Tải bản đầy đủ (.pdf) (65 trang)

Nghiên cứu tài nguyên cây thuốc được đồng bào dân tộc mường sử dụng tại khu bảo tồn thiên nhiên hang kia pà cò tỉnh hòa bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.02 MB, 65 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP HÀ NỘI
---------------

ĐỖ SĨ HIẾN

NGHIÊN CỨU TÀI NGUYÊN CÂY THUỐC ĐƯỢC ĐỒNG BÀO DÂN
TỘC MƯỜNG SỬ DỤNG TẠI KHU BẢO TỒN THIÊN NHIÊN HANG
KIA – PÀ CÒ, TỈNH HÒA BÌNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP

HÀ NỘI - 2011


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP HÀ NỘI

ĐỖ SĨ HIẾN

NGHIÊN CỨU TÀI NGUYÊN CÂY THUỐC ĐƯỢC ĐỒNG BÀO DÂN
TỘC MƯỜNG SỬ DỤNG TẠI KHU BẢO TỒN THIÊN NHIÊN HANG
KIA - PÀ CÒ, TỈNH HÒA BÌNH

CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ BẢO VỆ TÀI NGUYÊN RỪNG


MÃ SỐ: 60.62.68

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. ĐỖ THỊ XUYẾN

HÀ NỘI – 2011



1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Rừng là nơi chứa đựng nguồn tài nguyên sinh vật vô cùng phong phú và đa
dạng. Tuy nhiên, trong những năm gần đây diện tích rừng trên thế giới nói chung và
Việt Nam nói riêng bị suy giảm một cách nhanh chóng làm mất đi môi trường sống
của nhiều loài động thực vật,... mặt khác, có rất nhiều loài cây còn chưa được biết
tên, chưa phân tích được thành phần hoá học, chưa biết được công dụng của chúng.
Đây là một trong những vấn đề còn chứa đựng nhiều bí ẩn.
Từ xa xưa, ông cha ta đã biết sử dụng cây thuốc nguồn dược liệu quý báu tự
nhiên làm thuốc chữa bệnh cho nhân dân. Từ phương pháp pha chế, phương pháp
sử dụng, các bệnh được chữa,... đều là những kinh nghiệm lâu đời và được ghi chép
cẩn thận, lưu truyền qua nhiều thế hệ. Đây là những kinh nghiệm quý báu mà mọi
dân tộc, mọi quốc gia đều có và chúng ngày càng được bổ sung nhiều hơn, nghiên
cứu sâu hơn để phục vụ công việc cứu chữa bệnh tật cho con người.
Cho đến nay, nước ta đã thống kê được trên 3200 loài cây thuốc (Võ Văn
Chi, 1997), đây chắc hẳn chưa phải là con số đầy đủ nếu như không muốn nói là
còn ít so với những con số thực tế bởi vì kho tàng kinh nghiệm của các dân tộc là
rất lớn, trong khi công tác điều tra, nghiên cứu, thử nghiệm, bảo tồn nguồn tài
nguyên quí giá này của chúng ta vẫn còn có nhiều hạn chế. Mặc dù xu thế hiện nay
của thế giới là nghiên cứu việc chiết xuất ra các dạng dược phẩm có giá trị nhưng

việc điều tra, nghiên cứu về nguồn dược liệu của các dân tộc hiện nay vẫn đang là
vấn đề cần được quan tâm một cách sâu sắc [8].
Đối với đồng bào dân tộc miền núi, việc sử dụng cây cỏ trong cuộc sống đã
gắn bó với họ từ lâu đời nay. Ngoài mục đích sử dụng cây cỏ làm thức ăn, làm
nguyên liệu để xây dựng,... thì việc sử dụng cây cỏ trong việc đấu tranh với bệnh tật
là một trong những vấn đề quan trọng. Những kinh nghiệm của đồng bào dân tộc
đến nay đã có nhiều kiểm nghiệm, chứng minh cơ sở chữa bệnh của chúng. Tuy
nhiên, từ khi hoà bình lập lại, với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, ngành dược
liệu ngày càng phát triển mạnh nên các kinh nghiệm dân gian ít được quan tâm. Mặt
khác, các kinh nghiệm chữa bệnh này cũng chỉ có ở những người cao tuổi và những


2
người này chỉ truyền lại cho con cái họ khi họ sắp qua đời, do đó những kinh
nghiệm dân gian này đang càng bị mai một dần đi. Xuất phát từ những lý do trên,
tôi đã chọn đề tài nghiên cứu: “Nghiên cứu tài nguyên cây thuốc được đồng bào
dân tộc Mường sử dụng tại khu bảo tồn thiên nhiên Hang Kia – Pà Cò, tỉnh Hoà
Bình” nhằm mục đích làm cơ sở để sử dụng hợp lý tài nguyên thực vật, góp phần
vào công cuộc bảo tồn các loài thực vật và tri thức bản địa của Việt Nam cũng như
trong khu vực.


3
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ SỬ DỤNG CÂY THUỐC Ở MỘT SỐ
NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI.
Vấn đề sử dụng cây cỏ làm thuốc được các quốc gia trên thế giới tiến hành ở
các mức độ khác nhau tùy thuộc vào sự phát triển của dân tộc đó. Trung Quốc là
một trong những quốc gia có nền y học cổ truyền rất phát triển. Theo truyền thuyết

của Vua Thần Nông tức Viêm Đế (3320 – 3080 trước Công nguyên) thì Thần Nông
đã đếm hàng trăm loại cây cỏ, phân loại dược tính của cây cỏ và soạn ra cuốn sách
“Thần nông thảo bản”. Theo các tài liệu nghiên cứu về Trung Quốc của các nhà
khoa học thì “Thần nông thảo bản” không soạn trong đời Thần Nông mà được soạn
vào đời Đông Hán, vì thời Thần Nông không có văn tự. Tất cả mọi chuyện đều là
truyền thuyết. Trong cuốn “Thần nông thảo bản” đã thống kê được 365 vị thuốc có
giá trị. Trong đó, nhiều bài thuốc vẫn được sử dụng cho tới ngày nay như cây Gai
mèo (Cannabis sp) để chống nôn, cây Đại Phong Tử (Hydnocarpus kurzii) làm
thuốc chữa bệnh phong… Vào thời Tam Quốc, danh y Hoa Đà, sử dụng Đàn hương,
Tử đinh hương để chế hương nang để phòng chống và chữa trị bệnh lao phổi và
bệnh lỵ. Ông còn dùng hoa Cúc, Kim ngân phơi khô cho vào chiếc gối (hương
chẩm) để điều trị chứng đau đầu, mất ngủ, cao huyết áp. Từ thời nhà Hán (năm 168
trước Công nguyên) trong cuốn sách “Thủ hậu bị cấp phương” tác giả đã kê 52 đơn
thuốc chữa bệnh từ các loại cây cỏ. Giữa thế kỷ XVI, Lý Thời Trân đã thống kê
12.000 vị thuốc trong tập “Bản thảo cương mục”,…. [30] Cho đến nay, Trung Quốc
đã cho ra đời khá nhiều công trình về sử dụng các loài cây cỏ để chữa bệnh.
Không chỉ có ở Trung Quốc, nhiều nước khác cũng có những kinh nghiệm
chữa bệnh lâu đời của họ. Ở Ấn Độ, nền y học cổ truyền được hình thành cách đây
hơn 3000 năm. Chủ trương của người Ấn là ngừa bệnh là chính, nếu phải điều trị
bệnh thì các liệu pháp tự nhiên chủ yếu thông qua thực phẩm và thảo mộc sẽ giúp
loại bỏ gốc rễ căn bệnh. Bộ sử thi Vedas được viết vào năm 1.500 TCN và cuốn
Charaka samhita được các thầy thuốc Charaka bổ sung tiếp vào bộ sử thi Vedas,
trình bày cụ thể 350 loài thảo dược. Ấn Độ là quốc gia rất phát triển về nghiên cứu


