BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI
NGUYỄN THỊ HIỀN
Nghiên cứu các chỉ định mổ lấy thai tại
bệnh viện Phụ sản Trung ương năm 2016
LUẬN VĂN THẠC SĨ Y HỌC
HÀ NỘI - 2017
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI
NGUYỄN THỊ HIỀN
BỘ Y TẾ
Nghiên cứu các chỉ định mổ lấy thai tại
bệnh viện Phụ sản Trung ương năm 2016
Chuyên ngành: Sản phụ khoa
Mã số: 60720131
LUẬN VĂN THẠC SĨ Y HỌC
Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS. Lưu Thị Hồng
HÀ NỘI - 2017
LỜI CẢM ƠN
Hoàn thành luận văn này, tôi xin bày tỏ lòng kính trọng và biêt ơn sâu
sắc tới:
- Ban giám hiệu, phòng Đào tạo sau đại học, Bộ môn Phụ sản trường
Đại học Y Hà Nội, bệnh viện Phụ sản Trung ương đã giúp đỡ tạo điều kiện
cho tôi trong thời gian qua.
- Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS. Lưu Thị
Hồng, người thầy đã tận tình chỉ bảo, cung cấp lý thuyết và phương pháp luận
quý báu hướng dẫn tôi thực hiện đề tài này.
- Với lòng kính trọng và biết ơn, tôi xin chân thành cảm ơn tới các Phó
Giáo sư, Tiến sĩ trong hội đồng thông qua đề cương và hội đồng chấm luận
văn tốt nghiệp đã cho tôi nhiều ý kiến có giá trị để đề tài đi tới đích.
- Cuối cùng, tôi xin trân trọng cám ơn sự động viên khích lệ, quan tâm
sâu sắc của gia đình, bạn bè thân thiết và đồng nghiệp.
Luận văn chắc chắn còn nhiều hạn chế, khiếm khuyết mong được các
thầy cô giúp đỡ, chỉ bảo.
Hà Nội, ngày 14 tháng 9 năm 2017
Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Hiền
LỜI CAM ĐOAN
Tôi là Nguyễn Thị Hiền, học viên lớp Cao học khóa 24 chuyên ngành
Sản phụ khoa, Trường Đại học Y Hà Nội, xin cam đoan:
1. Đây là luận văn do bản thân tôi trực tiếp thực hiện dưới sự hướng
dẫn của PGS.TS. Lưu Thị Hồng
2. Công trình này không trùng lặp với bất kỳ nghiên cứu nào khác đã
được công bố tại Việt Nam.
3. Các số liệu và thông tin trong nghiên cứu là hoàn toàn chính xác,
trung thực và khách quan, đã được sự xác nhận và chấp thuận của cơ sở nơi
nghiên cứu
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về những cam kết này.
Hà Nội, ngày 14 tháng 9 năm 2017
Học viên
Nguyễn Thị Hiền
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
AD
Âm đạo
AH
Âm hộ
BV
Bệnh viện
BVBMTSS
Bảo vệ bà mẹ trẻ sơ sinh
BVPSTW
Bệnh viện Phụ sản Trung ương
CCCT
Cơn co cường tính
MLT
Mổ lấy thai
OVN
Ối vỡ non
OVS
Ối vỡ sớm
TC
Tử cung
CTC
Cổ tử cung
TSG
Tiền sản giật
TSM
Tầng sinh môn
TSSKNN
Tiền sử sản khoa nặng nề
XH
Xã hội
MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
11
ĐẶT VẤN ĐỀ
Mổ lấy thai là thai và phần phụ của thai được lấy ra khỏi tử cung qua
đường rạch thành bụng và đường rạch ở thành tử cung. Ngày nay phẫu thuật
mổ lấy thai được phổ biến trong các cơ sở sản khoa với các tai biến và biến
chứng hạn chế tới mức tối đa do sự lớn mạnh không ngừng của hai ngành sản
khoa và ngoại khoa cùng với sự tiến bộ vượt bậc trong các lĩnh vực vô khuẩn,
kháng sinh, gây mê hồi sức và truyền máu đã cứu sống biết bao bà mẹ và trẻ
sơ sinh.
