Tải bản đầy đủ (.docx) (85 trang)

nghiên cứu chửa ở ống cổ tử cung tại bệnh viện phụ sản trung ương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.93 MB, 85 trang )

1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Chửa ngoài tử cung (CNTC) là một cấp cứu sản khoa không chỉ đe dọa
đến tính mạng bệnh nhân gây nguy cơ tử vong cao do mất máu mà còn ảnh
hưởng sâu sắc đến sức khỏe trong tương lai và hạnh phúc gia đình của người
phụ nữ. CNTC đang tăng cả trong và ngoài nước, đặc biệt là CNTC đang có
xu hướng “trẻ hoá” với hơn 60,0% bệnh nhân bị CNTC có tuổi dưới 30, trong
đó có rất nhiều người chưa có con, vì vậy CNTC không chỉ đơn thuần là một
vấn đề lớn về sức khỏe cho ngành y tế mà còn là một vấn đề quan trọng tại
cộng đồng cho xã hội kinh tế, sinh sản và chất lượng dân số [1].
Mặc dù đã được tăng cường về giáo dục, truyền thông và tư vấn về
nguyên nhân, các triệu chứng lâm sàng cũng như xét nghiệm để phát hiện
cũng như dự phòng để hạn chế sự tăng tần suất nhưng số lượng CNTC ngày
vẫn tăng một cách đáng báo động.
Theo Trung tâm phòng và kiểm soát bệnh tật Hoa Kỳ, tần suất CNTC
tính theo thai nghén năm 1970 là 4,5/1.000 đã tăng lên 19,7/1.000 thai nghén
vào năm 1995. Do có nhiều tiến bộ về chẩn đoán và điều trị vì vậy mặc dù tần
suất CNTC tăng, nhưng tỷ lệ tử vong do CNTC giảm rất đáng kể. Theo De
Cherney và Meyer, tần suất tử vong do CNTC đã từ 3,5/1.000 thai nghén đã
giảm xuống 0,4/1.000 thai nghén [2]. Berg và cộng sự đã đưa tỷ lệ tử vong mẹ
do CNTC chiếm 10% tử vong liên quan đến thai sản.
Nghiên cứu của Vương Tiến Hòa [3], chỉ trong 4 năm (1992-1995),
CNTC tại Bệnh viện Phụ sản (BVPS) Hải Phòng tăng 87%, BVPS Thanh
Hóa 156%, còn Viện Bảo vệ bà mẹ trẻ sơ sinh (nay là BVPS Trung ương)
là 100%.
CNTC đang tăng và sẽ tăng rất nhanh trong những năm tới. Theo thống
kê của Phòng kế hoạch Tổng hợp của một số Bệnh viện phụ sản trong năm
1
2
2011 như sau: Bệnh viện Phụ Sản Từ Dũ trong năm 2011 là 3.559, Bệnh viện
Hùng Vương là 2.669, BVPSTW là 2.326 và BVPS Hà Nội là 2258.


CNTC không những gia tăng về số lượng mà một số thể lâm sàng mới
cũng xuất hiện và cũng tăng theo hàng năm như chửa sẹo vết mổ, chửa kẽ
vòi tử cung, đặc biệt là chửa ở CTC. Năm 1971 J. De Brux [4] xếp chửa ở
CTC là một thể lâm sàng của chửa ngoài tử cung. Là sự làm tổ của trứng đã
được thụ tinh ngay tại CTC. Theo Novac, Parente JT [5] từ 1:2.400 đến
1:50.000 trường hợp mang thai. Còn theo William [6], Rubin [7] 1:18.000
trường hợp mang thai.
Lê Hoài Chương (1995), trong 5 năm (1990 -1994) chỉ gặp 5 trường hợp
chửa ở ống CTC [8] thì nghiên cứu của Nguyễn Thanh Hoài (2008) từ năm 1996
đến năm 2008 gặp 62 trường hợp chửa ở ống CTC [9]. Nguyễn Thị Hương Nga
(2011) gặp 17 trường hợp trong 05 năm (4/2006-4/2011) [10]. Chẩn đoán và
điều trị chửa ở ống CTC đã có nhiều tiến bộ. Từ những trường hợp ban đầu của
Lê Hoài Chương [8] do chẩn đoán muộn cho nên đều phải cắt tử cung hoàn toàn,
vĩnh viễn không thể sinh đẻ được thì cho đến nay nhiều trường hợp đã được
chẩn đoán sớm, điều trị thành công bảo tồn được TC cho nên giữ được khả năng
sinh sản cho bệnh nhân. Tuy nhiên chưa có nghiên cứu đầy đủ về chẩn đoán,
điều trị chửa ở CTC trong một giai đoạn 5 năm để xem xét về chẩn đoán và điều
trị cũng như đánh giá về những thay đổi trong chẩn đoán và điều trị chửa ở
CTC, vì vậy chúng tôi nghiên cứu đề tài “Nghiên cứu chửa ở ống cổ tử cung
tại Bệnh viện Phụ sản Trung ương ” với mục tiêu:
1. Mô tả đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng chửa ở ống CTC.
2. Nhận xét về chẩn đoán và xử trí chửa ở ống CTC.
2
Eo VTC
Dây chằng
Bóng VTC
Vòi TC
Đoạn kẽ
Tử cung
CTC

Eo tử cung
Ổ bụng
Buồng trứng
Loa VTC
3
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN
1.1. Định nghĩa, cấu tạo giải phẫu và mô học CTC [6], [11], [12], [13],
[14], [15], [16], [17]
* Định nghĩa:
Chửa ngoài tử cung là trường hợp noãn sau khi được thụ tinh không
làm tổ và phát triển trong buồng tử cung mà phát triển bên ngoài buồng tử
cung. Noãn thường được thụ tinh ở 1/3 ngoài vòi tử cung, rồi di chuyển về
buồng tử cung. Nếu trứng không di chuyển hoặc di chuyển về hướng tử cung rồi
dừng lại giữa đường, hoặc bị đẩy ra ngoài vòi tử cung để làm tổ tại buồng trứng
hay trong ổ bụng hoặc ở cổ tử cung, sẽ gây ra chửa ngoài tử cung.
Như vậy bất kỳ một một hình thái nào mà phôi thai không nằm trong
buồng tử cung như chửa tại sẹo mổ tử cung ngay cả khi một phần túi thai nằm
trong buồng tử cung hoặc là phôi thai làm tổ ở ống CTC thì vẫn là CNTC. CNTC
có nhiều hình thái và vị trí làm tổ khác nhau, tuy nhiên chửa tại vòi tử cung chiếm
tỷ lệ cao nhất.
3
4
Chửa ở ống cổ tử cung là khối thai nằm trong ống cổ tử cung. Chẩn
đoán và điều trị chửa ở ống cổ tử cung đã tiến bộ rất nhiều trong 15 năm qua.
Trước năm 1990, chửa ở ống CTC chỉ được chẩn đoán khi nong CTC và nạo
phá thai bởi vì những triệu chứng rất giống như sảy thai vì vậy khi tiến hành
nạo phá thai, chảy máu nhiều mới chẩn đoán là chửa ở ống CTC. Nguy cơ
chảy máu trong khi nong và nạo CTC rất cao vì vậy phần lớn là cắt tử cung
hoàn toàn để cầm máu, cứu sống tính mạng người phụ nữ. Chẩn đoán chửa ở

