Tải bản đầy đủ (.doc) (55 trang)

Những biện pháp giáo dục đường lối cách mạng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (253.08 KB, 55 trang )

mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bàn về ĐĐCM Chủ tịch Hồ chí Minh khẳng định rằng:Muốn xây dựng
CNXH phải có con ngời thấm nhuần đạo đức XHCN. Đạo đức cách mạng là
đạo đức tiên tiến nhất của giai cấp vô sản, là đạo đức CNXH, đạo đức của con
ngời mới XHCN. ĐĐCM có vai trò to lớn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc XHCN, là động lực tinh thần khơi dậy ý chí, nghị lực, niềm tin... của ngời cách
mạng trong hoạt động. ĐĐCM là "cái gốc" của ngời cách mạng, có :"ĐĐCM làm nền
tảng mới hoàn thành đợc nhiệm vụ cách mạng vẻ vang "(12,187). "Thấm nhuần đạo
đức XHCN" là một quá trình đấu tranh lâu dài, khó khăn, phức tạp, chịu tác
động tổng hợp của nhiều yếu tố, tác động trên nhiều lĩnh vực, nhiều đối tợng bị tác
động: Tác động của mặt trái kinh tế thị trờng, tác động của môi trờng sống... sự chống
phá của các thế lực thù địch. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX đã nhấn mạnh:
"Tình trạng tham nhũng và suy thoái về t tởng chính trị, đạo đức, lối sống của một số
bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên đang cản trở việc thực hiện đờng lối, chủ trơng,
chính sách của Đảng, gây bất bình và làm giảm lòng tin trong nhân dân" (7,15).
Trớc tình hình đó, đòi hỏi trong suốt quá trình lãnh đạo Đảng phải: "Hớng mọi
hoạt động văn hoá vào việc xây dựng con ngời Việt Nam phát triển toàn diện về chính
trị, t tởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, có ý thức cộng đồng, lòng nhân
ái, khoan dung, tôn trọng nghĩa tình, lối sống có văn hoá, quan hệ hài hoà trong gia
đình, cộng đồng và xã hội" (7,38). Đối với thế hệ trẻ: "Đảng ta cần phải chăm lo giáo
dục ĐĐCM cho họ, đào tạo họ thành những ngời thừa kế xây dựng XHCN vừa
"hồng" vừa "chuyên" "(1,160).
Đào tạo giáo viên KHXH & NVQS cấp phân đội là một mô hình rất mới,
nhằm đào tạo ra đội ngũ giáo viên trẻ làm lực lợng kế thừa xứng đáng sự nghiệp
cách mạng vẻ vang của các thế hệ đi trớc, góp phần xây dựng quân đội cách
mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bớc hiện đại.
Các học viên đào tạo giáo viên KHXH & NVQS cấp phân đội là những
ngời có phẩm chất đạo đức tốt, lối sống trong sạch lành mạnh, có kiến thức lý
luận, ham học hỏi... Tuy nhiên, các học viên đều là những quân nhân có tuổi
quân ,và tuổi đời còn rất trẻ, cha từng trải nghiệm trong thực tiễn hoạt động


quân sự và hoạt động xã hội. Vì vậy, rất dễ bị dao động trớc những tác động
tiêu cực của xã hội, tác động của các thế lực thù địch... Một số học viên đã có
những biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống thực dụng, thiếu khiêm tốn, chủ
nghĩa cá nhân, lãng phí, thiếu tinh thần phê bình và tự phê bình... Trớc những
yêu cầu của thực tiễn hoạt động quân sự trong giai đoạn mới đòi hỏi phải tăng
cờng giáo dục đạo đức cách mạng cho đội ngũ sĩ quan trẻ. Cố Tổng Bí th Lê
Duẩn đã khẳng định: "Chủ yếu là do tình hình cách mạng của cả nớc đòi hỏi
chứ không phải chỉ vì một số ngời nào đó bê tha h hỏng mà để ra yêu cầu nâng
cao phẩm chất đạo đức... Tình hình nhiệm vụ cách mạng của nớc ta hiện nay
đòi hỏi chúng ta phải nói nhiều đến phẩm chất đạo đức của ngời cộng sản. Đó
không những là vấn đề cấp bách hiện nay do tình hình đòi hỏi mà còn là vấn đề
thờng xuyên cần phải nói để nói lại mãi từ đây đến CNXH"(1,160-161).
Nhiều đề tài đã nghiên cứu về vấn đề đạo đức, nhng với một mô hình đào
tạo còn rất mới, cha có đề tài nào nghiên cứu sâu về "những biện pháp giáo
dục ĐĐCM cho học viên Hệ S Phạm, cấp phân đội ở Học viện Chính trị
quân sự". Cho nên lựa chọn đề tài này là một yêu cầu cấp thiết để nâng cao
chất lợng giáo dục ĐĐCM cho học viên, thúc đẩy quá trình hoàn thiện nhân
cách của họ.
2. Mục đích nghiên cứu.
Luận chứng cơ sở lý luận và thực tiễn của quá trình giáo dục ĐĐCM cho
học viên HSPCPĐ ở HVCTQS hiện nay.
Đề ra những biện pháp giáo dục ĐĐCM cho các học viên.
3. Khách thể, đối tợng nghiên cứu:
- Khách thể nghiên cứu: Nghiên cứu quá trình giáo dục đạo đức cho các
học viên HSPCPĐ ở HVCTQS.
- Đối tợng nghiên cứu: Những biện pháp nâng cao chất lợng giáo dục ĐĐCM
cho các học viên HSPCPĐ ở HVCTQS hiện nay.
4. Giả thuyết khoa học
Nếu xây dựng hoàn thiện mục tiêu đào tạo giáo viên KHXH & NVQS cấp phân
đội; thờng xuyên đổi mới nội dung, phơng pháp giáo dục biết vận dụng linh hoạt các

hình thức giáo dục; phát huy vai trò của các tổ chức, các lực lợng giáo dục; xây dựng
môi trờng giáo dục trong sạch, lành mạnh và biết nâng cao chất lợng tự giáo dục của
ngời học thì sẽ nâng cao đợc chất lợng giáo dục ĐĐCM cho các học viên đào tạo giáo
viên KHXH & NVQS cấp phân đội ở HVCTQS hiện nay.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Nghiên cứu các vấn đề lý luận của quá trình giáo dục ĐĐCM.
- Nghiên cứu thực trạng của giáo dục ĐĐCM cho học viên HSPCPĐ ở
HVCTQS hiện nay.
- Đề ra những biện pháp giáo dục ĐĐCM cho học viên HSPCPĐ ở
HVCTQS hiện nay.
6. Phơng pháp nghiên cứu:
Vận dụng tổng hợp các nhóm phơng pháp trong quá trình nghiên cứu:
Nhóm phơng pháp nghiên cứu lý thuyết, nhóm phơng pháp nghiên cứu thực tiễn.
Trong đó tập trung vào một số phơng pháp: Nghiên cứu tài liệu,phân tích, tổng
hợp, quan sát, tận dụng kết quả nghiên cứu của một số luận văn, luận án...
7. ý nghĩa của đề tài.
Kết quả nghiên cứu của luận văn đóng góp một số cơ sở lý luận thực tiễn cho
quá trình giáo dục ĐĐCM, khắc phục một số biểu hiện tiêu cực về mặt đạo đức của
học viên HSPCPĐ ở HVCTQS hiện nay.
8. Kết cấu của luận văn:
Gồm phần mở đầu, 2 chơng; kết luận; những kiến nghị, phụ lục; danh
mục tài liệu tham khảo.
Chơng 1
những vấn đề lý luận và thực tiễn về giáo dục đạo đức
cách mạng cho học viên hệ s phạm, cấp phân đội ở
Học viện chính trị quân sự hiện nay
1.1. Quan niệm về giáo dục đạo đức cách mạng cho học viên Hệ s
phạm, cấp phân đội
Đạo đức là một nhu cầu tất yếu khách quan, một phạm trù có tính lịch sử,
những chuẩn mực đạo đức đợc thay đổi phù hợp với từng giai đoạn phát triển

