Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

các hình thức tuyển dụng quan lại thời kỳ trung đại VN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (130.6 KB, 18 trang )

CÁC HÌNH THỨC TUYỂN DỤNG QUAN LẠI THỜI KÌ TRUNG ĐẠI
Ở VIỆT NAM
I. Giới hạn và một số khái niệm liên quan.
1. Giới hạn.
Thời kì trung đại Việt Nam được xác định khi đất nước bước qua khỏi thời kỳ
ngàn năm đô hộ của phong kiến phương Bắc. Tức là lúc đất nước bước vào thời kì
độc lập tự chủ và xây dựng quốc gia dân tộc. Nếu tính từ thời Khúc – Ngô – Đinh
– Tiền Lê thì thời kì trung đại Việt Nam đã trải qua 9 thế kỉ cho đến nhà Nguyễn
thế kỷ XIX.
Bước vào thời kì độc lập tự chủ việc xây dựng chính quyền, tổ chức bộ máy
chính quyền trung ương là một yếu tố vô cùng quan trọng. Trong bộ máy đó không
thể thiếu bộ phận quan lại để có thể giúp cho bộ máy đó được vận hành có hiệu
quả. Thời đại nào cũng cần những nhân tài để phục vụ đất nước và việc tuyển chọn
nhân tài luôn là vấn đề quan trọng, được Nhà nước quan tâm. Hiền tài là nguyên
khí của quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh mà hưng thịnh. Nguyên khí
suy thì thế nước yếu mà thấp hèn. Bởi vậy, tuyển chọn và sử dụng nhân tài nhằm
tạo ra một đội ngũ quan lại tài năng, đức độ, đảm đương được các nhiệm vụ được
giao để phục vụ đất nước luôn là mối quan tâm của Nhà nước ở mọi thời đại. Nhà
nước phong kiến đã có các hình thức tuyển dụng quan lại với nhiều điểm ưu việt,
các chế độ quân chủ của nước ta thời kỳ trung đại tuy mang tính tập quyền và
chuyên chế, nhưng việc tuyển chọn quan lại vẫn được xây dựng thành một chế độ
có tính khách quan, nhằm quy tụ và sử dụng được nhiều nhân tài cho đất nước.
Đến thời tự chủ các triều Ngô, Đinh, Tiền Lê phải chăm lo cho việc gây dựng
cơ nghiệp, chống thù trong giặc ngoài và thời gian tồn tại của các triều đại này khá
ngắn cho nên việc tuyển dụng bộ phận quan lại chưa được quan tâm, trú trọng như
các triều đại về sau. Cho nên trong bài thuyết trình này chúng tôi xin trình bày về
các hình thức tuyển dụng quan lại từ thời Lý cho đến nhà Nguyễn.
2. Khái niệm quan – lại (quan lại).


Trong từ điển Hán – Việt: quan lại chỉ toàn bộ những kẻ cai trị, nhưng vẫn có


sự phân biệt nhất định trong bộ máy hành chính giữa quan (viên chức chịu trách
nhiệm) và lại (kẻ thừa hành). Theo các nho sĩ Việt Nam, như Lê Quý Đôn trong
Kiến văn tiểu lục (1777), hay Phan Huy Chú trong Lịch triều hiến chương loại trí
(1821). Quan được định nghĩa như một viên chức, rường cột thực sự của nhà
nước. Còn lại được hiểu như những viên chức cấp thấp, giúp việc cho quan. Có
nhiều cách định nghĩa cũng như giải thích khác nhau về khái niệm này tuy nhiên ta
có thể hiểu:
- Quan là những người có quyền lực, có chức năng thay mặt cho nhà vua điều
hành bộ máy chính quyền từ trung ương đến cơ sở.
- Lại có nghĩa là những viên chức cấp thấp, có chức năng giúp việc cho các
quan điều hành bộ máy hành chính ở cơ quan của mình.
II. Các hình thức tuyển dụng quan lại.
Ở Việt Nam, dưới các triều đại phong kiến dân tộc theo mô hình Nho giáo, vua
– quan là chủ thể chi phối toàn bộ sự hoạt động xã hội. Bộ máy quyền lực nhà
nước đó do vua đứng đầu và bên dưới là đội ngũ quan lại các cấp mà ngày nay
trong đời sống chính trị nước ta là đội ngũ cán bộ, công chức.
Lịch sử Việt Nam là quá trình đấu tranh lâu dài, gắn liền giữa dựng nước và giữ
nước, thường xuyên phải đối mặt với thiên tai, ngoại xâm. Vì vậy, việc tập hợp lực
lượng, xây dựng sức mạnh đoàn kết dân tộc luôn được đặt lên hàng đầu. Để giải
quyết thành công các nhiệm vụ đó, Nhà nước phong kiến Việt Nam, nhất là trong
các giai đoạn phục hưng và phát triển mạnh mẽ của dân tộc đều coi trọng việc đào
tạo, tuyển chọn và sử dụng đội ngũ quan lại nhằm tăng cường sức mạnh của Nhà
nước cũng như đảm bảo hiệu quả và hiệu lực của chính quyền các cấp.
Xét về phương diện tuyển bổ quan lại thì bao gồm rất nhiều hình thức trong đó
tiêu biểu như: Khoa cử, tiến cử (bảo cử), nhiệm tử, mua quan bán tước…
1. Khoa cử.