ống CTC trước khi biến cố chảy máu đã xảy ra gặp nhiều khó khăn và thường
gặp ở những thày thuốc ít kinh nghiệm đặc biệt là những bác sĩ gia đình khi mà
những kiến thức cũng như thực hành sản khoa còn bị hạn chế.
Chửa ở ống CTC mô tả lần đầu tiên vào năm 1817 và năm 1860 cũng
là lần đầu tiên được đặt tên là chửa ở ống cổ tử cung. Tỷ lệ chửa ở ống
CTC khoảng 1/1.000 đến 1/1.800 trẻ sinh sống hoặc dưới 1% của chửa
ngoài tử cung [1].

Hình 1.1. Cơ quan sinh dục nữ [17]
Tử cung (dạ con)
Vòi trứng
Buồng trứng
Môi nhỏ
Cổ tử cung
Eo tử cung
Âm đạo
Lỗ ngoài tử cung
Nội mạc tử cung
4
5
1.1.1. Tử cung
Hai phần ba trên của tử cung được gọi là thân tử cung, một phần ba
dưới được gọi là cổ tử cung.
1.1.1.1. Thân tử cung
Chức năng của thân tử cung là tạo ra một màng nhầy (nội mạc tử cung) phù
hợp cho sự làm tổ của trứng và sau đó chứa thai lớn lên tới giai đoạn đủ tháng.
* Hình thể trong:
Tử cung là một tạng bằng cơ, rỗng, nằm ở giữa hố chậu, phía sau bàng quang
và phía trước trực tràng, giúp cho trứng làm tổ và phát triển. Về cấu tạo, tử
cung có ba lớp: lớp phúc mạc, cơ và niêm mạc.

Lớp cơ ở thân và ở cổ khác nhau: Ở cổ có lớp thớ vòng ở giữa hai lớp
mỏng có thớ dọc. Ở thân có ba lớp cơ: lớp ngoài gồm có lớp nông thớ dọc và
lớp sâu thớ vòng. Lớp giữa tạo nên bởi các thớ cơ đan chéo với nhau nên gọi
là lớp cơ đan (lớp cơ rối). Mạch máu đi vào giữa lớp cơ đan nên sau đẻ khi cơ
đan co chặt lại, máu tự cầm lại được. Lớp trong cùng là lớp thớ cơ vòng. Cơ
tử cung có đặc tính vừa đàn hồi, vừa co giãn.
Buồng tử cung hình tam giác, có niêm mạc che phủ, chịu các thay đổi
theo chu kỳ.
* Hình thể ngoài:
Dài 6 - 7 cm, rộng 4 cm ở phụ nữ chưa sinh đẻ và dài 7 - 8 cm, rộng 5 cm ở
phụ nữ đã sinh đẻ. Được chia làm ba đoạn: thân tử cung, eo tử cung và cổ tử cung.
+ Thân tử cung: Dài 4 cm, rộng 4,5 cm lúc chưa đẻ. Là đoạn 3/4 trên phình
to ra, có phần trên tương ứng với đáy tử cung, giới hạn bởi hai bên là sừng tử
cung, ở đây có dây chằng tròn và dây chằng tử cung buồng trứng dính vào.
+ Eo tử cung: Dài 0,5 cm, là chỗ thắt chen vào giữa thân và cổ tử cung.
+ Cổ tử cung: Là đoạn 1/4 dưới, hẹp, đi từ eo tử cung đến lỗ ngoài tử cung.
5
6
* Hướng: 2/3 số trường hợp có tử cung ngả trước hay gập trước. Thân
tử cung hợp với cổ tử cung thành một góc 120
0
, thân tử cung ngả ra trước đối
với âm đạo theo một góc 90
0
.
Ngoài ra, thân tử cung còn thay đổi theo hướng tuỳ theo từng cá nhân,
tuỳ theo bàng quang, trực tràng đầy hay vơi.
1.1.1.2.Cổ tử cung
CTC là 1/4 dưới của tử cung, là một đoạn đặc biệt của tử cung, dài
2,5cm được giới hạn phía trong (cực trên), nơi tiếp giáp với eo tử cung là lỗ

trong và giới hạn phía ngoài (cực dưới) là lỗ ngoài trông thẳng với âm đạo.
Buồng CTC được xác định là khoảng cách từ lỗ trong và lỗ ngoài. Ở người
chưa đẻ, buồng CTC có hình trụ còn ở người đã đẻ, buồng CTC là hình nón
cụt, đỉnh quay vào trong, đáy quay ra ngoài và lỗ ngoài thường hé mở.
Dựa vào chỗ bám của âm đạo với CTC, người ta chia CTC làm 3 phần.
- Phần trên âm đạo : dài chừng 1,5 cm.
+ Mặt trước liên quan trực tiếp với bàng quang qua mô liên kết thưa, ít
mạch máu nên dễ dàng bóc tách bàng quang khỏi CTC.
+ Mặt sau có lá phúc mạc che phủ và tạo thành một phần của cùng
đồ Douglas.
+ Hai bên là phúc mạc mặt trước và mặt sau CTC tụm lại tạo thành nền
của dây chằng rộng trong đó có bó mạch thần kinh và niệu quản đi qua.
- Phần âm đạo: là chỗ bám của đỉnh âm đạo vào CTC, đường bám rộng
khoảng 0,5cm chạy chếch từ phía sau ra trước. Ở phía trước, âm đạo dính vào
vị trí ở 1/3 giữa CTC và thấp hơn so với phía sau, còn ở phía sau, âm đạo
bám vào chỗ phân chia 1/3 trên và 1/3 giữa CTC.
- Phần trong âm đạo: được gọi là môi mè vì khi sinh, CTC thường bị
rách sang hai bên ở vị trí 9 và 3 giờ nên giống như môi cá mè. Phần này CTC
lồi vào trong âm đạo. Môi mè phân cách với thành âm đạo bằng một cùng đồ
tròn chia làm 4 phần: trước, sau và hai bên. Cùng đồ trước ngắn hơn cùng đồ
sau nhưng môi trước lại dài hơn môi sau vì CTC chúc ra sau.
6
7
* Cấu trúc mô học [17]:
Cấu trúc mô học của thân tử cung khác với CTC đó là:
- Ở thân tử cung có ba lớp cơ: lớp ngoài gồm có lớp nông thớ dọc và
lớp sâu thớ vòng. Lớp giữa tạo nên bởi các thớ cơ đan chéo với nhau nên gọi
là lớp cơ đan (lớp cơ rối). Mạch máu đi vào giữa lớp cơ đan nên sau đẻ khi cơ
đan co chặt lại, máu tự cầm lại được. Lớp trong cùng là lớp thớ cơ vòng.
- Ở cổ tử cung có lớp thớ vòng ở giữa hai lớp mỏng có thớ dọc. Chủ

