầu
(Hương chẩm) để điều trị đau đầu, mất ngủ, cao huyết áp. Truyền thuyết nêu
rằng: Dương Quý Phi, đời Đường Minh Hoàng, dùng hoa Bách hợp, hoa
Hồng và các loại hoa thơm khác để lấy nước thơm, rửa chân, chữa chứng ra
mồ hôi chân. Thời nhà Hán, “Thần Nông bản thảo kinh” (khoảng 100 - 180
CN) coi hoa Cúc là hoa kéo dài tuổi thọ, Cúc hoa cùng với trà có lợi cho khí
huyết. Nếu thường xuyên uống thì thân thể sẽ nhẹ nhàng để phòng tuổi gia
đau yếu và kéo dài được tuổi thọ.


5

Ở châu Âu, vào những năm 60 cũng đã phát triển phương pháp dùng
hương thơm chữa bệnh (Phương hương tễ liệu pháp - Aromathérapie) là một
bộ phận của Hoa trị liệu pháp. Đầu của giai đoạn này, giới Y học Pháp vô tình
phát hiện một hiện tượng đặc biệt: Các nữ công nhân trong xưởng nước hoa
không ai bị bệnh phổi. Xưởng chế tạo đó sau này trở thành xưởng sản xuất
hoá học về chất thơm từ thực vật và thực vật chế tạo nước hoa.
Ngoài tác dụng chữa bệnh, hoa còn là một nhân tố quan trọng trong văn
hóa ẩm thực đồng thời đề bồi bổ sức khoẻ. Dùng thức ăn là hoa (Hoa thực) là
một môn nghệ thuật với các cách chế biến khác nhau thành các món ăn vừa có
màu sắc - mùi vị hấp dẫn, tăng hứng thú vị giác, thị giác và khứu giác. Y học
hiện đại đã chứng minh màu sắc của hoa có tác dụng nhất định đối với điều
tiết chức năng chuyển hoá trong cơ thể. Hoa Kim cúc có tác dụng giải độc,...
Màu sắc của thức ăn nói chung và của hoa nói riêng có tác dụng làm
cho ngon miệng (thực dục) và còn có tác động đến tâm sinh lý: màu đỏ làm
tăng hưng phấn thần kinh trong bữa ăn; màu vàng làm cho thích ăn, vui vẻ;
trên bàn ăn có hoa màu trắng là cho người ăn có cảm giác thong thả, thư giãn;

màu xanh lục làm cho hô hấp và mạch đập ổn định, hạ huyết áp một cách
tương đối.
Theo thống kê của tổ chức Y tế thế giới (WHO) thì đến năm 1985 đã có
gần 20.000 loài thực vật (trong tổng số 250.000 loài đã biết) được sử dụng
làm thuốc hoặc cung cấp các hoạt chất để chế biến thuốc. Trong đó ở Ấn Độ
có khoảng 6.000 loài, Trung Quốc 5.000 loài, Vùng nhiệt đới châu Mỹ hơn
1.900 loài. Cũng theo tổ chức y tế thế giới thì mức độ sử dụng thuốc ngày
càng cao. Trung Quốc tiêu thụ hằng năm khoảng 700.000 tấn dược liệu trong
tổng số khoảng 1.600.000 tấn trên thế giới. Sản phẩm thuốc Y học dân tộc đạt
giá trị hơn 1,7 tỉ USD năm 1986. Tổng giá trị thuốc có nguồn gốc thực vật
trên thị trường Âu - Mỹ và Nhật Bản năm 1985 là trên 43 tỉ USD. Riêng ở


6

Nhật bản, lượng dược liệu nhập khẩu năm 1979 là 21.000 tấn, đến năm 1980
lên 22.640 tấn, tương đương 50 triệu USD.
1.1.2. Sơ lược lịch sử nghiên cứu cây có ích của các dân tộc
Từ xa xưa, khi mà nền nông nghiệp còn sơ khai, con người đã phát
hiện thấy có sự khác biệt trong cách sử dụng cây cỏ ở các bộ lạc khác nhau và
nhiều loài cây có ích thấy xuất hiện ở khu vực này mà không thấy có ở khu
vực khác. Vì vậy, việc chiếm hữu các loài cây có ích từ các khu vực khác là
một trong các mục tiêu hàng đầu trong các cuộc chiến tranh bộ tộc.
Tri thức thực vật dân tộc và các giống cây có ích của các bộ tộc, bộ lạc
ở các vùng địa lý khác nhau là tiền đề cho các cuộc chiến tranh chiếm hữu và
nhập nội thực vật. Chiến dịch nhập nội thực vật đầu tiên với quy mô lớn đã
xảy ra cách đây khoảng 5.000 năm. Vào thời kỳ này, nhiều loài cây có ích
(Nelumbo sp., Rosa spp.) đã được nhận thức và sử dụng rộng rãi.
Thuật ngữ Thực vật dân tộc học (Ethnobotany) được sử dụng lần đầu
tiên vào năm 1895 trong bài giảng của John Harshberger ở Philadenphia.

Harshberger đã định nghĩa Thực vật học dân tộc là nghiên cứu “Các cây được
sử dụng bởi người nguyên thuỷ và các thổ dân (Plants used by primitive and
aboriginal people)”. Một năm sau đó (1896), trong bài thuyết trình đầu tiên
của mình về Thực vật dân tộc học, Harshberger đã chỉ ra rằng, đây là lĩnh vực
nghiên cứu làm sáng tỏ “Vị thế văn hoá của các bộ lạc đã sử dụng thực vật để
làm thực phẩm, nơi cư trú và quần áo (‘Cultural position of the tribes who
used the plants for food, shelter or clothing”). Như vậy, đến lúc này, các nhà
thực vật dân tộc học mới chỉ xem xét tới ba nhóm cây có giá trị quan trọng
nhất là: cây ăn được (làm lương thực - thực phẩm); cây làm nhà, lều trại và
các cây có sợi. Ngoài ra, đối tượng của các nghiên cứu được xác định là “bộ
lạc”, “thổ dân” và “người nguyên thuỷ”.


