Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

Trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự theo quy định hiện hành của pháp luật việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1009.82 KB, 97 trang )

Trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự theo
quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam : Luận văn
ThS / Vũ Tiến Vinh ; Nghd. : TS. Phùng Trung Tập . H. : Khoa Luật, 2006 . - 84 tr. + Đĩa mềm + Tóm tắt

Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các ký hiệu và chữ viết tắt

1

Mở đầu ……………………………………………….……

2

1. Tính cấp thiết của đề tài ……………………………

2

2. Tình hình nghiên cứu ………………………………

4

3. Cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn, phương pháp nghiên
cứu, phạm vi nghiên cứu của luận văn ……………

4

4. Mục đích nghiên cứu của luận văn …………………


5

5. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn

6

……
6. ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn ………

7

7. Kết cấu của luận văn ………………………………

7

Chương 1. Khái niệm về trách nhiệm dân sự và Trách
nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự
1.1. Trách nhiệm dân sự

9
9

4


1.2. Trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự

11

1.2.1. Khái niệm trách nhiệm dân sự do vi phạm

hợp đồng dân sự ……………………………

11

1.2.2. Đặc điểm của trách nhiệm dân sự do vi
phạm Hợp đồng dân sự ………………………

14

1.3. Khái quát các quy định về trách nhiệm dân sự do
vi phạm Hợp đồng dân sự ………………………

20

1.4. So sánh trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp
đồng dân sự và trách nhiệm dân sự ngoài hợp
đồng …
Chương 2.

24

Các điều kiện phát sinh và nội dung của trách
nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự ……

27

2.1. Các điều kiện phát sinh trách nhiệm dân sự do vi
phạm hợp đồng ……………………………

28


2.1.1. Có hành vi vi phạm hợp đồng ………………

28

2.1.2. Có thiệt hại xảy ra ……………………

35

2.1.3. Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm
hợp đồng và thiệt hại xảy ra …………………
2.1.4. Người vi phạm hợp đồng có lỗi …………

38
42

2.2. Nội dung của trách nhiệm dân sự do vi phạm
hợp

đồng

dân

sự

………………………………………

45

2.2.1. Trách nhiệm phải tiếp tục thực hiện hợp

đồng

47

2.2.2. Trách nhiệm phải bồi thường thiệt hại …

56

2.2.3. Bị phạt vi phạm nếu có thỏa thuận …………

60

5


Chương 3.

Phương hướng hoàn thiện các quy định của pháp
luật dân sự về trách nhiệm dân sự do vi phạm
hợp đồng dân sự …………………………………..

63

3.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện những quy định của
pháp luật dân sự về trách nhiệm dân sự do vi
phạm hợp đồng dân sự ……………………………

63

3.1.1. Những quan điểm chỉ đạo nhằm hoàn thiện

pháp luật dân sự ……………………………

64

3.1.2. Thực tiễn xét xử của tòa án nhân dân các
cấp đối với các tranh chấp liên quan đến
trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng
dân sự ……………...

66

3.2. Đề xuất phương hướng hoàn thiện các quy định
liên quan và nâng cao hiệu quả xét xử của tòa án
các cấp đối với các tranh chấp liên quan đến
trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự

77

Kết luận ………………………

82

Tài liệu tham khảo ………………………………………

88

6


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT


BLDS

: Bộ luật Dân sự

Nxb

: Nhà xuất bản

TAND

: Toà án nhân dân

TTLT

: Thông tư liên tịch

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa

7


MỞ ĐẦU
1.

Tính cấp thiết của đề tài

Cùng với sự ra đời của Nhà nước và Pháp luật, bên cạnh chế định quyền nhân

thân, quyền sở hữu, nghĩa vụ và hợp đồng dân sự, trách nhiệm dân sự được
xem là một trong những chế định pháp luật quan trọng. Xã hội loài người đã
trải qua nhiều kiểu nhà nước khác nhau, và ở mỗi kiểu Nhà nước lại có một
hình thái kinh tế - xã hội tương ứng nhưng bất kỳ kiểu nhà nước nào cũng đều
thông qua pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội phù hợp với thực tiễn
phát triển của kiểu nhà nước và pháp luật đó.
Hợp đồng dân sự là một hình thức thỏa thuận phổ biến trong xã hội có tư hữu.
Nghiên cứu về trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự là một vấn đề
rất thiết thực, được nhiều người quan tâm tìm hiểu.
Dựa trên tinh thần của Hiến pháp năm 1992, Bộ luật Dân sự (“BLDS”) năm
2005 có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2006 là một bước phát triển mới trong
quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật dân sự của Việt Nam. Trách nhiệm
dân sự và Hợp đồng dân sự đã được pháp điển hóa trong Bộ luật Dân sự, bảo
vệ trực tiếp quyền lợi của các cá nhân, tổ chức khi tham gia các giao dịch dân
sự.
Trước yêu cầu đổi mới đất nước, hoàn thiện hệ thống pháp luật là nhiệm vụ
quan trọng trong quá trình xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa (“XHCN”) Việt Nam. Ngày 2 tháng 1 năm 2002, Bộ Chính trị
đã ban hành Nghị quyết số 08/NQ/BCT “Về một số nhiệm vụ trọng tâm công
tác tư pháp trong thời gian tới” và ngày 2 tháng 6 năm 2005 Bộ Chính trị ban
hành Nghị quyết số 49/NQ-TW “Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm
2020” đề ra mục tiêu “Xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ,
nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng

8


sự Tổ quốc Việt Nam XHCN; hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động
xét xử được tiến hành có hiệu lực và hiệu quả cao”. Ngày 22 tháng 2 năm
2006, Ban chỉ đạo cải cách tư pháp trung ương đã đề ra “Chương trình trọng

tâm công tác tư pháp năm 2006” với nội dung: “Nghiên cứu đề xuất các vấn
đề cần sửa đổi, bổ sung hoặc quy định mới theo tinh thần và nội dung Chiến
lược cải cách tư pháp vào Bộ luật dân sự. Đẩy nhanh tiến độ và khẩn trương
xây dựng các văn bản hướng dẫn thi hành Bộ luật dân sự”.
Có một điều khó tránh khỏi là với xu thế phát triển ngày càng phổ biến và đa
dạng của Hợp đồng, nhiều quan hệ dân sự nói chung và quan hệ hợp đồng nói
riêng lại chưa được pháp luật điều chỉnh hoặc điều chỉnh chưa triệt để đã gây
ra không ít khó khăn cho cơ quan xét xử. Hàng năm, có hàng chục nghìn vụ
án tranh chấp về trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự được tòa án
nhân dân các cấp thụ lý và giải quyết nhưng lại gặp phải sự thiếu đồng bộ và
chưa thống nhất trong các quy định pháp luật dân sự hiện hành khiến nhiều vụ
án phải xét xử nhiều lần hoặc tính thuyết phục của bản án chưa cao.
Tranh chấp về trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự là một loại
tranh chấp mang tính đặc thù, đặc biệt là số lượng các giao dịch dân sự ngày
một tăng. Thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật để giải quyết các tranh
chấp về trách nhiệm trong hợp đồng dân sự cũng đã gặp nhiều vướng mắc,
đòi hỏi phải tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện.
Bộ luật Dân sự năm 2005 đang đặt ra một nhiệm vụ quan trọng và cấp bách là
trên cơ sở nghiên cứu các quy định của pháp luật dân sự hiện hành, phải phân
tích để làm sáng tỏ về mặt khoa học những vấn đề lý luận về trách nhiệm dân
sự và hợp đồng dân sự, từ đó đề ra các giải pháp hữu hiệu nhằm hoàn thiện,
nâng cao hiệu quả xét xử của tòa án về những tranh chấp hợp đồng. Trước đòi
hỏi của công dân và xã hội, các cơ quan tư pháp phải thật sự là chỗ dựa của
nhân dân trong việc bảo vệ công lý, đồng thời là công cụ hữu hiệu bảo vệ

9


pháp chế xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài: “Trách nhiệm dân
sự do vi phạm hợp đồng dân sự theo quy định hiện hành của pháp luật Việt

Nam”, mang tính cấp thiết, không những về lý luận, mà còn đáp ứng những
đòi hỏi của thực tiễn hiện nay.
2.

Tình hình nghiên cứu

Từ năm 1991 trở lại đây, pháp luật về hợp đồng dân sự của Việt Nam được
xây dựng và hoàn thiện phù hợp với các quan hệ xã hội theo định hướng
XHCN, theo đó quyền và lợi ích hợp pháp của mọi cá nhân, tổ chức trong
quan hệ hợp đồng được pháp luật bảo.
Đã có nhiều đề tài và công trình nghiên cứu của các nhà luật học trong nước
viết về hợp đồng dân sự và trách nhiệm dân sự. Tuy nhiên, trách nhiệm do vi
phạm hợp đồng dân sự chỉ được đề cập đến như là một phần của một công
trình nghiên cứu nào đó, hoặc chỉ là những nghiên cứu nhỏ lẻ, riêng rẽ. Tác
giả Ngô Văn Thâu có tác phẩm “Một số điều cần biết trong các quyền dân sự
của công dân” (Nxb. Pháp lý, 1987); Tác giả Đỗ Văn Đại với bài viết “Về
điều chỉnh nguy cơ không thực hiện hợp đồng trong Bộ luật Dân sự Việt
Nam” (Tạp chí Nhà nước & Pháp luật, 1-2005).
Có thể thấy những nghiên cứu về trách nhiệm do vi phạm hợp đồng dân sự là
những nghiên cứu có ý nghĩa nhưng đều được thực hiện trước khi có Bộ luật
Dân sự năm 2005. Trách nhiệm dân sự do vi phạm Hợp đồng dân sự là một
vấn đề phức tạp và chưa có một công trình nghiên cứu nào đề cập một cách
toàn diện, có hệ thống về chế định này. Tính đến thời điểm hiện nay thì chưa
có công trình nào phân tích sâu về trách nhiệm dân sự trong hợp đồng để rút
ra những giải pháp nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về giải quyết
tranh chấp dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự nhằm nâng cao hiệu quả xét

10



xử của tòa án các cấp đối với trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân
sự.
3.

Cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn, phƣơng pháp nghiên cứu, phạm vi
nghiên cứu của luận văn
 Cơ sở lý luận của luận văn:

Là cơ sở lý luận về nhà nước và pháp luật, bộ luật dân sự hiện hành của Việt
Nam, pháp luật dân sự của một số nước trên thế giới, các cơ sở khoa học về
lịch sử pháp luật, xã hội học pháp luật, triết học. Ngoài ra, tác giả còn sử dụng
các văn bản pháp luật có liên quan, các công trình nghiên cứu, các sách
chuyên khảo và các bài viết đăng trên các báo và tạp chí.
 Cơ sở thực tiễn của luận văn:
Dựa trên tình hình thực tế của các tranh chấp liên quan đến trách nhiệm dân
sự do vi phạm hợp đồng dân sự; tính khả thi trong việc áp dụng các quy định
điều chỉnh trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự trong pháp luật
dân sự hiện hành.
 Phương pháp nghiên cứu của luận văn:
Trong khi thực hiện đề tài này, tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu
hệ thống, phân tích, so sánh, tổng hợp, lịch sử, cụ thể, lôgic để phân tích, tổng
hợp các tri thức khoa học luật dân sự về trách nhiệm dân sự và hợp đồng dân
sự.
 Phạm vi nghiên cứu của luận văn:
Luận văn nghiên cứu trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự theo
quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam.
4.