yếu là tổ chức liên kết với thành phần chủ yếu là các sợi keo (collagene) được
tạo ra từ các phân tử proteoglycan và các sợi chun (elastin), đặc tính là có thể
bị kéo căng ra trong một thời gian rồi nhanh chóng trở lại hình dạng và kích
thước ban đầu. Cấu trúc này làm cho cổ tử cung có đặc tính ưu việt là rất dễ
xoá, mở trong chuyển dạ. Sự thay đổi cấu trúc giữa thân và CTC có một đoạn
chuyển tiếp là eo tử cung dài 10mm.
- Niêm mạc CTC được chia làm hai loại: phía bên ngoài CTC (phần
nằm trong âm đạo: niêm mạc ngoài) và phần trong CTC (buồng CTC: niêm
mạc trong).
- Buồng CTC được lợp bằng lớp liên bào trụ (biểu mô trụ). Từ lỗ ngoài
CTC liên tiếp với âm đạo được bao phủ bằng lớp liên bào lát tầng (biểu mô vẩy).


Hình 1.2. CTC và ống CTC [16]
7
8
1.1.2. Động mạch tử cung
Động mạch của tử cung là một nhánh của động mạch hạ vị. Dài 13 - 15
cm, cong queo, lúc đầu động mạch chạy ở thành bên chậu hông, rồi chạy
ngang tới eo tử cung, sau cùng lật lên trên chạy dọc theo bờ ngoài tử cung để
lật ngang dưới vòi tử cung tiếp nối với động mạch buồng trứng.
1.1.3. Vòi tử cung
Vòi tử cung là một ống dẫn có nhiệm vụ đưa noãn và trứng về buồng tử
cung, bắt đầu mỗi bên từ sừng tử cung tới sát thành chậu hông, một đầu mở
vào ổ bụng, một đầu thông với buồng tử cung.
Vòi tử cung dài từ 10 – 12 cm .Lỗ thông với tử cung nhỏ 3 mm, lỗ
thông với ổ phúc mạc toả rộng như một cái loa, kích thước 7 – 8 mm.
Vòi tử cung được chia làm 4 đoạn:
- Đoạn kẽ: nằm trong thành tử cung, chạy chếch lên trên và ra ngoài
khoảng 1 cm, khẩu kính rất hẹp dưới 1 mm.

- Đoạn eo: tiếp theo đoạn kẽ, chạy ra ngoài, dài khoảng 2 – 4 cm, đây là
phần cao nhất của vòi tử cung, khẩu kính 1 mm.
- Đoạn bóng: dài khoảng 5 – 7 cm chạy dọc bờ trước của buồng trứng,
nối giữa đoạn eo và đoạn loa, lòng ống không đều do những nếp gấp cao của
lớp niêm mạc. Đoạn bóng là nơi noãn và tinh trùng gặp nhau để tạo nên hiện
tượng thụ tinh.
- Đoạn loa: là đoạn tận cùng của vòi tử cung dài khoảng 2 cm, toả hình
phễu có từ 10 – 12 tua, mỗi tua dài khoảng 1 – 1,5 cm, dài nhất là tua Richard
dính vào dây chằng vòi – buồng trứng, các tua có nhiệm vụ hứng noãn khi
được phóng ra khỏi buồng trứng vào thẳng vòi tử cung.
Động mạch vòi tử cung xuất phát từ động mạch buồng trứng và động
mạch tử cung, nối tiếp nhau ở trong mạc treo vòi tạo thành những vòi nối
cung cấp máu cho vòi tử cung.
8
9
1.2. Nguyên nhân và bệnh sinh chửa ở ống CTC [19], [20]
Các nguyên nhân của chửa ở ống cổ tử cung vẫn còn chưa biết rõ. Tuy
nhiên những lý do chửa ở ống CTC có thể là:
- Gia tăng tốc độ di chuyển của trứng đã thụ tinh qua buồng tử cung [21].
- Thay đổi nội mạc tử cung để chấp nhận sự cư trú cũng như sự phát
triển của phôi thai.
- Phôi bị sảy sớm rơi xuống và bám vào ống CTC.
- Lỗ ngoài CTC chít hẹp, khi phôi bị đẩy từ buồng tử cung xuống và bị
giữ lại ở ống CTC.
- Có tác giả cho là những bất thường tại CTC cũng góp phần làm tăng
tỷ lệ chửa ở CTC [19], [20].
- Rothe DJ đã cho thấy có một tỷ lệ cao của sự giãn nở trước và sau khi
nạo buồng tử cung ở phụ nữ với cổ tử cung [18], nạo có thể gây tổn hại niêm
mạc nội mạc tử cung và ngăn chặn cấy của trứng đã thụ tinh.
- Nguyễn Thanh Hoài nghiên cứu 62 trường hợp chửa ở CTC tại