Đảm bảo chất lượng trong chuyển dạ và đỡ đẻ là một việc cần thiết.
Phương pháp được lựa chọn phải đơn giản, phù hợp và có giá trị phổ cập.
Trên thực tế mổ lấy thai chỉ thực sự đứng đắn trong những trường hợp không
thể sinh theo đường âm đạo. Trong những năm gần đây khi xã hội ngày một
văn minh, chất lượng cuộc sống ngày một nâng cao, mỗi gia đình chỉ sinh từ
một đến hai con nên người ta thường quan tâm đến sức khỏe sinh sản, sức
khỏe của mẹ và sơ sinh. Với quan điểm mổ lấy thai “an toàn” hơn, “con thông
minh” hơn, một số trường hợp mổ lấy thai để chọn ngày chọn giờ “đẹp”. Thai
phụ cho rằng họ “có quyền được lựa chọn cách đẻ theo ý muốn”. Trước
những sức ép tâm lý đó người thầy thuốc sản khoa có thể sẽ bị động đi tới
quyết định mổ lấy thai.
Từ năm 1985, Cộng đồng sức khỏe thế giới (The international healthcare
community) đã cho rằng tỷ lệ mổ lấy thai (MLT) lý tưởng là trong khoảng 10
– 15%. Kể từ đó tỷ lệ MLT đã tăng dần trong cả các nước và đang tiếp tục
phát triển. Mặc dù MLT có thể cứu sống được mẹ, trẻ sinh ra hoặc cho cả hai
12
trong một vài trường hợp, tuy nhiên sự gia tăng nhanh chóng tỷ lệ MLT mà
không có bằng chứng rõ ràng về việc làm giảm bệnh suất cũng như tử suất
của mẹ và con cho thấy việc chỉ định MLT đã quá rộng rãi. Đã có nhiều tài
liệu trong và ngoài nước phân tích và bàn luận về chiến lược giúp giảm tỷ lệ
MLT. Những trường hợp đã có sẹo MLT cũ, với tình trạng thường xuyên quá
tải của các bệnh viện sản của nước ta, đặc biệt tại các khoa sản của các tỉnh
xa, thiếu nhân viên y tế; nên để có thể phân công theo dõi sát cuộc chuyển dạ
là điều khó khăn, do đó các bác sĩ sẽ chọn lấy phương án an toàn là chỉ định
MLT lại trong đại đa số các trường hợp, điều này đồng nghĩa làm tăng tỷ lệ
MLT chung. Các chiến lược để làm giảm tỷ lệ này nên bao gồm việc tránh mổ
lấy thai chủ động không cần thiết. Cải thiện việc lựa chọn các trường hợp kích
thích chuyển dạ và mổ lấy thai trước chuyển dạ cũng có thể làm giảm tỷ lệ mổ
lấy thai chung.
Nghiên cứu của nhiều tác giả, tỷ lệ MLT ở nhiều nước trên thế giới tăng
nhanh trong những năm gần đây, đặc biệt là những nước đang phát triển. Ở
Mỹ, năm 1988 tỷ lệ MLT trung bình là 25%, đến năm 2004 tỷ lệ MLT là
29,1% [1]. Ở Pháp trong vòng 10 năm (1972 - 1981) MLT tăng từ 6% lên
11% có nghĩa là tăng gần gấp đôi [2]. Tại Việt Nam, tỷ lệ MLT ngày càng
tăng cao: theo các nghiên cứu tại BVPSTW qua các năm, năm 1998 là 34,6%
[3], năm 2000 là 35,1% [4], năm 2005 là 39,1% [5].