7

Thuật ngữ Thực vật dân tộc được thừa nhận và sử dụng rộng rãi trong
nhiều công trình nghiên cứu. Tuy nhiên, vào những năm đầu thế kỷ XX, các
công trình nghiên cứu chủ yếu tập trung vào việc điều tra, ghi chép về thành
phần cây có ích và cách sử dụng của chúng. Từ năm 1916, các nhà nghiên cứu
Thực vật dân tộc học đã nhận thức được sự cần thiết phải bổ sung lý thuyết và
phương pháp luận cho lĩnh vực nghiên cứu mới này. Khi đó, Thực vật dân tộc
học không chỉ là sự thu thập nhiều hơn nữa các tri thức mà còn phải đánh giá
giá trị khoa học của các phương pháp sử dụng trong điều tra, tính xác thực
của kết quả.
Năm 1941, Thực vật dân tộc học đã có một bước tiến mới về nhận thức
và mục tiêu nghiên cứu. Lúc này, nó không chỉ bao gồm các nghiên cứu về
kinh nghiệm sử dụng thực vật của các nhóm người nguyên thuỷ mà cả với sự
toàn vẹn của các mối liên quan giữa người nguyên thuỷ và giới thực vật. Các
nhà nghiên cứu đã mô tả sự phụ thuộc của đời sống vật chất, tinh thần của các
cộng đồng dân cư vào giới thực vật địa phương, đã đưa ra các luận chứng

khoa học về bảo tồn truyền thống, văn hoá của các cộng đồng trên cơ sở cùng
tồn tại hài hoà với giới thực vật.
Năm 1978 là thời kỳ có sự thay đổi lớn nhất về nghiên cứu Thực vật
dân tộc học khi Richard Ford đưa ra quan niệm” Sự tổng hợp mới của Thực
vật dân tộc học”. Theo quan niệm này, các nhà thực vật dân tộc học cần phải
có năng lực để nhận biết các loài cây có ý nghĩa gì làm cơ sở cho sự phân chia
chúng bởi các nền văn hoá khác nhau. Xác định được dân cư của các nền văn
hoá đã nhận thức chúng, sử dụng chúng và phụ thuộc vào chúng như thế
nào… Để thực hiện được các nội dung của mình, Thực vật dân tộc học đã
thực sự trở thành một bộ môn khoa học đa ngành, vì thế mà nó cũng chấp
nhận nhiều lý thuyết và phương pháp nghiên cứu của các ngành khoa học
khác có liên quan như thực vật học, dược học, hóa học, khảo cổ học… Các


8

nhà thực vật dân tộc học cần phải dựa trên các cơ sở lý thuyết đúng đắn nhất,
sử dụng các phương pháp nghiên cứu thích hợp nhất để tìm ra con đường
ngắn nhất đi tới mục tiêu.
1.1.3. Thành tựu và xu hướng nghiên cứu cây có ích của các dân tộc trên
thế giới hiện nay
Trong quá trình khai thác tự nhiên phụ vụ cho các nhu cầu của cuộc
sống, các cộng đồng dân tộc đã tích luỹ riêng cho mình những tri thức, kinh
nghiệm sử dụng thực vật. Nhìn chung, các tri thức về thực vật, kinh nghiệm
sử dụng và các tập đoàn cây có ích truyền thống chỉ lưu truyền trong những
phạm vi hẹp. Việc phát triển và nghiên cứu ứng dụng rộng rãi các thành tựu
này sẽ mang lại lợi ích vô cùng to lớn.
Các sản phẩm mới từ thực vật hoặc bắt nguồn từ thực vật được sản xuất
trên cơ sở nghiên cứu tri thức thực vật dân tộc học đang mở ra triển vọng to
lớn cho nhiều ngành và đáp ứng nhu cầu không ngừng tăng lên của nhân loại.

Sản xuất sản phẩm mới trên cơ sở ứng dụng thực vật dân tộc có nhiều lợi thế:
Đối với thực phẩm, đó là các loài sản phẩm ăn được của các cộng đồng trải
qua nhiều thế hệ nên có độ an toàn cao; đối với các nghiên cứu sàng lọc và
sản xuất các loại thuốc chữa bệnh mới trên cơ sở tri thức dược học dân tộc sẽ
cho hiệu suất cao. Hiệu suất nghiên cứu sản xuất thuốc mới từ cây thuốc dân
tộc là 1/125, trong khi đó hiệu suất sản xuất thuốc mới theo phương pháp tổng
hợp hóa học ngẫu nhiên là 1/10.000 (Farnsworth, in Chadwick and Marsh,
1994). Đối với các sàng lọc các loài cây thuốc kháng HIV thì hiệu quả từ kinh
nghiệm dược học dân tộc là 1/5 trong khi sàng lọc ngẫu nhiên là 1/18 (Balick
Michael J., 1990).


9

1.2. Tình hình nghiên cứu và sử dụng cây có ích ở Việt Nam
1.2.1. Các nhóm cây có ích ở Việt Nam
Việc nghiên cứu cây có ích đã được quan tâm từ xa xưa nhưng chủ yếu
chỉ tập trung vào các cây dùng làm thuốc. Sử dụng dược liệu ở Việt Nam ban
đầu chủ yếu dựa trên kinh nghiệm truyền thống trải qua hàng nghìn năm lịch
sử kết hợp với sự truyền bá của dược học Trung Quốc vào nước ta trong suốt
gần một nghìn năm xâm chiếm. Sau đó một số thầy thuốc không muốn phụ
thuộc nhiều vào dược học Trung Quốc nên đã có những nghiên cứu, cải biến
đế sử dụng nguồn thuốc nước nhà (Thuốc Nam) Tài liệu sớm nhất về cây
thuốc Việt Nam là Nam Dược Thần Hiệu và Hồng Nghĩa Giác Tư Y Thư của
Tuệ Tĩnh vào khoảng thế kỷ XVII hoặc thế kỷ XIV. Trong tài liệu này Tuệ
Tĩnh đã mô tả hơn 630 vị thuốc, 13 đơn thuốc chữa tạp bệnh và 37 đơn thuốc
chữa bệnh thương hàn. Sau tác phẩm này, phải mãi tới thế kỷ XVIII Hải
Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác mới xuất bản được bộ sách lớn thứ hai Y tông
Tâm lĩnh cho nước ta. Bộ sách gồm 28 tập, 66 quyển đã mô tả khá chi tiết về
thực vật, các đặc tính chữa bệnh.

