Tải bản đầy đủ (.ppt) (25 trang)

Pho co Hoi An

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (272.23 KB, 25 trang )


ĐÔ THỊ CỔ HỘI AN
Hội An cách thành phố Đà Nẵng hoảng 25 về phía Km
về phía đông-nam, nằm trên bờ bắc Sài Giang
(còn Giang (còn gọi là sông Chợ Củi-vùng hạ lưu sông
Thu Bồn), nơi nhiều con sông lớn của Quảng Nam hội tụ
và đổ ra biển Đông ở Cửa Đại. Vùng đất này có nhiều
bến sông, là nơi thuận tiện vận chuyển và tập trung các
loại sản vật của đất Quảng để trao đổi, buôn bán với các
nơi khác bằng đường thuỷ. Theo các nhà khảo cổ học,
cách nay khoảng 2000 năm đã có một cảng thị sơ khai
ở vùng đất Hội An, nhiều di vật được tìm thấy trong các
mộ chum và khu cư trú cổ của người Sa Huỳnh, cho
thấy dân cư ở đây đã có quan hệ mua bán trao đổi với
các nơi khác trong vùng Đông Nam Á từ lâu đời.
Dần dần cảng thị này phát triển thành Đại Chiêm Hải
Khẩu dưới thời vương quốc Champa, kết quả khảo sát,
khai quật khảo cổ học cho thấy dấu vết các bến thuyền
của Chiêm cảng xưa còn để lại ở hai bên bờ hạ lưu sông
Thu Bồn. - Năm 1570, Nguyễn Hoàng vào trấn thủ
Quảng Nam, đã tích cực khai phá vùng đất Đàng Trong,
xây dựng làng xóm, phát triển nông - thương nghiệp.
Năm 1613, chúa Nguyễn Phúc Nguyên cải cách xã hội,
tăng cường việc mua bán với các nước, chuẩn bị lực
lượng để đối phó với chúa Trịnh ở Đàng Ngoài.
Trong các thế kỷ XVI-XVII là thời kỳ ở vùng Đông Nam Á
có nhiều chuyển biến quan trọng, chính sách ngoại
thương của Trung Hoa và Nhật Bản đã ảnh hưởng
không ít đến sự phát triển của vùng này, Hội An cũng
chịu tác động mạnh mẽ bởi những yếu tố bên ngoài đó.
- Nếu căn cứ vào những đồng tiền Ngũ Thù, Vương mãn


và một số di vật khác mang yếu tố Trung Hoa được tìm
thấy trong các mộ chum ở Hậu Xá và An Bang (1), thì có
lẽ người Hoa đã có quan hệ mua bán với những cư dân
Sa Huỳnh ở Hội An cách nay khoảng 2.000 năm. Thời kỳ
vùng đất này còn thuộc vương quốc Champa, Đại Chiêm
Hải Khẩu đã đón tiếp các thương thuyền Trung Hoa vào
buôn bán, trao đổi các sản vật, họ thường mua tơ lụa,
trầm hương, quế, tiêu..., hoặc lấy thêm lương thực, nước
ngọt để đi tiếp đến các nước khác ở Nam Á. Thế nhưng
vào giai đoạn trước thế kỷ XVII, người Hoa chỉ dừng chân
mua bán chứ không lưu trú, lập nhà phố ở Hội An.
- Năm 1649, ở Trung Quốc nhà Thanh diệt nhà Minh, lập
ra triều Mãn Thanh, đã dẫn đến sự di cư ồ ạt của người
Hoa xuống vùng Đông Nam Á, nhiều người đã định cư ở
Hội An.
- Vào khoảng cuối thế kỷ XVI - đầu thế kỷ XVII, thương
truyền Nhật Bản đã đến buôn bán với Đàng Trong, nhiều
thương gia Nhật mở thương quán ở Hội An để buôn bán
giao dịch, một số người còn lấy vợ Việt, tuy nhiên thời
gian cư trú của người Nhật ở Hội An chỉ kéo dài đến nửa
cuối thế kỷ XVII, hầu hết phải trở về Nhật Bản vì chính
sách đóng cửa của Nhật Hoàng thời bấy giờ.
Thương thuyền của các nước Bồ Đào Nha, Hà Lan, Anh,
Pháp... cũng cập bến buôn bán ở Hội An.
- Nhờ vị trí thuận tiện trên đường hàng hải, sự phát triển
của kinh tế hàng hóa, chính sách mở cửa của các chúa
Nguyễn, sự có mặt của các thương nhân ngoại quốc,
nhất là những thương gia Nhật Bản và Trung Hoa định cư
ở đây, khiến Hội An trở thành một đô thị - thương cảng
quan trọng nhất của xứ Đàng Trong.