BVPSTW năm 2008, tỷ lệ chưa nạo hút thai là 25,8% và 74,2 % là đã có ít
nhất một lần nạo hút thai [9]. Nghiên cứu 36 trường hợp chửa ở ống CTC
và chửa tại sẹo mổ lấy thai ở BVPSTW năm 2011, Nguyễn Thị Hương Nga
thấy tỷ lệ nạo hút thai là 75% [10].
- Viêm nội mạc tử cung từ việc sử dụng dụng cụ tử cung và viêm vùng
chậu có thể giải thích sự gia tăng rõ ràng tỷ lệ thai ngoài tử cung ở những
bệnh nhân với các yếu tố nguy cơ [21].
- Do thụ tinh trong ống nghiệm: Sự gia tăng về tỷ lệ thụ tinh trong ống
nghiệm dường như cũng góp phần tăng chửa ở ống CTC vì khi được chuyển
9
10
vào buồng tử cung, phôi không thể bám ngay vào niêm mạc buồng tử cung,
hoặc là ở những người chưa có kinh nghiệm đã để phôi dính ở đầu catheter
khi chuyển phôi hoặc là phôi có thể từ buồng tử cung rơi xuống và gây chửa ở
ống CTC.Thai làm tổ ở ống cổ tử cung, trong ổ bụng cũng được ghi nhận sau
khi thụ tinh trong ống nghiệm và chuyển phôi (Brenner 1993, Brinsden
1993).Một số báo cáo trường hợp gần đây cũng đã ghi nhận có sự gia tăng tỷ lệ
có thai ở ống cổ tử cung ở phụ nữ thụ tinh trong ống nghiệm, Weyerman PC,
Verhoeven ATM, Alberda AT [22] Trong thực tế lâm sàng các nghiên cứu
nhận thấy chửa ở ống CTC tăng có thể liên quan phụ nữ có tiền sử nạo tử cung
và việc sử dụng các phương pháp điều trị can thiệp vô sinh.
- Ngoài ra, tỷ lệ chửa ở ống CTC dường như được tăng lên do việc
chẩn đoán sớm được phát hiện qua siêu âm đường âm đạo hoặc là một số
trong đó thai tự thoái triển một cách tự nhiên. Làm rõ vai trò của các yếu tố
nguy cơ khác nhau sẽ đòi hỏi một nghiên cứu hồi cứu lớn với kiểm soát số
lần xuất hiện thích hợp.
1.3. Triệu chứng chửa ở ống CTC
1.3.1. Những triệu chứng lâm sàng cổ điển của chửa ở ống CTC [1]
- Thường là chậm kinh bởi vì từ khi phôi di chuyển từ vòi tử cung xuống
đến CTC và làm tổ tại ống CTC cũng là một thời gian dài.

- Ra huyết trong những tuần đầu của thai kỳ nhưng không gây đau đớn
là triệu chứng hay gặp do bong gai rau hoặc là sự xâm lấn của tế bào nuôi
vào thành của ống CTC. Có thể ra nhưng phần lớn ra ra máu nhiều, ồ ạt mà
thường bị chẩn đoán là sảy thai băng huyết, thậm chí có thể gây choáng do
mất máu, trụy mạch. Tính chất của máu là máu đỏ tươi và nhiều máu cục
nếu đang chảy máu cấp và ồ ạt.
10
11
- Đau bụng: khác với các thể CNTC khác, chửa ở ống CTC thường ít
hoặc không đau bụng có thể là sự giãn nở của thành CTC tốt hơn, mặt khác
do cấu tạo, CTC to hơn sự chấp nhận gai rau làm tổ cũng tốt hơn nên không có
hiện tượng rạn nứt như thành vòi tử cung, hơn nữa là máu rỉ ra từ các gai rau
xâm lấn vào lớp cơ ở ống CTC, được chảy luôn ra ngoài nên không có hiện
tượng ứ đọng lại gây căng tức và vỡ như chửa tại vòi tử cung. Theo nghiên cứu
của Rubin (1983) [7], không đau bụng chiếm tới 90% các trường hợp.
1.3.2. Những dấu hiệu thực thể [1], [7], [16], [23]
- Khám bụng hoàn toàn không có bất kỳ triệu chứng gợi ý nào, nhưng
thăm khám âm đạo bằng mỏ vịt hoặc van quan sát một cách cẩn thận có thể
có những dấu hiệu gợi ý (khi thai còn nhỏ) hoặc là những dấu hiệu điển hình
của chửa ở CTC.
- Âm đạo thường có ít huyết sẫm màu hoặc là huyết đỏ tươi (nếu
đang chảy máu nhiều). Trong những trường hợp bị chẩn đoán nhầm với sảy
thai hoặc nạo thai thì máu đỏ tươi và chảy dữ dội. Đôi khi nếu bệnh nhân
được nạo ở tuyến trước do chẩn đoán là sảy thai dở dang hoặc phá thai thì
chảy máu nhiều đe dọa đến an toàn của tính mạng bệnh nhân hoặc là phải
chèn gạc cầm máu.
- CTC có thể có màu tím do xung huyết do khối thai phát triển nhiều mạch máu.
- CTC to mềm, to toàn bộ, lỗ ngoài hé mở. Đây là dấu hiệu thực thể
quan trọng nhất. Nguyễn Thanh Hoài gặp 72,4% [9]. Nguyễn Viết Tiến [23]
và Lê Thị Sáu [20]cũng gặp tỷ lệ cao và cho rằng dấu hiệu này là quyết định

cho chẩn đoán về lâm sàng. Rubin [7] và một số tác giả mô tả CTC phình to
tạo thành với thân tử cung như một chiếc đồng hồ cát do eo tử cung phân cách
với khối thai tại CTC.
11
12

Hình 1.3. Chửa tại ống CTC [1]
Nguồn:Vương Tiến Hòa – Chẩn đoán và xử trí CNTC - 2012
- Thân tử cung hoàn toàn bình thường hoặc là hơi to hơn bình thường
do phản ứng màng rụng khi có thai cách biệt với CTC to hơn và mềm hơn
một cách không bình thường qua eo tử cung.
- Hai phần phụ mềm mại, không có khối và cùng đồ sau không đầy,
không đau.
Năm 1983, Rubin [7] đưa ra tiêu chuẩn về lâm sàng để chẩn đoán chửa
ở ống CTC như sau:
- Ra máu âm đạo không kèm theo đau bụng.
- CTC căng phồng nhưng thành CTC mỏng.
- Lỗ ngoài CTC hé mở.
- Thân tử cung bình thường hay hơi to hơn bình thường nằm phía trên CTC.
Trước khi có siêu âm thì chẩn đoán lâm sàng có thai ở cổ tử cung rất khó
khăn. Thường chẩn đoán nhầm là thai sắp sảy, hoặc đang sảy thai, hoặc chorio
sau nạo thai, hoặc u xơ tử cung.
12
13
1.3.3. Các xét nghiệm và thăm dò
1.3.3.1. Xét nghiệm hCG [25]
- hCG (human chorionic gonadotropin) là hormone hướng sinh dục rau
thai được chế tiết từ những tế bào lá nuôi của bánh rau. Có mặt trong máu
hoặc trong nước tiểu ở thời kỳ thai nghén.
Về cấu tạo: hCG là một glycoprotein, phân tử hCG được tạo ra từ hai