Tới thời kỳ Pháp thuộc (1884-1945) là giai đoạn có sự tác động mạnh
mẽ của dược học phương Tây. Người phương Tây không chỉ mang đến các
phương thức chữa bệnh mới mà qua quá trình khai thác thuộc địa, họ đã gián
tiếp thúc đẩy quá trình nghiên cứu thực vật của Việt Nam nói chung và của
cây thuốc nói riêng. Một số tài liệu về thực vật và dược liệu đã được xuất bản,
đặc biệt trong đó là Bộ Thực vật chí đại cương Đông Dương của Lecomte
xuất bản từ cuối thế kỷ XVIII tới đầu thế kỷ XIX đã thống kê được hơn 7000
loài thực vật. Bộ sách Danh mục các sản phẩm ở Đông Dương (Catalogue des
Produits de l'Indochine - Plantes Médicinales) của Ch. Crévost và A. Pétélot
năm 1935, Bộ sách này chỉ thống kê khoảng 1340 vị thuốc có nguồn gốc thảo
mộc dùng trong y học ở ba nước Đông Dương.


10

Từ khi miền Bắc nước ta được giải phóng và đặc biệt là từ khi nước
nhà thống nhất, việc nghiên cứu thực vật nói chung đã được quan tâm và tiến
hành với quy mô lớn nhằm khai thác để xây dựng kinh tế vào lúc nước ta
đang gặp nhiều khó khăn. Nhiều công trình nghiên cứu và tài liệu được xuất
bản.
Năm 1952, A. Pétélot tái bản có bổ sung và đặt tên mới là Những cây
thuốc của Campuchia, Lào và Việt Nam (Les Plantes Médicinales du
Cambodge, du Laos et du Vietnam) gồm 4 tập, 1050 trang, đây là một bộ sách
đồ sộ về dược liệu vào thời kỳ đấy, liệt kê 1480 loài thực vật. Tuy nhiên về
mô tả, phân bố, thành phần hoá học và đặc tính dược lý thì chưa được hoàn
thiện đầy đủ.
Năm 1960, Phạm Hoàng Hộ và Nguyễn Văn Dương cho xuất bản bộ
cây cỏ Việt Nam, trong đó có nêu công dụng làm thuốc của nhiều loài thực
vật. Năm 1965, Đỗ Tất Lợi cho xuất bản bộ sách "Những cây thuốc và vị
thuốc Việt Nam". Bộ sách này ngày càng được hoàn thiện và thể hiện được

giá trị của nó. Đến nay đã tái bản có bổ sung tới lần thứ 9 (năm 2000) với
khoảng 800 cây thuốc và vị thuốc.
Tác giả Trần Khắc Bảo năm (1991), thống kê các nhóm cây có ích của
Việt Nam: Cây tinh dầu: 500 loài, trong đó có đến 160 loài có giá trị kinh tế
cao; nhóm cây có tanin khoảng 600 loài, cây thuốc khoảng 1850 loài. Tác giả
nêu tầm quan trọng của việc bảo tồn nguồn gen thực vật nói chung và nguồn
gen cây thuốc nói riêng. Đến năm 1999, Viện Dược liệu lại đưa ra một con số
thống kê khác: 749 loài cho gỗ và củi, 40 loài tre nứa, 40 loài song mây, 600
loài chứa tannin, 260 loài cho dầu béo, 160 loài cho tinh dầu, 70 loài cho nhựa
và nhiều nhất là cây làm thuốc với khoảng 2000 loài.
Một số tác giả nước ngoài cùng với các nhà nghiên cứu trong nước
cũng công bố một số sách chuyên khảo như: Sun Jin Koo, Yong Woong


11

Kwon, Dương Văn Chín, Hoàng Anh Cung với ấn phẩm “Cỏ dại phổ biến tại
Việt Nam”. Tài liệu giới thiệu 201 loài (gồm cả ảnh màu) cỏ dại thường gặp ở
Việt Nam; trong số đó có nhiều cây có tác dụng làm thuốc, làm rau ăn... Trần
Công Khánh, 1984 cũng đã giới thiệu gần một trăm cây có chất độc ở Việt
Nam, đến năm 2004 cho tái bản có bổ sung tài liệu này và đưa ra giới thiệu 97
cây độc nguy hiểm, 10 loại nấm độc dễ ăn phải và 11 cây giải độc dễ tìm, dễ
sử dụng.
Qua nhiều năm nghiên cứu trong lĩnh vực tài nguyên thực vật, các nhà
khoa học thuộc Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật gần đây đã xuất bản
một số tài liệu chuyên khảo về các nhóm cây như Nhóm cây có tinh dầu,
nhóm cây có hoạt tính sinh học….
Việc phân nhóm các cây có ích ở Việt Nam cũng có nhiều quan điểm
khác nhau, hầu hết là tiếp thu các hệ thống của Liên Xô (cũ) như hệ thống
Tasken, 1935 (hệ thống được đề xuất tại hội nghị tài nguyên thực vật ở

Tasken năm 1935), hệ thống của Pavlopski năm 1942 hay hệ thống của M. M.
Ilin năm 1948… Các hệ thống này đều dựa vào mục đích sử dụng chính như
dùng trong công nghiệp, nông nghiệp, sử dụng tự nhiên… nhưng giữa các hệ
thống không có sự đồng nhất. Năm 1969, Phan Kế Lộc đã đưa ra hai sơ đồ
phân loại cây tài nguyên ở miền Bắc Việt Nam. Một sơ đồ tác giả dựa vào
chất có ích, bộ phận trong cơ thể thực vật được sử dụng làm căn cứ; sơ đồ còn
lại tác giả lại căn cứ vào mục đích sử dụng để phân chia.
Gần đây, các nhà thực vật trong quá trình biên soạn bộ tài nguyên thực
vật Đông Nam Á đã đi tới thống nhất phân chia các loài cây có ích theo giá trị
sử dụng và các sản phẩm mà thực vật cung cấp. Đây là cách phân chia thể
hiện được tính khách quan, tính thực tiễn và tránh được nhiều nhược điểm mà
các tác giả trước mắc phải.