khác nhau của xã hội, phản ánh sự khác nhau về phơng pháp tiếp cận, trình độ
phản ánh, chế độ xã hội...
Trớc Mác có rất nhiều quan điểm khác nhau về chuẩn mực đạo đức, nhng
chỉ từ khi Chủ nghĩa Mác - Lênin ra đời mới luận giải đúng đắn, sâu sắc về
nguồn gốc, bản chất của đạo đức. Theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin,
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tập hợp những nguyên tắc, quy tắc,
chuẩn mực xã hội. Nhằm điều chỉnh và đánh giá ứng xử của con ngời trong
quan hệ với nhau và quan hệ với xã hội, chúng đợc thực hiện bởi niềm tin cá
nhân, bởi truyền thống và sức mạnh của d luận xã hội.
Với t cách là một hình thái ý thức xã hội, đạo đức phản ánh tồn tại xã
hội, phản ánh hiện thực đời sống xã hội. Đạo đức điều chỉnh các mối quan hệ
của con ngời trong mọi lĩnh vực của đời sống, buộc mọi ngời phải tuân theo
những chuẩn mực chung của đạo đức xã hội.
Dới sức ép của truyền thống dân tộc, sức ép của d luận xã hội buộc các
thành viên trong xã hội đó phải điều chỉnh các mối quan hệ của mình phù hợp
với những chuẩn mực đạo đức chung, để biến những đòi hỏi của xã hội thành
những chuẩn mực, thành nhu cầu của cá nhân.
Tuy nhiên, xã hội luôn vận động và biến đổi rất phức tạp, mỗi giai đoạn
lịch sử lại có những Nhà nớc, giai cấp khác nhau, điều kiện kinh tế xã hội khác
nhau... Vì vậy không thể có một thứ đạo đức chung chung cho mọi giai cấp,
mọi giai đoạn lịch sử, mọi Nhà nớc.
Đối với Nhà nớc XHCN - Nhà nớc của dân, do dân, vì dân, do giai cấp vô
sản lãnh đạo, ĐĐCM đợc coi là chuẩn mực đạo đức trong xây dựng con ngời
mới.
Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng: trong tơng lai Nhà nớc XHCN mà đỉnh
cao là chủ nghĩa cộng sản là xã hội loài ngời phải hớng tới, là xã hội không còn
giai cấp, không còn áp bức bóc lột, quan hệ giữa cá nhân và xã hội đợc giải
quyết hài hoà .Theo Mác đạo đức phù hợp nhất với xã hội đó, là "đạo đức vô
sản". Đó là đạo đức: "Biểu hiện cho lợi ích tơng lai, tức là đạo đức vô sản là thứ
đạo đức có một số lợng nhiều nhất những nhân tố hứa hẹn một sự tồn tại lâu

dài" (2,136). Theo Lênin: "Đạo đức của chúng ta hoàn toàn phục vụ lợi ích đấu
tranh của giai cấp vô sản" (8,368).
Những quan niệm theo t tởng của chủ nghĩa Mác - Lênin đã khẳng định
tính u việt của đạo đức mới trong xã hội. Là những chuẩn mực, những giá trị
đạo đức cần phải có với con ngời xã hội chủ nghĩa để hớng tới xây dựng một xã
hội mới tốt đẹp hơn.
Trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin về đạo đức, Đảng ta và
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ trơng xây dựng "Đạo đức cách mạng" là chuẩn
mực đạo đức mới của con ngời Việt Nam, trong sự nghiệp xây dựng con ngời
mới XHCN.
Hồ Chí Minh đã kế thừa ,chọn lựa, vận dụng một cách sáng tạo những
quan điểm về đạo đức trong học thuyết Mác - Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của
Việt Nam. Hồ Chí Minh đề cập đến ĐĐCM, qua nhiều bài viết, bài nói của
mình với những cách thức thể hiện rất sáng tạo cụ thể dễ hiểu với mọi đối tợng.
Trong tác phẩm "Sửa đổi lối làm việc" Ngời khẳng định rằng: Ngời đảng viên,
ngời cán bộ muốn trở thành ngời cách mạng phải có ĐĐCM . ĐĐCM là "cái
gốc" của ngời cách mạng, là nền tảng, là tiêu chuẩn đầu tiên của ngời cách
mạng, thiếu ĐĐCM thì "dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo đợc nhân dân"
(9,467). Theo Hồ Chí Minh "cần kiệm, liêm chính, chí công vô t" là những yêu
cầu phẩm chất rất quan trọng trong đạo đức của ngời cách mạng. Ngời cho
rằng: Cần là siêng năng, chăm chỉ, cố gắng dẻo dai, việc gì dù khó khăn mấy
cũng làm đợc. Kiệm là tiết kiệm, không xa xỉ, không lãng phí, không bừa bãi.
Liêm là trong sạch không tham lam. Chính là không tà, là thẳng thắn, đúng đắn.
Chí công vô t là ham làm những việc ích quốc, lợi dân, không ham địa vị và
công danh phú quý.
Chỉ có "cần kiệm liêm chính, chí công vô t" ngời cách mạng mới: "quyết
tâm suốt đời phục vụ Đảng, phục vụ nhân dân. Đó là phẩm chất cao quý của ng-
ời cách mạng" (10,293), đồng thời "bảo đảm cho sự thắng lợi của Đảng, của
giai cấp công nhân, của nhân dân Việt Nam tiến lên CNXH."
Những quan niệm về đạo đức trong t tởng Hồ Chí Minh đã chỉ ra sự khác

biệt về chất so với đạo đức cũ: "Đạo đức cũ nh ngời đầu ngợc xuống đất chân
chổng lên trời. Đạo đức mới nh ngời hai chân đứng vững đợc dới đất, đầu ngửng
lên trời (13,41). Đạo đức mới là "đạo đức vĩ đại, nó không phải vì danh vọng
của cá nhân mà vị lợi ích chung của Đảng, của dân tộc, của loài ngời" (9,252).
Đạo đức mới xoá bỏ những chuẩn mực đạo đức phong kiến, vốn luôn trói buộc
con ngời vào những lễ giáo hủ bại, phục vụ cho chế độ đẳng cấp nô dịch của xã
hội phong kiến. Đạo đức mới hoàn toàn đối lập với chủ nghĩa cá nhân ,ích kỷ,
cực đoan của giai cấp t sản. Nó cũng xa lạ với đạo đức của con ngời tiểu t sản,
kìm hãm con ngời trong lợi ích riêng t, cục bộ, hẹp hòi... càng xa lạ với đạo đức
tôn giáo khuyên con ngời tu thân khắc kỷ, cam chịu số phận để hớng về cuộc
sống tốt đẹp hơn ở cõi h vô.
Đạo đức mới do Hồ Chí Minh khởi sớng luôn đợc Đảng ta coi trọng là
tiêu chuẩn xây dựng con ngời mới XHCN góp phần xây dựng chỉnh đốn Đảng,
nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ IX đã nhấn mạnh: Muốn xây dựng chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng
lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng: "trớc hết, phải tăng cờng công tác giáo
dục t tởng chính trị, rèn luyện ĐĐCM, chống chủ nghĩa cá nhân" (7,139).
Từ những vấn đề lý luận trên, có thể quan niệm về đạo đức cách mạng
nh sau: Đạo đức cách mạng là tổng hợp những quan niệm nguyên tắc chuẩn
mực đạo đức của giai cấp vô sản nhằm điều chỉnh và đánh giá hành vi của
con ngời trong xã hội XHCN và cộng sản chủ nghĩa.
Quan niệm đã khẳng định ĐĐCM là đạo đức của giai cấp vô sản, chỉ có ở
giai cấp vô sản, không thể có ở giai cấp nào khác. Là đạo đức đại diện cho ý
chí, đại diện cho sức mạnh, nguyện vọng của giai cấp vô sản. Là kết tinh những
giá trị đạo đức cao đẹp của nhân loại, của truyền thống và những giá trị đạo đức
chân chính của dân tộc Việt Nam. Là những chuẩn mực đạo đức tiên tiến nhất,
cách mạng nhất hớng tới xây dựng con ngời mới XHCN, xây dựng thành công
CNXH mà đỉnh cao là chủ nghĩa cộng sản.
Quân đội nhân dân Việt Nam là đội quân cách mạng,là công cụ bạo lực
sắc bén của Đảng bảo vệ vững chắc những thành quả cách mạng của nhân dân