tiểu đơn vị anpha (α) và bêta (β). Chuỗi α có cấu tạo giống chuỗi α của LH
và TSH, chuỗi β đặc hiệu cho hCG là cơ sở cho việc định lượng chất này.
hCG bắt đầu được chế tiết vào cuối giai đoạn phôi dâu khi các nguyên
bào được biệt hoá và phát hiện trong huyết thanh vào ngày thứ 6 – 8 sau thụ
tinh. Trước khi phôi nang làm tổ, hCG được tiết ra bởi hợp bào nuôi và lúc đó
đơn bào nuôi lông rau không còn chế tiết hCG nữa. Phần lớn lượng hCG được
tiết ra bởi nguyên bào nuôi và giải phóng vào trong máu mẹ khoảng
50mUI/ml khoảng một tuần sau khi trứng làm tổ, khoảng 100mUI/ml vào
ngày chậm kinh đầu tiên. Nồng độ hCG tăng dần trong vòng 60 – 90 ngày đầu
thai nghén. Trong thai nghén bình thường, thời gian tăng gấp đôi của hCG từ
36 đến 48 giờ. Tỷ lệ tăng ít nhất là 66% được xác định như một ngưỡng cho
sự phát triển của thai. Nếu tăng quá cao hoặc quá thấp hay không tăng là biểu
hiện của thai nghén không bình thường.
Theo Ozturk và Mehmet [25] thấy rằng βhCG tăng nhanh chóng từ
tuần thứ 5 đến tuần thứ 9.
Nồng độ βhCG trong huyết thanh của phụ nữ có thai nghén bình thường
được định lượng theo phương pháp ELISA bằng máy IMX với sinh
phẩm của hãng ABBOT với độ nhạy là 2mIU/ml như sau :
13
14
Bảng 1.1. Nồng độ hCG trong thai nghén bình thường [9], [26]
Tuổi thai tính từ kinh cuối cùng
Nồng độ βhCG huyết thanh (mUI /ml)
Tuần 3 đến tuần thứ 4 9 đến 130
Tuần 4 đến tuần thứ 5 75 đến 2.600
Tuần 5 đến tuần thứ 6 850 đến 20.800
Tuần 6 đến tuần thứ 7 4.000 đến 100.000
Tuần 8 đến tuần thứ 10 50.000 đến 100.000
Vì vậy định lượng β hCG huyết thanh sẽ giúp ích rất nhiều cho việc
phân biệt giữa một CNTC hoặc sẩy thai không hoàn toàn với một thai nghén

bình thường, hoặc là theo dõi một CNTC còn tồn tại sau phẫu thuật bảo tồn
vòi tử cung và sau điều trị nội khoa.
- Xét nghiệm nhanh hCG bằng Quick Stick hoặc định lượng βhCG cho
kết quả khẳng định sự có thai. Nếu được chẩn đoán sớm, nồng độ βhCG cao
do phôi thai làm tổ ở ống CTC nên hợp bào nuôi phát triển tốt hơn. Nếu phôi
thai đã chết hoặc đã nạo phá thai thì có những trường hợp nồng độ βhCG rất
thấp, thậm chí như không có thai.
1.3.3.2. Siêu âm [27], [28]
Trong những thập kỷ qua, sử dụng rộng rãi của siêu âm đường âm đạo
đã giúp ích rất nhiều và cũng gần như quyết định cho chẩn đoán xác định
chửa ở ống CTC, đặc biệt là chẩn đoán phân biệt giữa một sảy thai hoặc phá
thai dở dang với chửa ở ống CTC.
* Raskin [27] chẩn đoán thai ở ống cổ tử cung bằng siêu âm đầu tiên
trên thế giới năm 1978. Độ chính xác của siêu âm là 81% so với chẩn đoán
lâm sàng là 21%.
Tiêu chuẩn chẩn đoán siêu âm của Raskin.
1. Thân tử cung trống và nội mạc thân tử cung mỏng.
14
15
2. Cổ tử cung căng phồng lên làm tử cung có dạng “ đồng hồ cát”.
3. Thai, rau nằm trọn ở cổ tử cung.
4. Đa số tim thai dương tính, còn chửa ở vòi tử cung chỉ có 5 - 10% có
tim thai dương tính mà thôi.
5. Rau phải xâm lấn vào mô cổ tử cung.
6. Nếu dùng Doppler màu thì có thể phát hiện dòng chảy động mạch
quanh rau ở đoạn cổ tử cung, còn thân tử cung thì không thấy có dòng chảy.
Năm 1993, Timor-Tritsch và cộng sự [28] đưa ra hai hình ảnh siêu âm có
giá trị hơn trong chửa ở ống CTC là các tiêu chí nghiêm ngặt hơn:
+ Rau thai và túi thai phải nằm dưới lỗ trong CTC.
+ Hình ảnh CTC dãn rộng như hình ảnh một chiếc thùng chứa rượu.

Chẩn đoán có thể gặp khó khăn trong thai kỳ đầu khi chưa có hoạt động tim thai.
Theo Vương Tiến Hòa (2012) [1] hình ảnh điển hình và đặc hiệu về siêu
âm đường âm đạo để chẩn đoán chửa ở CTC bao gồm:
+ Buồng tử cung rỗng, không có túi thai và niêm mạc mỏng
+ CTC căng phồng tạo với thân tử cung thành hình đồng hồ cát.
+ Thai và rau nằm trong ống CTC, bên dưới lỗ trong cổ tử cung.
+ Tim thai có hoặc không (đa số là có tim thai).
+ Các gai rau xâm lấn vào lớp cơ tử cung.
+ Doppler màu thấy được dòng chảy của mạch máu tại nơi rau bám ở CTC.
* Hình ảnh siêu âm chửa ở ống cổ tử cung của Phan Trường Duyệt [29]:
Khối thai nằm thấp trong buồng tử cung. Trên màn ảnh siêu âm thấy tử cung
to hơn bình thường, niêm mạc tử cung phát triển tạo âm vang dầy giữa buồng
15
16
tử cung. Phần dưới tử cung phình ra làm tử cung biến dạng. Thai thường
không phát triển, chết và sảy ra ngoài.
* Siêu âm đầu dò âm đạo rất có giá trị trong chẩn đoán chửa ở ống cổ tử cung.
Các tiêu chuẩn chẩn đoán chửa ở ống cổ tử cung trên siêu âm đầu dò
âm đạo của Võ Thành Ngọc năm 2006 [30] bao gồm:
+ Tiêu chuẩn chẩn đoán vị trí chửa ở ống cổ tử cung:
Sự hiện diện buồng tử cung rỗng, thấy rõ đường niêm mạc, có hình ảnh
túi thai điển hình (là một khối có túi ối, âm vang thai và hoạt động của tim
thai) làm tổ ở vị trí ở cổ tử cung làm dãn rộng buồng cổ tử cung. Và dấu hiệu
rau thai và màng đệm phải nằm ở phía dưới lỗ trong ống cổ tử cung.
+ Tiêu chuẩn kích thước:
Đo kích thước khối thai theo hai đường kính của khối chửa và sau đó
lấy trung bình của hai đường kính này. Trong nghiên cứu của Võ Thành Ngọc
chia làm 3 mức: ≤ 2 cm; 2,1 – 4 cm; và > 4 cm.
1.3.3.3.Giải phẫu bệnh lý trong chẩn đoán chửa ở CTC
- Đại thể: Có tổ chức giống rau bám vào ống cổ tử cung, nội mạc phù