4
thảo dược như tổng hợp chất hữu cơ, tách chiết chứng minh cấu trúc, sàng lọc sinh
học, thử nghiệm độc tính, và nghiên cứu tác dụng hóa học của các chất tới cơ thể
con người. Hiện nay, chính phủ khuyến khích sử dụng công nghệ cao trong trồng
cây thuốc. Hầu hết các viện nghiên cứu dược của Ấn Độ đã tham gia vào nghiên

cứu chuyển hóa các loại thuốc và hợp chất có hoạt tính từ thực vật [26].
Từ thời cổ xưa, các chiến binh La Mã đã biết dùng dịch cây Lô hội (Aloe
barbadensis) để rửa vết thương, vết loét làm cho chúng chóng lành bệnh mà ngày
nay khoa học đã chứng minh là dịch cây có khả năng làm liền sẹo thông qua sự kích
thích tổ chức hạt và tăng nhanh quá trình biểu mô hóa. Người cổ Hy Lạp đã sử dụng
rau Mùi tây (Coriandrum officinale) để đắp vết thương cho mau lành. Bên cạnh đó
Hippocrat (460 – 377 TCN) là thầy thuốc nổi tiếng người Hy Lạp được mệnh danh
là cha đẻ của y học hiện đại khi ông là người đưa ra quan niệm “Hãy để thức ăn của
bạn là thuốc và thuốc chính là thức ăn của bạn” [14].
Ở Châu Âu, vào thời Trung cổ, các kiến thức về cây thuốc chủ yếu được các
thầy tu sưu tầm và nghiên cứu. Họ trồng cây thuốc và dịch các tài liệu về thảo mộc
bằng tiếng Ả rập. Vào năm 1649, Nicolas Culpeper đã viết cuốn sách “A Physical
Directory”, sau đó vài năm, ông lại xuất bản cuốn “The English Physician”. Đây là
cuốn dược điển có giá trị và là một trong những cuốn sách hướng dẫn đầu tiên dành
cho nhiều đối tượng sử dụng, người không chuyên có thể sử dụng để làm cẩm nang
chăm sóc sức khỏe. Cho đến nay, cuốn sách này vẫn được tham khảo và trích dẫn
rộng rãi [30].
Trong Y học dân gian Liên Xô đã sử dụng nước sắc vỏ cây Bạch dương
(Betula alba), vỏ cây Sồi (Quercus robus) để rửa vết thương và tắm ghẻ. Ở nước
Nga, Đức đã dùng cây Mã đề (Plantago major) sắc nước hoặc giã nát lá tươi đắp,
chữa trị vết thương, viêm tiết niệu, sỏi thận. Tại Bungaria, “đất nước của hoa hồng”
từ lâu đã sử dụng hoa hồng để chữa nhiều bệnh khác nhau. Người ta dùng cả hoa,
lá, rễ để làm thuốc tan huyết ứ và phù thũng. Ngày nay, người ta đã chứng minh
được trong cánh hoa hồng có một lượng tanin, glusit, tinh dầu đáng kể, tinh dầu này
không chỉ để chế nước hoa mà còn được dùng để chữa nhiều bệnh. [30, 28]


5
Thầy lang và những bài thuốc cổ truyền từ thực vật đóng vai trò quan trọng đối
với sức khỏe của hàng triệu người. Tỷ lệ người làm nghề thuốc cổ truyền và các bác

sĩ được đào tạo ở các trường Đại học có liên quan tới toàn bộ dân số của các nước
châu Phi. Ước tính số lượng thầy lang ở Tanzanmia có khoảng 30.000 – 40.000
người, trong đó, bác sĩ làm nghề y chỉ có khoảng 600 người. Tương tự ở Malawi có
khoảng gần 20.000 người làm nghề thuốc cổ truyền nhưng số lượng bác sĩ rất ít.
Nền y học cổ truyền ở các quốc gia Châu Phi có ảnh hưởng lớn đến sức khỏe cộng
đồng. Từ lâu, người Haiiti thường dùng cây Cỏ lào (Eupatorium odoratum) để làm
thuốc chữa những vết thương bị nhiễm khuẩn, cầm máu, áp xe, nhức răng, vết loét
lâu ngày không liền sẹo. Ở Pêru, người ta dùng hạt của cây Sen cạn (Tropaeolum
majus L.) để trị phổi và đường tiết niệu [42, 43].
Ở Cu Ba, người ta đã dùng bột papain lấy từ mủ cây Đu đủ (Carica papaya)
để kích thích hoại tử, kích thích tổ chức hạt ở các vết thương phát triển.
Ở Philippin, người ta sử dụng cây Bồ cu vẽ (Breynia fructicosa) lấy vỏ sắc
làm thuốc cầm máu hoặc tán bột rắc lên mụn nhọt, vết lở loét làm chúng chóng
khỏi. Ở Malaixia, cây Húng chanh (Coleus amboinicus) dùng lá sắc cho phụ nữ sau
khi sinh đẻ uống hoặc giã nhỏ, vắt nước cốt cho trẻ em uống trị sổ mũi, đau họng,
ho gà. Ở Cămpuchia, Malaixia người ta dùng Hương nhu tía (Ocimum sanctum),
trong đó rễ trị đau bụng, sốt rét; nước lá tươi có tác dụng long đờm hoặc giã nát đắp
trị bệnh ngoài da, khớp.
Trong chương trình điều tra cơ bản nguồn tài nguyên thiên nhiên ở khu vực
Đông Nam Á, Perry đã ghi nhận những cây thuốc trong Y học cổ truyền và các loài
cây này đã được các nhà khoa học kiểm chứng, trong đó có 146 loài có tính kháng
khuẩn. [12, 14]. Hay gần đây, tập thể các nhà khoa học đã cho ra đời cuốn sách Tài
nguyên các loài cây thuốc ở Đông Nam Á “Plant Resources of South-East Asia,
Medicinal and poisonous Plant (2001)” với 121 loài cây. [45]
Cùng với phương thức chữa bệnh theo kinh nghiệm dân gian, các nhà khoa
học trên thế giới tiến hành tìm hiểu, nghiên cứu cơ chế và các hợp chất hóa học
trong cây có tác dụng chữa bệnh, đúc rút thành những cuốn sách có giá trị. Các nhà
khoa học công nhận rằng hầu hết các cây cỏ đều có tính kháng sinh, đó là khả năng