12

1.2.2. Tình hình nghiên cứu các nhóm cây có ích của các dân tộc thiểu số ở
Việt Nam
Ở Việt Nam, nghiên cứu thực vật dân tộc có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng bởi nước ta có tới 54 dân tộc anh em sống ở khắp các vùng trong cả
nước. Mỗi dân tộc hay mỗi cộng đồng dân tộc sinh sống trong các môi trường
có nguồn tài nguyên khác nhau sẽ có tri thức bản địa khác nhau. Tuy nhiên
cho tới nay, chúng ta chưa có điều kiện để điều tra, tư liệu hoá hệ thống tri
thức bản địa quý giá của mình. Đã có những nghiên cứu nhưng tương đối nhỏ
lẻ mà chủ yếu tập trung vào nhóm cây thuốc dân tộc, còn các nhóm cây khác
gần như chưa được đầu tư.
Một số công trình nghiên cứu về cây thuốc dân tộc trong thời gian gần
đây có thể kể tới như đề tài “Góp phần nghiên cứu bảo tồn cây thuốc ở Vườn
Quốc gia Ba Vì của Trần Văn Ơn”, công trình đã đưa ra danh lục các cây
thuốc được dân tộc Dao ở Ba Vì khai thác cùng với các phương thức sử dụng

chúng. Ngoài ra tác giả còn phân tích những nguyên nhân tác động tới nguồn
tài nguyên cây thuốc, đề xuất một số biện pháp bảo tồn nguồn gen cây thuốc ở
đây. Các tác giả khác như Nguyễn Nghĩa Thìn, Tạ Quang Thiệp cũng tiến
hành nghiên cứu cây thuốc dân tộc tại các khu vực như dân tộc Thái ở Con
Cuông, Nghệ An; dân tộc Sán Dìu ở Tam Đảo, Vĩnh Phúc. Có tác giả lại
nghiên cứu cây thuốc dân tộc không theo khu vực nghiên cứu mà định hướng
vào mục đích chữa bệnh như Nguyễn Thị Kim Thanh (2005) đã tiến hành
diều tra, sàng lọc các cây thuốc dân tộc có khả năng chữa bệnh ung thư …
Một số nhóm cây có ích khác được nghiên cứu đến nhưng với quy mô
nhỏ, chưa đầy đủ như nhóm cây có chất màu, trong đó có chất nhuộm màu
thực phẩm; nhóm cây có chất độc, cây lấy sợi,…
* Vài nét về truyền thống sử dụng thực vật của cộng đồng người Dao ở nước ta
Từ xưa, đồng bào dân tộc Dao đã nổi tiếng với những bài thuốc chữa bệnh
quý được lưu truyền từ đời này sang đời khác. Những bài thuốc cổ truyền của


13

người Dao được biết đến với những phương thuốc đặc trị xương khớp, xơ gan, sỏi
thận, dưỡng thai,... như: Dùng cây Gấm cong (Gnetum latifolium var. latifolium)
đem sắc uống hoặc ngâm rượu xoa để chữa đau xương, vôi hóa; dùng Bạch đầu
chevalier (Vernonia chevalierii Gagnep.) sắc uống trị hậu sản, bổ máu; dùng
Gáo đỏ (Neonauclea purpurea (Roxb.) Merr. ) sắc uống hoặc đun tắm trị bệnh
gan, chữa ngứa; dùng Vông xanh (Erythrina variegata L.) giã đắp chữa sa tử
cung...
Thời gian gần đây, người Dao nổi tiếng với bài thuốc tắm đặc sắc. Thuốc
tắm (tiếng Dao gọi là Đìa dảo xin) dùng để chữa các bệnh đau nhức cơ, xương,
khớp, cảm cúm, ngứa, táo bón, đinh nhọt; tăng cường thể lực cho phụ nữ sau khi đẻ,
người mới ốm dậy. Người lao động nặng nhọc, mệt mỏi, sau khi tắm thấy cơ thể
nhẹ nhõm, tinh thần sảng khoái, sức khoẻ được hồi phục. Số cây thuốc trong một

bài thuốc tắm thường rất lớn, dao động từ 10 đến 120 loài, thuộc nhiều họ thực vật
và dạng sống khác nhau. Trong đó, có khoảng 5-10 loài cây thuốc được coi là quan
trọng nhất. Tùy theo mục đích sử dụng mà số loài được sử dụng trong bài thuốc sẽ
được gia giảm cho hợp lý. Các kết quả điều tra đã cho thấy, số loài trong các họ
thực vật thường được người Dao đỏ ở Sa Pa sử dụng làm thuốc tắm gồm: Họ
Actinidiaceae (1 loài), Annonaceae (2 loài), Araceae (2 loài), Araliaceae (1 loài),
Aristolochiaceae (1 loài), Asteraceae (2 loài), Capparidaceae (1 loài),
Convallariaceae (1 loài), Cucurbitaceae (1 loài), Equisetaceae (1 loài),
Euphorbiaceae (1 loài), Fabaceae (2 loài), Gesneriaceae (1 loài), Hernandiaceae (3
loài), Lamiaceae (2 loài), Lardizabalaceae (1 loài), Moraceae (3 loài), Oleaceae (1
loài), Ranunculaceae (5 loài), Rubiaceae (3 loài), Rutaceae (1 loài), Schisandraceae
(1 loài), Zingiberaceae (2 loài).
Cộng đồng người Dao ở Lạng Sơn có cách làm men rượu từ cây rừng
cũng rất độc đáo. Họ dùng cây pìng đia và say diệp (tên tiếng Dao) phơi khô
(có mùi thơm rất dễ chịu), sau đó đem giã thành bột trộn với bột gạo, men