Trong những năm gần đây nhiều chỉ định MLT cả ở con so và con dạ
đang được các nhà sản khoa quan tâm, đặc biệt ở nhóm con so. Vì nếu tỷ lệ
MLT, đặc biệt là MLT ở con so tăng sẽ làm tăng tỷ lệ MLT nói chung. Tại
bệnh viện PSTW tỷ lệ MLT năm 2000 là 35,1% nghĩa là cứ 3 sản phụ vào đẻ
thì có một người được mổ lấy thai [6], tỷ lệ mổ lấy thai ở sản phụ có sẹo mổ
lấy thai tại bệnh viện PSTW năm 1994 – 1999 là 84,5 [7], năm 1997 là 91,9%
13
[8]. Do đó kiểm soát và đưa ra những chỉ định MLT hợp lý ở thai phụ là việc
làm cần thiết góp phần làm giảm tỷ lệ MLT nói chung và tỷ lệ MLT ở người
có sẹo mổ cũ ở tử cung cho lần đẻ sau.
Điều này rất cần phải đánh giá một cách cụ thể, khách quan và khoa
học. Từ trước tới nay có rất nhiều cách được đề xuất để phân loại mổ lấy thai.
Tuy nhiên hiện nay mục đích phân loại MLT để tiên lượng được nguy cơ
MLT, làm giảm tỷ lệ MLT chung và tỷ lệ MLT ở các nhóm nguy cơ.
Vì vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu: “Nghiên cứu các chỉ định mổ
lấy thai tại bệnh viện Phụ sản Trung ương năm 2016” với mục tiêu sau:
1. Nhận xét các chỉ định mổ lấy thai tại bệnh viện Phụ sản Trung ương
trong năm 2016.
2. Phân tích một số xu hướng chỉ định mổ lấy thai tại bệnh viện Phụ
sản Trung ương trong năm 2016.
14
15
Chương 1
TỔNG QUAN
1.1. Sơ lược về lịch sử mổ lấy thai
Mổ lấy thai (MLT) là một can thiệp ngoại khoa được biết đến từ hàng
trăm năm trước công nguyên. Khoảng những năm 715 trước Công nguyên vị
hoàng đế La Mã Numa Popilius đã ban hành một đạo luật: tất cả các bà mẹ
mang thai khi chết chỉ được chôn sau khi đã được phẫu thuật lấy thai ra khỏi
tử cung của người mẹ. MLT lúc đầu chỉ áp dụng cho phụ nữ mới chết hoặc
đang chết. Sau đó sự phát triển của thuốc gây mê, thuốc kháng sinh, cùng sự
phát triển của phương pháp vô trùng đã giúp cho MLT có các bước tiến vượt
bậc và tỷ lệ thành công cao hơn.
Tuy nhiên, suốt một thời gian dài MLT cũng không có gì tiến bộ. Đến
tận đầu thế kỷ XVI năm 1610 Jeremih Trantann (Ý) mổ lấy thai lần đầu tiên
được thực hiện trên người sống nhưng người mẹ cũng chỉ sống được 25 ngày
sau phẫu thuật là mổ không khâu lại tử cung. Cho đến năm 1794 mới có ca
phẫu thuật thành công đã cứu sống được cả mẹ và con tại bang Virgina của
Mỹ. Đầu tiên người ta mổ thực hiện mổ lấy thai bằng rạch thân tử cung mà
không khâu phục hồi cơ tử cung do đó hầu hết các bà mẹ đều tử vong do mất
máu và nhiễm trùng vì thời kỳ đó chưa có kháng sinh. Như ở Anh năm 1865
tử vong mẹ do mổ là 85%, ở Áo là 100%, ở Pháp là 95%. Năm 1876
Edueardo Poro thực hiện thành công MLT tiếp theo đó là cắt tử cung bán phần
và khâu mép cắt tử cung vào thành bụng.