6
miễn dịch tự nhiên của thực vật. Tác dụng kháng khuẩn do các hợp chất tự nhiên có
mặt phổ biến trong thực vật như phenolic, antoxy, các dẫn xuất quino, ancaloid,
flavonoid, saponin, … Cho đến nay, nhiều hợp chất tự nhiên đã được giải mã về cấu
trúc, những hợp chất này được chiết xuất từ cây cỏ để làm thuốc. Dựa vào cấu trúc
được giải mã, người ta có thể tổng hợp nên các chất nhân tạo để chữa bệnh. Gotthall
(1950) đã phân lập được chất Glucosid barbaloid từ cây Lô hội (Aloe vera), chất
này có tác dụng với vi khuẩn lao ở người và vi khuẩn Baccilus subtilis. Lucas và
Lewis (1994) đã chiết xuất một hoạt chất có tác dụng với các loài vi khuẩn gây bệnh
tả, lị, mụn nhọt từ Kim ngân (Lonicera sp). Từ cây Hoàng Liên (Coptis teeta),
người ta đã chiết xuất được berberin. Trong lá và rễ cây Hẹ (Allium odorum) có các
hợp chất sulfua, sapoin và chất đắng. Năm 1948, Shen-Chi-Shen phân lập được một
hoạt chất Odorin ít độc đối với động vật bậc cao nhưng lại có tác dụng kháng
khuẩn. Hạt của cây Hẹ cũng có chứa chất Alcaloid có tác dụng kháng khuẩn gram+
và gram-, nấm. Reserpin và Serpentin là chất hạ huyết áp được chiết xuất từ cây Ba
gạc (Rauvolfa spp.). Đặc biệt, Vinblastin và Vincristin vừa có tác dụng hạ huyết áp
vừa có tác dụng làm thuốc chống ung thư, được chiết xuất từ cây Dừa cạn. Digitalin
được chiết xuất từ cây Dương địa hoàng (Digitalis spp.), strophatin được chiết xuất
từ cây Sừng dê (Strophanthus spp) để làm thuốc trợ tim. Từ những thành tựu nghiên
cứu cấu trúc, hoạt tính của các hợp chất tự nhiên, nhiều loại thuốc có tác dụng chữa
bệnh cao đã ra đời bằng tổng hợp hoặc bán tổng hợp.
Dược lý hiện đại chủ yếu tập trung vào các hợp chất tự nhiên có hoạt tính chữa
bệnh trong khi các nhà nghiên cứu về thảo mộc cho rằng tác dụng chữa bệnh của
cây thuốc là do sự kết hợp của nhiều thành phần có trong cây thuốc. Chẳng hạn như
chất khoáng, vitamin, tinh dầu glycosid và nhiều chất khác đóng vai trò quan trọng
trong việc tăng cường hoặc hỗ trợ các đặc tính chữa bệnh của cây thuốc, bảo vệ cơ
thể của các tác nhân gây độc. Trong khi đó, các hợp chất được phân lập và tổng hợp
có khả năng chữa bệnh hiệu quả nhưng vì thiếu đi các hợp chất tự nhiên khác nên
chúng có khả năng gây độc đối với cơ thể. Trước đây, việc sử dụng thảo dược để
chữa bệnh thường bị hiểu lầm với phép thuật và mê tín dị đoan. Ngày nay, khoa học

hiện đại đã chứng minh được khả năng chữa bệnh của thảo mộc. Vì vậy, thế giới


7
ngày càng quan tâm tới cây thuốc cũng như phương pháp chữa bệnh bằng y học cổ
truyền.
Theo thống kê của tổ chức Y tế thế giới (WHO) thì đến năm 1985, có trên
20.000 loài thực vật bậc cao có mạch và ngành thực vật bậc thấp được sử dụng trực
tiếp làm thuốc hoặc cung cấp các hoạt chất tự nhiên để làm thuốc (trong tổng số
250.000 loài đã biết). Trong đó, vùng nhiệt đới Châu Mỹ có hơn 1.900 loài, vùng
nhiệt đới Châu Á có khoảng 6.500 loài thực vật có hoa được dùng làm thuốc. Mức
độ sử dụng thuốc thảo dược ngày càng cao [41].
Khoảng 80% dân số ở các quốc gia đang phát triển sử dụng các phương pháp y
học cổ truyền để chăm sóc sức khỏe, trong đó chủ yếu là cây cỏ. Trung Quốc là
nước đông dân nhất thế giới, có nền y học dân tộc phát triển nên trong số cây thuốc
đã biết hiện nay có tới 80% số loài (khoảng trên 4.000 loài) là được sử dụng theo
kinh nghiệm cổ truyền của các dân tộc ở đât nước này. Ở Ghana, Mali, Nigeria và
Zambia, 60% trẻ em có triệu chứng sốt rét ban đầu được điều trị tại chỗ bằng thảo
dược. Tỷ lệ dân số tin tưởng vào hiệu quả sử dụng thảo dược và các biện pháp chữa
bệnh bằng y học cổ truyền cũng đang tăng nhanh ở các quốc gia phát triển. Ở Châu
Âu, Bắc Mỹ, và một số nước khác, ít nhất 50% dân số sử dụng thực phẩm bổ sung
hay thuốc thay thế từ thảo mộc. Ở Đức, 90% dân số sử dụng các phương thuốc có
nguồn gốc thiên nhiên để chăm sóc sức khỏe. Ở Anh, chi phí hàng năm cho các loại
thuốc thay thế từ thảo mộc là 230 triệu đôla [43].
Tuy nhu cầu sử dụng cây thuốc của con người trong việc chăm sóc sức khỏe
ngày một tăng, nhưng nguồn tài nguyên thực vật đang bị suy giảm. Nhiều loài thực
vật đã bị tuyệt chủng hoặc đang bị đe dọa tuyệt chủng do các hoạt động trực tiếp và
gián tiếp của con người. Theo tổ chức Bảo tồn thiên nhiên và tài nguyên thiên nhiên
(IUCN) cho biết, trong tổng số 43.000 loài thực vật mà cơ quan này lưu giữ thông
tin có tới 30.000 loài được coi là đang bị đe dọa tuyệt chủng ở các mức độ khác

nhau. Trong đó có nhiều loài là cây thuốc quý hiếm, có giá trị kinh tế cao. Chẳng
hạn như ở Bangladesh, một số cây thuốc quý như Tylophora indicia để chữa hen,
Zannia indicia (thuốc tẩy xổ)…trước đây mọc rất phổ biến, nay đã trở nên hiếm hoi.
Loài Ba gạc (Rauvolfila serpentina) vốn mọc rất tự nhiên ở Ấn Độ, Bangladesh,


8
Thái Lan…mỗi năm có thể khai thác hàng ngàn tấn nguyên liệu xuất khẩu sang thị
trường Âu, Mỹ làm thuốc chữa cao huyết áp. Tuy nhiên, do bị khai thác liên tục
nhiều năm nên nguồn gốc cây thuốc này đã bị cạn kiệt. Vì vậy một số bang ở Ấn Độ
đã đình chỉ khai thác loài Ba gạc này [9]. Ở Trung Quốc, loài Từ (Dioscorea sp.) đã
từng có trữ lượng lớn và từng được khai thác tới 30.000 tấn, nhưng hiện nay số
lượng bị giảm đi rất nhiều, có loài đã phải trồng lại. Một vài loài cây thuốc dân tộc
quý như Fritillaria cirrhosa làm thuốc ho, phân bổ nhiều ở vùng Tây bắc tỉnh Tứ
Xuyên nay chỉ còn có ở 1 đến 2 điểm với số lượng ít ỏi.
Nguyên nhân gây nên sự suy giảm nghiêm trọng về mặt số lượng của các loài
cây thuốc trước hết là do sự khai thác quá mức nguồn tài nguyên dược liệu và do
môi trường sống của chúng bị hủy diệt bởi các hoạt động của con người. Đặc biệt, ở
các vùng rừng nhiệt đới và Á nhiệt đới là nơi có mức độ đa dạng sinh học cao của
thế giới nhưng lại bị tàn phá nhiều nhất. Theo số liệu của tổ chức Nông Lương
(FAO) của Liên hợp quốc, trong vòng 40 năm (1940 – 1980), diện tích của các loại
rừng kể trên đã bị thu hẹp tới 44%, ước tính khoảng 75.000 hecta rừng bị phá hủy.
Trong thế kỷ 21, với mục đích phục vụ sức khỏe con người, sự phát triển của
xã hội, chống lại các bệnh nan y thì sự cần thiết là phải kết hợp giữa Đông Y với
Tây Y, giữa Y học hiện đại và Y học cổ truyền của các dân tộc. Chính những kinh
nghiệm của các dân tộc chính là chìa khóa giúp chúng ta khám phá ra nhiều loại
thuốc mới cho tương lai. Chính vì điều đó mà việc bảo tồn, khai thác và phát triển
các loài cây thuốc cần được chú ý quan tâm.
1.2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ SỬ DỤNG CÂY THUỐC Ở VIỆT NAM.
Cũng như các dân tộc khác, nền y học cổ truyền của Việt Nam đã có từ rất lâu

đời, nhiều phương thuốc bào chế từ cây thuốc được áp dụng chữa bệnh trong dân
gian. Những kinh nghiệm này đã được ghi chép thành những cuốn sách có giá trị và
lưu truyền rộng rãi trong nhân dân. Với lợi thế về khí hậu nhiệt đới gió mùa nóng và
ẩm, Việt Nam có nguồn tài nguyên thực vật phong phú. Ước tính, nước ta có
khoảng 12.000 loài thực vật bậc cao có mạch, 800 loài rêu, 600 loài nấm và hơn
2.000 loài tảo. Có khoảng gần 4.000 loài thực vật bậc cao dùng làm thuốc [37].