14

giống vo viên rồi ủ lên men, tạo một hương vị rượu rất đặc trưng cho loại
rượu Mẫu Sơn nổi tiếng.
Người Dao ở Thanh Hóa lại có bài thuốc nam có tác dụng bồi bổ cơ thể
và hỗ trợ cai nghiện ma túy rất hiệu quả, hiện đang được sử dụng rộng rãi
trong cộng đồng người Dao tại các tỉnh Thanh Hóa, Hòa Bình, Hà Giang,
Tuyên Quang. Loại thuốc này nay được đóng thành túi nhỏ để sắc uống, được
bày bán rộng rãi trên thị trường (giá khoảng 100.000đ/túi).
Người Dao tại một số nơi (Ba Vì) có truyền thống nấu cây thuốc thành cao
(gọi là cao thuốc) để thuận tiện cho việc sử dụng, cất trữ và vận chuyển.
Tuy nhiên, còn có ít người biết rằng dân tộc Dao có tập quán uống rượu
thuốc và chế biến rượu thuốc bằng cách ngâm rượu với một số loại rễ cây rừng có

vị bổ, nhất là ngâm với thuốc bắc. Loại rượu thuốc này ngâm càng lâu năm càng
tốt, dùng để chữa bệnh và tăng cường thể lực. Nhìn chung, người Dao thích nấu
rượu bằng bột lấy từ thân cây Móc (Caryota urens L.), cây Báng (Arenga pinnata
(Wurmb) Merr.)
Và còn vô số những kinh nghiệm đặc sắc khác, đôi khi trùng hoặc không
trùng với bất cứ cộng đồng dân tộc nào. Song, hầu hết kho tàng tri thức này đều
chỉ được lưu truyền qua phương thức truyền khẩu nên đã bị mai một nhiều, do sự
tác động của nhiều yếu tố chủ quan và khách quan. Đây cũng là thực tế phổ biến
của đa số các dân tộc ít người ở nước ta. Vì vậy, chúng ta cần phải có những việc
làm phù hợp và kịp thời để bảo tồn nguồn tri thức quý này.
Ở Việt Nam, cho đến nay vẫn còn rất nhiều tri thức và kinh nghiệm sử
dụng thực vật của cộng đồng các dân tộc chưa từng được khám phá, chưa
được những người ngoài cộng đồng biết đến. Vì thế mà tiềm năng về nguồn
tài nguyên thực vật đa dạng gắn với tri thức và kinh nghiệm của các cộng
đồng các dân tộc, đặc biệt là các dân tộc ở vùng núi cao là rất lớn và có nhiều
triển vọng.


15

Chương 2
ĐỐI TƯỢNG, MỤC TIÊU, NỘI DUNG VÀ
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Các nhóm cây có ích được đồng bào Mường và Dao sử dụng tại huyện
Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình.
2.2. Mục tiêu nghiên cứu
2.2.1. Mục tiêu chung
Nắm được những tri thức sử dụng thực vật của cộng đồng dân tộc
Mường và Dao nhằm đề xuất một số loài cây có tiềm năng kinh tế và những

kinh nghiệm có khả năng áp dụng rộng rãi trong cộng đồng, góp phần bảo tồn
những tri thức trong sử dụng thực vật tại địa phương.
2.2.2. Mục tiêu cụ thể
- Xác định được thành phần và số lượng các loài thực vật có ích được
cộng đồng người Mường và người Dao ở Lương Sơn sử dụng.
- Tổng hợp và chọn lọc được những tri thức, kinh nghiệm sử dụng thực
vật có ích của cộng đồng người Mường và Dao ở Lương Sơn.
- Đề xuất được một số loài cây có tiềm năng kinh tế và những kinh
nghiệm có khả năng áp dụng rộng rãi trong cộng đồng.
2.3. Nội dung nghiên cứu
- Điều tra thành phần loài thực vật tại huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình
được cộng đồng dân tộc Dao, Mường sử dụng.
- Điều tra kinh nghiệm sử dụng các nhóm cây có ích của cộng đồng dân
tộc Dao, Mường huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình.
- Lập danh lục các loài thực vật được sử dụng theo các mục đích: cây
làm thuốc, cây ăn được, cây để nhuộm, cây đan lát,.....


16

- Đề xuất một số loài cây có tiềm năng kinh tế và những kinh nghiệm
có khả năng áp dụng rộng rãi trong cộng đồng.
- Sơ bộ đánh giá các kết quả đã đạt được và đưa ra những kiến nghị cho
công tác bảo tồn.
2.4. Phương pháp nghiên cứu
2.4.1. Phương pháp kế thừa
Kế thừa các tài liệu về đặc điểm điều kiện tự nhiên và kinh tế-xã hội và
các nội dung có liên quan tới nghiên cứu các nhóm cây có ích được người
Mường và Dao sử dụng tại huyện Lương Sơn.
2.4.2. Phương pháp nghiên cứu thực vật học theo Nguyễn Nghĩa Thìn

(2007) [45].
Thu mẫu: Các mẫu vật được thu thập theo kinh nghiệm sử dụng của
người dân địa phương.
Các mẫu tiêu bản tốt phải đảm bảo có đầy đủ các bộ phận đặc biệt là
cành, lá cùng với hoa, quả (đối với cây lớn) hay cả cây (cây thảo nhỏ hay
dương xỉ). Các cây lớn thu từ 3- 5 mẫu trên cùng cây; các cây thảo nhỏ và
dương xỉ thì thu 3- 5 cây (mẫu) sống gần nhau. Điều này là rất cần thiết để bổ
sung cho nhau trong quá trình định mẫu và trao đổi mẫu vật [45]. Các mẫu
được thu thập phải có tỷ lệ tương đối phù hợp với kích thước chuẩn của mẫu
tiêu bản: 41 x 29 cm.
Tuy nhiên, trong điều tra thực vật dân tộc học, các mẫu tiêu bản thu
được thường không đầy đủ các tiêu chuẩn trên. Trong các trường hợp này,
chúng tôi tiến hành thu thập các mẫu vật có thể (cành, lá, hoa, quả, hạt, rễ… )
các mẫu này không đủ cơ sở để xác định chính xác tên khoa học nhưng có thể
định hướng cho quá trình thu thập thông tin kèm theo và thu mẫu tiêu bản bổ
sung sau này [45]. Phổ biến hơn cả là chúng tôi làm mẫu tiêu bản nhỏ.