Khoa cử là chế độ tuyển chọn người để cất nhắc vào đội ngũ quan lại thông qua
các kỳ thi do Nhà nước tổ chức. Khoa cử căn cứ vào các đối tượng khác nhau mà

có ba hình thức chủ yếu là thi tuyển quan văn, thi tuyển quan võ và tuyển lại viên.
Đây là con đường vào quan trường chủ yếu và là hình thức tuyển chọn quan lại phổ
biến nhất thời phong kiến.
Thi tuyển quan văn: Là hình thức khoa cử sớm nhất, phổ biến nhất thời kỳ
phong kiến, được áp dụng lần đầu tiên dưới thời nhà Lý, năm 1075. Thời nhà Trần,
khoa cử đi vào nề nếp hơn. Nhưng phải từ thời Lê sơ (đặc biệt là dưới thời vua Lê
Thánh Tông trị vì) chế độ khoa cử mới được hoàn thiện và việc tuyển lựa quan lại
dựa trên kết quả khoa cử mới trở thành phương thức chủ yếu trong quan chế của
Nhà nước. Bất kỳ ai, dù là con quan đại thần hay thứ dân, dù học ở trường tư nơi
làng, xã hay trường công nơi phủ lộ, kinh thành như Quốc Tử Giám, nếu có đủ tư
cách đạo đức, đều có quyền dự thi để làm quan. Chế độ thi cử trong nhiều triều đại
phong kiến có tiếng là nghiêm túc và công bằng, đặc biệt là ở các thời có minh
quân trị nước. Dưới thời vua Lê Thánh Tông chế độ khoa cử thực sự phát triển và
trở thành hình mẫu cho các triều đại sau này tiếp tục thực hiện.
Về thể lệ thi, buổi đầu chưa ổn định, ở thời nhà Lý khoảng cách giữa những
khoa thi thường là 12 năm. Đến khoa thi Kỷ Hợi mới được qui định 7 năm một kỳ.
Sang nhà Lê, năm Thiệu Bình thứ 2 (1435) đời Thái Tông sửa lại là 6 năm 1 kỳ.
Nhưng đến năm Quang Thuận thứ 7 (1466) Lê ThánhTông lại đổi lại là 3 năm 1
kỳ. Lệ thi này được chấp nhận suốt cả thời kỳ Hậu Lê cho tới cuối Nguyễn.
Về thể thức:
Thời Ly: Thời kì này chưa có sự phân biệt rạch ròi giữa thi Hương, thi Hội và
thi Đình. Việc mở khoa thi Nho giáo đầu tiên đánh dấu mốc về việc chính thức
tuyển người theo Nho giáo làm quan bên cạnh tầng lớp quan lại thiên về kiến thức
Phật giáo trước đó. Thí sinh phải viết luận về chủ đề Y quốc thiên (thiên trị nước)


và thiên tử truyện (truyện đế vương). Các khoa thi không hỏi riêng về kiến thức
một lĩnh vực Nho giáo đơn thuần mà hỏi cả về Phật giáo và Đạo giáo, vì vậy đòi
hỏi người ứng thí các khoa thi phải thông hiểu kiến thức cả ba đạo này mới có thể
đỗ đạt. Việc tổ chức thi Tam giáo (Phật, Nho, Đạo) chính thức được thực hiện

năm 1195 dưới triều vua Lý Cao Tông. Thi cử bằng cả Phật giáo, Nho giáo và Đạo
giáo phản ánh tam giáo đồng nguyên khá phổ biến vào thời Lý.
Thời Trần: Sau khi thành lập không lâu, nhà Trần bắt đầu thực hiện chế độ khoa
cử để chọn người tài giúp nước, việc giáo dục và khoa cử đã tổ chức chu đáo hơn
triều Lý. Nếu như ở thời Lý, cách tổ chức và quy chế thi chưa có quy củ thì sang
thời Trần khoa cử đã có thể lệ và càng về sau càng chặt chẽ, quy củ hơn. Thời kì
này đã có sự phân biệt thi Hương, thi Hội và thi Đình. Nội dung thi được triều đình
quy định rõ gồm có 4 kỳ:
Kỳ 1: thi ám tả cổ văn để loại bớt.
Kỳ 2: thi thi kinh nghi, kinh nghĩa, thơ phú.
Kỳ 3: thi chế, chiếu, biểu.
Kỳ 4: thi đối sách. Với việc tổ chức thi theo bốn kỳ với nội dung từ dễ đến khó,
nhà Trần đã thực sự đặt ra những nấc thang quan trọng ban đầu cho các triều đại
sau mở rộng và phát triển khoa cử.
Thời Hô: ngoài các nội dung thi cử như dưới thời Trần thì riêng năm 1404 nhà
Hồ còn tổ chức thêm kỳ thi thứ 5 là thi toán và viết chữ.
Thời Hậu Lê: Chế độ khoa cử vẫn tiếp tục được phát huy và phổ biến rộng rãi.
Quy mô được mở rộng đến tận các làng xã với nội dung chặt chẽ, rõ ràng, quy củ
hơn. Thời Lê Thánh Tông quy định chặt chẽ về thi Hương: người thi Hương phải


là người dân có đạo đức, cấm người bất hiếu, loạn luân, gian ngoa, cấm con nhà
phản nghịch, con phường chèo, hát xướng.
Sĩ tử thi Hương phải trải qua 4 kì thi:
Kì đệ nhất: thi năm bài kinh nghĩa và truyện nghĩa.
Kì đệ nhị: thi chiếu, chế, biểu.
Kì đệ tam: thi thơ, phú. Bài thơ dùng luật Đường, bài phú dùng cổ thể, hoặc thể
ly tao, văn tuyển.
Kì đệ tứ: thi văn sách, đầu đề hỏi về sách kinh, sách sử và thời sự.
Các cuộc thi Hương thường được tổ chức vào mùa thu, nếu người nào trúng