Mục đích nghiên cứu của luận văn
 Mục đích của luận văn


11


Mục đích của luận văn là nghiên cứu, làm rõ những vấn đề lý luận về trách
nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự. Trên cơ sở lý luận và thực tiễn xét
xử các tranh chấp liên quan đến trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân
sự, nêu ra những giải pháp mang tính hệ thống để hoàn thiện quy định của
pháp luật về trách nhiệm dân sự trong hợp đồng, nâng cao hiệu quả xét xử của
tòa án, góp phần ổn định các quan hệ xã hội về trách nhiệm dân sự trong hợp
đồng.
 Nhiệm vụ của luận văn
Để đạt được mục đích trên, tác giả luận văn đã đặt ra và giải quyết các nhiệm
vụ sau:
-

Phân tích khái niệm trách nhiệm dân sự và trách nhiệm dân sự do
vi phạm hợp đồng dân sự;

-

Phân tích điều kiện phát sinh và nội dung của trách nhiệm dân sự
do vi phạm hợp đồng dân sự để thấy được những tồn tại trong việc
áp dụng pháp luật dân sự trong giải quyết trách nhiệm dân sự do vi
phạm hợp đồng dân sự, tìm ra sự cần thiết và từ đó có những đề
xuất nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về trách nhiệm dân
sự trong hợp đồng;

-


Đề xuất hệ thống các giải pháp nhằm hoàn thiện quy định của
pháp luật về trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự
nhằm góp phần nâng cao hiệu quả xét xử các tranh chấp liên quan
đến trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự.

5.

Những đóng góp mới về khoa học của luận văn

Đây là công trình nghiên cứu chuyên khảo đầu tiên trong khoa học pháp lý
Việt Nam ở cấp độ luận văn thạc sỹ luật học, nghiên cứu một cách toàn diện,

12


có hệ thống về trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự. Có thể xem
những nội dung sau đây là những đóng góp mới về khoa học của luận văn:
-

Thông qua việc phân tích những vấn đề lý luận chung về trách
nhiệm dân sự và trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự,
đưa ra vấn đề tổng quan và toàn diện về trách nhiệm dân sự và
trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự trong pháp luật
dân sự hiện hành của Việt Nam.

-

Giúp người đọc nắm rõ và đầy đủ về các điều kiện phát sinh và nội
dung của trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự; nhận
định đúng về tầm quan trọng của việc ký kết và thực hiện hợp

đồng dân sự, từ đó tránh được các vi phạm hợp đồng dân sự.

-

Đề xuất hệ thống giải pháp có tính khả thi nhằm hoàn thiện những
quy định của pháp luật về phân định trách nhiệm dân sự do vi
phạm hợp đồng dân sự.

6.

ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn

Luận văn nghiên cứu một cách tương đối có hệ thống về trách nhiệm dân sự
do vi phạm hợp đồng dân sự theo quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam.
Kết quả nghiên cứu và những kiến nghị của luận văn có ý nghĩa quan trọng
đối với việc hoàn thiện những quy định của pháp luật về trách nhiệm dân sự
do vi phạm hợp đồng dân sự và nâng cao hiệu quả xét xử các tranh chấp có
liên quan đến trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự tại các cấp tòa
án ở Việt Nam. Thông qua kết quả nghiên cứu và các kiến nghị, tác giả mong
muốn góp phần nghiên cứu khiêm tốn của mình vào hệ thống lý luận luật dân
sự, cũng như ổn định các quan hệ xã hội về trách nhiệm dân sự do vi phạm
hợp đồng dân sự có tính thiết thực và phức tạp này.

13


Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên
cứu, giảng dạy về khoa học pháp lý nói chung, khoa học luật dân sự, trách
nhiệm dân sự và hợp đồng dân sự nói riêng và cho các cán bộ thực tiễn đang
công tác tại cơ quan Viện kiểm sát, Tòa án và các cơ quan pháp luật có liên

quan.
7.

Kết cấu của luận văn

Ngoài các phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, luận văn này gồm có
ba chương:
Chương 1:

Khái niệm về trách nhiệm dân sự, trách nhiệm dân sự do vi
phạm Hợp đồng dân sự.

Chương 2:

Các điều kiện phát sinh và nội dung của trách nhiệm dân
sự do vi phạm Hợp đồng dân sự.

Chương 3:

Phương hướng hoàn thiện các quy định của pháp luật dân
sự về trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự.

14


Chƣơng 1
KHÁI NIỆM VỀ TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ VÀ
TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ DO VI PHẠM HỢP ĐỒNG DÂN SỰ
1.1.


Trách nhiệm dân sự

Trách nhiệm dân sự là một phạm trù rộng bao hàm những công việc phải làm
(phần trách nhiệm) của một cá nhân, một tổ chức đối với các công việc trong
lĩnh vực dân sự. Nội hàm của trách nhiệm dân sự cho ta thấy mọi cá nhân, tổ
chức là chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự đều phải tự mình chịu trách
nhiệm đối với những công việc mà họ đã cam kết thực hiện. Đặc trưng cơ bản
của quan hệ pháp luật nói chung là nội dung của quan hệ pháp luật được cấu
thành bởi các quyền và nghĩa vụ pháp lý mà việc thực hiện được đảm bảo
bằng sự cưỡng chế nhà nước. Cũng như vậy, ở quan hệ pháp luật dân sự nói
riêng, tổng hợp các quyền và nghĩa vụ dân sự của các bên tham gia vào quan
hệ pháp luật dân sự tạo thành nội dung của quan hệ đó, các bên vừa có quyền
đồng thời vừa có nghĩa vụ với nhau. Nghĩa vụ dân sự trong quan hệ pháp luật
dân sự là một bộ phân không thể tách rời của nội dung quan hệ đó. Khái niệm
nghĩa vụ dân sự được quy định tại Điều 258 Bộ luật Dân sự (BLDS) năm
2005 như sau: “Nghĩa vụ dân sự là việc mà theo quy định của pháp luật thì
một hoặc nhiều chủ thể (gọi là người có nghĩa vụ) phải làm một công việc
hoặc không được làm một công việc vì lợi ích của một hoặc nhiều chủ thể
khác (gọi là người có quyền)” [2].
Trách nhiệm dân sự ràng buộc các cá nhân, tổ chức khi tham gia vào các giao
dịch dân sự phải thực hiện đúng các nghĩa vụ đã cam kết. Nếu họ không thực
hiện hoặc thực hiện không đúng các nghĩa vụ dân sự thì phải chịu trách nhiệm
dân sự bằng việc bồi thường thiệt hại do có hành vi vi phạm hợp đồng. Việc
giải quyết các vi phạm liên quan đến trách nhiệm dân sự bằng phương thức