9
Dưới thời Hồng Bàng và các vua Hùng Vương (năm 2400-258 trước Công
nguyên) qua các văn tự hán nôm còn sót lại, tổ tiên ta đã biết dùng cây cỏ làm gia
vị, kích thiết sự ngon miệng và chữa bệnh. Theo Long Úy chép lại, vào đầu thế kỷ
thứ 2 trước Công nguyên, có hàng trăm vị thuốc từ đất Giao Chỉ như Ý dĩ (Coix
lachryma-jobi), Hoắc hương (Pogostemon cablin), hay việc tìm ra bột đao trong
than cây Báng, quả Cọ, Móc có chất bổ ăn để chống đói; dung Gừng ăn với chim,
cá, ba ba cho đỡ tanh và dễ tiêu hoá, từ đó đã bắt nguồn tục dùng Gừng, Hành,
Tỏi,… làm gia vị trong bữa ăn hàng ngày để phòng bệnh. [14]
Trong cuốn sách “Nam Dược Thần Hiệu” và “Hông Nghĩa Giác Tư Y Thư”
của Tuệ Tĩnh đã mô tả hơn 630 vị thuốc, 50 đơn thuốc chữa các loại bệnh trong đó
37 đơn thuốc chữa bệnh thương hàn. Hai cuốn sách này được xem là những cuốn
sách xuất hiện sớm nhất về cây thuốc Việt Nam. Đời nhà Trần có Phạm Ngũ Lão
thừa lệnh Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, thu thập trông nom một vườn thuốc
lớn để chữa bệnh cho quân sĩ, gọi là “Sơn dược”, nay vẫn còn di tích tại xã Hưng
Đạo, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Đến thế kỷ 18, Hải Thượng Lãn Ông Lê
Hữu Trác đã xuất bản bộ sách lớn “Y Tông Tâm Tĩnh” gồm 28 tập, 66 quyển đã mô
tả khá chi tiết về các loài thực vật, các đặc tính chữa bệnh [16].
Thời kỳ Pháp thuộc (1884 - 1945), nền y học cổ truyền của Việt Nam chịu
nhiều ảnh hưởng của dược học phương Tây. Các phương thức chữa bệnh mới được
mang đến qua quá trình khai thác thuộc địa, họ đã gián tiếp thúc đẩy quá trình
nghiên cứu thực vật của Việt Nam nói chung và nghiên cứu cây thuốc nói riêng.

Đặc biệt bộ sách “Thực vật chí đại cương Đông Dương” của Lecomte (chủ biên)
xuất bản cuối thể kỷ 18 đầu thể kỷ 19 đã mô tả và phân loại hơn 7.000 loài thực vật.
Bộ sách “Danh mục các sản phẩm ở Đông Dương” của C. Crévost và A. Pétélot
năm 1935 đã thống kê được 1.340 vị thuốc có nguồn gốc thảo mộc được dùng trong
y học của Đông Dương [40]. Đến năm 1993 Nguyen Van Duong xuất bản cuốn
“Những cây thuốc của Campuchia, Lào và Việt Nam” với 524 trang và thống kê
khoảng 1.480 loài thực vật. Tuy nhiên cuốn sách này chưa hoàn thiện về mô tả,
phân bố, thành phần hóa học và dược lý của các loại thảo mộc [46].


10
Năm 1957, Hội Đông Y Việt Nam (nay là hội Y học Cổ truyền Việt Nam)
được thành lập, lãnh đạo các lương y làm nghề chữa bệnh trong nhân dân. Cũng
trong năm này, Viện nghiên cứu Đông Y (nay là viện Y học Cổ truyền Việt Nam)
với mục tiêu chỉ đạo các bệnh viện Y học dân tộc và các tỉnh, kết hợp giữa Y học cổ
truyền với Y học hiện đại từ trung ương đến cơ sở. Năm 1961, Viện Dược liệu được
thành lập chuyên trách việc nghiên cứu nuôi trồng dược liệu, đã tiếp thu các viện
nghiên cứu Đông Y chuyển sang, các vườn thuốc ở Văn Điển (Hà Nội), Tam Đảo
(Vĩnh Phúc), Sa Pa (Lào Cai) cũng được xây dựng từ đây. Đây là các mốc thời gian
quan trọng trong lịch sử nghiên cứu cây thuốc của đất nước [14].
Trong thời gian chiến tranh (1954-1975), vùng căn cứ ở hậu phương vẫn dùng
thuốc nam và “toa thuốc căn bản” gia giảm, thời kháng chiến chống Pháp trước đây
và phát hiện nhiều vị thuốc mới như cây Dền chữa sốt rét bổ máu, Bèo tây giải độc
hoá chất. Từ sau khi miền Nam được giải phóng, y dược học dân tộc đã phát triển ở
khắp cả nước. Nhiều công trình biên soạn giảng dạy, nghiên cứu khoa học y dược,
phòng bệnh dưỡng sinh, xoa bóp, châm cứu, trị bệnh bằng thuốc theo y học cổ
truyền, và kết hợp y học cổ truyền và y học hiện đại đã được tổng kết và có tác dụng
tăng cường khả năng bảo vệ sức khoẻ nhân dân [14].
Gần đây, Phạm Hoàng Hộ (1991-1993) đã xuất bản bộ sách “Cây cỏ Việt
Nam” đã giới thiệu được công dụng làm thuốc của nhiều loài thực vật [17]. Đỗ Tất

Lợi (1995) đã xuất bản bộ sách “Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam” và tái bản
vào năm 2000 [25]. Công trình này thống kê gần 800 loài cây, con và vị thuốc,
trong đó nhiều loài thực vật đã được mô tả về mặt cấu tạo, phân bố, cách thu hái và
chế biến, thành phần hóa học, công dụng và liều dùng.
Võ Văn Chi (1997) trong cuốn sách từ điển cây thuốc Việt Nam, đã mô tả
được 3.200 loài cây thuốc, trong đó thực vật có hoa là 2.500 loài thuộc 1.050 chi,
được xếp và 230 họ thực vật theo hệ thống của Takhtajan [8]. Tác giả đã trình bày
về cách nhận biết, các bộ phận được sử dụng, nơi sống và thu hái, thành phần hóa
học, tính vị và tác dụng, công dụng của các loài thực vật [8]. Đến năm 2000, Võ
Văn Chi và Trần Hợp tiếp tục giới thiệu cuốn sách “Cây cỏ có ích ở Việt Nam” mô