tuyển sẽ được tấu trình lên bộ Lễ đến khoảng tháng giêng, tháng hai năm sau,
những người đỗ sẽ được dự thi Hội.
Vào năm 1472, nhà Lê đã quy định phép thi Hội:
Kì đệ nhất: “Tứ thư ra 8 đầu đề… Các cử tử tự chọn lấy 4 đầu đề làm bài…”
“Ngũ kinh: Mỗi loại ra 3 đề, cử tử chọn lấy một đầu đề mà làm chỉ có kinh
Xuân Thu ra 2 đầu đề gồm làm 1, cử tử làm vào một bài”.
Kì đệ nhị: Chiếu chế, biểu mỗi thể 1 đầu đề.
Kì đệ tam: Thơ và phú mỗi thể đều 2 đàu đề, bài phú dùng thể phú Lý Bạch.
Kì đệ tứ: Một bài văn sách hỏi về ý nghĩa dị đồng trong các sách Tứ thư, Ngũ
kinh và chính sự hay dở các triều đại.
Là cuộc thi dành cho những người đỗ thi Hội, tổ chức tại sân điện, do nhà vua
đích thân ra đề. Trong số những người đỗ, chọn ra 3 người cao nhất gọi là Tam
khôi (Trạng Nguyên, Bảng Nhãn, Thám Hoa).
Thời Nguyễn: Vẫn giữ các kì thi Hương, thi Hội, thi Đình. Lề lối phỏng theo thi
cử dưới thời Lê. Nội dung thi chủ yếu vẫn là Nho học. Vua Gia Long cũng đã từng
xuống chiếu quy định nôi dung các kỳ thi gồm: kỳ đệ nhất thi kinh nghĩa; kỳ đệ nhị
thi chiếu, chế, biểu; kỳ đệ tam thi thơ; kỳ đệ tứ thi văn sách


Lịch sử khoa bảng Việt Nam kéo dài 744 năm, từ khoa thi đầu tiên năm 1075
đến khoa thi cuối cùng năm 1919. Theo số liệu thống kê được, có 2.898 người đỗ
đại khoa (từ Tiến sĩ trở lên, trong đó 50 Trạng nguyên, song không có phụ nữ). Số
không thống kê được có tới hàng vạn người đỗ các mức thấp hơn (Cử nhân trở
xuống). Phần lớn những người đỗ đạt đều tham gia vào bộ máy quản lý đất nước
và có những đóng góp to lớn trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Một số người đỗ đầu các khoa thi trong lịch sử trung đại Việt Nam:
Tên
Lê Văn Thịnh
Mạc Hiển Tích
Mạc Đĩnh Chi

Đào Sư Tích
Nguyễn Trực
Lương Thế Vinh
Nguyễn Bỉnh Khiêm
Nguyễn Ý
Hoàng Đình Tá

Khoa thi
Khoa thi năm Ất
Mão (1075)
Khoa thi năm Bính
Dần (1086)
Khoa thi năm Giáp
Thìn (1304)
Khoa thi năm Giáp
Dần (1374)
Khoa thi năm
Nhâm Tuất (1442)
Khoa thi Quý Mùi
(1463)
Khoa thi Ất Mùi
(1535)
Khoa thi Nhâm
Ngọ (1822)
Khoa thi Nhâm
Dần (1842)

Triều đại
Nhà Lý (thời Lý Nhân
Tông).

Nhà Lý (thời Lý Nhân
Tông).
Nhà Trần (thời Trần Anh
Tông).
Nhà Trần (thời Trần Duệ
Tông)
Nhà Lê Sơ (thời Lê Thái
Tông).
Nhà Lê Sơ (thời Lê Thánh
Tông).
Nhà Mạc (thời Mạc Thái
Tông).
Nhà Nguyễn (thời Minh
Mạng).
Nhà Nguyễn (thời Thiệu
Trị).

Bên cạnh hệ thống thi Tam trường, một số triều đại còn tổ chức thêm các khoa
thi thay thế hoặc bổ sung cho kỳ thi Hội, thi Đình nhằm tuyển chọn thêm nhân tài
từ nguồn những thí sinh có khả năng song do phạm quy, phạm húy mà hỏng thi ở
kỳ thi Hội. Năm 1426, Lê Lợi sau khi đánh đuổi quân Minh đã tổ chức ngay một
kỳ thi tại Thăng Long mong thu hút lực lượng trí thức cũ bất cộng tác với nhà
Minh. Thi chỉ có một đề mang tính thời sự nóng hổi: “Bảng văn dụ hàng thành


Đông Quan”. Kết quả có 36 người đỗ, trong đó, sáu người được bổ ngay làm Viên
ngoại lang các bộ, 24 người được cử đi làm An phủ sứ các lộ. Một tổ chức đặc biệt
của triều đình phong kiến Việt Nam là Đông các (cơ quan tham mưu, cố vấn tối
cao của triều đình, có quan hệ phối hợp với Hàn lâm viện với chức năng vạch ra và
hoàn chỉnh đường lối, chủ trương, chính sách quản lý vĩ mô) được chọn nhân tài

bằng một kỳ thi riêng - thi Đông Các - để tuyển chọn các Đông các đại học sĩ. Kỳ
thi này rất quan trọng và số người đỗ mỗi kỳ rất ít, có khoa thi chỉ lấy đỗ ba người;
chính sách đãi ngộ như với Tam khôi.
Mặc dù khoa thi đầu tiên được tổ chức từ rất sớm, ngay dưới thời nhà Lý nhưng
đến thời vua Lê Thánh Tông nhà Hậu Lê mới cho dựng bia Tiến sĩ, ghi danh những
nguời đỗ đại khoa, đặt trong văn miếu để vinh danh. Tấm bia đầu tiên được dựng
năm 1484 ghi danh các tiến sĩ đỗ năm 1442, trước đó hơn 40 năm. Việc làm đó đã
khuyến khích mọi tầng lớp nhân dân đua nhau học hành để tên tuổi được ghi vào
bảng vàng, để gia môn được vinh dự và để làng quê được vinh hiển. Truyền thống
dựng bia Tiến sĩ được duy trì cho đến khi nhà Lê suy vong.
Thi quan võ: Có từ thời Lý, nhưng đến thời Lê sơ mới được tổ chức một cách
quy củ và nề nếp. Năm 1478 Lê Thánh Tông tổ chức kỳ thi Đô ti ở kinh đô cho
quân đội và tổ chức Trường Võ bị (Giảng võ sở), đối tượng dự thi là con cháu các
quan văn, võ ở kinh thành; học ba năm, ai đỗ trường này được bổ chức võ úy. Năm
1721, chúa Trịnh Cương mở Sở Võ học ở Thăng Long, cứ ba năm một lần mở kỳ
thi võ (khoa Bác cử). Thi võ cử có hai cấp: Sở cử (tương đương với thi Hương bên
văn) và thi Bác cử (tương đương với thi Hội, thi Đình). Việc cấp bằng cho những
người thi đỗ hai kỳ thi võ cử cũng có sự tương đương với thi văn: Hương cống, Cử
nhân và Tạo sĩ - Tiến sĩ võ, người đỗ cao nhất gọi là Tuấn sĩ - Trạng nguyên võ.
“Ai có bằng Tạo sĩ được ra làm quan võ, làm trấn thủ, được phong tước công, hầu,
bá, tử nam”. Có người xuất thân từ võ sĩ trở thành quan đầu triều. Nội dung thi Sở
cử thời Lê - Trịnh gồm ba kỳ.
Kỳ 1: Hỏi sáu câu về binh pháp Tôn Tử.