15


bồi thường chính là việc các chủ thể đã tự nguyện hoặc bị bắt buộc phải gánh
chịu hậu quả của những vi phạm dân sự đó để thực hiện trách nhiệm dân sự

giữa người có nghĩa vụ và người có quyền trong một giao dịch hoặc quan hệ
dân sự. Việc thực hiện trách nhiệm dân sự theo nguyên tắc bên có hành vi vi
phạm phải bồi thường đối với cá nhân, tổ chức có quyền, lợi ích bị xâm phạm.
Theo nghĩa thông thường thì trách nhiệm dân sự được hiểu là: “Việc bắt buộc
phải sửa chữa một thiệt hại do không thực hiện hoặc thực hiện không đúng
nghĩa vụ dân sự” [24]. Trách nhiệm dân sự, quyền và nghĩa vụ dân sự có mối
quan hệ mật thiết với nhau. Quyền của một bên làm phát sinh nghĩa vụ của
bên kia trong một quan hệ dân sự. Nghĩa vụ dân sự này có thể được các bên
thỏa thuận thông qua quan hệ dân sự hoặc là nghĩa vụ dân sự do pháp luật dân
sự quy định (ví dụ: nghĩa vụ dân sự đối với bất động sản của cá nhân, pháp
nhân). Trên cơ sở đó, trách nhiệm dân sự phát sinh để ràng buộc các bên tham
gia vào quan hệ pháp luật dân sự. Hành vi không thực hiện hoặc thực hiện
không đầy đủ nghĩa vụ dân sự là hành vi vi phạm pháp luật. Nhà nước quy
định các chế tài dân sự như là sự phản ứng của Nhà nước đối với những chủ
thể vi phạm pháp luật dân sự và một trong những quy định chế tài đó là trách
nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự của một chủ thể. Các chủ thể trong
một quan hệ pháp luật dân sự tự nguyện cam kết thực hiện các nghĩa vụ dân
sự. Do vậy, các chủ thể tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình hoặc thực
hiện công việc theo thỏa thuận của các bên.
Không giống với trách nhiệm hình sự là chủ thể vi phạm pháp luật thường
không thấy trước trách nhiệm của mình khi thực hiện hành vi vì mục đích và
hậu quả của hành động theo phán quyết của toà án mới quyết định đến trách
nhiệm hình sự của chủ thể phạm tội, các chủ thể tham gia vào các quan hệ
pháp luật dân sự luôn có thể xác định trước được trách nhiệm dân sự khi tham

16


gia các quan hệ pháp luật dân sự vì bản chất của trách nhiệm dân sự là tồn tại
không phụ thuộc vào hậu quả của sự việc.

Có thể đưa ra định nghĩa về trách nhiệm dân sự như sau: “Trách nhiệm dân sự
được hiểu là một loại trách nhiệm về tài sản của chủ thể trong một quan hệ
pháp luật dân sự nhất định, buộc phải thực hiện một việc, kiềm chế không
được thực hiện một việc, phải bồi thường một thiệt hại hoặc phải gánh chịu
các chế tài dân sự khác, do đã có hành vi trái pháp luật, trái đạo đức xã hội
xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của chủ thể khác”.
Như vậy, có thể nói trách nhiệm dân sự là việc chủ thể của quan hệ pháp luật
phải chịu trách nhiệm bồi thường bằng vật chất trong trường hợp gây ra thiệt
hại cho một chủ thể khác. Quan hệ trách nhiệm dân sự có hai chủ thể: một chủ
thể có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại và một chủ thể có nghĩa vụ bồi
thường thiệt hại. Ngay cả trong trường hợp người gây thiệt hại mong muốn
bồi thường cho người bị thiệt hại, thì sự mong muốn đó cũng không phải là
nguồn của nghĩa vụ bồi thường. Nghĩa vụ bồi thường do luật quy định, còn
người có nghĩa vụ chỉ thực hiện một nghĩa vụ mà ý chí của mình không tạo
ra.
Pháp luật dân sự không xác định hoặc xác định không đầy đủ trách nhiệm dân
sự trong các quan hệ dân sự sẽ dẫn tới tình trạng các chủ thể không có ý thức
tự nguyện thực hiện các cam kết dân sự hoặc thực hiện nửa vời. Từ đó, tính
nghiêm minh và hiệu lực thực thi của pháp luật sẽ bị giảm sút. Xác định rõ và
chi tiết hoá trách nhiệm dân sự sẽ góp phần tăng cường tính thực thi của pháp
luật dân sự, giúp pháp luật dân sự ngày một hoàn thiện và dễ áp dụng hơn.
1.2.

Trách nhiệm dân sự do vi phạm Hợp đồng dân sự
1.2.1. Khái niệm trách nhiệm dân sự do vi phạm Hợp đồng dân
sự

17



Trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự là một loại trách nhiệm dân
sự và là một hình thức chế tài do Nhà nước quy định để áp dụng đối với các
hành vi vi phạm các quyền và nghĩa vụ mà các bên đã thỏa thuận trong một
hợp đồng dân sự. Giống như trách nhiệm dân sự nói chung, trách nhiệm dân
sự do vi phạm hợp đồng dân sự cũng xuất phát trên cơ sở có hành vi vi phạm
các cam kết, thỏa thuận của các bên trong hợp đồng. Tuy nhiên, trách nhiệm
dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự lại bao hàm nội dung riêng không giống
với các trách nhiệm dân sự khác. Đó là việc khi các cá nhân, pháp nhân buộc
phải thực hiện trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự thì hoặc (1)
các chủ thể này buộc phải tiếp tục thực hiện hợp đồng; và (2) các chủ thể này
buộc phải bồi thường thiệt hại bằng tài sản cho các chủ thể bị vi phạm. Đặc
thù riêng này là của trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự, và thấy
rằng đây là một loại chế tài dân sự có liên quan mật thiết đến hợp đồng dân
sự. Nghĩa vụ dân sự được phát sinh từ hợp đồng và được bảo đảm thực hiện
bằng sự cưỡng chế của Nhà nước. Các nghĩa vụ dân sự này mang tính chất tài
sản và được xác định giá trị bằng tiền.
Trách nhiệm dân sự trong hợp đồng là trách nhiệm hình thành từ việc không
thực hiện một nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng. Chủ thể không thực hiện hoặc
không thực hiện đúng nghĩa vụ đã cam kết mà gây thiệt hại cho chủ thể mang
quyền, thì phải bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật.
Trong BLDS hiện hành, trách nhiệm dân sự trong hợp đồng được chi phối bởi
các nguyên tắc được thiết lập trong khuôn khổ xây dựng chế độ pháp lý về
hợp đồng. Tuy nhiên, có thể ghi nhận đặc điểm của trách nhiệm dân sự theo
hợp đồng là trách nhiệm phát sinh từ sự vi phạm một quy tắc xử sự. Đó là sự
vi phạm nghĩa vụ dân sự (trách nhiệm dân sự trong hợp đồng). Đồng thời,
theo quy định của pháp luật dân sự Việt Nam hiện hành, trách nhiệm dân sự