ta đã đạt đợc. Tuy nhiên, muốn hoàn thành tốt nhiệm vụ quân đội ta phải vững
mạnh cả về vũ khí ,trang bị và tinh thần... Đặc biệt là tinh thần của quân nhân
trong quân đội là yếu tố quyết định nhất ĐĐCM là yếu tố cơ bản để xây dựng
tinh thần cho mỗi quân nhân. Bởi vậy mỗi ngời lính phải thực sự thấm nhuần
ĐĐCM thì quân đội mới trở nên vô địch: "Khó khăn nào cũng vợt qua, kẻ thù
nào cũng đánh thắng".
ĐĐCM của học viên đào tạo giáo viên KHXH & NVQS cấp phân đội là
đạo đức của giai cấp vô sản là kết tinh của tinh hoa đạo đức nhân loại, tinh hoa
đạo đức dân tộc Việt Nam. Là những chuẩn mực đạo đức tiên tiến nhất của ngời
giáo viên khoa học xã hội và nhân văn chi phối hành vi của các học viên, nhờ
đó học viên tự giác điều chỉnh hành vi đạo đức của mình phù hợp với chuẩn
mực đạo đức xã hội và yêu cầu của hoạt động quân sự.
ĐĐCM của học viên đạo tạo giáo viên KHXH & NVQS cấp phân đội đợc
tạo bởi hệ thống các phẩm chất sau:
Thứ nhất: Trung thành vô hạn với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân.
Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo mọi mặt kinh tế, chính trị, xã hội...
mọi đờng lối, chủ trơng, chính sách của Đảng đều thể hiện ý chí nguyện vọng
của nhân dân. Đảng không có lợi ích nào khác ngoài lợi ích của dân. Cho nên
trung thành với Đảng cũng chính là trung thành với Tổ quốc, với nhân dân.
Trung thành vô hạn với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân là trong mọi
hoàn cảnh đều phải tôn trọng và thực hiện với đúng theo đờng lối, chủ trơng,
chính sách của Đảng. Luôn đặt lợi ích của Đảng, của Tổ quốc của nhân dân lên
trên lợi ích cá nhân. Sẵn sàng chiến đấu hy sinh bảo vệ những thành quả cách
mạng của Đảng, của nhân dân ta đã đạt đợc...
Ngày nay, trớc những tác động tiêu cực của mặc trái kinh tế Việt Nam,
sự chống phá của các thế lực thù địch với cách mạng Việt Nam càng đặt ra yêu
cầu trung thành với Đảng, với tổ chức, với nhân dân. Bởi vậy, đây là phẩm chất
cơ bản nhất ,định hớng nhân cách của các học viên đào tạo giáo viên KHXH &
NVQS cấp phân đội.
Thứ hai: Có chí hớng phục vụ quân đội lâu dài, có xu hớng nghề

nghiệp rõ ràng.
Khi đã thi vào trong môi trờng quân sự, các học viên đều đã xác định đi
theo con đờng binh nghiệp, có chí hớng phục vụ quân đội lâu dài. Trong mọi
hoàn cảnh chịu mọi tác động ngời quân nhân vẫn luôn kiên định theo con đờng
đã chọn. Hết lòng phục vụ quân đội, biết làm việc có ích để xây dựng quân đội
vững mạnh, tin tởng vào sức mạnh của quân đội. Đặc biệt trong giai đoạn hiện
nay trớc những tác động tiêu cực của kinh tế thị trờng, sự chống phá của các thế
lực thù địch... và nhiều tác động ngoại cảnh khác càng đòi hỏi các học viên phải
có xu hớng nghề nghiệp rõ ràng, tránh hoang mang dao động. Chỉ khi nào xác
định đợc xu hớng nghề nghiệp rõ ràng, phục vụ quân đội lâu dài, các học
viên mới có động cơ đúng đắn trong học tập và rèn luyện. Trên cơ sở đó họ
mới có thể xây dựng đợc niềm tin vào sức mạnh của quân đội, tin vào sự lựa
chọn của bản thân, rèn luyện những kỹ năng, những phẩm chất nhân cách
cần thiết nhất đáp ứng mục tiêu yêu cầu đào tạo.
Thứ ba: Có ý thức kỷ luật s phạm nghiêm.
Kỷ luật s phạm là tổng thể nói chung những điều quy định có tính chất
bắt buộc đối với hoạt động của các thành viên trong hoạt động s phạm, để đảm
bảo tính chặt chẽ của hoạt động s phạm.
ý thức kỷ luật s phạm nghiêm là luôn chấp hành một cách tự giác những
quy định trong hoạt động s phạm. Mỗi một nhà giáo đều là một tấm gơng sáng
về đạo đức. Chấp hành nghiêm kỷ luật s phạm là một biểu hiện trong tính mô
phạm về đạo đức của nhà giáo.
Đạt đến tính mô phạm về đạo đức là một quá trình rèn luyện, bền bỉ,
trong đó rèn luyện ngay từ khi còn là học viên đào tạo giáo viên chiếm vị trí rất
quan trọng, là giai đoạn chuẩn bị các tiền đề để hoàn thiện nhân cách của nhà
giáo. Vì vậy, xây dựng đợc ý thức kỷ luật s phạm nghiêm đối với các học viên
đào tạo giáo viên KHXH & NVQS cấp phân đội là vấn đề cần thiết.
Thứ t: Trung thực, khiêm tốn, giản dị, tế nhị trong giao tiếp.
Trung thực khiêm tốn, giản dị, tế nhị trong giao tiếp là một phẩm chất
quan trọng trong các phẩm chất ĐĐCM của học viên đào tạo giáo viên KHXH

& NVQS cấp phân đội.
Trung thực là "thẳng thắn, thật thà" trong các mối quan hệ đòi hỏi ngời
học viên phải luôn trung thực và trung thực ngay với bản thân mình. Khi có
khuyết điểm dù lớn hay nhỏ cũng không đợc bao biện, phải nhìn thẳng vào sự
thực để tìm cách giải quyết. Thiếu trung thực sẽ làm cho học viên bị suy giảm
về ý chí, gây mất đoàn kết trong tập thể... là tiền đề dẫn đến những hành vi phi
đạo đức.
Khiêm tốn là "có ý thức và thái độ đúng mức trong việc đánh giá bản
thân, không tự mãn, tự kiêu, không tự cho mình là hơn ngời". Khiêm tốn giúp
cho học viên đánh giá đúng bản thân, biết tôn trọng tập thể, tôn trọng ngời khác
trong các mối quan hệ, biết vơn lên tự hoàn thiện bản thân. Thiếu khiêm tốn học
viên sẽ tự đánh mất phẩm chất nhân cách của họ, đánh mất sự tin tởng của ngời
khác.
Giản dị là "đơn giản một cách tự nhiên, trong phong cách sống", không
đua đòi, không chạy theo những vấn đề vợt quá khả năng của mình trong cuộc
sống.
Tế nhị là tỏ ra khéo léo, nhã nhặn trong quan hệ, đối xử biết chú ý đến cả
những điểm rất nhỏ thờng dễ bị bỏ qua trong giao tiếp. Tế nhị trong giao tiếp là
điều kiện để học viên xây dựng tốt các mối quan hệ trong đơn vị, đối với ngoài
xã hội, tạo đợc uy tín của bản thân với tập thể, Ngợc lại, thiếu tế nhị trong giao
tiếp là con đờng dẫn đến các mối quan hệ không tốt đẹp của học viên, làm mất
uy tín của họ trong tập thể.
Trung thực, khiêm tốn giản dị, tế nhị trong giao tiếp là cơ sở quan trọng để
học viên hoàn thiện nhân cách của nhà giáo trong hoạt động quân sự nói riêng.
Thứ năm: Có tinh thần đoàn kết, lối sống trong sạch lành mạnh, "Cần
kiệm, liêm chính, chí công vô t ".
Đoàn kết là nguồn gốc của sức mạnh, là yếu tố cơ bản tạo nên sức mạnh
của quân đội. Đoàn kết tốt là huy động đợc cả sức mạnh vật chất và sức mạnh
tinh thần trong tập thể. Là những nhà giáo trong tơng lại, các học viên phải tự
xây dựng cho mình tinh thần đoàn kết trong tập thể, tạo đợc sức mạnh tinh thần