Kỳ 2: Thi cưỡi ngựa, múa đâu mâu, bắn cung, lăn khiên, múa kiếm, đấu kích,
chạy bộ.
Kỳ 3: thi một bài văn sách hỏi về phương lược và một bài thơ Đường.
Sau cuộc thi Sở cử sẽ thi Bác cử gồm có ba trường: Trường nhất hỏi về bảy bộ
Binh thư; trường nhì thi đấu về cưỡi ngựa múa đâu mâu, múa siêu đao, lăn khiên

và đấu gươm giáo; trường ba thi một bài văn sách về phương lược thao luyện, đánh
giữ và về trận pháp. Nội dung các môn thi võ cử có sự thay đổi cho phù hợp với
thời cuộc.
Vào thời kỳ nhà Nguyễn, vua Minh Mạng quy định các võ sinh dự thi hương
lấy bằng Võ cử nhân gồm ba kỳ, người nào ba kỳ đầu trúng là cử nhân võ, dự trúng
2 kỳ là tú tài võ. Đối với cử nhân võ thì ngày xướng danh, phúc hạch, hỏi về 3-4
câu ở sách Võ kinh, Tứ tử, ai thông suốt thì được xếp ở hạng đầu bảng. Các cuộc
thi Hương võ thường được triều đình tổ chức tại các trường thi võ ở Huế, Bình
Định, Hà Nội, Thanh Hóa. Trong kỳ thi Hội võ, các võ sinh phải trải qua 3 nội
dung thi, người nào thi trúng cả ba lại kiêm thông chữ thì cho vào thi tại cung điện
nhà vua. Tại đây, võ sinh nào có điểm số cao về binh pháp, văn lý sẽ đỗ tiến sĩ võ.
Những võ sinh không được vào thi tại cung điện nhà vua liệt làm Phó bảng võ. Sau
đó, các võ sinh thi đỗ sẽ được triều đình vinh danh, bổ nhiệm vào các chức quan
võ.
Thi lại viên: Lại viên (còn gọi là lại điển, liêu thuộc) là những người giúp việc
cho các quan, tương đương với địa vị của các công chức hệ thống chính trị của ta
hiện nay. Lại có thể chuyển thành quan nếu có công lao và thành tích làm việc. Kỳ
thi lại viên đầu tiên được tổ chức vào đầu đời Lý. Nếu nhà Lý cho rằng lại viên cần
thông thạo phép viết chữ, làm tính và hiểu biết về hình luật thì nhà Trần lại quan
tâm trước tiên đến việc dạy lại viên biết viết công văn hành chính. Từ đời Lê sơ,
các môn làm toán, viết chữ, thảo công văn đều là môn thi bắt buộc đối với kỳ thi
lại viên. Càng về sau, do yêu cầu tổ chức của nền hành chính, nhu cầu dự thi của


xã hội ngày càng tăng (có kỳ thi tới hàng vạn người) nên các nhà cầm quyền quan
tâm nhiều hơn đối với việc tổ chức thi lại viên.
Việc tuyển chọn quan lại bằng con đường khoa cử có ba ưu điểm lớn:
+ Thứ nhất là tiêu chuẩn xét tuyển thống nhất trong phạm vi cả nước nên bảo
đảm tính công khai, minh bạch, thúc đẩy việc tu dưỡng, phấn đấu của những người
có chí hướng làm quan.

+ Thứ hai là những người tham gia thi cử tương đối bình đẳng về cơ hội (trừ
những người không đủ tiêu chuẩn về lý lịch và tư cách đạo đức), ai cũng có thể dự
thi, không phân biệt thành phần, mức độ giàu nghèo, sang hèn hoặc tuổi tác; nếu
thi đỗ đều có cơ hội bổ nhiệm làm quan.
+ Thứ ba là tạo sự kết hợp giữa học tập, sách vở, thi cử và tham chính; thúc
đẩy xã hội coi trọng giáo dục, văn hóa và tài năng cá nhân. Người làm quan đã qua
học hành, thi cử đều giỏi văn chương, lịch sử, biết cách chăm nom nhân dân, có
trình độ quản lý xã hội cao hơn và tương đối đồng đều.
2.Tiến cử, bảo cử.
Xã hội xưa cũng nhận thức rõ rằng khoa cử dù hết sức cần thiết, cũng không
phải là con đường tiến thân duy nhất của nhân tài xứ sở. Từ rất sớm, tiền nhân đã
biết trọng dụng người tài qua phương thức tiến cử và bảo cử.
Lệ tiến cử và bảo cử thực chất là tương tự như nhau chỉ khác chút ít về hình
thức.
Lệ tiến cử cho phép một vị quan được đề nghị đưa một người có tài đức được giữ một chức quan phù hợp.
Lệ bảo cử cho phép một vị quan được đề nghị đưa một người có tài năng, kinh
nghiệm thực tiễn vào một chức vụ nào đó đang bị khuyết người.
Theo sách Lịch triều hiến chương loại chí của học giả Phan Huy Chú, việc giới
thiệu người làm quan có hai cách: một là, tiến cử thì lấy người tài, đức hơn hẳn mà
không cứ thân phận; hai là, bảo cử thì lấy người danh vọng rạng rệt mà phải theo
tư cách. Hai lối ấy giống nhau mà thể thức hơi khác.
Trong đó, người tiến cử hoặc bảo cử phải là một vị quan đương nhiệm, còn
người được tiến cử hoặc bảo cử thì có thể đang là quan hoặc chưa là quan. Nếu