17

Mẫu tiêu bản nhỏ: là mẫu tiêu bản thực vật không đủ tiêu chuẩn phân
loại với kích thước nhỏ, thuận tiện cho việc mang theo để so sánh, đối chiếu
trong các đợt điều tra, kích thước khoảng 20 x 30 cm, nhưng có những đặc
điểm dễ nhận .
Bên cạnh các mẫu thực vật điển hình thì để mô phỏng cho giá trị sử
dụng, chúng tôi còn thu thập các mẫu thực vật dân tộc học- các mẫu thực vật
chứa đựng giá trị tri thức dân tộc như: bộ phận dùng, các bộ phận có đặc điểm
để phân biệt bởi tri thức dân tộc, các sản phẩm có nguồn gốc từ thực vật….
Ghi chép thông tin: Các thông tin liên quan đến mỗi mẫu vật phải được
ghi chép ngay tại hiện trường. Các thông tin về thực vật cần có như: Dạng

sống, đặc điểm thân, cành, lá, hoa, quả trong đó đặc biệt lưu ý đến các thông
tin không thể hiện được trên mẫu tiêu bản khô như màu sắc hoa, quả khi chín,
màu của nhựa, dịch, mủ; mùi, vị của hoa quả nếu có thể biết được… Bên cạnh
đó, các thông tin về thời gian, địa điểm thu mẫu, điều kiện tự nhiên, sinh thái
nơi sống, mật độ, người thu mẫu… cũng nên được ghi cùng.
Các thông tin về thực vật dân tộc học được ghi chép thông qua tri thức
của người cung cấp thông tin. Có thể phỏng vấn trực tiếp hay quan sát cách
thức thực hiện các tri thức đó để thu nhận thông tin. Các thông tin cần ghi là:
tên dân tộc của cây, ý nghĩa của tên, mục đích sử dụng, bộ phận dùng, cách
khai thác, bảo quản và sử dụng, nguồn gốc thông tin… Ngoài ra, do mẫu thực
vật dân tộc thường không có đầy đủ các bộ phận để quan sát trực tiếp nên cán
bộ điều tra đề nghị người cung cấp tin mô tả các bộ phận còn thiếu tuy nhiên
những mô tả này chỉ để tham khảo và định hướng tiếp theo chứ không được
coi là các mô tả thực vật vì cách nhìn nhận, mô tả của người dân không hoàn
toàn trùng khít với cách mô tả thực vật của người nghiên cứu. Các thông tin
có thể được vào phiếu điều tra ngay tại hiện trường hoặc ghi vào sổ tay sau đó
đến cuối ngày phải vào phiếu.


18

Xử lý mẫu: Trong khi thực địa, các mẫu được cắt tỉa cho phù hợp sau
đó kẹp vào giữa hai tờ báo (kích thước 45 x 30 cm) và được ngâm trong dung
dịch cồn 40o - 45o để mang về. Khi về, mẫu được lấy ra khỏi cồn và được đặt
giữa hai tờ báo khô, cứ như vậy thành từng tập, kẹp bằng kẹp mắt cáo để
mang đi phơi hoặc sấy khô. Mẫu có thể được xử lý độc và khâu hay không là
tùy vào yêu cầu cụ thể.
Định tên: Việc định tên được sử dụng theo phương pháp hình thái so
sánh. Cơ sở để xác định là dựa vào các đặc điểm phân tích được từ mẫu vật,
các thông tin ghi chép ngoài thực địa, từ đó so sánh với các khoá phân loại đã

có hay với các bản mô tả, hình vẽ. Các tài liệu thường xuyên được dùng là:
Cẩm nang tra cứu và nhận biết các họ thực vật hạt kín ở Việt Nam [1], Cây cỏ
Việt Nam [18], [19], [20]…
Các mẫu vật phức tạp, không có nhiều đặc điểm nhận dạng sẽ được
chuyển cho các chuyên gia phân loại sâu để giám định.
Lập danh lục: Từ các mẫu tiêu bản đã có tên, chúng tôi tiến hành lập
danh lục thực vật. Tên khoa học của các loài được kiểm tra và chỉnh lý theo
bộ “Danh lục các loài thực vật Việt Nam”. Danh lục cuối cùng được xây dựng
theo nguyên tắc: Tên các họ và trong mỗi họ thì tên cây được sắp xếp theo
vần abc. Trong bảng danh lục có các cột là: STT, Tên dân tộc, tên phổ thông,
tên khoa học, họ thực vật, chế biến và sử dụng, nhóm công dụng.
2.4.3. Phương pháp điều tra cộng đồng (Phỏng vấn 26 người dân (Phụ lục III)
Trong quá trình nghiên cứu cộng đồng, chúng tôi sử dụng hai phương
pháp nghiên cứu là RRA và PRA [35].
2.4.3.1. RRA (Đánh giá nhanh nông thôn):
Là quá trình nghiên cứu được coi như là điểm bắt đầu cho sự hiểu biết
tình hình địa phương. Sự nghiên cứu đó được thực hiện do một nhóm đa
ngành làm việc trên hiện trường ít nhất bốn ngày nhưng không quá ba tuần, sự


19

nghiên cứu đó còn được dựa trên thông tin thu thập được, quan sát trực tiếp
và phỏng vấn mà ở đó giả định rằng tất cả các câu hỏi liên quan không được
xác định trước (theo James Beebe, 1985). Hay nói theo cách khác: RRA đề
cập đến một phương pháp tiếp cận nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc
học một cách nhanh chóng và trực tiếp từ người dân địa phương. RRA cho
phép lấy được kiến thức địa phương và thu lượm được thông tin và sự hiểu
biết của người dân địa phương bằng việc sử dụng các công cụ và phương
pháp kết hợp (theo Bill Jackson và Andrew Ingles, 1995).

