Tải bản đầy đủ (.pdf) (105 trang)

Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Trí (LV thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (941.3 KB, 105 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

ĐÀO THỊ LAN ANH

ĐẶC ĐIỂM TRUYỆN NGẮN NGUYỄN TRÍ

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ
VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

THÁI NGUYÊN – 2017


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

ĐÀO THỊ LAN ANH

ĐẶC ĐIỂM TRUYỆN NGẮN NGUYỄN TRÍ
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60.22.01.21

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ
VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS NGUYỄN ĐỨC HẠNH

THÁI NGUYÊN - 2017



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là đề tài nghiên cứu do tôi thực hiện dưới sự
hướng dẫn của PGS.TS Nguyễn Đức Hạnh.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính khoa học cũng như về nội dung trích
dẫn tài liệu của luận văn này. Kết quả nghiên cứu không trùng với bất cứ
tác giả nào đã được công bố.
Thái Nguyên, tháng 6 năm 2017
Học viên

Đào Thị Lan Anh


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS Nguyễn Đức Hạnh –
người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện luận văn.
Tôi xin cảm ơn các thầy cô giáo trong Ban giám hiệu, khoa Văn – Xã
hội và phòng Đào tạo, trường Đại học Khoa học – Đại học Thái Nguyên đã
tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong thời gian học tập và nghiên cứu.
Tôi xin cảm ơn nhà trường – nơi tôi công tác, gia đình, bạn bè, đồng
nghiệp, đã động viện giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và thực hiện công
trình nghiên cứu này.

Thái Nguyên, tháng 6 năm 2017
Học viên

Đào Thị Lan Anh


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

STT

Tên từ

Kí hiệu

1

Nhà xuất bản

NXB

2

Nhà xuất bản Giáo dục

NXBGD

3

Thành phố Hồ Chí Minh

TP.HCM

4

Văn học nghệ thuật

VHNT


5

Thạc sĩ

Th.s


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1
2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu ....................................................................... 2
3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu ................................................................ 7
3.1. Đối tượng nghiên cứu................................................................................. 7
3.2. Mục tiêu nghiên cứu ................................................................................... 7
4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu ......................................................... 7
4.1. Nhiệm vụ nghiên cứu: ................................................................................ 7
4.2. Phương pháp nghiên cứu: .......................................................................... 8
5. Phạm vi nghiên cứu ....................................................................................... 8
6. Cấu trúc của luận văn .................................................................................... 8
7. Đóng góp của luận văn…………………………………………………… .8
NỘI DUNG..................................................................................................... 10
Chương 1: TRUYỆN NGẮN NGUYỄN TRÍ TRONG BỘ PHẬN
TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI................................................ 10
1.1. Khái quát về truyện ngắn Việt Nam đương đại ....................................... 10
1.1.1. Diện mạo ............................................................................................... 10
1.1.2. Đội ngũ tác giả, tác phẩm...................................................................... 13
1.1.3. Thành tựu và hạn chế ............................................................................ 16
1.2. Vị trí, đóng góp của truyện ngắn Nguyễn Trí trong truyện ngắn
Việt Nam đương đại ........................................................................................ 19
1.2.1. Tiểu sử của nhà văn............................................................................... 19

1.2.2. Quan điểm sáng tác ............................................................................... 20
1.2.3. Vị trí, đóng góp của truyện ngắn Nguyễn Trí ....................................... 22
Chương 2: MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM NỔI BẬT TRONG NỘI DUNG
TRUYỆN NGẮN NGUYỄN TRÍ................................................................ 25
2.1. Đề tài và chủ đề "gai góc" ít được đề cập trong văn xuôi Việt Nam
đương đại ........................................................................................................... 25


2.2. Cảm hứng nghệ thuật trong hai tập truyện ngắn “Bãi Vàng, Đá
Quý, Trầm Hương” và “Ảo và Sợ” của Nguyễn Trí....................................... 32
2.2.1. Cảm hứng phơi bày tận cùng hiện thực với những “mảng tối”
trong hai tập truyện ngắn................................................................................. 33
2.2.2. Cảm hứng ngậm ngùi thương cảm cho những số phận bi thảm
của con người. ................................................................................................... 38
2.2.3. Cảm hứng giễu nhại và xót xa trong hai tập truyện ngắn ..................... 42
2.3. Quan niệm nghệ thuật của nhà văn .......................................................... 47
Chương 3: MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT NỔI BẬT
TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN TRÍ. .............................................. 52
3.1. Nhân vật truyện ngắn Nguyễn Trí........................................................... 52
3.2 Nghệ thuật miêu tả nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Trí .................... 61
3.2.1 Miêu tả nhân vật với hoàn cảnh xuất thân đặc biệt ................................ 61
3.2.2 Miêu tả nhân vật qua ngoại hình ............................................................ 64
3.2.3. Miêu tả nhân vật qua hành động ........................................................... 68
3.2.4. Miêu tả nhân vật qua khắc họa đời sống nội tâm.................................. 71
3.2.5. Đặt nhân vật vào những không gian đặc biệt có tính thử thách ............ 74
3.3. Ngôn ngữ nghệ thuật trong truyện ngắn Nguyễn Trí ............................... 76
3.3.1. Miêu tả nhân vật bằng ngôn ngữ có tính cá thể hóa cao độ .................. 76
3.3.2 Tính đa thanh trong ngôn ngữ trần thuật................................................ 83
KẾT LUẬN .................................................................................................... 89
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 92