đang là quan thì thường được giới thiệu vào những vị trí cao hơn hoặc việc quan
trọng đang khuyết người làm còn nếu là dân thường thì phải là người có thực tài,
có đạo đức chói sáng và khi được tiến cử lên, bộ Lại và nhà vua sẽ xem xét tùy tài
mà sử dụng.
Người tiến cử phải lấy tước vị, phẩm hàm của mình để bảo đảm rằng người

được tiến cử là có tài, xứng đáng với chức vị được giao. Nếu bảo cử đúng, giúp
nhà nước phát hiện và sử dụng được quan lại hiền tài thì người làm bảo cử được
khen thưởng, song nếu người được họ đề đạt cất nhắc làm việc kém năng lực hoặc
mắc sai lầm lớn thì người đứng ra bảo cử cũng bị trừng phạt. Điều này được quy
định rõ trong Quốc triều hình luật (Điều 174): “Những người làm nhiệm vụ cử
người mà không cử được người giỏi thì bị biếm hoặc bị phạt theo luật nặng nhẹ;
nếu vì tình riêng hoặc vì ăn tiền mà tiến cử thì xử nặng thêm hai bậc”.
Sử gia Phan Huy Chú viết: “Lệ bảo cử từ thời Hông Đức. Bấy giờ việc ấy làm
thận trọng, cho nên không ai dám bảo cử thiên tư, các chức đều xứng đáng, rút
cục thu được hiệu quả là chọn được người hiền tài”.
Thực ra khi vừa phục hồi nền độc lập cho đất nước, năm 1429, vua Lê Thái Tổ
đã xuống chiếu định rằng các đại thần từ tam phẩm trở lên có bổn phận tiến cử
người hiền tài “hoặc ở trong triều, hoặc ở thôn quê, hoặc đã làm quan, hoặc chưa
làm quan…Nếu cử được người có tài bực trung thì thăng tước hai bậc, nếu cử
được người tài đức đều giỏi, hơn hết mọi người, thì tất được thưởng hậu…” (Đại
Việt sử ký toàn thư). Từ thời Hồng Đức đến thời Lê Trung Hưng, việc bảo cử được
hoàn thiện thêm.
Dưới thời vua Lê Thánh Tông, chủ trương này trở thành chế độ của nhà nước,
bên cạnh chế độ khoa cử đã rất phát triển và hoàn thiện. Chiếu chỉ năm 1463 của
vua Lê Thánh Tông viết: “Ta lưu tâm việc trị nước, dốc y việc cầu tài, thường nghĩ
những người tài làm được việc còn bị khuất ở hàng dưới, chìm lấp ở thôn quê, nên
tìm hỏi người giỏi, mơ tưởng không quên”. Năm 1467, vua Lê Thánh Tông ra sắc


chỉ “các nha môn chọn các lại viên xuất thân nho học để bổ các chức, đều cho quan
phụ trách công bằng xem xét mà tiến cử” và “sai triều thần tiến cử chức quan
huyện cương trực biết trị kẻ gian tà, mỗi người cử một viên”. Nhà vua quy định rõ
ràng: “Lục bộ, Lục khoa và Ngự sử đài mà tiến cử bậy thì chịu tội giáng hay bãi
chức. Nếu tiến cử được người giỏi thì nhất định sẽ được trọng thưởng”.
Sách Đại Việt sử ký toàn thư ghi lại vào năm Cảnh Thống thứ nhất (1498) vua

Lê Hiến Tông có dụ: “Tiến cử người hiền tài, loại bỏ kẻ bất hiếu, đó là việc lớn
của chính trị. Cho nên, dùng người tài không lưỡng lự, bỏ kẻ gian không chần
chừ… Kể từ nay, các nha môn trong ngoài, nếu có ai liêm khiết, có tài, trung thực
đáng khen thưởng cất nhắc, cùng những kẻ tham lận bỉ ổi, không làm nổi việc, đều
phải xét rõ sự thực, kê tên tâu lên. Ai dám a dua theo nhau, hay vì thù riêng, trao
đổi đút lót, mà xếp đặt không đúng thì sẽ bị trị tội nặng không tha”.
Năm 1671, đời vua Lê Huyền Tông, nhà vua định việc tiến cử rõ ràng hơn: các
quan nhị phẩm có thể tiến cử bốn người, quan từ lục phẩm đến bát phẩm được tiến
cử hai người, tên được kê khai giao cho bộ Lại xét tuyển.
Sang thời triều Nguyễn không có sự phân biệt rạch ròi giữa hai chế độ trên mà
gọi chung là đề cử hoặc tiến cử. Việc tiến cử người tài tiếp tục được khuyến khích,
tưởng thưởng, đặc biệt dưới triều Minh Mạng và Tự Đức, song phép vua sẵn sàng
trị tội nếu như quan lại làm sai, cử người thiếu tài, thiếu đức vào bộ máy công
quyền. Minh Mạng đã ban hành những quy định cụ thể về tiến cử như: các Thượng
thư (2a) được tiến cử người giữ chức Bố chánh (3a); Tham tri lục bộ và Phó Đô
ngự sử (cùng 2b) được tiến cử người giữ chức Án sát (4a); Thị lang lục bộ (3a) và
ấn quan tam phẩm được tiến cử người giữ chức Tri phủ (5b), đồng Tri phủ (6a)…
Nhiều quan lại thuộc diện có quyền tiến cử nhưng ngần ngại, không dám hành sử,
sợ tiến cử nhầm người bất tài, vô hạnh sẽ bị trừng phạt. Điều này cũng đã từng xảy
ra: năm 1836, khi phủ Hoài Đức khuyết chức Tri phủ, Tham tri bộ Hộ là Vũ Đức
Khuê tiến cử người quen biết là Tri huyện Tô Ngọc Huyền vào chức này. Khoa