Một số đặc điểm của phương pháp RRA
+ Phương pháp tiếp cận nhanh.
+ Phương pháp tiếp cận đa ngành.
+ Sử dụng tổng hợp hệ thống các công cụ đánh giá xã hội khác nhau
trong việc giải quyết các vấn đề cụ thể.
+ Chất lượng của các nghiên cứu RRA phụ thuộc vào khả năng phân
tích, hiểu biết liên quan tới khu vực nghiên cứu của các nhóm chuyên môn.
2.4.3.2. PRA (Đánh giá nông thôn có sự tham gia của người dân):
Là một loạt các phương pháp tiếp cận và phương pháp cho phép người
dân nông thôn cùng chia sẻ, nâng cao và phân tích kiến thức của họ về đời
sống và điều kiện nông thôn để lập kế hoạch và hành động (theo Robert
Chambers 1994). Từ định nghĩa trên, ta có thể thấy một số đặc điểm của PRA.
+ PRA nhấn mạnh đến việc các cán bộ điều tra học hỏi từ người dân
địa phương. Người nghiên cứu cùng làm việc với người dân bản địa để từ đó
học hỏi, nhận thức vấn đề, phân tích, lập kế hoạch và giải quyết các công việc
cụ thể.
+ PRA được thực hiện dựa trên kiến thức và năng lực của người dân
địa phương. Kiến thức và kinh nghiệm bản địa luôn được coi là động lực phát


20

triển của cộng đồng, năng lực cộng đồng là yếu tố mấu chốt cho các thành
công của họ.
+ Cần tạo ra mối quan hệ hài hoà giữa những người bên trong và bên
ngoài cộng đồng.
* Một số kỹ thuật thường được sử dụng trong nghiên cứu PRA:
- Phỏng vấn: Sử dụng một số câu hỏi cho những người được chọn.
Trong khi phỏng vấn, yêu cầu người cung cấp thông tin đưa ra tên cây theo
tiếng của dân tộc mình. Quá trình phỏng vấn có thể diễn ra ở một chỗ (nhà,

vườn hay trong rừng) hoặc cán bộ nghiên cứu cùng với người cung cấp tin
vừa đi vừa phỏng vấn. Cách thứ hai có ưu điểm là trong một lúc, người cung
cấp tin chưa thể nhớ hết các cây được sử dụng, khi đi như vậy sẽ giúp họ gợi
nhớ tốt hơn. Trong phỏng vấn cần kết hợp cả các cách phỏng vấn sau:
+ Phỏng vấn mở: Là dạng phỏng vấn tự do, chúng ta có thể hỏi về bất
kỳ cây nào với những câu hỏi tuỳ thuộc vào hoàn cảnh khi đó, thứ tự các nội
dung cần hỏi có thể thay đổi tuỳ ý dựa trên câu trả lời của câu hỏi trước của
người cung cấp thông tin.
+ Phỏng vấn bán cấu trúc: Một số câu hỏi được chuẩn bị trước và một
số câu hỏi có thể thêm vào tuỳ theo các tình huống cụ thể.
+ Phỏng vấn có cấu trúc (phỏng vấn sâu): Là phỏng vấn có sử dụng
một bộ câu hỏi nhất định đối với những người cung cấp thông tin có chọn lọc
tham gia.
+ Phỏng vấn tái diễn (Trình diễn tri thức): Là cuộc phỏng vấn trong đó
chúng ta yêu cầu người dân địa phương diễn giải lại một quy trình xử lý hay
chế biến nào đó.
+ Phỏng vấn chéo: Là cách phỏng vấn để kiểm tra thông tin của người
khác đã đưa ra trong các lần phỏng vấn trước.


21

- Thảo luận nhóm: Sau khi có kết quả bước đầu về tri thức và kinh
nghiệm qua phỏng vấn, để kiểm tra độ chính xác cũng như để có thêm các
thông tin bổ sung, chúng tôi tiến hành thảo luận nhóm. Nhóm thảo luận bao
gồm cả những người tham gia và không tham gia phỏng vấn trước đó. Trong
khi thảo luận, cán bộ nghiên cứu lần lượt đưa các thông tin đã thu thập được
ra để mọi người tranh luận, nhiều kinh nghiệm đã được chỉnh lý và bổ sung
qua quá trình này.
2.4.4. Đánh giá mức độ bị đe doạ

Chúng tôi dựa trên các tài liệu đã ban hành về sự nguy cấp của thực vật
để đánh giá mức độ bị đe doạ của các loài thực vật có ích. Các tài liệu đó là:
Sách đỏ Việt Nam (2007), Phần II - Thực vật; Nghị định số 32/ NĐ-CP/2006
về quản lý thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm. Ngoài ra, chúng
tôi còn căn cứ vào tình hình khai thác, sử dụng và buôn bán tại địa phương để
chỉ ra các loài có nguy cơ bị đe doạ trong khu vực nghiên cứu [7], [12], ...
2.4.5. Xử lý thông tin
Sau mỗi chuyến điều tra, các thông tin từ phiếu điều tra được tập hợp
thành một bảng kết quả. Thông tin có thể không có sự đồng nhất giữa những
người cung cấp tin khác nhau và còn phụ thuộc vào người ghi chép thông tin.
Từ các thông tin thu được, chúng tôi xử lý, chỉnh lý lại tên công dụng cho
đồng nhất, phân nhóm các công dụng thành các nhóm chính... Sau khi có kết
quả từ việc xác định tên khoa học, các thông tin của cùng một loài sẽ được
nhập với nhau. Bảng kết quả tổng hợp của mỗi chuyến thực địa sẽ được mang
đi kiểm tra, đối chiếu và thu thập thông tin trong các đợt thực địa tiếp theo.
Ngoài ra, để kiểm tra và chỉnh lý những sai sót có thể gây ra bởi các yếu tố
khách quan, chúng tôi nhờ một lương y địa phương có hiểu biết rộng, thông
thạo cả tiếng Việt và tiếng Tày- Nùng kiểm tra toàn bộ danh lục mà chúng tôi
có.