trong tập thể, trên cơ sở đó rèn luyện phẩm chất nhân cách của mình.
Lối sống trong sạch, lành mạnh; "cần, kiệm, liêm ,chính,chí công vô t "là
phẩm chất rất quan trọng quyết định đến ĐĐCM của con ngời nói chung và
ĐĐCM của học viên đào tạo giáo viên KHXH & NVQS cấp phân đội nói riêng.
Có lối sống trong sạch lành mạnh học viên sẽ không buông thả, không rơi vào
các tệ nạn xã hội... là điều kiện để thực hiện "Cần, kiệm, liêm, chính,chí công
vô t "
Thứ sáu: Có chí tiến thủ, tinh thần phê bình và tự phê bình.
Trong học tập và rèn luyện, ngời học viên phải "phải có chí tiến thủ", biết
vơn lên, hớng tới các mục tiêu cao hơn, không chịu lùi bớc trớc khó khăn gian
khổ. Có đợc "chí tiến thủ" là điều kiện rất quan trọng để các học viên nhanh
chóng hoàn thiện đợc nhân cách của nhà s phạm. Chỉ có đặt ra yêu cầu cao hơn
thì họ mới mau chóng tích luỹ đợc những vấn đề cần thiết cho nghề nghiệp tơng
lai của mình.
Để hoàn thiện phẩm chất đạo đức, "tự phê bình và phê bình" là động lực
cơ bản thúc đẩy học viên trong quá trình học tập và rèn luyện. Tự phê bình và
phê bình là biết tự đánh giá kiểm điểm mình và biết đánh giá phê bình ngời
khác để cùng nhau tiến bộ. Bởi "có hoạt động thì khó mà hoàn toàn tránh khỏi
sai lầm" Muốn sửa chữa khuyết điểm thì phải biết lắng nghe ngời khác phê bình
và tự phê bình. Không chịu nghe ngời khác phê bình và không tự phê bình thì sẽ
lạc hậu, thoái bộ, nhân cách khó hoàn thiện".
Hệ thống các phẩm chất đạo đức trên là một thể thống nhất, có mối quan
hệ biện chứng tạo nên ĐĐCM của học viên đào tạo giáo viên KHXH & NVQS
cấp phân đội. Chỉ khi nào các học viên thực sự thấm nhuần các phẩm chất đạo
đức đó thì nhân cách của học mới trởng thành đáp ứng đợc yêu cầu của hoạt động
s phạm quân sự. Bởi vậy, trong quá trình giáo dục, nhà giáo dục phải hớng hoạt
động giáo dục của mình vào việc xây dựng các chuẩn mực đạo đức cho các học
viên HSPCPĐ ở HVCTQS hiện nay, đáp ứng với yêu cầu của sự nghiệp cách
mạng nói chung và yêu cầu xây dựng con ngời mới trong quân đội.
ĐĐCM là cơ sở cho học viên nhận thức đúng đắn về yêu cầu của sự

nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới, đồng thời giúp cho học
viên nhận thức đúng về vai trò của quân đội trong thực hiện chiến lợc đó. Thông
qua đó xây dựng cho học viên niềm tin vào bản chất tốt đẹp của Nhà nớc
XHCN, tin vào sức mạnh của quân đội, tin vào chính năng lực và sức mạnh của
bản thân học viên hớng cho học viên thực hiện những hành vi tốt đẹp góp phần
nâng cao phẩm chất đạo đức của họ. ĐĐCM có vai trò rất quan trọng đối với
ngời học viên s phạm, ngời giáo viên tơng lai:
ĐĐCM thúc đẩy quá trình giải quyết mâu thuẫn giữa yêu cầu cao về
phẩm chất chính trị với khả năng học tập, rèn luyện của học viên.
Trong điều kiện hiện nay, trớc những tác động to lớn của tình hình trong
nớc và thế giới. Đặc biệt là sự chống phá của các thế lực thù địch trên lĩnh vực
chính trị - t tởng, đòi hỏi mỗi quân nhân phải luôn vững vàng về chính trị - t t-
ởng (ĐĐCM là nhân tố cơ bản tạo nên sự vững vàng về chính trị - t tởng). Tuy
nhiên, với đặc điểm về trình độ nhận thức, lứa tuổi của học viên đào tạo giáo
viên KHXH & NVQS cấp phân đội hiện nay, thì đây là một yêu cầu cao về
phẩm chất chính trị, cũng là mâu thuẫn suốt quá trình học tập, rèn luyện của các
học viên tại nhà trờng. ĐĐCM là động lực trực tiếp góp phần giải quyết mâu
thuẫn đó.
Phẩm chất chính trị phản ánh sự giác ngộ giai cấp, sự nhạy cảm và tính
chủ động sáng tạo, sự vững vàng về chính trị trong mọi hoàn cảnh, không dao
động về mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH, không mất cảnh giác trớc âm mu
và thủ đoạn của các thế lực thù địch.
Nâng cao chất lợng giáo dục ĐĐCM là cơ sở để nâng cao trình độ nhận
thức xây dựng tình cảm, niềm tin và ý chí cách mạng cho các học viên, giúp cho
họ có thể vợt qua mọi khó khăn thử thách. Lênin đã khẳng định: "Niềm tin vào
cuộc chiến tranh chính nghĩa, sự giác ngộ rằng phải hy sinh đời mình cho hạnh
phúc của những ngời anh em, là yếu tố nâng cao tinh thần của binh sĩ và làm
cho họ chịu đựng đợc những gian khổ cha từng thấy" (8,147). Qua đó giúp ngời
học xây dựng đợc những hành vi đạo đức đúng đắn để giải quyết mâu thuẫn cơ
bản trong học tập và rèn luyện, đẩy nhanh quá trình hoàn thiện ĐĐCM của ngời