11
tả khoảng 6.000 loài thực vật bậc cao có mạch với các đặc điểm hình thái, sinh thái,
phân bố và công dụng [9].
Trong nghiên cứu cây thuốc, không thể không kể đến nhiều bộ công trình có
giá trị của Viện Dược liệu (Bộ Y Tế). Năm 1980, Đỗ Huy Bích và tập thể nghiên
cứu của Viện Dược Liệu đã giới thiệu 159 loài cây thuốc trong “Sổ tay cây thuốc
Việt Nam”. Hay Tập thể các tác giả Viện Dược liệu cho ra đời cuốn “Tài nguyên
Cây thuốc Việt nam” (1993) với khoảng 300 loài cây thuốc đang được khai thác và
sử dụng ở các mức độ khác nhau trong toàn quốc, “Dược điển Việt Nam, 2 tập”
(1994), “Selected medicinal plants in Vietnam” (2001), và gần đây nhất là cuốn
“Cây thuốc và động vật là thuốc ở Việt Nam, 2 tập” (2004) [3, 39, 40,50].
Nguyen Van Duong (1993), đã xuất bản cuốn “Medicinal plants of Vietnam,
Cambodia and Laos”, trong đó có 879 loài cây thuốc được mô tả vắn tắt cũng công
dụng của chúng [46].
Trần Đình Lý (1993) và cộng sự đã xuất bản cuốn sách “1900 loài cây có ích”.
Trong số các loài thực vật bậc cao có mạch đã biết ở Việt Nam có 76 loài cho nhựa
thơm, 160 loài có tinh dầu, 260 loài cho dầu béo, 600 chứa tanin, 500 loài cây gỗ có
giá trị cao, 400 loài tre nứa, 40 loài song mây. Trong số các nhóm thực vật này, rất

nhiều loài có công dụng làm thuốc. Năm 1995 Vương Thừa Ân cho ra đời cuốn
“Thuốc quý quanh ta”, Ngô Trực Nhã với “Cây thuốc trong trường học”, [34]...
Bên cạnh đó, nhiều cuốn sách có giá trị trong nghiên cứu về tài nguyên cây
thuốc ở Việt Nam như Nguyễn Tiến Bân và cộng sự (2003, 2005) đã công bố bộ
sách “Danh lục các loài thưc vật Việt Nam” [2]. Cuốn sách đã trình bày đầy đủ các
thông tin về tên khoa học, tên thường gọi, nhận dạng, phân bố, dạng sống – sinh
thái và công dụng. Bộ sách này rất có ý nghĩa cho việc tra cứu hệ thực vật nói chung
và tra cứu thành phần loài cây thuốc nói riêng.
Trong những năm qua, nhà nước Việt Nam đã có nhiều chính sách đầu tư cho
công tác điều tra, nghiên cứu về cây thuốc và kế thừa nền y học cổ truyền, phục vụ
cho nhu cầu chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe của nhân dân. Các ngành Y tế, Lâm
nghiệp và Sinh học đã tiến hành nhiều đợt điều tra cơ bản, đặc biệt là chương trình
điều tra nghiên cứu cây thuốc của Viện Dược liệu – Bộ Y tế đã tiến hành trên phạm


12
vi toàn quốc. Đến nay ở nước ta có khoảng 3.948 loài cây thuốc được ghi nhận,
thuộc 307 họ của 9 ngành thực vật bậc cao và bậc thấp, bao gồm cả nấm. Kết quả
điều tra được ghi nhận là các kinh nghiệm sử dụng cây thuốc của cộng đồng dân tộc
ở các địa phương trong cả nước [3]. Hay các nhà khoa học thuộc Viện Sinh thái và
Tài nguyên Sinh vật trong những năm qua đã có nhiều công trình nghiên cứu về tri
thức và kinh nghiệm sử dụng cây thuốc của các dân tộc thiểu số ở Việt Nam. Đặc
biệt là các nghiên cứu về y học cổ truyền của các dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc
trong những năm gần đây như: Đề tài Xây dựng luận cứ khoa học để bảo vệ tri thức
bản địa cho việc sử dụng đa dạng sinh học [42]; Nghiên cứu và ứng dụng thành
công tri thức sử dụng cây Ngấy (Rubus cochinchinesis) của đồng bào dân tộc trong
việc chữa trị u tiền liệt tuyến của tác giả Lưu Đàm Cư và cộng sự (2002). Năm
2001, Nguyễn Thị Phương Thảo và cộng sự đã điều tra đánh giá về tài nguyên cây
thuốc và kinh nghiệm sử dụng các loài thực vật làm thuốc của một số cộng đồng
dân tộc Dao, Tày và Hoa tại Yên Tử - Quảng Ninh và đã thu thập được 362 loài

thực vật làm thuốc. Năm 2005, tác giả đã thực hiện đề tài “Nghiên cứu tác động
kinh tế - dân sinh của các cộng đồng dân tộc vào tài nguyên thực vật và ảnh hưởng
của nó tới đa dạng sinh học tại Chiềng Yên – Mộc Châu – Sơn La”. Kết quả đã
thống kê được 209 loài cây thuốc do người Mường sử dụng và 176 cây thuốc được
người Dao sử dụng. Hay công trình của Nguyễn Nghĩa Thìn và cộng sự về “Cây
thuốc của đồng bào dân tộc Thái ở Con Cuông, tỉnh Nghệ An” [34].
1.3. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ SỬ DỤNG CÂY THUỐC Ở KHU BTTN
HANG KIA – PA CÒ, TỈNH HÒA BÌNH.
Trước đây, khu BTTN Hang Kia – Pà Cò cũng như nhiều vùng núi khác, việc
chăm sóc sức khỏe, khám chữa bệnh cho người dân còn rất hạn chế và khó khăn.
Người dân tự tìm hiểu và tìm ra được nhiều loài cây rừng có tác dụng chữa bệnh.
Những tri thức và kinh nghiệm sử dụng những loài cây để chữa bệnh đã được người
dân địa phương giữ gìn và lưu truyền lại qua nhiều đời, nhiều thế hệ sau. Về sau,
một phần nhỏ người dân, chủ yếu là các bà mế, ông lang ở đây đã đưa một số loài
cây thuốc về trồng trong vườn nhà. Tuy nhiên đó chỉ là số lượng nhỏ, một số loài


13
không thể trồng được nên họ vẫn khai thác nguồn tài nguyên cây thuốc trong rừng
để chữa bệnh, trao đổi mua bán.
Năm 2003, Viện Sinh thái và tài nguyên sinh vật, thuộc Viện Khoa học và
Công nghệ Việt Nam đã tiến hành đề tài “Xây dựng luận cứ khoa học để bảo vệ tri
thức bản địa cho việc sử dụng đa dạng sinh học” có triển khai tại khu BTTN này.
Bên cạnh đó, việc điều tra nghiên cứu về tri thức bản địa và kinh nghiệm sử dụng
cây thuốc của đồng bào Thái tại Mai Châu – Hòa Bình của tác giả Nguyễn Tiến Bân
và cộng sự cũng đã được triển khai [42].
Năm 2009, Phạm Quốc Hùng và Hoàng Ngọc Ý đã tiến hành đề tài ”Nghiên
cứu tri thức bản địa trong bảo vệ rừng của người Mông tại khu BTTN Hang Kia –
Pà Cò, tỉnh Hoà Bình” trong đó, các tác giả cũng có điều tra trong cộng đồng các
dân tộc cách thức sử dụng các loài thực vật và một số bài thuốc của đồng bào dân

tộc H’Mông thường sử dụng [18].
Như vậy, cho đến nay vẫn chưa có một công trình nghiên cứu nào về vấn đề
cây thuốc và vị thuốc của đồng bào dân tộc Mường tại khu BTTN Hang Kia – Pà
Cò được xuất bản, chưa có dự án nào về bảo tồn các loài cây thuốc hiện có trong
nguồn gen thực vật của khu BTTN này được triển khai.