Đạo thấy Ngọc Huyền không phải là người trong sạch, cẩn trọng mà Đức Huyền
cũng cố tiến cử, bèn tấu vua. Vua Minh Mạng ban chỉ sai Đức Khuê tâu rõ lại, sau
thấy tờ tấu có nhiều chỗ chống chế gượng gạo, không nhận lỗi, liền giao cho bộ
Hình bàn xử. Cuối cùng Đức Khuê đang từ hàm tòng nhị phẩm (2b), bị giáng 3 cấp
xuống làm Lang trung, hàm chánh tứ phẩm (4b). Hay như việc Nguyễn Công Trứ
cùng Hiệp trấn Nam Định Nguyễn Nhược Sơn có tiến cử một người là Phi Quý
Trại ở Nam Định làm Huyện thừa huyện Tiền Hải. Về sau, Tả thị lang bộ Hộ là

Hoàng Quýnh từng làm việc ở Nam Định, biết Trại không có tài năng gì, chỉ lo lợi
riêng mà cầu cạnh, bèn dâng sớ hặc. Trong sớ tấu vua, sau khi nêu rõ chứng cứ,
Hoàng Quýnh viết: “…hoàng thượng cũng chưa từng lấy tình thân ái mà cho riêng
ai. Hai gã kia (chỉ Nguyễn Công Trứ và Nguyễn Nhược Sơn) nghĩ thế nào mà dám
lấy quan tước của triều đình làm cái quà của mình để thù đáp riêng. Xin trị tội để
ngăn chặn con đường cầu cạnh, mà răn những kẻ bề tôi dối vua làm riêng”. Nhà
vua lệnh cho Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Nhược Sơn tấu trình rồi giao cho đình
thần nghị xử. Cuối cùng, Công Trứ từ chức Tham Tri (2b) bị giáng xuống Tri
huyện Kinh huyện (6a); Nguyễn Nhược Sơn từ Hiệp trấn (3a) bị giáng xuống Tri
huyện Tiền hải (lục phẩm), riêng Quý Trại bị phạt 100 trượng, cho về dân (Đại
Nam thực lục chính biên – NXB Khoa học – Hà Nội 1964, trang 200).
Hình thức ít được áp dụng hơn là tự tiến cử. Người nào muốn ra làm việc, thấy
mình đủ khả năng có thể tự tiến cử bằng cách tạo dịp ra mắt vua quan, để chứng tỏ
cái khả năng, sở trường của mình để được trọng dụng. Hình thức này thường xuất
hiện trong tình trạng đất nước có chiến tranh hoặc xã hội có những biến động lớn
về chính trị - xã hội. Các nhân vật tự tiến cử thường là những nhân tài ẩn cư trong
dân gian.
Như giai thoại về Đào Duy Từ. Muốn được trọng dụng, Đào Duy Từ đã phải đi
chăn trâu cho một nhà phú hộ, rồi làm bài “Ngọa Long Cương” tự ví mình với Gia


Cát Lượng. Như vậy quan Khám Lý Trần Đức Hòa mới biết tài, tiến cử ông với
chúa Nguyễn Phúc Nguyên vào năm Đinh Mão (1627) và Đào Duy Từ đã được
trọng dụng, trở thành một trong những đệ nhất công thần của họ Nguyễn.
Nhìn chung, chế độ tiến cử trong lịch sử phong kiến dân tộc đã giúp các triều
đại bổ sung một lượng không nhiều quan lại, nhưng thực tế cho thấy, các quan lại
được bổ dụng thông qua chế độ này (cả được tiến cử và tự tiến cử) thường có tài
năng xuất chúng và có cống hiến lớn lao cho các triều đại mà họ phục vụ và lịch sử
dân tộc, tiêu biểu như:
Phạm Ngũ Lão (1255 – 1320) được Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn tiến cử

lên vua Trần Thánh Tông, được giữ chức Quản quân túc vệ, rồi thăng đến chức
Điện súy Thượng tướng quân.
Năm 1297 Trần Hưng Đạo tiến cử môn khách của mình là Trần Thì Kiến (1260
– 1330) làm Đại An phủ kinh sư.
Bùi Dương Lịch (1757 – 1828) nhờ được Nguyễn Huy Tự tiến cử, được Quang
Trung thu dụng, sau đó đến thời vua Gia Long ông được triệu ra làm Đốc học
Nghệ An rồi dạy học ở Quốc Tử Giám.
Có thể rút ra một số nhận xét về chế độ tiến cử và bảo cử trong lịch sử dân tộc
như sau:
Về ưu điểm:
Thứ nhất, chế độ tiến cử là sự bổ sung hữu ích cho chính sách tuyển dụng nhân
tài dưới chế độ phong kiến, đặt biệt là vào những thời điểm khó khăn của các triều
đại và lịch sử dân tộc.