nề, mềm mỏng.
- Vi thể: Tổ chức gai rau bình thường ở ống cổ tử cung, hình ảnh phản
ứng màng rụng ở nội mạc tử cung.
Tiêu chuẩn chẩn đoán có thai ở ống cổ tử cung theo Rubin [7] dựa vào
giải phẫu bệnh:
1. Sự hiện diện của tuyến cổ tử cung đối diện ở chỗ rau bám.
2. Rau phải dính chặt vào cổ tử cung.
16
17
3. Rau thai phải nằm dưới chỗ đi vào của động mạch tử cung và nếp
gấp phúc mạc bàng quang trước sau.
4. Không có phần thai nằm ở thân tử cung.
1.4. Chẩn đoán phân biệt [1]
- Dễ gặp nhất cần chẩn đoán phân biệt chửa ở ống CTC với sảy thai.
Với một sảy thai thường có đầy đủ các dấu hiệu có thai, ra huyết và đau bụng,
Tuy nhiên trên lâm sàng hay nhầm lẫn với sảy thai dở dang, cho rằng phôi
thai đang sảy và nằm lại CTC nên cũng có hình ảnh đồng hồ cát do CTC to,
căng phồng và ra huyết. Năm 1996, Jukovic và cộng sự [31] đưa hai tiêu
chuẩn về siêu âm đường âm đạo để chẩn đoán phân biệt sảy thai với chửa ở
ống CTC đó là dấu hiệu trượt của khối thai:
+ Khi người siêu âm đẩy đầu dò mạnh vào CTC thì khối thai trượt vào
lòng TC nếu là sảy thai, còn chửa ở ống CTC thì không có dấu hiệu này.
+ Doppler màu thì dấu hiệu tăng sinh mạch máu và dòng chảy quanh
rau thai chỉ gặp ở chửa ở ống CTC mà không có trong sảy thai.
- Những túi thai sẩy vào CTC được Timo-Tritsch [28] mô tả như hình
“chiếc mũ tai bèo”, còn những thai làm tổ trong buồng CTC luôn có dạng
hình tròn hoặc hình oval.
- Một trường hợp tuy ít gặp hơn đó là ung thư biểu mô tuyến ở CTC vì
CTC cũng to và mềm, ra huyết ít một, nhưng tuổi người bệnh thường nhiều
hơn và không có những dấu hiệu của thai nghén.

1.5. Hậu quả và các phương pháp điều trị [1]
Do cấu tạo của CTC nên thai không thể phát triển như trong buồng tử
cung mà đến một tuổi thai nào đó sẽ gây chảy máu. Vì có hai mạch máu cổ
17
18
tử cung âm đạo cho nên khi sẩy, khối phôi thai bong dở dang sẽ gây chảy
máu dữ dội. Xử trí khối thai CTC và cầm máu gặp nhiều khó khăn, nhiều
khi máu chảy không cầm bắt buộc phải mở bụng thắt các mạch máu cung
cấp máu cho CTC. Tuy nhiên cũng nhiều trường hợp thất bại, để cứu tính
mạng của bệnh nhân, đành cắt tử cung hoàn toàn sẽ làm ảnh hưởng nặng nề
đến sinh sản của bệnh nhân.
1.5.1. Xử trí chửa ở ống CTC [1], [10]
Lựa chọn một phương pháp điều trị thích hợp chửa ở ống CTC phụ
thuộc vào các nhiều yếu tố như tuổi thai, kích thước khối thai, sự xử trí ở
tuyến dưới, khả năng, kinh nghiệm cũng như trang thiết bị của cơ sở y tế và
đặc biệt là nhu cầu của người phụ nữ về sinh sản. Một số lựa chọn để điều
trị bao gồm: cầm máu bằng chèn gạc, giảm cung cấp máu, cắt bỏ các mô
phôi, giảm thiểu phôi và hóa trị liệu.
Phải ghi nhớ rằng chửa ở ống CTC là một loại cấp cứu chảy máu đe
dọa tính mạng của bệnh nhân do động mạch CTC - âm đạo tưới máu cho
CTC và phát triển rất phong phú khi chửa ở ống CTC, vì vậy khi xử trí đòi
hỏi thày thuốc phải có kinh nghiệm và các phương tiện hồi sức cấp cứu tốt
đặc biệt là phải có sẵn ít nhất một đến hai đơn vị máu.
* Nạo bỏ khối thai [1]:
Thường được chỉ định cho những người còn trẻ và còn nhu cầu về sinh
sản. Phải đánh giá kỹ về kích thước khối thai. Dẫu phôi thai còn sống đang
phát triển hoặc đã chết thì nguy cơ chảy máu cũng rất cao khi nạo bỏ khối thai
tại CTC. Khi chuẩn bị đầy đủ và nên tiến hành tại phòng mổ, sau khi được
tiền mê và tốt nhất đặt đường truyền tĩnh mạch với tinh thần là mố cấp cứu sẽ
tiến hành nạo bỏ khối thai. Rất ít gặp trường hợp không chảy máu, phần lớn là

chảy máu ở CTC sau nạo do tổn thương mạch máu ở CTC.
18
19
Có hai cách cầm máu ở CTC:
- Chèn gạc chặt vào ống CTC.
- Dùng một sonde Foley có một quả bóng 30 ml, bơm phồng khoảng
100ml nước nóng giúp cầm máu tốt hơn.
Cũng có một số tác giả gợi ý bằng khâu hai mũi cát gút ở vị trí 3 và 9
giờ, nơi xuất phát của động mạch CTC- âm đạo hoặc cặp và kéo gập CTC về
phía sau mục đích là gập hẳn CTC để làm giảm cung cấp máu của động mạch
tử cung cho nhánh CTC – âm đạo. Nếu không kết quả phải mổ cấp cứu. Khi
mổ thì tùy thuộc vào kinh nghiệm và khả năng cũng như tình trạng của bệnh
nhân mà quyết định: thắt động mạch tử cung, thắt động mạch hạ vị để bảo tồn tử
cung, hoặc cắt tử cung hoàn toàn. Nguyên tắc là phải đặt sự an toàn, bảo đảm sự
sống cho bệnh nhân lên hàng đầu. Mặt khác khi cắt tử cung hoàn toàn cũng phải
chú ý để tránh thắt vào niệu quản do CTC phình to, làm thay đổi giải phẫu của
niệu quản. Gần đây y văn cũng đề cập đến nút mạch để cầm máu nhưng hiệu
quả cũng không cao.
* Diệt phôi [1], [10], [23], [32]:
Kỹ thuật này được thực hiện qua đường âm đạo, dưới sự hướng dẫn của
siêu âm đầu dò âm đạo. Cần tư vấn cho người bệnh về kỹ thuật đình chỉ phôi
thai và thực hiện khi có cam kết của người bệnh.
Kỹ thuật:
- Siêu âm đầu dò âm đạo để xác định chính xác vị trí túi thai có phôi và
tim thai.
- Dùng kim chọc hút gắn lên cần mang kim chọc qua âm đạo dưới
hướng dẫn của siêu âm đầu dò âm đạo, vào túi thai đến phôi thai.
19
20
- Sau khi kim vào đến phôi thai, dùng một syringe 10ml gắn vào kim