Đến đầu thế kỷ XIX, Hội An vẫn còn là nơi buôn bán tấp
nập, sách Quốc Triều chánh biên của Quốc sử quán triều
Nguyễn ghi: "...Cửa Đại Chiêm thuyền bè xum họp, chợ
phố Hội An hàng hóa nhóm đầy, thực là nơi đô hội
lớn..."(1).
Cuối thế kỷ XIX, sông Thu Bồn đổi dòng ở vùng cửa
sông, Cửa Đại bị phù sa bồi lấp, làm cho thuyền bè đi lại
khó khăn, trong khi đó Đà Nẵng trở thành nhượng địa
của Pháp, thương thuyền nước ngoài chỉ vào cửa Hàn,
từ đó công việc buôn bán ở Hội An dần dần sa sút.
- Hơn 3 thế kỷ tụ cư ở Hội An, dấu ấn của văn minh
Trung Hoa để lại ở đây khá rõ nét, về tín ngưỡng, có tục
lệ thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu, Quang Thánh Đế Quân,
Thập Nhị Tiên Nương, Thái Thượng Lão Quân, Thần
Phục Ba...
nhiều công trình kiến trúc được làm theo phong cách
Trung Hoa, thậm chí có những bộ phận kiến trúc được
chở từ Trung Quốc sang, các đề tài trang trí điêu khắc
như Thập Bát La Hán, Bát Tiên, cuốn thư, bát bửu, mặt
hổ phù, dơi, chữ thọ...
Sự hiện diện của người Nhật Bản ở Hội An thật rõ ràng,
nhưng cho đến nay, chưa thể xác định vị trí cũng như
quy mô của "phố Nhật", bởi lẽ, ngoài những mộ người
Nhật nằm ở vùng ven thị xã, và Chùa Cầu, còn gọi là
cầu Nhật Bản, những kiến trúc mang phong cách Nhật
Bản quá mờ nhạt. Tuy nhiên, một số nhà nghiên cứu
cho rằng khu phố Nhật xưa kia nằm trên đường Trần
Phú (2). Theo Chihara Daigoro thì những ngôi nhà Nhật
Bản ở Hội An vẽ trong "Giao Chỉ quốc mậu dịch độ hải
đồ" cùng một dạng với kiến trúc cùng thời tại Nagasaki

(1).
Nếu so sánh với một số đô thị và thương cảng cổ của
Việt Nam, thì Hội An không phải là cổ xưa nhất, về quy
mô cũng không phải là lớn nhất, thời gian thịnh đạt của
nó chỉ khoảng hơn 2 thế kỷ, nhưng trong quá trình giao
lưu và hội nhập văn hóa, Hội An đã hình thành một sắc
thái riêng: vừa có những nét chung của một đô thị -
thương cảng cổ Việt Nam, vừa có những nét riêng biệt
độc đáo, thể hiện qua phong tục tập quán, kiến trúc điêu
khắc. Đặc biệt là dù trải qua bao biến đổi của lịch sử, sự
tàn phá của thiên nhiên và chiến tranh, vẫn không làm
mất đi dáng vẻ của một đô thị - thương cảng cổ, vẫn còn
đó những bến tàu, đình, chùa, hội quán, nhà ở...hợp
thành một quần thể kiến trúc cổ tương đối nguyên vẹn ở
Hội An.
+ Nhà ở: Trong các loại hình kiến trúc tại Hội An, trước
hết phải nói đến nhà ở, là những đơn vị cơ bản để hình
thành một đô thị. Có 2 dạng nhà phổ biến là "Nhà Phố"
và "Nhà Rường".
- Nhà Phố: Nằm san sát nhau thành từng dãy dài, chiều
ngang mỗi ngôi nhà chỉ 5-6m, nhưng chiều sâu có thể
lên đến 30-40m, phần lớn những ngôi nhà này phân bố
ở các trục đường Trần Phú, Nguyễn Thái học, Bạch
Đằng, Nguyễn Thị Minh Khai,...hình thành nên khu phố
cổ.
Mặt bằng Nhà phố được chia thành 2 phần: phía trước
dùng làm nơi buôn bán, giao dịch, phía sau là nơi ở và
kho chứa hàng, sân sau có cổng thông ra ngoài . Kết
cấu nhà khung gỗ, có từ 2 đến 4 gian, bộ vì kèo thông
thường theo kiểu "chồng rường giả thủ"

và "cột trốn kẽ chuyền", mái lợp ngói âm dương, tường
được xây bằng gạch nhưng ở 2 bên tường vẫn có vách
gỗ. Nhà xây cao nhất là 2 tầng hoặc một tầng có gác
lửng, cửa ra vào các ngôi nhà cổ ở Hội An đều có gắn bộ
phận "Mắt cửa", đó là phần chốt gỗ được chạm trổ những
hình Bát quái; hoa 8 cánh có nhụy là vòng tròn lưỡng
nghi..."Mắt cửa" là một nét độc đáo của nghệ thuật Hội
An.
- Nhà rường: phân bố rải rác ở các vùng lân cận khu phố
cổ (ở các xã Cẩm Châu, Cẩm Nam, Cẩm Hà...), về mặt
bằng, kết cấu bộ khung gỗ giống như các ngôi nhà cổ
truyền khác của Việt Nam. Nhà 3 gian 2 chái hoặc 1 gian
2 chái, phía trước là sân rộng, xung quanh có vườn cây.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×