18



trong hợp đồng chịu sự chi phối, trên nguyên tắc, của các quy định chung về
điều kiện trình tự thực hiện nghĩa vụ được các bên xác lập theo thỏa thuận.
Hợp đồng dân sự được coi là căn cứ để xem xét trách nhiệm dân sự do vi
phạm hợp đồng dân sự. Hợp đồng là công cụ chủ yếu để xác lập quan hệ giữa
các cá nhân và pháp nhân với nhau liên quan đến tài sản trong một xã hội có
tổ chức. Hợp đồng làm phát sinh nghĩa vụ dân sự theo một cơ chế chung là
các bên giao kết thống nhất về ý chí và bị ràng buộc trong một mối quan hệ
nhất định nhằm đáp ứng yêu cầu của bên kia. Theo nguyên tắc chung của
pháp luật dân sự thì mọi hợp đồng dân sự đều được thực hiện dưới hình thức
thoả thuận dù là hợp đồng miệng hoặc bằng văn bản. Thông qua hợp đồng
dân sự, các bên thỏa thuận các quyền và nghĩa vụ phải thực hiện. Trách nhiệm
dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự chính là việc một hoặc hai bên phải chịu
trách nhiệm dân sự khi có hành vi vi phạm các cam kết. Việc vi phạm hợp
đồng dân sự làm phát sinh trách nhiệm dân sự của một trong hai bên tham gia
vào hợp đồng đã không thực hiện hoặc thực hiện không đẩy đủ các nghĩa vụ
mà hai bên đã cam kết trong hợp đồng.
Căn cứ xác định trách nhiệm dân sự là việc vi phạm nghĩa vụ phát sinh theo
hợp đồng. Nghĩa vụ bị vi phạm có thể là nghĩa vụ chính (nghĩa vụ đặc thù)
tương ứng với chủ thể của hợp đồng, hoặc là một nghĩa vụ phụ phát sinh từ
hợp đồng. Hợp đồng là một sự kiện pháp lý, và nghĩa vụ là hệ quả của sự kiện
đó. Ví dụ, nghĩa vụ bảo đảm an toàn cho hành khách trong hợp đồng vận
chuyển hành khách.
Qua những phân tích trên, có thể đưa ra định nghĩa về trách nhiệm dân sự do
vi phạm hợp đồng dân sự như sau: “Trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng
dân sự được hiểu là trách nhiệm của chủ thể hợp đồng đã không thực hiện,
thực hiện không đúng, không đầy đủ quyền và nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng

19



do các bên xác lập, mà gây thiệt hại cho bên kia thì phải tiếp tục thực hiện
hợp đồng, phải bồi thường thiệt hại và chịu khoản tiền phạt do vi phạm hợp
đồng theo thoả thuận hoặc phải chịu những hậu quả bất lợi khác, do bên có
quyền theo hợp đồng bị vi phạm, theo đó bên có quyền có quyền đơn phương
đình chỉ thực hiện hợp đồng hoặc huỷ bỏ hợp đồng và được bồi thường thiệt
hại”.
Có thể nói, trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự là một trong
những chế tài quan trọng của pháp luật dân sự để điều chỉnh một đối tượng
thông dụng và thiết thực trong đời sống xã hội là hợp đồng dân sự. Dưới đây
sẽ là những phân tích về đặc điểm của trách nhiệm dân sự theo hợp đồng để
làm rõ hơn về loại trách nhiệm này.
1.2.2. Đặc điểm của trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân
sự
Bên cạnh những đặc điểm chung như các trách nhiệm dân sự khác, trách
nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự có những đặc điểm riêng. Các đặc
điểm riêng này để phân biệt trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự
với các loại trách nhiệm dân sự khác. Đặc điểm của trách nhiệm dân sự theo
hợp đồng có thể được phân tích như sau:
Đặc điểm 1:

Trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự là
chế tài dân sự.

Trách nhiệm dân sự luôn thể hiện hình thức cưỡng chế của Nhà nước. Nhà
nước quy định trách nhiệm nhằm buộc các bên tham gia giao dịch dân sự nếu
vi phạm các cam kết sẽ phải gánh chịu các chế tài theo quy định của pháp
luật. Tính cưỡng chế trong pháp luật dân sự được thể hiện thông qua việc cơ
quan có thẩm quyền dựa trên cam kết và thoả thuận của hai bên trong hợp

20



đồng, sẽ xem bên nào phải chịu trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng.
Quyết định mang tính chế tài của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền sẽ buộc
bên vi phạm chịu trách nhiệm đền bù thiệt hại cho bên bị vi phạm.
Không giống với các chế tài pháp lý khác như chế tài hình sự, hành chính, đặc
điểm của chế tài dân sự hoàn toàn mang tính chất tài sản thông qua việc bồi
thường thiệt hại (vật chất, tinh thần…) cho chủ thể bị vi phạm. Nhà nước quy
định tính chế tài cho trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng nhằm đảm bảo
sự ổn định và lành mạnh trong các quan hệ hợp đồng dân sự, một trong những
quy định quan trọng của pháp luật dân sự và ở trong bất kỳ giai đoạn nào.
Việc đưa ra các biện pháp chế tài nhằm ổn định các quan hệ hợp đồng dân sự
sẽ giúp nền kinh tế vận động một cách có hiệu quả hơn, an toàn hơn với mọi
chủ thể. Từ đó tạo được động lực để các chủ thể tham gia nhiều hơn, tích cực
và yên tâm hơn vào các quan hệ hợp đồng dân sự.
Đặc điểm 2:

áp dụng đối với chủ thể vi phạm pháp luật.