giáo viên khoa học xã hội và nhân văn.
Phát triển ĐĐCM góp phần nâng cao năng lực hoạt động thực tiễn ý
chí và nghị lực vơn lên vợt qua khó khăn, tích luỹ tri thức khoa học quân sự,
trau dồi chuyên môn nghiệp vụ.
Năng lực hoạt động thực tiễn là yếu tố phản ánh chất lợng giáo dục - đào
tạo. Quá trình đào tạo trong nhà trờng mục đích cuối cùng cũng là tạo ra những
sản phẩm có khả năng đáp ứng với yêu cầu của thực tiễn hoạt động quân sự.
Nghị lực vơn lên vợt qua khó khăn thử thách là điều kiện cần thiết giúp
cho học viên hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ đợc giao trong quá trình học tập và
rèn luyện là cơ sở để sau này trên cơng vị là ngời giáo viên khoa học xã hội và
nhân văn họ có thể cống hiến hết khả năng của mình cho sự nghiệp giáo dục
trong môi trờng hoạt động quân sự. Vì vậy quá trình đào tạo phải biết khơi dậy
nghị lực trong mỗi học viên.
Phát triển ĐĐCM của học viên đào tạo giáo viên KHXH & NVQS cấp
phân đội là điều kiện để ngăn ngừa tính xấu trong bản thân và những tác
động tiêu cực ở trong và ngoài quân đội vào học viên.
T tởng của Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng: Trong mỗi con ngời bao giờ cũng
có hai mặt đối lập: Thiện - ác, đúng - sai; tốt - xấu đan xen vào nhau. Ngời vững
tin vào cái tốt, cái thiện, luôn xem nó là cái phổ biến, tất yếu để sẽ chiến thắng
cái ác, cái xấu, cái lạc hậu. Nhng cái thiện, cái đẹp chỉ có đợc thông qua quá
trình giáo dục, rèn luyện gian khổ lâu dài: "Mỗi con ngời đều có thiện và ác ở
trong lòng, ta phải biết làm cho phần xấu bị mất đi, đó là thái độ của ngời cách
mạng" (11,558). Cho nên trong quá trình giáo dục phải làm cho các học viên
hiểu rõ vị trí vai trò của ĐĐCM với sự trởng thành của bản thân họ. Đồng thời
giúp học viên nhận thức đợc "gốc rễ "của những hành vi đạo đức không đúng
đắn để loại bỏ và tự giác làm cho nhân cách mình trở nên tốt đẹp hơn.
Trong giai đoạn hiện nay trớc những tác động của mặt trái kinh tế thị tr-
ờng và sự chống phá của các thế lực thù địch đã khiến cho nhiều chuẩn mực đạo
đức trong xã hội bị biến dạng, ĐĐCM là cơ sở để học viên thấy đợc những giá
trị cao đẹp của đạo đức mới, nhận thức đợc sự "lạc hậu", nguy hiểm của đạo đức

cũ để có biện pháp chống lại những tác động tiêu cực của đạo đức cũ.
Nhân cách nói chung và đạo đức nói riêng là sản phẩm của hoạt động
giáo dục, tác động của xã hội, của môi trờng sống... Trong đó giáo dục giữ vai
trò chủ đạo. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: "Hiền dữ đâu phải là tính sẵn
phần nhiều do giáo dục mà nên" (14,383).
Giáo dục ĐĐCM cho học viên đào tạo giáo viên KHXH & NVQS cấp
phân đội là hoạt động có mục đích, có tổ chức. Nhằm hình thành và phát
triển cho học viên có phẩm chất đạo đức mới, phù hợp với chuẩn mực đạo
đức vô sản và điều kiện hoạt động quân sự.
Thực chất của giáo dục ĐĐCM cho các hoc viên chính là hình thành nhận
thức đúng, niềm tin, thái độ và tình cảm tốt đẹp với những chuẩn mực đạo đức
mới. Qua đó giúp ngời học rèn luyện những hành vi thói quen đạo đức đúng đắn
phù hợp với đạo đức của ngời giáo viên khoa học xã hội và nhân văn.
Giáo dục ĐĐCM cho các học viên là một hiện tợng xã hội, là quá trình
tác động qua lại giữ chủ thể giáo dục và đối tợng giáo dục. Chủ thể giáo dục
thông qua nghiên cứu, hình thức, biện pháp và các phơng tiện giáo dục để tác
động vào đối tợng giáo dục, chuyển những giá trị đạo đức mới của xã hội vào
trong nhận thức của ngời học, giúp các học viên có thể chuyển từ những nhận
thức đúng đắn đó thành các hành vi đạo đức cụ thể phù hợp với chuẩn mực
chung của xã hội phù hợp với tính chất, đặc điểm của hoạt động quân sự. Đồng
thời quá trình giáo dục vạch ra những phơng hớng, biện pháp để học viên có thể
lựa chọn trong phát triển và hoàn thiện nhân cách - mặt khác cũng khắc phục
những quan điểm, t tởng, thói quen hành vi đạo đức lạc hậu trái với chuẩn mực
đạo đức chung.
Tuy nhiên, quá trình giáo dục đạo đức cách mạng chỉ có hiệu quả cao khi
có sự phối hợp thống nhất giữa chủ thể giáo dục và đối tợng giáo dục thông qua
nội dung hình thức, phơng pháp, phơng tiện và mục tiêu giáo dục. Thông qua
hiệu quả giáo dục đó phản ánh chất lợng, của quá trình giáo dục đạo đức nói
chung, giáo dục ĐĐCM nói riêng.
1.2. Chất lợng giáo dục đạo đức cách mạng cho học viên đào tạo giáo

viên khoa học xã hội và nhân văn quân sự cấp phân đội, tiêu chí đánh giá
chất lợng giáo dục đạo đức cách mạng.
1.2.1. Chất lợng giáo dục đạo đức cách mạng.
Trong quá trình giáo dục đạo đức nhà giáo dục phải thờng xuyên có sự tổng
kết đánh giá kết quả giáo dục đã đạt đợc, thông qua đó đánh giá đợc chất lợng giáo
dục đạo đức. Đánh giá đúng chất lợng giáo dục đạo đức là cơ sở để đặt ra những
biện pháp giáo dục đạo đức nói chung và giáo ĐĐCM nói riêng.
Chất lợng nói chung theo từ điển tiếng Việt là "Cái làm nên phẩm chất
giá trị của con ngời, sự vật" (3,331).
Chất lợng giáo dục theo t tởng của nhiều nhà giáo dục đã quan niệm:
Chất lợng giáo dục là sự phù hợp với mục tiêu.
Nh vậy, từ qua niệm về chất lợng và chất lợng giáo dục đạo đức có thể
hiểu chất lợng giáo dục ĐĐCM: Là kết quả giáo dục đạt đợc phù hợp với mục
tiêu yêu cầu đề ra biểu hiện ở những phẩm chất đạo đức, những giá trị đạo
đức mà ngời học đạt đợc trong quá trình giáo dục đào tạo.
Chất lợng giáo dục ĐĐCM phản ánh chất lợng quá trình giáo dục đào tạo
của nhà trờng, phản ánh mức độ tham gia của các lực lợng giáo dục, khả năng
tự giáo dục của ngời học trong rèn luyện tu dỡng đạo đức... Vì vậy đánh giá
chất lợng giáo dục ĐĐCM là vấn đề rất quan trọng.
1.2.2. Tiêu chí đánh giá chất lợng giáo dục đạo đức cách mạng .
Tiêu chí là "Toàn bộ những đặc trng, những dấu hiệu làm cơ sở căn cứ để
nhận biết, xếp loại một sự vật, khái niệm".
Nâng cao ĐĐCM của học viên là một quá trình thống nhất của những
hoạt động của chủ thể và đối tợng. Chủ thể thông qua nội dung, hình thức biện
pháp để truyền thụ các giá trị, chuẩn mực ĐĐCM đến đối tợng, tiếp nhận và
chuyển hoá, phát triển các giá trị, chuẩn mực đạo đức đó thành những phẩm
chất đạo đức của cá nhân. Nh vậy, để đánh giá chất lợng giáo dục ĐĐCM cho
các học viên HSP CPĐ ở HVCTQS hiện nay cần phải dựa theo các tiêu chí cơ
bản sau:
Một là: ý thức, trách nhiệm năng lực của các lực lợng giáo dục.