16
Đến năm 1882 Max Sanger người Đức đã đưa ra cách phẫu thuật là
rạch dọc thân tử cung lấy thai sau đó khâu phục hồi thân tử cung, đem lại kết
quả khả quan hơn. Năm 1805 Osiander lần đầu tiên đã mô tả phẫu thuật rạch
dọc đoạn dưới tử cung để lấy thai. Nhưng mãi đến năm 1906 Frank cải tiến
phương pháp Osiander và sau đó áp dụng rộng rãi nhờ công của William vad
Delee, cũng chính ông là người đầu tiên so sánh đối chiếu giữa mổ dọc thân
tử cung với mổ dọc đoạn dưới thân tử cung để lấy thai. Đến năm 1626 Keer
đề xuất thay đổi kỹ thuật từ rạch dọc đoạn dưới tử cung sang rạch ngang đoạn
dưới tử cung để lấy thai, đây là bước thay đổi quan trọng đem lại kết quả cao
đã được áp dụng và phổ biến rộng rãi thịnh hành cho tới ngày nay.
Vào đầu thập kỷ 60 của thế kỷ XX ở Việt Nam MLT lần đầu tiên được
áp dụng tại khoa sản bệnh viện Bạch Mai (Hà Nội) là theo phương pháp cổ
điển. Sau đó giáo sư Đinh Văn Thắng thực hiện mổ ngang đoạn dưới tử cung
lấy thai tại bệnh viện Bạch Mai và ngày nay phương pháp này được áp dụng
rộng rãi tại các địa phương trong cả nước.
1.2. Sơ lược về tình hình mổ lấy thai trên thế giới cũng như ở Việt Nam
Trước những năm 50 của thế kỷ XX, do nguy cơ nhiễm trùng là rất lớn,
chưa có kháng sinh và những hạn chế của gây mê nên MLT được áp dụng rất
hạn chế. Từ khi kháng sinh ra đời, MLT mới được áp dụng rộng rãi và từ đó
tới nay, do sự phát triển của phẫu thuật, phương tiện vô khuẩn và tiệt khuẩn,
kháng sinh, truyền máu, gây mê hồi sức đã làm giảm hẳn các nguy cơ của mổ
lấy thai nên các chỉ định mổ ngày càng rộng rãi.
17
Bảng 1.1. Tình hình mổ lấy thai ở một số nước
Năm
Tác giả
Nước
%
1989 - 1990
Francis [9]
Scotland
14,20
1994
Olivares, Santiagoi [10]
Mehico
26,85
1998
Koc [11]
Thổ Nhĩ Kỳ
26,10
1999
Mark Hill [12]
Anh
21.50
1999
Mark Hill [12]
Đan Mạch
14,00
1999
Mark Hill [12]
Nauy
12,60
1999
Mark Hill [12]
Thụy Điển
12,20
1999
Mark Hill [12]
Phần Lan
15,10
1999
Mark Hill [12]
Pháp
17,30
1999
Mark Hill [12]
Italia
12,60
2004
Hyattsville[1]
Hoa Kỳ
29,10
18
Bảng 1.2. Tỷ lệ mổ lấy thai con so tại Việt Nam
Năm
Tác giả
Bệnh viện
Tỷ lệ (%)
1993
Lê Thanh Bình [13]
Viện BVBMTSS
24,83
1996
Đỗ Quang Mai [14]
BVPSTW
28,71
1997
Vũ Công Khanh [3]
Viện BVBMTSS
32,30
1999
Touch Bunlong [4]
Viện BVBMTSS
31,30
2000
Touch Bunlong [4]
Viện BVBMTSS
27,20
2002
Vương Tiến Hòa [15]
BVPSTW
33,44
2006
Đỗ Quang Mai [14]
BVPSTW
37,09
19
Bảng 1.3. Tỷ lệ mổ lấy thai tại Việt Nam
Năm
Tác giả
Bệnh viện
Tỷ lệ (%)
1956
Nguyễn Thìn
Viện BVBMTSS [16]
0,96
1959
Nguyễn Thìn
Viện BVBMTSS [16]
3,19
1964
Đinh Văn Thắng
Viện BVBMTSS [17]
9,68
1967 – 1970
Trần Nhật Hiển