tạo một lực hút lên phôi. Hút lặp lại nhiều lần cho đến khi toàn bộ hay phần
lớn mô phôi thai được hút ra ngoài (trung bình thời gian hút cho một trường
hợp khoảng 5-10 phút nếu người làm đã nắm vững kỹ thuật). Tránh hút nước
ối để có thể quan sát rõ phôi thai trong suất quá trình thực hiện và dễ theo dõi
sau này. Trong hầu hết các trường hợp, phần âm phôi mất hoàn toàn hay còn
rất nhỏ, túi thai vẫn còn nguyên kích thước hay hơi nhỏ đi một chút.
* Điều trị nội khoa chửa ở ống CTC bằng Methotrexate:
Điều trị nội khoa CNTC không phải là vấn đề mới. Năm 1982, Tanaka
[32] là người đầu tiên đã báo cáo trường hợp điều trị CNTC thành công bằng
Methotrexate (MTX) ở Mỹ. Giữa những năm 80 người ta đã tiến hành thử
nghiệm với Prostaglandin, Glucose ưu trương, các kháng thể đơn dòng kháng
HCG, Kaliclorua và cuối cùng là RU468 (Mifepristone). Từ đó đến nay trải
qua hơn hai thập kỷ, điều trị CNTC bằng MTX được áp dụng ở các nước Âu-
Mỹ, hiện nay vẫn là thuốc được sử dụng thường xuyên và được áp dụng hầu
hết ở các cơ sở sản khoa hiện đại. Ở Việt nam, từ năm 1997 bắt đầu điều trị
bằng MTX cho bệnh nhân CNTC đến nay tỷ lệ thành công là trên 90%, đã mở
ra hy vọng mới cho bệnh nhân bị CNTC được điều trị bảo tồn mà không phải
phẫu thuật. Năm 2004 Bệnh viện Phụ sản Trung ương lần đầu tiên đã điều trị
nội khoa thành công bệnh nhân CNTC tại vị trí ống cổ tử cung [23].
Ngày nay phương pháp điều trị nội khoa trong CNTC tại vị trí ở ống cổ
tử cung được sử dụng trước tiên. Cầm máu bằng phẫu thuật chỉ áp dụng khi
hoá trị liệu thất bại hoặc người bệnh không được chẩn đoán trước và đến
trong tình trạng cấp cứu. Sự thay đổi này làm giảm biến chứng, bảo tồn được
tử cung. MTX được Tanaka (1982) [32] khuyến cáo sử dụng trong điều trị
20
21
CNTC và lần đầu tiên được áp dụng lâm sàng bởi Miyazaki (1983) và Ory và
cộng sự (1986).
Hóa chất diệt phôi có thể là Kali clorua hoặc Methotrexate theo hướng
dẫn của siêu âm (đưa kim chọc ối vào túi ối, hút nhiều lần cho đến khi hút hết

mô phôi, tuỳ thuộc kích thước túi ối mà hút bớt dịch ối nhiều hay ít để bơm
dung dịch diệt phôi. Bơm 3 đến 5 ml dung dịch 2 mEq/ml Kali clorua vào túi
ối rồi rút kim, dung dịch Kali clorua sẽ diệt nốt phần phôi còn lại).
Việc sử dụng Methotrexate tiêm vào túi ối đòi hỏi kỹ năng và kỹ thuật
tương tự và nó có vẻ là thành công nhất ở tuổi thai dưới hoặc bằng 9 tuần, đặc
biệt là trong trường hợp không có hoạt động của tim thai. Liều thông thường
là 1 đến 1,5 mg/kg trọng lượng cơ thể, và có một số nguy cơ ảnh hưởng xấu
đến hệ thống chẳng hạn như viêm miệng hoặc tăng transaminase gan.
MTX thuộc nhóm kháng chuyển hoá. MTX là một kháng folic, ức chế
tổng hợp tự sinh của Purin và Pirimidin do vậy cản trở sự tổng hợp DNA và
sự nhân lên của tế bào. Hấp thu qua đường tiêu hoá và gắn vào Albumin
huyết tương. Phần lớn MTX thải qua thận, vậy cần giảm liều nếu suy thận.
Theo dõi sau giảm thiểu phôi bằng định lượng nồng độ βhCG sau 48
giờ và sau đó cứ một hoặc hai tuần một lần kết hợp với siêu âm theo dõi hình
ảnh và sự phát triển của phôi, hoạt động của tim thai. Nếu thất bại thì phải
chuyển sang phương pháp khác.
Diệt phôi và sử dụng MTX rất hiệu quả khi tuổi thai dưới 8-9 tuần.
Thành công khi nồng độ βhCG giảm và kích thước khối thai nhỏ rồi mất hẳn
chỉ để lại tổ chức sẹo ở CTC.
- Các chỉ định điều trị nội CNTC bằng thuốc MTX của Tạ Thị
Thanh Thuỷ [21]:
+ CNTC chưa vỡ, hàm lượng βhCG nhỏ hơn 5000 mUL/ml.
21
22
+ Không có tình trạng chảy máu trong ổ bụng hay lượng máu trong ổ
bụng ít hơn 250 ml (ước lượng trên siêu âm).
+ Kích thước túi thai nhỏ hơn 4cm, không có hoạt động tim thai khi
khám siêu âm.
+ Huyết động ổn định, chức năng gan thận bình thường.
* Theo L. Smith chỉ định điều trị nội khoa CNTC 2008 [33]:

- Bệnh nhân còn mong muốn có thai.
- Nồng độ βhCG dưới 1500mUI/ml.
- Huyết động ổn định.
- Khối chửa nhỏ hơn 3,5cm.
- Các trường hợp chửa ở ống cổ tử cung hoặc CNTC.
- Siêu âm đầu dò âm đạo không thấy khối thai trong tử cung với nông
độ βhCG > 2000UI/ml.
- Nạo hút buồng tử cung không thấy tổ chức rau thai.
- Nồng độ progesteron máu dưới 5,0ng/ml.
+ Liều lượng:
Có thể là liều duy nhất theo tác giả Stovall [34]: 50mg/m
2
da (1mg/kg),
hoặc liệu trình 5 ngày cách nhau mỗi tuần.
Sau khi tiêm liều thứ nhất cần theo dõi lượng βhCG trong vòng một
tuần, nếu không giảm hơn 15% so với ban đầu hoặc cao hơn có thể dùng liều
thứ hai. Tối đa có thể dùng ba liều. Trong thực tế lượng βhCG có thể tăng lên
50% vào ngày 4 - 7 sau tiêm lần một rồi sau đó mới giảm xuống. Điều trị
MTX được coi là thất bại nếu kể từ 24 giờ sau khi tiêm người bệnh phải mổ
22
23
cấp cứu do mất máu, hay sau khi tiêm đủ ba liều, lượng βhCG không giảm
thêm hoặc tăng trở lại phải chỉ định mổ cấp cứu.
+ Phác đồ điều trị MTX theo L. Smith 2088 [33]:
- Xét nghiệm công thức máu, nhóm máu, nhóm Rh, chức năng gan thận
và βhCG trước khi dùng thuốc.
- Dùng liều MTX 50mg/m
2
.
- Xét nghiệm βhCG ngày thứ 4.

- Xét nghiệm βhCG ngày thứ 7.
- Nếu nồng độ βhCG giữa ngày thứ 4 và ngày thứ 7 giảm dưới 15% thì
làm lại xét nghiệm công thức máu và chức năng gan thận. Nếu không có
chống chỉ định thì nhắc lại liều MTX.
- Nếu nồng độ βhCG giữa ngày 4 và ngày 7 giảm trên 15% thì tiếp tục
theo dõi βhCG hàng tuần cho đến khi βhCG xuống dưới 10mUI/ml.
- Nếu nồng độ βhCG vẫn giữ ở mức cao thì làm lại các xét nghiệm và
lặp lại liều MTX.
1.5.2. Vấn đề sinh sản sau chửa ở ống cổ tử cung [1]
Mặc dù thời gian bán hủy trong huyết thanh của Methotrexate liều thấp
chỉ 10 giờ nhưng thuốc có thể được giữ lại trong thận và gan trong nhiều
tháng vì vậy có nghiên cứu chỉ ra rằng Methotrexate có thể gây bất thường
cho thai đặc biệt là ở tuổi thai từ 6 đến 8 tuần vì vậy phải tránh có thai từ 6
đến 12 tháng sau khi kết thúc điều trị để hạn chế tối đa khả năng gây nguy cơ
cho thai. Khi có thai phải siêu âm sớm và theo dõi chặt chẽ kỳ thai tiếp theo
để phát hiện sớm bất thường của thai.
Những can thiệp tại CTC khi điều trị CTC có thể làm tổn thương và
làm hở eo tử cung vì vậy có thể gây sảy thai liên tiếp, hoặc sinh non và đó gần
như là một hệ luỵ sau chửa tại CTC đòi hỏi phải thăm khám và có quyết định
cho đúng và kịp thời, cũng cần tư vấn đầy đủ cho người bệnh khi có thai, nên
khám khi thai được 12 tuần tuổi.
23
24
1.6. Các nghiên cứu trên thế giới và tại Việt Nam
Chửa ở CTC đã được y văn thế giới đề cập và nghiên cứu rất nhiều, tuy
nhiên ở Việt Nam chỉ mới được đề cập đến trong hai thập kỷ qua. Lê Hoài
Chương (năm 1995) thông báo 5 trường hợp chửa ở ống CTC, chẩn đoán bị
nhầm lẫn với sảy thai, chảy máu không cầm phải cắt tử cung hoàn toàn [8].
Mãi tới năm 2002, Lê Thị Sáu công bố một trường hợp chửa ở ống CTC tại
Khoa Sản bệnh viện Đa khoa Đà Nẵng [20]. Năm 2004, Nguyễn Viết Tiến

báo cáo lâm sàng một trường hợp chửa ở ống CTC điều trị nội khoa thành
công [23]. Võ Thành Ngọc (2006), nghiên cứu giá trị siêu âm đầu dò âm đạo
trong chẩn đoán chửa ở ống CTC [30]. Năm 2010, Nguyễn Đình Tời, Nguyễn
Bích Vân tổng kết về chửa ở ống CTC tại BVPSTW [35]. Điều trị bảo tồn
chửa ở ống CTC bằng MTX và diệt phôi đã được đề cập và áp dụng trong
những năm vừa qua. Tạ Thanh Thủy, Đỗ Danh Toàn [21] nghiên cứu điều trị
chửa ở ống CTC bằng MTX tại bệnh viện Hùng Vương (2010). Nguyễn
Thanh Hoài [9], Nguyễn Thị Hương Nga [10] nghiên cứu về điều trị nội khoa
chửa ở ống CTC tại BVPSTW, tuy nhiên chưa có công trình nào nghiên cứu
về chửa ở ống CTC trong 5 năm để đánh giá một cách có hệ thống, tương đối
toàn diện và đánh giá sự tiến bộ về chẩn đoán, điều trị cũng như các phác đồ
để có thể áp dụng trong lâm sàng, vì vậy nghiên cứu này là cần thiết và các
kết quả nghiên cứu sẽ rất có giá trị trong thực tế.
24
25
CHƯƠNG 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Là những người bệnh được chẩn đoán là chửa ở ống cổ tử cung được
điều trị tại BVPSTW từ 01/01/ 2008 đến 31/12/2012. Những thông tin được
thu thập từ những bệnh án được lưu trữ tại BVPSTW
2.1.1. Tiêu chuẩn chọn đối tượng nghiên cứu
- Những bệnh nhân được chẩn đoán là chửa tại ống CTC.
- Bệnh án ghi chi tiết có đầy đủ các thông tin phục vụ nghiên cứu.
- Hình ảnh siêu âm điển hình.
2.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ
- Những người bệnh không có đầy đủ thông tin trên.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu
- Nghiên cứu này được thực hiện theo phương pháp hồi cứu mô tả.

dựa trên những thông tin có trong hồ sơ bệnh án của những người bệnh bị
chửa ở ống cổ tử cung được điều trị tại BVPSTW.
2.2.2. Cỡ mẫu
Do số lượng người bệnh không nhiều nên chúng tôi chọn cỡ mẫu không
xác xuất, lấy tất cả những bệnh án được chẩn đoán chửa ở ống cổ tử cung được
điều trị tại BVPSTW trong 5 năm (từ 01/01/ 2008 đến 31/12/2012).
25

×