1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Từ đầu thế kỉ XXI đến nay, truyện ngắn Việt Nam đương đại có sự
phát triển mạnh mẽ về số lượng, đa dạng về bút pháp nghệ thuật, có những
đóng góp to lớn vào thành tựu chung của nền văn xuôi đương đại. Trong
những cây bút truyện ngắn gần đây xuất hiện nhà văn Nguyễn Trí với những
tác phẩm đặc sắc, sù sì, thô nhám như chính cuộc sống đời thường quanh ta,
đặc biệt xoáy sâu vào những góc khuất, “khoảng tối” của đời sống xã hội, đã
thu hút được sự quan tâm của bạn đọc nói chung, của giới nghiên cứu phê
bình văn học nói riêng. Nhưng theo tìm hiểu của chúng tôi đến thời điểm này,
chưa có công trình nghiên cứu toàn diện hệ thống và sâu sắc về truyện ngắn
của Nguyễn Trí.
1.2. Trong các tác phẩm truyện ngắn xuất hiện gần đây tạo tiếng vang
trên văn đàn và trong lòng bạn đọc, có những khuynh hướng sáng tác khác
nhau: Đó là truyện ngắn Nguyễn Bình Phương viết bằng cảm quan hậu hiện
đại, đậm chất tượng trưng và huyền ảo; truyện ngắn của Tạ Duy Anh gân
guốc, dữ dội và đã chạm đến cái siêu thực; Và truyện ngắn của Nguyễn Huy
Thiệp vừa hiện thực vừa kì ảo, đã đặt ra một số vấn đề gai góc của xã hội Việt
Nam thời hậu chiến… Giữa bề bộn những gương mặt tác phẩm đa bút pháp,
đa phong cách như thế thì tại sao những truyện ngắn chân mộc hầu như được
viết bằng bản năng như Bãi vàng, đá quý, trầm hương và Ảo và sợ của nhà văn
Nguyễn Trí đã thu hút sự chú ý quan tâm của độc giả như thế? Thực hiện đề
tài này chúng tôi hi vọng góp một câu trả lời về thị hiếu thẩm mĩ đa dạng của
công chúng văn học hôm nay – bởi vì xã hội nào, công chúng văn học nào
thì có nền văn học tương ứng như thế.
1.3 Mặc dù tác phẩm của Nguyễn Trí không được giảng dạy trong nhà
trường nhưng là một giáo viên dạy văn ở bậc học phổ thông việc nghiên cứu

Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Trí, chúng tôi sẽ có điều kiện để làm giàu vốn


2
tri thức về văn xuôi Việt Nam hiện đại nói chung và truyện ngắn Việt Nam
đương đại nói riêng. Vốn tri thức ấy sẽ là nền tảng vững chắc góp phần làm
giàu có tri thức, giúp chúng tôi giảng dạy tốt hơn phần Văn học Việt Nam hiện
đại trong nhà trường.
Điều đặc biệt khi chọn hai tập truyện ngắn Bãi vàng, đá quý, trầm
hương và Ảo và sợ của nhà văn Nguyễn Trí, chúng tôi nhận thấy: Từ sau đổi
mới, văn xuôi Việt Nam đương đại có những cách tân đổi mới trên nhiều
phương diện, tạo nên sự đa dạng và phong phú cho đời sống văn học. Tuy
nhiên, đây lại được coi là thời kỳ “truyện ngắn lên ngôi”, nhiều tác giả đã
xuất hiện trong thời kỳ này, thu hút sự quan tâm và để lại ấn tượng mạnh mẽ
cho người đọc. Nguyễn Trí xuất hiện muộn, khi những nhà văn cùng thế hệ
ông đã thành danh, nhưng nhà văn đã đem lại cho người đọc ấn tượng sâu
sắc ngay từ tập truyện ngắn đầu tay Bãi vàng, đá quý, trầm hương - tác phẩm
nhận giải thưởng của hội nhà văn, và để khẳng định rõ những đóng góp của
Nguyễn Trí vào dòng chảy đương đại, chúng tôi đồng thời chọn nghiên cứu
tập truyện ngắn Ảo và sợ của nhà văn để có sự nhìn nhận, đánh giá khoa học
và chính xác hơn về Đặc điểm của truyện ngắn Nguyễn Trí.
2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
Qua quá trình khảo sát, nghiên cứu tổng thể về tác giả và tác phẩm của
nhà văn Nguyễn Trí chúng tôi nhận thấy: Hiện nay nghiên cứu, phê bình văn
học về tác giả Nguyễn Trí mới chỉ dừng lại ở gần 40 bài báo viết về nhà văn
Nguyễn Trí và các sáng tác của ông, trong đó có hơn 20 bài báo viết về hai
tập truyện ngắn Bãi vàng, đá quý, trầm hương và Ảo và sợ của nhà văn
Nguyễn Trí. Trong số những bài báo đó một số bài báo mang tính tổng hợp
giới thiệu chung về tác phẩm của Nguyễn Trí, bước đầu khẳng định tính
sáng tạo và đóng góp của nhà văn vào văn xuôi Việt Nam hiện đại như: bài

viết Nhà văn Nguyễn Trí: “Tôi cám ơn đời đã cho tôi cái khổ, cái nghèo của
Nhật Lệ, đã nhắc đến ý văn của Nguyễn Trí trong truyện “Đá quí”: “ Đừng