BV tỉnh Hà Tây [18]
10,90
1966 – 1970
Trần Phi Liệt
BV tỉnh Nam Hà [19]
6,8
1970
Dương Thị Cương
Viện BVBMTSS [20]
13,9
1971 – 1979
Lê Điềm
BV Phụ Sản Hải Phòng
7,98
1978
ĐỗTrọng Hiễu
Viện BVBMTSS [22]
16,67
1981 – 1983
Lê Điềm
Viện BVBMTSS [23]
15,27
1989 – 1991
Nguyễn Đức Lâm
BV Phụ Sản Hải Phòng [24]
14,85
Viện BVBMTSS [25]
20,25
Nguyễn Thìn
1974 – 1992
Ngô Tiến An
20
1991 – 1993
Lê Điềm
Viện BVBMTSS [26]
23,45
1993
Nguyễn Ngọc Khanh Viện BVBMTSS [27]
25,2
1997
Phòng KHTH
BV Phụ sản Nam Định [28]
24,47
1996 - 1998
Bùi Minh Tiến
Khoa sản BV Phụ sản
25,6
1998
Nguyễn Đức Hinh
Viện BVBMTSS [30]
34,90
2000
Phạm Văn Oánh
Viện BVBMTSS [31]
35,10
2002
Vương Tiến Hòa
BVPSTW [15]
36,97
2004
Võ Thị Thu Hà
BV phụ sản Tiền Giang [32]
31,00%
2005
Phạm Thu Xanh
BVPSTW [5]
39,71%
Thái Bình [29]
1.3. Tình hình mổ lấy thai trên thế giới cũng như ở Việt Nam
1.3.1. Tình hình mổ lấy thai trên thế giới
21
Hyattsvill MD và cộng sự đã nghiên cứu cho thấy tỷ lệ mổ lấy thai ở
Hoa Kỳ tăng nhanh trong những năm gần đây từ 14,6% năm 1996 lên đến
20,6% năm 2004 và tỷ lệ mổ lại ở lần sau là 90%, điều này góp phần làm tăng
tỷ lệ mổ lấy thai chung, từ 20,7% lên 29,1% năm 2004 [1].
Tại Hy Lạp, Tampkoudis P và các cộng sự nghiên cứu tình hình MLT
tại bệnh viện Thesalonili trên 34575 sản phụ được chia thành hai giai đoạn:
1977 - 1983 và 1994 - 2000. Kết quả cho thấy tỷ lệ MLT chung tăng từ 13,8%
(1977 - 1983) lên đến 29,9% (1994 - 2000). Tỷ lệ MLT con so tăng nhanh từ
6,1% ở giai đoạn 1977 - 1983 lên 19% ở giai đoạn 1994 - 2000 [33].
Chin Yuan Hsu và cộng sự thống kê và phân tích các chỉ định mổ lấy
thai trên 55114 sản phụ đẻ con so tại Đài loan năm 2000 cho kết quả tỷ lệ
MLT con so là 21%. Các chỉ định chính là ngôi thai bất thường (34,7%), bất
tương xứng thai nhi - khung chậu (13,6%), chuyển dạ kéo dài (23,0%), suy
thai (10,1%), còn lại là do nguyên nhân khác [34].
Wanyonyi. S và cộng sự nghiên cứu tình hình mổ lấy thai tại một bệnh
viện ở Nairobi, Kenya cho kết quả tỷ lệ mổ lấy thai năm 1996 là 20,4% đến
năm 2004 là 38,1%. Chỉ định chính cho mổ lấy thai cấp cứu là suy thai, trong
đó chỉ định chính cho mổ lấy thai chủ động là sẹo mổ lấy thai cũ [35].
1.3.2. Tình hình mổ lấy thai tại Việt Nam
Lê Thanh Bình đã nghiên cứu tìm hiểu nguyên nhân chỉ định MLT ở
246 sản phụ con so tại BVBMTSS từ tháng 01 năm 1993 đến tháng 04 năm
1993. Kết quả thu được tỷ lệ MLT ở sản phụ con so là 24,83%. Các chỉ định
chính gồm suy thai (22,86%), đầu không lọt (15,53%), con so lớn tuổi OVS
22
(11,74%), CTC không tiến triển (15,14%), ngôi mông (8,7%), còn lại là các
nguyên nhân khác [13].