14

CHƯƠNG 2
MỤC TIÊU, ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. MỤC TIÊU CỦA ĐỀ TÀI
2.1.1. Tập hợp một cách có hệ thống các loài thực vật được đồng bào dân tộc
Mường ở khu BTTN Hang Kia – Pà Cò, tỉnh Hoà Bình sử dụng làm thuốc.
2.1.2. Đánh giá mức độ đa dạng về thành phần các taxon, các bệnh chữa trị, các bộ
phận sử dụng và dạng sống của những loài thực vật được đồng bào dân tộc Mường
ở khu bảo tồn thiên nhiên Hang Kia – Pà Cò, tỉnh Hoà Bình sử dụng làm thuốc.
2.2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Các loài thực vật bậc cao có mạch được đồng bào dân tộc Mường ở khu
BTTN Hang Kia – Pà Cò, tỉnh Hoà Bình sử dụng làm thuốc.
Một số bài thuốc của đồng bào dân tộc Mường ở khu BTTN Hang Kia – Pà
Cò, tỉnh Hòa Bình đang lưu trữ và sử dụng.
Thời gian thực hiện: Từ tháng 12 năm 2010 đến tháng 10 năm 2011.
2.3. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
2.3.1. Đa dạng loài: Thu thập và xử lý mẫu vật, xác định tên, xây dựng danh lục và
phân tích đánh giá đa dạng các loài thực vật được đồng bào dân tộc Mường ở
khu BTTN Hang Kia – Pà Cò, tỉnh Hoà Bình sử dụng làm thuốc.
2.3.2. Sự phân bố các loài cây thuốc theo môi trường sống.
2.3.3. Xây dựng sơ đồ phân bố các loài cây thuốc có giá trị cần được bảo vệ.
2.3.4. Vấn đề sử dụng cây thuốc: Đa dạng về công dụng chữa trị của các loài cây

thuốc, bộ phận của cây được sử dụng làm thuốc. Một số bài thuốc.
2.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.4.1. Điều tra thực địa theo tuyến: Điều tra khảo sát sơ bộ sau đó ta tiến hành
chọn tuyến điều tra. Tuyến được chọn phải đảm bảo yêu cầu phải chạy qua các sinh
cảnh đặc trưng cho khu bảo tồn. Trên mỗi tuyến cắt ngang chọn các ô tiêu chuẩn là


15
những điểm chốt đặc trưng nhất để nghiên cứu đa dạng tài nguyên cây thuốc (theo
Nguyễn Nghĩa Thìn, 1997).
Trên mỗi tuyến, tiến hành điều tra các loài cây thuốc của đồng bào dân tộc
Mường sử dụng trong phạm vi 10 m mỗi bên. Mỗi loài lấy 5-6 tiêu bản.
Sau thời gian một năm với 2 chuyến điều tra thực địa, được sự giúp đỡ của
BQL khu BTTN Hang Kia - Pà Cò và các trạm kiểm lâm trực thuộc, các ông lang,
bà mế, chúng tôi đã tiến hành 2 chuyến điều tra khảo sát và thu mẫu trong phạm vi
khu vực nghiên cứu.
* Các tuyến điều tra thực địa là:
+ xã Cun Pheo: tuyến núi Cun, tuyến Tà Phèng
+ xã Hang Kia: tuyến đi Pá Khôm, tuyến đi Bản Hang Kia
+ xã Pà Cò: tuyến đi Pà Háng Con, tuyến đi Pà Cò Lớn, tuyến đi Pà Háng
Lớn, tuyến đi Chà Đáy, tuyến đi Sài Lình, tuyến đi Bản Căng.
+ xã Bao La: tuyến đi Bản Bấu
+ xã Tân Sơn: tuyến đi Bò Báu, tuyến đi Tam Hoà
* Các ông lang, bà mế đã phỏng vấn là:
+ Ông Bạch Chí Tình, xóm Bàu Báu, xã Tân Sơn
+ Bà Quách Thị Đông, xóm Tam Hoà, xã Tân Sơn
+ Bà Bùi Thị Lương, thôn Sài Lình, xã Pà Cò
+ Bà Bùi Thị Lý, thôn Pà Khóm, xã Hang Kia
+ Bà Quách Thị Thái, thôn Pà Khóm, xã Hang Kia
2.4.2. Thu thập số liệu, tài liệu:

+ Tiến hành thu thập số liệu từ các nguồn thông tin đáng tin cậy như các báo cáo
khoa học của khu bảo tồn, kỷ yếu, tạp chí khoa học, internet, ….


16
+ Phương pháp phỏng vấn nhanh có sự tham gia của người dân (PRA): Phỏng
vấn đồng bào, các cán bộ làm công tác quản lý, nhất là các ông lang, bà mế, các
lương y dân tộc Mường tại khu BTTN Hang Kia – Pà Cò, tỉnh Hoà Bình thông qua
các bảng câu hỏi đã được xây dựng sẵn để sưu tầm và phát hiện các bài thuốc, cây
thuốc sử dụng theo kinh nghiệm dân gian. Mỗi cây thuốc, bài thuốc đều có mẫu thu
và ghi chép các thông tin cần thiết như công dụng, bộ phận sử dụng, cách sử dụng
của cây (phụ lục 2).
+ Thu thập các loài thực vật làm thuốc được đồng bào dân tộc Mường ở khu BTTN
Hang Kia – Pà Cò sử dụng (theo Nguyễn Nghĩa Thìn, 1997; Nguyễn Thượng Dong
và cộng sự, 2006).
2.4.3. Xử lý số liệu
+ Phương pháp chuyên gia: Dựa vào kinh nghiệm của các chuyên gia đặc biệt là các
vấn đề như xác định tên khoa học của các mẫu đã thu hái, các thuật ngữ về các bệnh
được chữa trị.
+ Phương pháp xử lý mẫu vật, chỉnh lý tên khoa học (theo Nguyễn Nghĩa Thìn,
1997). Các tiêu bản tươi được thu thập ngoài thực địa tiếp tục xử lý trong phòng thí
nghiệm tại Phòng Thực vật, Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật. Các mẫu sau khi
sấy khô được ngâm tẩm bằng dung dịch cồn chứa 0,3-0,5% HgCl2 để diệt khuẩn và
chống côn trùng phá hại. Các mẫu tiêu bản được sấy khô, ép khẳng, trình bày và
khâu trên giấy bìa cứng kích thước 28 cm x 42 cm.
+ Xác định tên khoa học, kiểm tra, chỉnh lý tên theo các tài liệu chính là các tập Cây
cỏ Việt Nam (Phạm Hoàng Hộ), Thực vật chí Việt Nam (nhiều tác giả), Danh lục
các loài thực vật ở Việt Nam (nhiều tác giả) cùng nhiều tài liệu liên quan khác,….
+ Xây dựng danh lục: Điều chỉnh khối lượng họ, chi theo hệ thống của bộ Sách
“Danh lục các loài thực vật ở Việt Nam” 3 tập [4,5,6]. Danh lục được xây dựng theo

nguyên tắc sự phát triển của các ngành thực vật từ Lá thông đến thực vật Hạt kín.
Trong mỗi ngành các họ, chi loài được xếp theo vần ABC. Riêng ngành thực vật
Hạt kín do khối lượng lớn nên chia thành 2 lớp Hai lá mầm và lớp Một lá mầm, sau


17
đó cũng xếp tương tự như trên. Danh lục ngoài tên khoa học, tên Việt Nam của các
loài còn có các thông tin khác như công dụng, dạng sống, môi trường sống của các
loài thực vật, bộ phận sử dụng và cách thức sử dụng loài đó làm thuốc như mô hình
bảng 2.1.
Bảng 2.1. Bảng danh lục các loài thực vật làm thuốc (mẫu)
TÊN KHOA
HỌC

TT

TÊN VIỆT
NAM

CÔNG
DỤNG

BỘ
PHẬN
DÙNG

CÁCH
DÙNG

DẠNG

CÂY

MÔI
TRƯỜNG
SỐNG

1
2
3
+ Xác định các loài quí hiếm có nguy cơ bị tiêu diệt: Trên cơ sở danh lục thực vật,
lập danh sách các loài quí hiếm ở khu BTTN Hang Kia – Pà Cò. Các loài được xác
định quí hiếm có nguy cơ bị tiêu diệt dựa vào tiêu chí của các công trình sau:
-

Sách đỏ Việt Nam, 2007 [5];

-

Danh lục các loài thực vật quý hiếm của IUCN, 2009 [21];

-

Nghị định số 32 của chính phủ về các loài động thực vật quý hiếm [10].