Trong quá trình học tập, rèn luyện tại nhà trờng các học viên đều chịu tác
động trực tiếp (hoặc gián tiếp) của các lực lợng giáo dục trong nhà trờng. Bao
gồm sự tác động của các ban ngành, đoàn thể, các khoa giáo viên, đội ngũ giáo
viên, đội ngũ giáo viên, đội ngũ cán bộ chỉ huy các đơn vị quản lý học viên... sự
tham gia của các lực lợng giáo dục vào quá trình giáo dục ĐĐCM ảnh hởng trực
tiếp đến chất lợng của quá trình này.
ý thức, trách nhiệm, năng lực của chủ thể đợc đánh giá trên cơ sở tích
cực và chủ động trong hoạt động xây dựng môi trờng đơn vị vững mạnh tập thể
quân nhân đoàn kết, gắn bó các học viên có lối sống trong sạch, lành mạnh, có
ý thức kỷ luật tự giác nghiêm chỉnh.... nhằm tạo ra những điều kiện thuận lợi
cho sự phát triển ĐĐCM của các học viên.
Mặt khác, ý thức trách nhiệm và năng lực của các lực lợng giáo viên còn
thể hiện ở khả năng phát huy vai trò các yếu tố cả môi trờng trong đơn vị, khả
năng phối hợp các lực lợng, các phơng tiện, hình thức, biện pháp. Nhằm tạo ra
sức mạnh tổng hợp trong nâng cao ĐĐCM của học viên.
Hai là: chất lợng của nội dung, hình thức, biện pháp giáo dục, rèn
luyện ĐĐCM.
Để đạt đợc mục đích hoạt động chủ thể giáo dục có thể trực tiếp hay gián
tiếp tác động vào đối tợng nhằm phát triển các phẩm chất ĐĐCM của học viên.
Nội dung, hình thức, biện pháp giáo dục, rèn luyện mà chủ thể sử dụng là những
tác động trực tiếp có vai trò to lớn, thúc đẩy quá trình nâng cao ĐĐCM.
Chất lợng nội dung giáo dục rèn luyện ĐĐCM đợc thể hiện ở tính toàn
diện, đồng bộ, tính khoa học của các giá trị đạo đức mà chủ thể truyền đạt đến
đối tợng, biểu hiện ở độ nông - sâu, rộng - hẹp của các kiến thức và sự phù hợp
hay cha phù hợp với từng đối tợng.
Nội dung toàn diện, đồng bộ của giáo dục ĐĐCM đợc thể hiện ở sự kết
hợp giữa trang bị kiến thức, hiểu biết về những chuẩn mực giá trị đạo đức,
những kiến thức về chính trị, văn hoá, xã hội, pháp luật, quân sự.
Chất lợng nội dung giáo dục còn thể hiện ở khả năng lý giải có cơ sở
khoa học những vấn đề lý luận và thực tiễn của ĐĐCM, ở mức độ đổi mới nội

dung, cập nhận thông tin phù hợp với sự phát triển của thực tiễn
Hình thức, biện pháp giáo dục đợc đánh giá ở sự phong phú đa dạng, linh
hoạt và mức độ phù hợp với đối tợng hoàn cảnh.
Nhà giáo dục có thể thông qua học tập chính trị, nghiên cứu, quán triệt đ-
ờng lối, nghị quyết của Đảng, thông qua sinh hoạt của các tổ chức và sinh hoạt
tự phê bình và tự phê bình, thông qua hoạt động thực tiễn... Quan trọng nhất là
chủ thể có khả năng lựa chọn và kết hợp giữa các hình thức, biện pháp có hiệu
quả tạo thành sức mạnh tổng hợp trong giáo dục ĐĐCM cho các học viên đào
tạo giáo viên KHXH & NVQS cấp phân đội ở HVCTQS.
Ba là: ý thức trách nhiệm và chất lợng các hoạt động tự giáo dục của
các học viên.
Tác động của nhà giáo dục hoặc tác động của môi trờng... chỉ thực sự
mang lại hiệu quả khi ngời học biết tiếp nhận. chuyển hoá những yêu cầu khách
quan, những giá trị đạo đức thành nhu cầu nội tâm, thành động cơ, ý thức trách
nhiệm, hành vi thói quen... của bản thân học viên (nghĩa là biến quá trình giáo
dục, rèn luyện thành quá trình "tự giáo dục, tự rèn luyện). Vì vậy đây là một
trong những tiêu chí quan trọng hàng đầu để đánh giá chất lợng giáo dục
ĐĐCM.
Quá trình đánh giá, trớc hết đánh giá nhận thức của các học viên về sự
cần thiết của tự giáo dục để đạt mục tiêu yêu cầu đào tạo. Đánh giá đợc khả
năng tổ chức, tiến hành tự giáo dục, tự điều chỉnh thái độ, hành vi phù hợp với
chuẩn mực đạo đức, với yêu cầu tập thể, yêu cầu của ngời giáo viên tơng lai,
yêu cầu của xã hội... Đánh giá khả năng lựa chọn phơng pháp, hình thức tự giáo
dục và khả năng khắc phục, đấu tranh với chủ nghĩa cá nhân, lối sống thực
dụng, những biểu hiện tiêu cực, lạc hậu của bản thân ngời học.
Thông qua những đánh giá sẽ thấy đợc chất lợng của hoạt động tự giáo
dục so với mục tiêu yêu cầu đào tạo sẽ đặt ra, là tiêu chí để đánh giá chất lợng
giáo dục ĐĐCM đối với các học viên.
Bốn là:trình độ phát triển các phẩm chất ĐĐCM và kết quả hoàn
thành các nhiệm vụ đợc giao của ngời học.

Nếu nh các tiêu chí trên chủ yếu đánh giá chất lợng giáo dục ĐĐCM ở
dạng khả năng thì tiêu chí này đợc coi là hệ quả của khả năng. Là tiêu chí quan
trọng nhất để đánh giá hoạt động giáo dục ĐĐCM.
Trình độ phát triển các phẩm chất ĐĐCM của học viên dựa vào các
chuẩn mực ĐĐCM đã đợc xác định. Đó là sự chuyển biến về nhận thức, tình
cảm, hành vi ĐĐCM đợc xem xét dới các nội dung cụ thể:
Trình độ nhận thức và năng lực thực hiện các hành vi đạo đức chính trị,
mức độ phát triển các phẩn chất đạo đức lối sống; trình độ các phẩm chất đạo
đức nghề nghiệp quân sự, lòng trung thành với Tổ quốc. Mặc khác, chất lợng
giáo dục ĐĐCM biểu hiện ở khả năng hoạt động thực tiễn, kết quả hoàn thành
các nhiệm vụ đợc giao của ngời học.
Hệ thống tiêu chí đánh giá chất lợng, hiệu quả hoạt động nâng cao chất l-
ợng giáo dục ĐĐCM là những dấu hiệu cơ bản nằm trong một chỉnh thể thống
nhất, tác động, chuyển hoá lẫn nhau, sự phân định các tiêu chí chỉ mang tính t-
ơng đối, khi xem xét phải có tính đồng bộ, hệ thống, phù hợp.
1.3. Thực trạng giáo đạo đức cách mạng cho học viên Hệ s phạm, cấp
phân đội ở Học viện chính trị quân sự hiện nay.
1.3.1. Đặc điểm của học viên Hệ s phạm, cấp phân đội ở Học viện
chính trị quân sự.
Đánh giá đợc đặc điểm của học viên sẽ là điều kiện quan trọng để xác
định nội dung, biện pháp, hình thức giáo dục phù hợp để nâng cao chất lợng
giáo dục ĐĐCM. Các học viên đào tạo giáo viên KHXH & NVQS cấp phân đội
ở HVCTQS là: "Những quân nhân và thanh niên tốt nghiệp phổ thông trung
học, đợc chọn qua các kỳ thi tuyển sinh quân sự hàng năm, có đủ điều kiện, tiêu
chuẩn về phẩm chất chính trị, trình độ văn hoá sức khoẻ, đạo đức, tự nguyện
làm đơn thi tuyển vào học viện để phục vụ quân đội lâu dài, có độ tuổi theo quy
định của Bộ Quốc phòng (nam thanh niên ngoài quân đội độ tuổi từ 18 đến 21;
nam quân nhân tại ngũ độ tuổi từ 18 đến 23" (15,40). Ngoài những đặc điểm đó
họ còn có những đặc điểm riêng.
Về phẩm chất chính trị: Là đối tợng đợc lựa chọn kỹ về phẩm chất nhân