Vũ Công Khanh đã nghiên cứu tình hình chỉ định và một số yếu tố liên
quan đến chỉ định MLT tại BVBMTSS năm 1997 với 7540 trường hợp đẻ
trong đó có 4695 sản phụ đẻ con so thì tỷ lệ MLT con so là 32,33% [3].
Touch Bunlong nghiên cứu về các chỉ định MLT ở thai phụ con so
trong 2 năm 1999 và 2000 tại BVBMTSS trên 2811 sản phụ MLT con so thấy
tỷ lệ MLT con so/ tổng số đẻ trong 2 năm là 29%, trong đó có 28 chỉ định chia
thành 4 nhóm chính: chỉ định do nguyên nhân thai, nhóm chỉ định do nguyên
nhân đường sinh dục của mẹ, nhóm chỉ định do bệnh lý của mẹ, nhóm chỉ
định do phần phụ của thai. Trong đó nhóm chỉ định nguyên nhân do thai
chiếm 63,36% [4].
Vương Tiến Hòa nghiên cứu hồi cứu mô tả 1936 trường hợp MLT trên
tổng số người đẻ con so tại BVPSTW trong năm 2002 thấy tỷ lệ MLT ở sản
phụ con so là 33,44% có 37 nhóm chỉ định MLT ở sản phụ mổ con so và được
chia thành 4 nhóm: nhóm chỉ định nguyên nhân do thai, nhóm chỉ định do
phần phụ của thai, nhóm chỉ định nguyên nhân do mẹ, nhóm chỉ định nguyên
nhân xã hội [15].
Theo Đỗ Quang Mai nghiên cứu tình hình mổ lấy thai ở sản phụ con so
trong 2 năm 1996 và 2006 tại BVPSTW thì tỷ lệ MLT con so năm 1996 là
28,71% và năm 2006 là 37,09%. Có 31 chỉ định MLT con so chia thành 5
nhóm: do đường sinh dục, nhóm do bệnh lý người mẹ, nhóm do thai, nhóm do
phần phụ của thai, nhóm do nguyên nhân xã hội [14].
1.4. Giải phẫu của tử cung liên quan đến mổ lấy thai
23
1.4.1. Giải phẫu tử cung khi chưa có thai
Tử cung còn gọi là dạ con, nơi hàng tháng sinh ra kinh nguyệt và là nơi
nương náu, phát triển của thai nhi.
* Vị trí và chiều hướng
- Tử cung nằm chính giữa chậu hông bé, sau bàng quang, trước trực
tràng, trên âm đạo và dưới các quai ruột.
- Hứơng của tử cung: Bình thường tử cung nằm ngả và gấp ra truớc.Thân
tử cung gấp với cổ tử cung 1 góc 120 độ, thân tử cung hợp với âm đạo 1 góc 90
độ. Trong 1 số truờng hợp tử cung có thể lật ra sau hoặc sang bên.
* Hình thể ngoài và kích thứơc
Tử cung giống hình nón cụt, dẹt và rộng ở trên, tròn và hẹp ở dưới.
Gồm 3 phần:
- Thân tử cung: Rộng ở trên gọi là đáy tử cung, có 2 sừng liên tiếp với 2
vòi trứng. Thân dài 4cm, rộng 4cm khi chưa chửa đẻ lần nào.
- Eo tử cung: Là phần thắt nhỏ giữa thân và cổ, dài 0.5 cm.
- Cổ tử cung: Dài và rộng 2.5 cm, khi đẻ nhiều lần cổ tử cung ngắn lại.
* Liên quan
- Mặt trước duới : Liên quan với túi cùng bàng quang - tử cung.
- Mặt sau trên: Liên quan với túi cùng Douglas (Túi cùng tử cung trực tràng).
* Hình thể trong
Tử cung là 1 khối cơ trơn, rỗng ở giữa gọi là buồng tử cung, dài khoảng
6.5cm, thông với cổ tử cung. Tử cung được cấu tạo bởi 4 lớp từ ngoài vào trong:
- Lớp thanh mạc.