+ Đánh giá tính đa dạng của các loài cây thuốc, về dạng sống của các loài cây
thuốc, mô trường sống của các loài cây thuốc, về tần số sử dụng các bộ phận, về số
lượng các bộ phận sử dụng làm thuốc (theo Viện Dược liệu).
+ Các nhóm bệnh được phân chia theo tài liệu của Lê Trần Đức (1997) “Cây thuốc
Việt Nam trồng hái chế biến và trị bệnh ban đầu”. Chi tiết như sau:
- Nhóm 1: Bệnh ngoại cảm (gồm cảm mạo phát sốt ớn lạnh, nghẹt mũi, cảm cúm

hơi sốt sợ lạnh, đau mỏi, cảm gió lạnh, rét run, cảm nóng rét nắng mưa thời khí hỗn
tạp, cảm về mùa hè nôn đầy, cảm cúm mùa hè sốt dai đau mình, cảm nắng hay sốt
nóng đơn thuần, nóng rét qua lại, sốt rét cơn, sốt dị ứng, phát ngứa sưng phù, bệnh
ôn nhiệt sốt hè thu, trúng gió méo mồm lệch mắt, trúng phong thấp hôn mê co cứng,
trúng phong hàn hôn mê quyết lạnh).


18
- Nhóm 2: Bệnh về hô hấp (ngạt mũi, sổ mũi, hắt hơi, viêm mũi dị ứng, ho, viêm
họng, ho đờm, ho khan, viêm phế quản, viêm phổi, sưng phổi, hen phế quản, hen
suyễn, suyễn thở, ho lao).
- Nhóm 3: Bệnh về huyết mạch (gồm các loại chảy máu, huyết áp cao, huyếp áp
thấp, hạ đường huyết, mạch máu xơ cứng (tắc mạch, giãn mạch), đau tim).
- Nhóm 4: Bệnh về tâm thần (gồm khó ngủ hồi hộp, ngủ lờ mờ không sâu, dễ tỉnh,
điên cuồng, tinh thần phân liệt (sầu uất), động kinh, kinh giản).
- Nhóm 5: Bệnh về tiêu hoá (nghẹn nuốt khó, nấc cụt, ợ, nôn oẹ, nôn mửa, đau
bụng không tiêu, đau bụng lạnh dạ, nóng ruột, chán cơm, táo bón, ỉa chảy phân
loãng, sống phân, ỉa xối ra nước không dứt, lỵ mới phát, lỵ ra máu, có sốt, lỵ mạn
tính, thổ tả, đau bụng giun quấy, trục giun, ngộ độc, đau dạ dày, viêm đại tràng mạn
tính, lòi dom và trĩ mới phát).
- Nhóm 6: Bệnh về tiết niệu và gan thận (gồm tiểu tiện không thông, đái buốt, đái
đục, đái dưỡng trấp, đái ra cát sỏi, phù thũng, viêm cầu thận cấp, thuỷ thũng, viêm
gan, truyền nhiễm, sưng gan (áp-xe), viêm gan mãn tính, xơ gan mãn tính, xơ gan
cổ trướng, viêm túi mật, sỏi mật, đái tháo nhạt không rõ nguyên nhân, đái tháo
đường, viêm tiền liệt tuyến, vô niệu do nhiễm độc hay uất hoả).
- Nhóm 7: Bệnh về sinh dục (gồm thận hư, tinh yếu, di mộng tiết hoạt tinh, liệt
dương).
- Nhóm 8: Bệnh suy nhược không đau (gồm cơ thể hư nhược, tinh thần suy
nhược, tự ra mồ hôi khi ra gió, ra mồ hôi ở tay chân, bốc nóng giữa đỉnh đầu).
- Nhóm 9: Các bệnh đau nhức (đau đầu chóng mặt, đau đầu ê ẩm, nặng đầu, đau

đầu như búa bổ, đau nửa đầu liền với mắt, mắt đau sưng đỏ, đau mắt trắng, mặt mờ,
đau răng, viêm lợi, đau ngang lưng (thần kinh hông), phong thấp, tê thấp, thấp thở,
phong nhiệt nhức nhói, đầu gối sưng đau, tê phù, đau lưng trên, bả vai, cánh tay, nổi
hạch, viêm hạch, lao hạch, viêm tinh hoàn (sa đì), bại liệt nửa người, xuất huyết
dạng thấp (thấp cơ).
- Nhóm 10: Bệnh ngoài da (gồm đơn độc sưng tấy, mụn nhọt, lở ngứa các loài,
thuốc dùng ngoài đối với từng loại lở ngứa, lở nấm, tổ đỉa, chín mé, hắc lào, lở


19
chàm, ghẻ, lang ben, lang trắng, mụn cóc, bướu cổ, phủi, lở cùi, tràng nhạc hay lao
hạch).
- Nhóm 11: Bệnh ngoại thương (gồm bị thương, bị ngã, bị thương chảy máu, bị
bỏng, rắn cắn).
- Nhóm 12: Bệnh phụ nữ (gồm kinh không đều, thấy sớm kỳ, kinh thấy chậm kỳ,
kinh loạn kỳ, kinh nguyệt gián đoạn thất thường, kinh bế, rong kinh, băng huyết nhẹ
do cơ năng; khí hư, bạch đới, viêm phần phụ, viêm âm hộ, âm đạo sưng đau, Sa
sinh dục (sa dạ con), u xơ tử cung, mót đái do viêm các cơ quan sinh dục, vô kinh
do giảm chức năng buồng trứng, tắc tia sữa, viêm tuyến vú, u xơ tuyến vú, áp xe vú,
nhọt vú, vú bị lở, đứt cổ gà, nôn nghén, động thai, phòng sẩy thai, sau khi đẻ say
máu; sau khi đẻ cảm sốt, sau khi đẻ phù nề).
- Nhóm 13: Bệnh trẻ em (gồm ợ, nấc cụt, trớ sữa, ói sữa, trẻ ỉa chảy phọt toé ra
nước, ỉa chảy phân loãng, ỉa phân sống, cam tích, cam tướt, cam lỵ, còi xương, suy
dinh dưỡng, cam thũng, quai bị, ho gà, sởi, thủy đậu, sốt bại liệt, viêm màng não B
và di chứng, sổ xuất huyết do muỗi, sưng amidan, viêm tai, thấp tim, đái dầm, thoát
vị thừng tinh, lở chàm, chốc đầu – mô đầu, rôm sảy, tưa lưỡi, lở mồm).
+ Sơ đồ phân bố các loài thực vật quý hiếm: Căn cứ vào các điểm đã phát hiện được
cây thuốc ngoài thực địa (đã được xác định vị trí bằng GPS và đánh dấu vào bản đồ
điều tra), đánh dấu điểm phân bố của loài trên bản đồ (theo Nguyễn Thượng Dong
và cộng sự, 2006).