Trách nhiệm pháp lý là áp dụng với các chủ thể vi phạm pháp luật thì một đặc
điểm khác của trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự là áp dụng đối
với các chủ thể vi phạm các cam kết liên quan đến hợp đồng dân sự hay nói
cách khác là vi phạm các quy định của pháp luật dân sự liên quan đến hợp
đồng dân sự. Theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005, các cam kết trong
hợp đồng dân sự có liên quan trực tiếp đến quyền và nghĩa vụ của các bên
tham gia vào hợp đồng dân sự và cá nhân hoặc pháp nhân chịu trách nhiệm
dân sự là những chủ thể không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ các
quy định này. Chủ thể không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đã cam kết trong hợp
đồng dân sự bị coi là vi phạm các quy định của pháp luật dân sự và phải chịu
trách nhiệm dân sự theo quy định của pháp luật dân sự.


21


Nếu một chủ thể không bị coi là vi phạm pháp luật dân sự nói chung và hợp
đồng dân sự nói riêng thì đương nhiên họ sẽ không phải chịu trách nhiệm dân
sự. Trách nhiệm dân sự chỉ phát sinh khi có sự vi phạm hợp đồng dân sự.
Việc xác định một hợp đồng dân sự có bị vi phạm hay không là một việc làm
quan trọng và cần thiết để xác định một chủ thể có vi phạm pháp luật dân sự
hay không và có bị áp dụng chế tài dân sự hay không. Trách nhiệm dân sự là
trách nhiệm của chủ thể vi phạm pháp luật, bị áp dụng các chế tài do pháp luật
quy định.
Đặc điểm 3:

Đƣợc thực hiện bởi cơ quan Nhà nƣớc có thẩm quyền
trong phạm vi pháp luật cho phép.

Đây là một đặc điểm mang tính hướng dẫn của pháp luật dân sự đối với các
chủ thể tham gia các quan hệ pháp luật dân sự. Sẽ chỉ có các cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật thụ lý và giải quyết các tranh
chấp dân sự cũng như đưa ra phán quyết về việc chủ thể nào sẽ phải chịu
trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự. Đặc điểm này có thể được
hiểu là việc bắt buộc một bên không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ
các cam kết trong hợp đồng dân sự phải chịu trách nhiệm dân sự và việc phán
quyết sẽ do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đảm trách.
Trong một vụ án dân sự, việc thụ lý quy kết trách nhiệm dân sự cho các bên
tham gia vào giao dịch dân sự sẽ do Tòa án nhân dân cấp có thẩm quyền
quyết định (Tòa án nhân dân cấp quận, huyện; Tòa án nhân dân cấp tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương). Sau khi có quyết định cuối cùng của tòa
án, việc yêu cầu các bên đương sự thực hiện đúng trách nhiệm dân sự của

mình sẽ do cơ quan thi hành án cấp tương đương thực hiện theo quy định.
Khác với các quyết định hình sự do cơ quan công an thực hiện hình phạt, các
quyết định dân sự thường phụ thuộc nhiều vào các cơ quan thi hành án và
thường không mang tính cưỡng chế cao. Việc quy định chỉ có cơ quan Nhà

22


nước có thẩm quyền mới có thẩm quyền phán quyết và đưa ra các biện pháp
áp dụng có liên quan đối với trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự
cho thấy tính chất tối cao và nghiêm khắc của các quy định pháp luật dân sự
về trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự.
Đặc điểm 4:

Sử dụng một số biện pháp chế tài nhất định do luật
định để buộc ngƣời vi phạm phải chịu hậu quả bất lợi.

Bản chất của pháp luật là mọi chủ thể khi thực hiện các hành vi mà pháp luật
nghiêm cấm sẽ phải chịu trách nhiệm pháp lý theo quy định của pháp luật và
sẽ bị pháp luật áp dụng một số chế tài nhất định buộc chủ thể có hành vi vi
phạm phải chịu hậu quả bất lợi do hành vi vi phạm pháp luật của mình.
Nguyên tắc của pháp luật là chỉ có những người chịu trách nhiệm dân sự do vi
phạm hợp đồng dân sự mới bị pháp luật áp dụng các biện pháp chế tài theo
quy định của pháp luật. Tùy theo đối tượng và giá trị của từng hợp đồng dân
sự mà các hình thức chế tài áp dụng sẽ khác nhau. Chế tài theo quy định của
pháp luật dân sự có thể là việc buộc chủ thể vi phạm hợp đồng dân sự phải
thực hiện các nghĩa vụ dân sự đã cam kết trong hợp đồng; hoặc là việc chủ thể
vi phạm phải bồi thường một phần hoặc toàn bộ giá trị hợp đồng cho chủ thể
bị vi phạm; hoặc là việc chủ thể vi phạm phải thực hiện một nghĩa vụ dân sự
bắt buộc nào đó với bên thứ ba có quyền và nghĩa vụ liên quan trực tiếp hoặc

gián tiếp đến hợp đồng.
áp dụng các biện pháp chế tài dân sự là một đặc điểm cần thiết và quan trọng
trong pháp luật dân sự. Nếu không có các biện pháp chế tài đủ mạnh đối với
các hành vi vi phạm pháp luật dân sự nói chung và hợp đồng dân sự nói riêng
thì trách nhiệm dân sự của một chủ thể chỉ mang tính hình thức mà không có
tác dụng răn đe. Đồng thời, các quy định của pháp luật dân sự cũng thiếu tính
cưỡng chế cần thiết để đảm bảo trật tự của các quan hệ pháp luật dân sự. Việc