Thứ hai, chế độ bảo cử, tiến cử đã tỏ rõ được thiện ý của Triều đình trong việc
tìm kiếm rộng rãi những người hiền tài tham gia vào bộ máy quản lý nhà nước.
Thứ ba chế độ tiến cử quan lại đã nuôi dưỡng trong dân chúng một niềm tin
người hiền tài thật sự trong xã hội sẽ không bị bỏ sót. Chế độ này giúp một người
có tài nhưng vì nhiều nguyên nhân mà chưa có điều kiện đi thi (hoặc thi không
đỗ) được giữ một chức quan nào đó phù hợp với tài năng của mình.
Tuy nhiên, trong một xã hội ngày càng phân biệt tôn ti đẳng cấp, nhất là khi
giới quan lại câu nệ vào các tiêu chí công thần và đại khoa thì việc thực hiện lệ bảo
cử tất phải bị nhiều hạn chế và thường thì chỉ bảo cử được những chức quan thấp.
Hơn nữa hình thức tiến cử và bảo cử chỉ thực sự phát huy ưu điểm trong thời kì đất
nước thịnh trị, có vua sáng, tôi hiền. Nếu dưới thời kì đất nước rối ren, gian thần
lộng hành thì nó sẽ biến tướng, trở thành một công cụ để lôi kéo bè hoặc nhằm
tranh giành quyền lực trong triều đình.
3. Nhiệm tử (thế tập, tập ấm).
Là phương thức tuyển dụng con cháu của quý tộc công thần và quan chức dựa

trên ân trạch của ông cha. Đây là phương thức tuyển dụng quan chức chủ yếu thời
Lý – Trần. Tuy nhiên thủ tục và đổi tượng tuyển dụng không được ghi chép rõ ràng
trong chính sử. Theo ghi chép của “Đại Việt sử kí toàn thư”, đối tượng được hưởng
lệ nhiệm tử khá rộng bao gồm con cháu những người đã được nhà nước phong
quan tước. Thông qua lệ nhiệm tử, các chức vụ trong chính quyền trung ương và
địa phương được trao cho người trong hoàng tộc. Lệ nhiệm tử thời Hậu Lê và thời
Nguyễn được quy định chặt chẽ về đối tượng, thể lệ và phạm vi tuyển dụng và
được gọi là lệ Ấm sung. (Triều Nguyễn cũng có lệ tập ấm, phàm quan chính nhất
phẩm thì còn được tập ấm theo hàng tùng lục, gọi là ấm thọ, đó là bậc cao nhất;
còn bậc thấp nhất thì các quan tùng ngũ được một người con tập ấm gọi là ấm
sung.)
Tùy từng giai đoạn và từng triều đại, đối tượng được hưởng lệ Ấm sung rộng
hẹp khác nhau.


Thời Ly: dùng con cháu các quan lại được tập ấm cũng là một phương thức lựa
chọn để lấy làm quan. Chế độ nhiệm tử có từ thời Đinh và Tiền Lê trước đó, đến
nhà Lý vẫn còn tiếp tục. Nhưng việc sử dụng con cái các quan vào làm quan như
thế nào cũng k thấy sửu cũ ghi chép cụ thể. Về việc này, Phan Huy Chú cũng nói
trong sách Lịch triều hiến chương loại chí rằng: “từ đời Trần về trở về trước, cấp
bậc phong ấm không thể kê cứu… việc phong ấm cho các quan văn võ cũng không
thể kê cứu được” 1.Như vậy ta chỉ có thể biết rằng vào thời Lý trong cách bổ dụng
quan lại vẫn còn có con đường nhiệm tử- tập ấm cho con cháu quan lại, nhưng cụ
thể ra sao thì chưa rõ.
Thời Lê: đối tượng được hưởng Ấm sung bao gồm: Các con và cháu trưởng các
tước công, hầu, bá; con trai của các quan nhất, nhị phẩm và con trưởng các quan từ
tam phẩm tới bát phẩm. Thời Nguyễn đối tượng được hưởng ấm phong đã được
thu hẹp đáng kể về phạm vi, chỉ còn con của các quan có hàm từ tứ phẩm trở lên.
Để được tuyển dụng vào các chức vụ nhà nước với phẩm hàm không cao (từ ngũ
phẩm trở xuống), các đối tượng được hưởng lệ Ấm sung thời kì này buộc phải

sung vào ngạch Nho sinh để học tập, cứ 3 năm nhà nước sẽ tổ chức khảo hạch một
lần. Chức vụ và phẩm hàm của đôi tượng được ấm sung lệ thuộc vào kêt quả thi
khảo hạch và dựa trên tước phẩm của ông cha.
Thời Nguyễn: từ thời Gia Long đến Tự Đức, đều áp dụng chế độ này, vì con
cháu quan viên tuy chưa phục vụ, nhưng cha , ông họ đã có công với nước nên
được tùy theo tài năng bổ dụng. Người nào đã được tập ấm cho theo phẩm trật mà
chi lương, quan viên tử hằng tháng cấp 1 quan tiền, 1 phương gạo 2. Năm 1817,
Gia Long đã lệ định: con cháu các công thần được tập ấm, phấm cấp chia ra 7 bậc,
chỉ cho con trưởng, cháu trưởng về hàng đích của các công thần được 1 người tập
ấm, nếu không có con , cháu trưởng về hàng đích , cho theo luật ấy về hàng thứ tập
1 Phan huy chú, quan chức chí tập 2 trang 65.
2 Thực lực, tập 2 trang 135


ấm. Năm 1819, Gia Long lại quy định rõ hơn về chế độ tập ấm: các quan văn, võ
từ Nhật, Nhị, Tam phẩm có bao nhiêu người con đẻ đều cho làm quan viên tử cả,
không phải đi lính, làm công việc quan, (không phải nộp) thuế thân, thuế hộ, tiền
đầu quan, tiền cướp phí,. Quan viên Tứ phẩm có bao nhiêu người con đẻ đều cho
làm quan viên tử, được tha không phải đi lính, làm công việc quan, nhưng không
phải nộp tiền thuế thân, thuế hộ, tiền đầu quan, tiền cướp phí theo như lệ tráng
hạng. Chánh, tòng Ngũ phẩm và chánh lục phẩm, chỉ được một người con đẻ làm
quan viên tử, việc tập ấm theo như con quan Tứ phẩm 3…
Năm 1840 Minh mệnh lại ra nghị chuẩn: cho con quan chánh tòng Nhất phẩm
bổ thụ hàm chánh lục phẩm, con quan chánh nhị phẩm bổ thụ hàm chánh thất
phẩm, con quan Tòng Nhị phẩm bổ thụ hàm chánh Bát phẩm, con quan tam phẩm
bổ thụ hàm chánh cửu phẩm… căn cứ theo chức hàm tặng mà nghị bổ. 4 Năm
1856, Tự Đức lại cho định rõ lại luật lệ con cháu các quan văn, võ được ấm thụ,
các quan văn võ người họ Tôn thất hàm chánh tứ phẩm trở lên, cùng là những quan
văn không phải là họ Tôn thất, hàm từ Tam phẩm trở lên và quan võ trật bậc 5, bậc
6 cùng các công thần có tước Nam đều cho theo lệ là được 1 con khai ấm.