- Lớp dứơi thanh mạc: Dính vào tử cung.
- Lớp cơ: Là lớp dày nhất của tử cung. Gồm 3 lớp cơ: Các sợi cơ dọc ở
ngoài, sợi cơ đan chéo ở giữa và các sợi cơ vòng phía trong.
24
- Lớp niêm mạc: Lớp trong cùng của tử cung, lớp này phát triển và biến
đổi theo các giai đoạn sinh dục của người phụ nữ. Hàng tháng khi niêm mạc
bong ra gây hiện tượng kinh nguyệt.
* Phương tiện giữ tử cung tại chỗ
- Dây chằng rộng:
Là 1 nếp phúc mạc trùm lên tử cung ở cả mặt trước và mặt sau và 2 bên
tử cung.
- Dây chằng tròn tử cung:
Là 1 thừng sợi mô liên kết, đi từ sừng tử cung tới lỗ bẹn sâu, qua lỗ bẹn
nông rồi vào các tổ chức liên kết dưới da mu.
- Dây chằng tử cung cùng:
Là dải mô liên kết và cơ trơn dính tử cung vào xương cùng.
- Dây chằng ngang cổ tử cung:
Là 1 dải mô liên kết bám cổ tử cung vào thành bên chậu hông.
1.4.2. Giải phẫu tử cung khi có thai
Khi chưa có thai tử cung nặng 50- 60gr. Sau khi sổ rau tử cung nặng
trung bình 1000gr, sự gia tăng về trọng lượng tử cung chủ yếu xảy ra vào nửa
đầu thời kỳ thai nghén.
Phúc mạc ở thân tử cung phì đại theo lớp cơ tử cung. Ở phần trên của tử
cung, phúc mạc dính vào lớp cơ. Ở đoạn eo tử cung, phúc mạc có thể bóc tách
được dễ dàng ra khỏi lớp cơ vì giữa phúc mạc và lớp cơ có tổ chức liên kết dày,
ranh giới giữa hai vùng là đường bám chặt phúc mạc. Đó chính là ranh giới
giữa thân tử cung và đoạn dưới tử cung, nhờ tính chất bóc tách được phúc mạc
ra khỏi lớp cơ ở đoạn dưới tử cung, người ta tiến hành mổ tử cung qua đoạn
dưới để có thể phủ được phúc mạc sau khi khâu mép rạch của cổ tử cung.
25
Eo tử cung khi chưa có thai là một vòng nhỏ 0,5 – 1cm khi có thai eo tử
cung trải rộng và dài thành đoạn dưới tử cung và dài tới 10cm. Đoạn dưới tử
cung không có lớp cơ đan ở giữa nên dễ vỡ, dễ chảy máu khi có rau tiền đạo.
1.5. Các chỉ định mổ lấy thai
Có thể phân thành hai nhóm chỉ định
-
Những chỉ định MLT chủ động khi chưa chuyển dạ
-
Những chỉ định MLT trong chuyển dạ
1.5.1. Chỉ định mổ lấy thai chủ động
1.5.1.1. Khung chậu bất thường
Nếu không phải là ngôi chỏm thì đều phải mổ lấy thai.
Nếu là ngôi chỏm:
-
Mổ lấy thai nếu khung chậu hẹp tuyệt đối, khung chậu méo, khung chậu hẹp
eo dưới.
-
Làm nghiệm pháp lọt ngôi chỏm để thử thách cho đẻ đường dưới nếu khung
chậu giới hạn (thai không to).
1.5.1.2. Đường ra của thai bị cản trở
-
Khối u tiền đạo: thường hay gặp là u xơ ở eo tử cung hay cổ tử cung, u nang
buồng trứng, các khối u khác nằm trên đường thai ra.
-
Rau tiền đạo loại che kín toàn bộ cổ tử cung (rau tiền đạo trung tâm hoàn
toàn) hay rau tiền đạo gây chảy máu nhiều buộc phải mổ cấp cứu để cầm máu
cứu mẹ.