22

2.4.6. Tiêu chí lựa chọn các loài có triển vọng phát triển kinh tế
Các loài được chúng tôi lựa chọn để đề xuất phát triển kinh tế tại địa
phương là các loài đang có và được sử dụng trong các cộng đồng dân cư của
địa phương và cần đảm bảo các yêu cầu sau:
- Có thể phát triển thành hàng hoá và có được thị trường: Có nhu cầu sử
dụng cao ở trong và ngoài địa phương, có khả năng lưu thông đến các khu
vực khác, đặc biệt là các sản phẩm có khả năng xuất khẩu.

- Có giá trị kinh tế cao: Các loại cây cho mặt hàng có giá trị kinh tế cao,
có thể góp phần phát triển kinh tế địa phương.
- Có thể tạo ra hàng hoá mang tính độc đáo của địa phương: Giá trị
truyền thống và kinh tế sẽ được khẳng định tốt hơn nêu các sản phẩm đưa ra
thị trường mang tính độc đáo của từng khu vực. Về lâu dài, điều này sẽ giúp
cho các sản phẩm dễ tạo được thương hiệu hơn.
- Những loài đang bị đe dọa tuyệt chủng ngoài tự nhiên.


23

Chương 3
ĐẶC ĐIỂM ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ-XÃ HỘI
HUYỆN LƯƠNG SƠN
3.1. Vị trí địa lí và điều kiện tự nhiên
Huyện Lương Sơn là cửa ngõ của tỉnh miền núi Hoà Bình và miền Τây
Bắc Việt Nam, cách thủ đô Hà Nội khoảng 40 km, biên giới liền kề với khu
công nghệ cao Hoà Lạc, khu đô thị Phú Cát, Miếu Môn, Đại học Quốc gia,
Làng văn hoá các dân tộc.
Huyện Lương Sơn nằm ở phần phía Nam của dãy núi Ba Vì, nơi có một
phần của Vườn quốc gia Ba Vì. Phía Tây giáp huyện Kỳ Sơn, phía Nam giáp
huyện Kim Bôi, phía Đông và phía Bắc giáp các huyện của thủ đô Hà Nội
gồm: Mỹ Đức, Chương Mỹ, Quốc Oai, Thạch Thất, Ba Vì.
Lương Sơn là một huyện vùng thấp bán sơn địa của tỉnh Hoà Bình, có
địa hình phổ biến là núi thấp và đồng bằng. Độ cao trung bình của toàn huyện
so với mực nước biển là 251 m, có địa thế nghiêng đều theo chiều từ Tây bắc
xuống Đông Nam, là nơi tiếp giáp giữa đồng bằng châu thổ sông Hồng và
miền núi Tây Bắc Bắc Bộ. Đặc điểm nổi bật của địa hình nơi đây là có những
dãy núi thấp chạy dài xen kẽ các khối núi đá vôi với những hang động. Có
nhiều khe suối, hồ tự nhiên, hồ nhân tạo đan xen tạo nên cảnh sắc thơ mộng.

Khí hậu Lương Sơn mang đặc trưng khí hậu của vùng nhiệt đới gió
mùa. Mùa đông bắt đầu từ tháng 11 đến tháng 3, mùa hè bắt đầu từ tháng 4
đến tháng 10. Lượng mưa trung bình là 1.769 mm. Do có nhiều tiểu vùng khí
hậu khác nhau nên có thể phát triển cây trồng, vật nuôi phong phú, đa dạng
theo hướng tập đoàn.


24

Trên địa bàn Lương Sơn có những danh lam, thắng cảnh, di chỉ khảo cổ học
hàng năm có thể thu hút một lượng đáng kể khách du lịch như hang Trầm,
hang Rổng, hang Tằm, hang Trâu, mái đá Diềm, núi Vua Bà...
Những lợi thế về giao thông cùng tiềm năng lớn về tài nguyên thiên
nhiên như: có nhiều núi đá vôi phục vụ ngành sản xuất vật liệu xây dựng, có
14.000 hecta đồi núi và đất đai màu mỡ để phát triển nông, lâm nghiệp.
Huyện này còn có điều kiện xây dựng các khu nghỉ dưỡng, nhằm phát triển du
lịch...hiện nay trên địa bàn huyện có rất nhiều dự án du lịch lớn như sân golf
Phượng Hoàng và Làng văn hóa các dân tộc tỉnh Hòa Bình, Khu du lịch sinh
thái Xóm Mòng...
Những năm gần đây, ngành công nghiêp – tiểu thủ công công nghiệp ở
Lương Sơn phát triển khá mạnh. Những khu công nghiệp Lương Sơn, Bắc
Lương Sơn, Nam Lương Sơn đang thu hút các nhà đầu tư đến với mảnh đất
giàu tiềm năng này.
3.2. Diện tích - Dân số - Giáo dục
Huyện Lương Sơn 369,85 km². Dân số toàn huyện (tháng 7 năm 2009)
là 92.860 người. Từ xa xưa Lương Sơn là địa bàn sinh sống của người
Mường. Người Mường có mặt ở khắp các xã, chiếm hơn 60% dân số toàn
huyện. Người Kinh sống xen lẫn với người Mường và chiếm khoảng hơn 30%
dân số toàn huyện, còn lại là người Dao và các dân tộc khác chiếm tỷ lệ
không đáng kể.

Toàn huyện hiện có 22 trường mầm non, 23 trường tiểu học, 20 trường
trung học cơ sở và 4 trường phổ thông trung học (số liệu năm 2006). Có
khoảng 30% giáo viên trong huyện là người dân tộc thiểu số.
3.3. Hành chính
Lương Sơn có huyện lỵ là thị trấn Lương Sơn nằm cạnh quốc lộ 6 và 19
xã là: Lâm Sơn, Hòa Sơn, Trường Sơn, Tân Vinh, Cao Răm, Hợp Hòa, Cư


×