23


đưa ra các chế tài phù hợp và có tính cưỡng chế đủ mạnh đối với từng hành vi
vi phạm pháp luật dân sự sẽ giúp cho pháp luật dân sự được thực thi một cách
nghiêm minh hơn do mọi cá nhân, pháp nhân đều có trách nhiệm phải tuân
thủ các biện pháp chế tài đủ mạnh.
Các biện pháp chế tài không minh bạch hoặc thiếu tính răn đe dễ làm cho các
chủ thể của các quan hệ pháp luật dân sự không tuân thủ pháp luật, từ đó làm
cho pháp luật thiếu tính cưỡng chế, lỏng lẻo, giảm đi vai trò là công cụ của
Nhà nước để điều chỉnh các quan hệ xã hội tương ứng, từ đó làm cho các cá
nhân, tổ chức thiếu lòng tin vào pháp luật. Ngược lại, nếu các biện pháp chế
tài quá cứng nhắc hoặc quá nghiêm khắc so với các hành vi vi phạm pháp luật
tương ứng sẽ lại gây ra các hậu quả tiêu cực đối với đối với đời sống kinh tế,
xã hội. Từ việc cố gắng tránh thực hiện các hành vi được coi là vi phạm pháp
luật dân sự, phải chịu trách nhiệm dân sự, các chủ thể pháp luật dân sự sẽ ít
tham gia hơn hoặc tham gia hạn chế hơn các hợp đồng dân sự. Hậu quả là các
giao dịch dân sự sẽ bị giảm đi về quy mô, thiếu tính tự do và đa dạng dẫn đến
việc kìm hãm các quan hệ dân sự, thương mại trong xã hội. Đảm bảo được
tính nghiêm khắc của các biện pháp chế tài nhưng cũng phải đảm bảo được
mức độ cưỡng chế đủ mạnh phù hợp để kích thích số lượng và tính đa dạng
của các giao dịch dân sự là yêu cầu cần thiết trong quá trình thiết lập và áp

dụng chế tài của pháp luật dân sự.
Đặc điểm 5:

Trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự
mang tính chất tài sản.

Về bản chất, các quan hệ pháp luật dân sự chủ yếu là các quan hệ mang tính
tài sản và quan hệ nhân thân có liên quan đến tài sản. Ví dụ, quan hệ hợp
đồng mua bán, cho tặng, v.v. Tính chất tài sản trong trách nhiệm dân sự do vi
phạm hợp đồng dân sự thể hiện ở việc khi chủ thể vi phạm pháp luật gây hậu

24


quả xấu cho người khác thì Tòa án buộc bên vi phạm phải bồi thường bằng
chính tài sản của mình cho bên bị vi phạm. Nguyên tắc của trách nhiệm dân
sự do vi phạm hợp đồng dân sự là nguyên tắc chịu trách nhiệm bằng tài sản
mà không có hình thức thay thế.
Tính chất tài sản trong trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự thể
hiện qua việc các chủ thể, bằng tài sản của mình, bồi thường tương ứng về giá
trị thiệt hại do hành vi của chủ thể đó gây ra. Trách nhiệm bồi thường bằng tài
sản (tiền, động sản, bất động sản) hoặc giá trị vật chất là bắt buộc và là một
đặc điểm của pháp luật dân sự. Đặc điểm này bảo đảm trách nhiệm dân sự do
vi phạm hợp đồng dân sự luôn luôn được giải quyết bằng tài sản và giúp phân
biệt với các trách nhiệm pháp lý khác mà đặc điểm thực hiện hoặc áp dụng
chế tài không mang tính chất tài sản.
Đặc điểm 6:

Quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong Hợp đồng
dân sự tƣơng ứng với nhau.


Trong quan hệ pháp luật dân sự, giữa các chủ thể tồn tại mối liên hệ quyền
của chủ thể này tương ứng với nghĩa vụ của chủ thể kia. Khi xác định trách
nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự, hành vi vi phạm gây thiệt hại phải
tương xứng với tính chất của sự vi phạm. Nếu không sự có sự tương xứng
giữa hành vi vi phạm với tính chất vi phạm của một chủ thể thì pháp luật sẽ
không thể xác định trách nhiệm dân sự của chủ thể có liên quan. Qua đó, trách
nhiệm dân sự quy định đặc điểm mang tính chất đền bù tương đương buộc
bên vi phạm hợp đồng dân sự phải đền bù cho bên bị vi phạm nhằm khôi phục
tình trạng tài sản và xác lập lại các quyền, lợi ích bị xâm phạm của người bị
thiệt hại. Quyền của chủ thể này luôn tương ứng với nghĩa vụ của chủ thể kia.
Trong hợp đồng dân sự, một chủ thể không chỉ có riêng quyền hoặc riêng
nghĩa vụ. Đặc điểm qua lại giữa quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia

25


một quan hệ pháp luật dân sự quy định sự tồn tại của một hợp đồng dân sự. Vì
thế, trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự của một chủ thể chính là
việc chủ thể đó không thực hiện các nghĩa vụ dân sự đã cam kết của mình để
đổi lại các quyền mà chủ thể đó được hưởng từ hợp đồng dân sự. Trách nhiệm
dân sự buộc chủ thể vi phạm phải bồi thường giá trị tương ứng với lợi ích mà
họ được hưởng từ quyền dân sự trong hợp đồng dân sự. Qua đặc điểm này, có
thể thấy trách nhiệm dân sự đồng nhất với việc thực hiện nghĩa vụ dân sự
trong trật tự cưỡng chế. Do đó, có thể kết luận: “Trách nhiệm dân sự do vi
phạm nghĩa vụ dân sự là sự cưỡng chế của nhà nước buộc bên vi phạm phải
tiếp tục thực hiện đúng những nghĩa vụ hoặc phải bồi thường thiệt hại do
hành vi vi phạm nghĩa vụ của mình gây ra cho phía bên kia” [24]. Trách
nhiệm dân sự không những chỉ nhằm đền bù tổn thất đã gây ra mà còn bảo vệ
các quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự

không bị xâm phạm bởi các hành vi trái pháp luật.
Các quyền dân sự của công dân Việt Nam cũng như nhiều quyền quan trọng
khác có cơ sở kinh tế là nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Đây là cơ sở và chỗ dựa vững chắc để bảo đảm các quyền dân sự được
thực hiện và phát triển. Do vậy, Nhà nước Việt Nam đã không ngừng hoàn
thiện pháp luật dân sự nói riêng và toàn bộ hệ thống pháp luật nói chung để
phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế, chính trị trong khu vực và trên thế
giới, và điều không kém phần quan trọng là dùng các biện pháp có hiệu lực
pháp luật cao để bảo hộ và bảo vệ quyền dân sự của các tổ chức và các cá
nhân khi những quyền ấy bị vi phạm. Một nguyên tắc để bảo vệ quyền dân sự
của các tổ chức và các cá nhân là trách nhiệm phải thi hành đầy đủ, đúng đắn
những điều đã thỏa thuận và cam kết trong hợp đồng dân sự, và phải bồi
thường nếu vi phạm các điều khoản và điều kiện của hợp đồng dân sự mà gây
thiệt hại cho bên kia.

26


1.3.

Khái quát các quy định về trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp
đồng dân sự

Chế định về trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng dân sự là một chế định
pháp luật quan trọng trong Bộ luật Dân sự của hầu hết các nước. Do có sự
khác nhau về văn hoá, phong tục tập quán, chính trị, kinh tế – xã hội và thể
chế nhà nước... của mỗi quốc gia mà quy định pháp luật về trách nhiệm dân
sự theo hợp đồng dân sự cũng được pháp luật mỗi quốc gia quy định khác
nhau.
Tại miền bắc Việt Nam, ngày 10 tháng 7 năm 1959 Tòa án tối cao ra Chỉ thị

số 772/TATC để “đình chỉ việc áp dụng luật pháp cũ của phong kiến, đế
quốc”. Từ thời điểm đó trở đi, tại miền bắc Việt Nam thiếu hẳn bộ luật dân sự
thực thụ. Một số lĩnh vực của pháp luật dân sự được tách ra và quy định trong
nhiều văn bản luật và các văn bản pháp quy dưới luật như thông tư, chỉ thị,
nghị định, pháp lệnh. Tuy nhiên, nhiều lĩnh vực dân sự như thừa kế, quyền sở
hữu trí tuệ v.v không được điều chỉnh trực tiếp. Các quy định được điều chỉnh
về nghĩa vụ dân sự chủ yếu là các vấn đề về nhà ở, vàng bạc, kim loại quý, đá
quý v.v và nói chung mang nặng tính chất hành chính. Có thể liệt kê một số
văn bản pháp luật trong lĩnh vực dân sự liên quan đến hợp đồng như Pháp
lệnh về Hợp đồng dân sự (1991), Pháp lệnh về nhà ở (1991) v.v. Vấn đề gặp
phải trong việc áp dụng pháp luật thời kỳ này là tuy có nhiều văn bản pháp
quy nhưng đôi khi các văn bản này chồng chéo và mâu thuẫn với nhau, gây ra
nhiều khó khăn cho việc áp dụng pháp luật.
Pháp lệnh Hợp đồng dân sự do Hội đồng Nhà nước Nước Cộng hòa Xã hội
Chủ nghĩa Việt Nam (“CHXHCNVN”) thông qua ngày 29/3/1991, được Chủ
tịch nước ký Lệnh công bố số 52-LCT/HĐNN8 ngày 7/5/1991 và có hiệu lực
thi hành kể từ ngày 1/7/1991 là văn bản pháp luật có hiệu lực pháp lý cao đầu

27


tiên quy định khá đầy đủ về hợp đồng dân sự, một trong những chế định quan
trọng và cơ bản của pháp luật dân sự. Việc ra đời Pháp lệnh Hợp đồng Dân sự
phần nào bổ sung sự thiếu hụt các quy định về pháp luật dân sự trong hệ
thống pháp luật Việt Nam trong khoảng thời gian này. Đồng thời, đáp ứng
được phần nào xu thế phát triển của các quan hệ pháp luật dân sự.
Pháp lệnh Hợp đồng dân sự là văn bản pháp luật đầu tiên của Việt Nam điều
chỉnh riêng về lĩnh vực hợp đồng dân sự bao gồm cả trách nhiệm dân sự do vi
phạm hợp đồng. Pháp lệnh Hợp đồng dân sự đã giành toàn bộ Chương IV, từ
Điều 43 đến Điều 55 để quy định về trách nhiệm do vi phạm Hợp đồng dân

sự. Điều 43 Pháp lệnh đã quy định rõ “Trách nhiệm do vi phạm Hợp đồng”
như sau: “Bên có lỗi trong việc không thực hiện hoặc thực hiện hợp đồng
không đúng thỏa thuận, thì phải chịu trách nhiệm do vi phạm hợp đồng, nếu
pháp luật không có quy định khác”. Đồng thời, Pháp lệnh Hợp đồng dân sự
cũng đề cập đến một loạt các trách nhiệm có liên quan đến Hợp đồng dân sự
như: Điều 44 - Trách nhiệm do không thực hiện hợp đồng; Điều 45 - Trách
nhiệm do chậm thực hiện hợp đồng; Điều 46 - Trách nhiệm do thực hiện hợp
đồng không đủ số lượng; Điều 47 - Trách nhiệm do thực hiện hợp đồng
không đúng chất lượng; Điều 48 - Trách nhiệm do thực hiện hợp đồng không
đồng bộ; Điều 49 - Trách nhiệm do giao một vật không đúng chủng loại; Điều
50 - Trách nhiệm do chậm thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ
trả tiền; Điều 51 - Phạt vi phạm hợp đồng…
Pháp lệnh Hợp đồng dân sự đã xác định một khuôn khổ pháp lý tương đối đầy
đủ và chi tiết trong việc giải quyết trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng
dân sự, một chế định quan trọng nhưng đã thiếu những quy định pháp luật chi
tiết để điều chỉnh trong một thời gian dài kể từ năm 1991 đến năm 1995.
Mốc thời gian năm 1991 có thể coi là giai đoạn chuyển mình mạnh mẽ nhất
của nền kinh tế Việt Nam trong tiến trình hội nhập vào nền kinh tế quốc tế.

28


×