20
CHƯƠNG 3
ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN VÀ XÃ HỘI KHU BẢO TỒN THIÊN NHIÊN HANG
KIA – PÀ CÒ, TỈNH HOÀ BÌNH
3.1. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN KHU VỰC NGHIÊN CỨU
3.1.1. Vị trí địa lý, ranh giới, diện tích
3.1.1.1. Vị trí địa lý, diện tích:
Khu bảo tồn thiên nhiên Hang Kia – Pà Cò nằm trọn trong hai xã vùng cao
Hang Kia – Pà cò, và một dải rừng trên núi đá vôi còn sót lại (có diện tích không
đáng kể) của ba xã Cun Pheo, Piềng Vế, Bao La, chạy dọc theo ranh giới với khu
bảo tồn thuộc địa phận xã Tân Sơn và Hang Kia.
Tọa độ địa lý: - Từ 200 40’30’’ đến Từ 200 45’30’’ độ vĩ Bắc.
- Từ Từ 1040 51’20’’ đến 1050 00’35’’ độ kinh Đông.
Độ cao so với mực nước biển: Độ cao thấp nhất  200 m; Độ cao cao nhất 
1000 m.
Diện tích khu Bảo tồn 6.462,2 ha.
3.1.1.2. Ranh giới khu bảo tồn Hang Kia – Pà Cò:
+ Phía Bắc giáp các xã Lóng Luông, Chiềng Yên của huyện Mộc Châu tỉnh Sơn La.
+ Phía Nam giáp các Xã Cun Pheo, Piềng Vế, Bao La của huyện Mai Châu, tỉnh
Hòa Bình.
+ Phía Đông giáp các xã Đồng Bảng, Nà Mèo của huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình.
+ Phía Tây giáp các xã Xuân Nha, Lóng Luông của huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La.
3.1.2. Địa chất, địa hình
3.1.2.1. Địa chất
Nền địa chất khu bảo tồn có lịch sử kiến tạo thuộc kỷ địa chất. Đệ Tam
(Tortiazv), thời kỳ Ladini, cách ngày nay khoảng 220 triệu năm. Địa hình kiến tạo
chịu nhiều ảnh hưởng của hoạt động tạo sơn Indexin kỷ Triat thuộc đại trung sinh.
Núi đá vôi khu vực có tuổi địa chất trẻ (Kỷ đệ tam), nên các dãy núi ở đây được

xem như là núi trẻ có đỉnh núi nhọn nhưng trong quá trình bào mòn địa chất tự
nhiên không mạnh mẽ.
+ Đá mẹ: Đá mẹ trong khu bảo tồn thuộc 3 nhóm chính:


21
- Đá Trầm tích mà Đá Vôi, Cuội Sỏi kết là đại diện cơ bản, rộng khắp.
- Đá Mác ma a xít với các loại đá phổ biến như Granit, Sa thạch khối, Phấn sa,
Đá sét, ... có rải rác.
- Đá biến chất với nhiều loại khác nhau nhưng không nhiều.
Trừ hệ thống núi đá vôi phân bố theo dải, còn các loại đá mẹ khác Đá sét,
Phiến thạch sét, Phấn sa, Sa thạch thô, Cuội kết thường không đại diện, chúng phân
bố theo vệt, theo vùng nhỏ trên nền đá vôi cổ. Sự đa dạng về đá mẹ đã tạo ra các
loại đất khác nhau, là điều kiện cho nhiều loài cây ưa thích đất đá khác nhau phân
bố trong khu vực.
+ Các loại đất chính trong khu vực: Theo luận chứng kinh tế kỹ thuật, trong khu
BTTN Hang Kia – Pà Cò có 5 nhóm đất chính như sau:
- Đất Feralit mùn trên núi đá vôi nằm trên đỉnh các núi đá vôi có diện tích nhỏ
( 25,5 ha).
- Đất dốc tụ chân núi đá vôi (460,4 ha).
- Đất dốc tụ chân núi đá sét (2907 ha).
- Đất Feralit xám trên đá mẹ phiến sét (5578,3 ha).
- Đất Feralit xám trên nền đá Sa thạch (457,5ha).
Nhìn chung đất trong khu vực là đất sét nhẹ tới đất thịt nhẹ, màu nâu vàng hay
vàng nhạt, tầng đất dày, có thành phần cơ giới từ nhẹ đến trung bình. Đất tơi, xốp,
có độ ẩm thấp tới trung bình; kết cấu viên nhỏ và có tầng mùn trung bình, dễ bị rửa
trôi, dễ khô cứng. Đất ở nơi mất rừng rất dễ bị rửa trôi, thoái hóa nhanh đặc biệt trên
núi đá vôi, rất khó cho quá trình và phục hồi phát triển rừng. Đất ở nơi còn rừng,
hay nơi đất còn tính chất đất rừng rất thuận lợi cho quá trình phát triển và phục hồi
rừng.

3.1.2.2. Địa hình
Khu bảo tồn thiên nhiên Hang Kia – Pà Cò có địa hình núi đất xen núi đá vôi ở
phía Tây Bắc, thấp dần ở phía Đông Nam, có độ cao từ 800m đến 1500m, trung
bình 1000m so với mặt biển. Vùng phía tây bắc khu bảo tồn có độ cao trung bình
trên 1100m, Đỉnh Pà Khốm 1.526m là đỉnh cao nhất của khu bảo tồn. Vùng giữa và


22
phái đông khu bảo tồn có độ cao thấp hơn, trung bình 800 – 1000m. Địa hình khu
bảo tồn phần lớn là sườn và dông núi của 4 hệ thống núi:
+ Hệ thống núi đá vôi ranh giới giữa xã Pà Cò và xã Hang Kia.
+ Hệ thống núi đá vôi xen núi đất chạy theo hướng Bản Cang tới Thung Ẩn, Thung
Mặn.
+ Hệ thống núi đá vôi xen núi đất chạy theo hướng từ Xà Lĩnh tới Bò Báu của Xã
Tân Sơn rồi tới Bao La, Piềng Vế.
Các hệ thống núi trên có hướng từ Tây Bắc xuống Đông Nam. Xen kẽ các
dông núi là các thung lũng hẹp và các dải đất dốc tụ chân núi đá, đây là phần đất
canh tác quan trọng của đồng bào Mông, Thái, Mường của các xã vùng cao này.
Địa hình trong khu bảo tồn không chỉ bị chia cắt do các dãy núi mà còn bị chịa cắt
bởi nhiều dông núi phụ xuất phát từ các dãy núi trên rẽ về hai bên tạo ra các thung,
áng, khe suối cạn và các lỗ hút nước (do hiện tượng cac – tơ) của vùng núi đá vôi
tạo nên. Khu bảo tồn có độ dốc trung bình 20 – 25 độ, nhiều nơi có độ dốc >35 độ,
rất khó đi lại. Nhìn chung địa hình khu bảo tồn thuộc loại trung và tiểu địa hình
vùng núi. Càng vào sát các đỉnh núi đá vôi, núi càng cao và độ dốc càng lớn, có
nhiều sườn núi đá, vách đá dựng đứng. Địa hình phức tạp và bị chia cắt nhiều là yếu
tố quan trọng tạo nên sự đa dạng về thực vật và hoàn cảnh rừng.
3.1.3. Khí hậu, thủy văn
3.1.3.1. Khí hậu
+ Mùa: Khí hậu chia 2 mùa rõ rệt:
- Mùa nóng từ tháng 5 tới tháng 9 có nhiệt độ bình quân 20 – 25 0 C, mưa to

thường tập trung vào mùa nóng, chiếm 85-90% lượng mưa cả năm, độ ẩm mùa
nóng trung bình 80-85%.
- Mùa lạnh từ tháng 10 tới tháng 4 năm sau; trong mùa lạnh nhiệt độ thường
thấp hơn 200C. Trong các đợt rét nhiệt độ thường xuống dưới 130C và cá biệt có khi
xuống tới 3 – 50C, mùa khô tuy có lượng mưa chỉ chiếm 10 – 15% lượng mưa cả
năm nhưng không khô, độ ẩm khá cao, thường 70-80% và nhiều ngày có sương mù,
ẩm ướt.


×