cách, tất cả đều có xuất thân rõ ràng, chủ yếu là con em lao động, một số là con
em của công nhân viên chức Nhà nớc, một số là con em của cán bộ trong lực l-
ợng vũ trang.
Học viên đợc lớn lên trong môi trờng hoà bình, ổn định, đợc thừa hởng
nhiều thành quả cách mạng của dân tộc, đợc sự quan tâm chăm lo giáo dục của
gia đình, nhà trờng, xã hội. Đặc biệt là sự quan tâm của các lực lợng giáo dục
trong nhà trờng.
Các học viên đào tạo giáo viên đều là những ngời có phẩm chất đạo đức tốt,
không có tiền án tiền sự, không mắc vào các tệ nạn xã hội, không tham gia vào tôn
giáo nào. Họ có nguyện vọng phục vụ quân đội lâu dài, có nguyện vọng theo nghề
giáo viên trong quân đội, mong muốn làm giảng viên để truyền thụ trí thức khoa học
xã hội và nhân văn Quân sự cho các học viên quân sự.
Về tâm lý lứa tuổi: Các học viên tuổi đời còn rất trẻ (từ 18 ữ 23) đang tr-
ởng thành về mặt nhân cách, có sự pháp triển khá toàn diện về mặt thể chất nh-
ng phần lớn cha đợc biểu hiện rõ nét.
Do tuổi đời còn rất trẻ, vốn sống, kinh nghiệm sống hay sự hiểu biết về
lịch sử truyền thống dân tộc, truyền thống quân đội chủ yếu qua sách vở hoặc
qua giáo dục của cán bộ, giáo viên hoặc qua các phơng tiện thông tin đại
chúng... cha đợc trải nghiệm qua thực tiễn.
Các học viên là những ngời sôi nổi, nhiệt tình có quyết tâm cao, sức khoẻ tốt,
có sự nhạy cảm với cái mới. Tuy nhiên, cũng là những ngời dễ bị lôi kéo vào các tệ
nạn xã hội, dễ bị kích động bởi các tác động tiêu cực bên ngoài xã hội...
Về trình độ học vấn: Học viên đã tốt nghiệp phổ thông trung học có sự
hiểu biết khá rộng trên các lĩnh vực. Đợc tuyển chọn qua hai kỳ thi: Thi đại học
và thi kỹ năng s phạm nên các học viên đều có trình độ học vấn khá cao, có kỹ
năng s phạm nhất định. Khi đã đợc tuyển chọn theo "nghề s phạm" quân sự, đợc
đào tạo tại nhà trờng đã trang bị cho họ những kiến thức ,kỹ xảo, kỹ năng, cần
thiết để sau này ra giảng dạy, nghiên cứu khoa học. Vì vậy cho phép họ có thể
đi sâu vào các lĩnh vực khoa học, trở thành những nhà giáo tơng lai của quân
đội.

Với những đặc điểm nh vậy, xuất phát từ mục tiêu yêu cầu đào tạo của
nhà trờng: Đào tạo kép - vừa là ngời cán bộ chính trị, vừa là ngời giảng viên.
Cho nên ngay từ khi tuyển chọ phải đặt ra những yêu cầu rất cao so với các học
viên - không chỉ là ngời có năng lực lãnh đạo quản lý mà còn phải là ngời có
phẩm chất đạo đức tốt, có tác phong s phạm cao, lòng yêu nghề và phải là ngời
cần mẫn "là anh, ngời bạn" của các học viên.
Là ngời cán bộ chính trị của Đảng, tuyên truyền chủ trơng chính sách của
Đảng. Do đó phải luôn đặc ra yêu cầu cao với các học viên để họ hoàn thành
xuất sắc nhiệm vụ đợc giao.
1.3.2. Các nhân tố tác động đến sự hình thành đạo đức cách mạng của
học viên
Nhân cách con ngời hình thành và phát triển chịu sự tác động tổng hợp
của các nhân tố khách quan và chủ quan. Do đó, sự hình thành và phát triển của
ĐĐCM cũng chịu sự tác động tổng hợp của các nhân tố đó. Đối với học viên
HSPCPĐ ở HVCTQS hiện nay, sự hình thành và phát triển ĐĐCM chịu sự tác
động tổng hợp của các yếu tố:
Thứ nhất: Sự biến đổi phức tạp của tình hình thế giới.
Thế kỷ XXI hình thành thế giới có nhiều biến động phức tạp, trong tơng
lai ít có khả năng xảy ra chiến tranh thế giới. Nhng các cuộc đấu tranh dân tộc,
sắc tộc, đấu tranh giai cấp, khủng bố đang diễn ra gay gắt với những nội dung,
hình thức mới. Các quốc gia có chủ quyền ngày càng đấu tranh chống áp đặt, c-
ờng quyền để lựa chọn con đờng phát triển của mình. Cuộc đấu tranh vì hoà
bình, độc lập dân tộc, dân chủ, dân sinh đang có những chuyển biến tích cực.
Tuy nhiên, sự chống phá của các thế lực thù địch (đứng đầu là đế quốc Mỹ)
với cách mạng thế giới càng làm cho tình hình thế giới thêm phức tạp nhiều giá trị
đạo đức tiên tiến của nhân loại bị ảnh hởng tiêu cực. Bên cạnh đó nhiều giá trị đạo
đức cũ phát triển đan xen với những giá trị đạo đức mới. Chính sự đan xen đó gây
hoang mang, dao động t tởng cho các học viên trong lựa chọn các chuẩn mực đạo
đức xã hội phù hợp, xuất hiện sự hoài nghi về ĐĐCM.
Thứ hai: Toàn cầu hoá kinh tế thế giới là một xu thế khách quan lôi

cuốn ngày càng nhiều nớc tham gia, nhng các nớc lớn dựa vào u thế về vốn,
khoa học công nghệ, thị trờng... đã và đang gây sức ép với các nớc chậm phát
triển, khiến cho nhiều nớc ngày càng phải lệ thuộc vào nớc lớn.
Về mặt chính trị, thông qua toàn cầu hoá, hợp tác kinh tế, chủ nghĩa đế
quốc áp đặt t tởng, văn hoá, đạo đức đa ra những yêu sách về chính trị, coi đó
là điều kiện để viện trợ phát triển kinh tế.
Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, thông tin đa con ngời có
nhiều điều kiện để tiếp cận với các nền văn minh của nhân loại. Bên cạnh ảnh h-
ởng tiêu cực của nền văn hoá lối sống, đạo đức "kiểu phơng Tây" thâm nhập
qua công nghệ thông tin gây nên những vấn đề phức tạp trong xã hội, văn hoá
dân tộc, đạo đức quốc gia bị ảnh hởng, ảnh hởng đến sự phát triển ĐĐCM của
học viên.
Thứ ba: Âm mu thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch trên các
lĩnh vực chính trị - t tởng, văn hoá, an ninh - quốc phòng...
Trên lĩnh vực chính trị - t tởng: Ra sức xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa
Mác - Lênin, t tởng Hồ Chí Minh, đờng lối chủ trơng của Đảng, chính sách của
Nhà nớc với hy vọng tạo ra một khoảng trống của cán bộ, đảng viên và nhân
dân, gieo rắc t tởng hoài nghi dẫn đến phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, phủ
nhận chế độ XHCN, phủ nhận thành quả cách mạng Việt Nam.
Trên mặt trận văn hoá: Lợi dụng chính sách mở cửa hội nhập ra sức
truyền bá văn hoá, đạo đức, lối sống phơng Tây phát tán các văn hoá phẩm độc
hại, kích động lối sống hởng thụ, thực dụng, ích kỷ làm ảnh hởng tiêu cực đến
truyền thống, đạo đức, bản sắc văn hoá dân tộc.
Đối với an ninh quôc phòng: Các thế lực thù địch nhen nhóm tập hợp lực l-
ợng, liên kết các tổ chức phản động lu vong, các nhóm phản động trong ngụy quân
ngụy quyền của chế độ cũ kích động nhân dân đòi hỏi tự do tín ngỡng tôn giáo quá
mức, đòi thành lập khu tự trị, đòi "phi chính trị hoá quân đội..."
Những âm mu thủ đoạn thâm độc của kẻ thù cũng chính là một lực cản
trong quá trình giáo dục ĐĐCM cho các học viên HSPCPĐ ở HVCTQS hiên nay.
Thứ t: Tình hình nhiệm vụ cách mạng trong thời kỳ công nghiệp hoá,