Tích cực: thể hiện sự ưu đãi của Triều đình đối với con cháu các quan đại thần
có công. Điều này làm cho họ tận tụy trong công việc và trung thành hơn với nhà
vua. Ngoài ra là sử dụng được một số người có năng lực, buộc họ phải cố gắng cho
xứng đáng với uy danh của cha ông.
Song mặt hạn chế nổi trội hơn là hầu hết số người này không qua thi cử, chưa
hẳn có tài, một số thường cậy mình là “ con ông cháu cha”, không muốn cố gắng
trên đường quan trường, thậm chí làm liều, làm càn. Chế độ này không thể đảm
bảo chất lượng của đội ngũ quan chức trong tình hình mới và đặc biệt với chế độ “
con quan thì lại làm quan” vô hình trung đã mang đến cho tầng lớp quý tộc quan
3 Hội điển, tập VI ( quyển 182, phần luật lại- nói về quan chức, chế độ), tr 125.
4 Hội điển tập 2 , tr 217.218..


liêu thêm nhiều đặc quyền đặc lợi trong khi nhu cầu về đội ngũ quan chức có trình
độ và năng lực ra giúp nước thì lại bị hạn chế .
Như vậy : CHẾ ĐỘ NÀY CHỈ ĐƯỢC CHÚ TRỌNG KHI GIÁO DỤC THI
CỬ CHƯA PHỔ BIẾN ( HOẶC ĐÃ PHỔ BIẾN NHƯNG CHẤT LƯỢNG GIÁO
DỤC BỊ SUY THOÁI, HỆ THỐNG QUAN LẠI SA ĐỌA) VÀ DÒNG HỌ CẦM
QUYỀN MUỐN CỦNG CỐ MỐI QUAN HỆ THÂN TỘC ĐỂ DUY TRÌ QUYỀN
LỰC CỦA MÌNH. Phan Huy Chú nhận xét : “ phép nhiệm tử thì thực chẳng ra
làm sao, chỉ lấy tư cách con quan mà được hơn tư cách người thường, những công
tử sang trọng chơi bời thường không có thực tài mà được lạm tuyển, thì phép chọn
tài bổ quan không khỏi bị hỏng vì thiên hư, đó là phép tuyển bổ không được tốt
lắm”.
4. Mua bán quan tước
Ngoài các phương thức trên, nhà nước phong kiến Việt Nam vào một số thời
điểm còn tổ chức mua bán quan tước, tuy nhiên quan chức do mua bán thường chỉ
được phong phẩm hàm mà không được trao chức vụ:
Thời Ly: Lịch triều hiến chương loại chí ghi rằng: “ người quyên nộp tiền , bắt
đầu bổ làm lại, nộp lần thứ hai được bổ làm thừa tín lang , làm việc xứng chức thì

bổ Tri châu” ( tr 69). Như vậy, Tri châu là chức quan đứng đầu cấp châu ở thời Lý
cũng có thể bổ dụng qua phương thức nộp tiền. Nhưng hình thức này chắc chắn
không thể đem lại hiệu quả như mong muốn.
Thời Lê – Trịnh: Vì do thiếu hụt ngân sách trong chiến tranhh nên ở thời kì này
có tình trạng mở rộng việc mua bán quan tước. Năm 1721, Trịnh Cương có lệnh
cho quân dân trong cả nước ai dâng thóc thì cho quan tước 5. Năm 1740, Trịnh
Doanh lại có lệnh cho quan quân trong nước ngoài người tình nguyện dâng tiền
thóc thì cho làm tờ khải nộp ở Chính đường rồi chiếu số thóc ban cho tước phẩm
5 Lịch triều hiến chương loại chí tập II, trang 94


theo thứ bậc khác nhau. Đối với quan lại văn- võ từ lục tự phẩm trở xuống, quan
thị nội giám tử tù Ngũ phẩm trở xuống, ai dâng 500 quan thì cho thăng chức 1 bậc.
Ai chưa có chức thì dâng lệ, dâng 2.500 quan cho chức Tri phủ ở nha rất nhiều
việc, 1.500 quan thì cho chức Tri phủ ở nha nhiều việc, 1.200 quan thì cho chức Tri
huyện ở nha rất nhiều việc, 1.000 quan cho chức tri huyện ở nha nhiều việc, 750
quan thì cho chức Tri huyện , Tri châu ở nha nhiều việc vừa, 500 quan thì cho chức
Tri huyện , Tri châu ở nha ít việc, 350 quan thì cho hàm Tri huyện, Tri châu không
có thực nhiệm và 250 quan thì cho hàm bát, cửu phẩm6. Năm 1742 nhà nước LêTrịnh lại quy định những viên quan đã có chức phẩm mà cung tiến tiền thì cũng
được thăng bổ theo thứ tự khác nhau. Ví dụ ở các chức Điền bạ, Huấn đạo, Tri bạ,
Sở sứ, Phó sở sứ, Tri sự nếu dâng 250 quan thì được thăng các chức Tri huyện, Tri
châu, dâng 400 qua thì được thăng các chức Tri phủ, Tri huyện …
Thực trạng trên đây chứng tỏ phương thức truyện dụng quan lại trong bộ máy
chính quyền nhà nước thời Lê- Trịnh có nhiều mặt hạn chế. Quan lại không những
ngày càng bị yếu kém, ít năng lực thiếu trách nhiệm mà tính sâu mọt, đục khoét lại
càng ngày tăng.

.

6 Lịch triều hiến chương loại chí tập 2 tr 94.




×