hiện đại hoá: sự biến đổi của đất nớc dới sự lãnh đạo của Đảng trong hơn 15
năm qua đã đạt đợc những thành tựu to lớn và rất quan trọng Thế và lực của đất
nớc ta đợc nâng lên một tầm cao mới, đất nớc không ngừng lớn mạnh trên con
đờng đi lên CNXH.
Những thành tựu đó của đất nớc đã tác động tích cực đến nhận thức chính
trị, trạng thái tinh thần, củng cố niềm tin của học viên vào sự lãnh đạo của
Đảng, tin vào chế độ XHCN, giúp họ vững tin vào sức mạnh quân đội, phát huy
trách nhiệm tích cực, phấn đấu hoàn thành mọi nhiệm vụ đợc giao.
Bên cạnh những thời cơ, thuận lợi, sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nớc cũng đang đứng trớc những khó khăn, thử thách nghiêm trọng. Bốn nguy
cơ Đại hội IX đã chỉ rõ: Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nớc trong
khu vực và trên thế giới, chệch hớng XHCN, nạn tham nhũng, quan liêu và âm mu
thủ đoạn "diến biến hoà bình" vẫn đan xen, tồn tại. Diến biến phức tạp tác động lẫn
nhau và cùng tác động tiêu cực đến đời sống xã hội.
Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá không những đòi hỏi phải đấu
tranh khắc phục nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế mà cần phải đẩy lùi ngụy cơ
và căn bệnh quan liêu bắt nguồn từ chủ nghĩa cá nhân. Đại hội IX đã chỉ rõ:
"Tình trạng tham nhũng và sự suy thoái về t tởng, chính trị, đạo đức của một bộ
phận cán bộ, đảng viên đang cản trở việc thực hiện đờng lối chính sách của
Đảng, gây bất bình và làm giảm niềm tin trong nhân dân"(3,15).
Sự suy thoái về đạo đức lối sống chậm đợc khắc phục tác động tiêu cực
đến lối sống, đạo đức của các học viên.
Bên cạnh đó, nền kinh tế thị trờng định hớng XHCN của đất nớc ngoài
những tác động tích cực, mặt trái của nó cũng làm cản trở sự phát triển đạo đức
của học viên: Nền kinh tế thị trờng làm trầm trọng thêm sự phân hoá giàu
nghèo, sự chênh lệch về mức sống, điều kiện sống cũng tác động tới tâm lý, tình
cảm tạo nên sự so sánh, so bì, thiếu tin tởng, thiếu an tâm trong quá trình học
tập, rèn luyện của học viên. Không ít giá trị đạo đức bị mai một, nếp sống, bản
sắc văn hoá dân tộc bị tổn hại, ảnh hởng thuần phong, mỹ tục, nhân cách con
ngời...

Thứ năm: Tác động của các lực lợng giáo dục.
Trong quá trình hình thành nhân cách của các học viên, tác động của các
lực lợng giáo dục chiếm vị trí quan trọng đặc biệt chất lợng của hoạt động giáo
dục đạo đức cách mạng phải phản ánh chất lợng hoạt động của chủ thể giáo
dục.
Nếu trong quá trình giáo dục ĐĐCM các tác động của chủ thể mang tính
tích cực, thờng xuyên thì chất lợng giáo dục ĐĐCM sẽ đợc nâng lên. Ngợc lại,
chủ thể tác động thiếu tích cực, thiếu chủ động, bản thân chủ thể không mang
tính chuẩn mực thì chất lợng giáo dục ĐĐCM tất yếu sẽ thấp. Cụ thể:
Trong quá trình giáo dục, nếu: Các tổ chức Đảng vận dụng nhiều hình
thức để giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, t tởng Hồ Chí Minh, quán triệt đờng
lối, chủ trơng, chính sách của Đảng; Trong hoạt động, các tổ chức cán bộ chỉ
huy, cán bộ chính trị nắm đợc t tởng của học viên, có biện pháp giáo dục kịp
thời. Trong huấn luyện các khoa giáo viên luôn quán triệt và thực hiện đúng
mục đích, yêu cầu của quá trình giảng dạy là "dạy chữ", "dạy ngời"... Thì sẽ tác
động tích tực đến sự phát triển đạo đức của học viên. Ngợc lại, nếu không thực
hiện các tác động đó hoặc tác động rất hạn chế thì sẽ ảnh hởng tiêu cực đến
hoạt động giáo dục ĐĐCM.
Thứ sáu: Tác động của ý thức tự giáo dục và phơng pháp tự giáo dục ở
ngời học.
Đây là nguyên nhân chủ yếu trực tiếp quyết định đến việc nâng cao
ĐĐCM của học viên. Họ là những ngời có nhu cầu , động cơ phấn đấu, rèn luyện
trở thành ngời giáo viên khoa học xã hội và nhân văn (ngời cán bộ chính trị trong
quân đội); là lực lợng có văn hoá, trẻ, khoẻ, ham học hỏi; ham muốn học cái mới...
cho nên nếu có ý thức tự giáo dục và phơng pháp tự giáo dục tốt sẽ thúc đẩy nhanh
quá trình hoàn thiện nhân cách của các học viên. Giúp học tự ý thức đợc vị trí, vài
trò của ĐĐCM để phấn đấu, rèn luyện đạt đợc những phẩm chất đạo đức tốt đẹp
đó. Trái lại, nếu không có ý thức tự giáo dục, phơng pháp tự giáo dục hiệu quả thì
chất lợng hoạt động giáo dục ĐĐCM, sẽ thấp.
1.3.3. Thực trạng giáo dục đạo đức cách mạng cho học viên Hệ s

phạm, cấp phân đội ở Học viện chính trị quân sự hiện nay.
Đánh giá đúng thực trạng, tìm ra những nguyên nhân của thực trạng là
điều kiện đề xuất biện pháp nâng cao chất lợng giáo dục ĐĐCM cho học viên
đào tạo giáo viên KHXH & NVQS cấp phân đội ở HVCTQS hiện nay. Thực
trạng của giáo dục ĐĐCM đợc biểu hiện trên hai khía cạnh, tích cực và tiêu
cực.
Tích cực:
Trình độ nhận thức về mọi mặt, trớc hết là nhận thc chính trị, t tởng đạo
đức, lối sống có bớc phát triển về chất.
Học viên đào tạo giáo viên KHXH & NVQS cấp phân đội ở hệ s phạm
HVCTQS đều đợc tuyển chọn cả về trình độ lẫn năng lực phẩm chất đạo đức.
Là những học viên có phẩm chất đạo đức tốt, lối sống trong sạch, lành mạnh, có
năng lực, ham học hỏi, có lòng yêu nghề, có chí hớng phục vụ quân đội lâu dài,
mong muốn trở thành ngời giáo viên trong quân đội.
Xuất phát từ những phẩm chất đó, các học viên không ngừng học hỏi,
trình độ nhận thức chính trị, t tởng, đạo đức, lối sống đợc nâng lên, Bớc đầu đã
có thế giới quan, phơng pháp luận trong xem xét các vấn đề chính trị - xã hội,
phẩm chất nhân cách con ngời... Đây là những điều kiện rất cần thiết cho quá
trình học tập rèn luyện của học viên.
Nhận thức của học viên về chuẩn mực, nguyên tắc đạo đức, sự cần thiết
phải tu dỡng, rèn luyện ĐĐCM của ngời cán bộ chính trị - ngời giáo viên
KHXH & NVQS cấp phân đội đợc nâng lên.
Đợc trang bị kiến thức về mọi mặt, nhất là lý luận của chủ nghĩa Mác -
Lênin, t tởng đạo đức, phong cách Chủ tịch Hồ Chí Minh, quan điểm đờng lối
của Đảng, bản chất truyền thống đạo đức "Bộ đội cụ Hồ" những phẩm chất đạo
đức, phơng pháp tác phong của cán bộ chính trị ngời giáo viên khoa học xã hội
và nhân văn quân sự... Đợc đào tạo trong một môi trờng s phạm lành mạnh nên

×