3
nghĩ cát là bỏ đi. Hãy tưởng tượng một con trai há miệng kiếm ăn thì một
cục cát tình cờ vương lại và từ đó sự tình cờ làm nên sự kỳ diệu”. Và sự “kỳ
diệu” từ chính những tác phẩm như thế là minh chứng khẳng định sức đóng
góp của nhà văn cho văn xuôi Việt Nam hiện đại. Đóng góp ấy đã được Hội
Nhà văn tôn vinh cây bút “nông dân” Nguyễn Trí với giải thưởng Hội nhà
văn năm 2013: “Tập truyện ngắn Bãi vàng, đá quý, trầm hương (Nguyễn
Trí) là một phát hiện của Giải thưởng Hội Nhà văn. Tác giả Nguyễn Trí là
người mới trên văn đàn, ông mới cầm bút khoảng ba năm nay. Tập truyện
được giải tập hợp những truyện ngắn đặc sắc của ông do Nhà xuất bản Trẻ
phát hành tháng 4 vừa qua. Các truyện ngắn đều là những trải nghiệm cá
nhân. Tác giả Nguyễn Trí thể hiện lối viết riêng với cách sử dụng ngôn từ
địa phương độc đáo, nhiều chi tiết sống động, chân thực. Bãi vàng, Đá quý,
Trầm hương nhận 9/9 phiếu của Hội đồng giải thưởng” [ 25, 1].
Cùng với một loạt các bài báo khác như Nhà văn Nguyễn Trí: Không
viết được gì sau khi đoạt giải vì quá sướng, Ngọc Bi - Thiên Hương, Báo
Thanh niên điện tử hay bài viết Nguyễn Trí - Chủ nhân bất ngờ của giải
thưởng Hội Nhà văn Việt Nam 2013: “Viết như là… ngồi nhậu”… Đó chính
là những minh chứng bước đầu khẳng định tính sáng tạo và đóng góp của
nhà văn vào văn xuôi Việt Nam hiện đại.
Nhóm bài báo nghiên cứu hoặc giới thiệu kỹ lưỡng hơn về thành tựu,
giá trị nội dung của Nguyễn Trí, được thể hiện trong tác phẩm của ông trên
phương diện phân tích, bình luận về đề tài, chủ đề, hình ảnh con người, quan
niệm nghệ thuật và thế giới con người của nhà văn. Tiêu biểu như: Theo Hồ
Hương Giang trong bài viết Nhà văn của bãi vàng, nhà văn đời đau khổ:
“Tôi cũng không nghĩ nhiều về phong cách riêng của mình, nhưng là nội

dung truyện thì sẽ hoàn toàn không giống của ai”. Ở bài viết Nguyễn Trí:
Tiểu sử gây sốt của tác giả Nông Hồng Diệu, trên trang văn nghệ của Báo
Tiền phong, đã gián tiếp cho thấy thế giới nhân vật trong tác phẩm văn


4
chương và quan điểm sáng tác của Nguyễn Trí: “Đa phần nhân vật trong
truyện ngắn Nguyễn Trí bắt nguồn nguyên mẫu ngoài đời. Tuy nhiên, anh
hay tặng cho nguyên mẫu một cuộc đời tươi sáng hơn”, Nguyễn Trí cũng đã
bày tỏ: “Tôi viết ra được những gì ứ trong đầu, tôi thấy thoải mái. Sau đó tôi
mới gửi đi báo và gặp nhiều thất bại. Song tôi nhủ mình cứ viết đi rồi tiến
tới. Tôi có quan điểm thế này, tôi là người nông dân, người thợ rừng. Cái
cày, cày mãi, lưỡi sẽ bén lên, sáng lên” [24,1], Và ở bài viết Nhà văn Nguyễn
Trí: “Tôi cám ơn đời đã cho tôi cái khổ, cái nghèo của Nhật Lệ, Nguyễn Trí
đã bày tỏ: “Cho đến nay, tôi vẫn viết những câu chuyện tôi từng nghe kể,
chứng kiến, hay trải qua” ông “viết về những gì mình trải nghiệm” và
Nguyễn Trí cũng dự định sẽ viết về “những trải nghiệm bị chôn chặt, mà nếu
bung ra có khi rất đau đớn.” [50,1], Trong bài viết Nhà văn Nguyễn Trí - kẻ
đi gom bão, nhặt bi ai, Theo Tiểu Quyên/Báo Phụ nữ TP.HCM: “Cuộc đời
ông luôn phảng phất trên những trang viết, nhưng càng nói chuyện với
Nguyễn Trí, càng thấy đằng sau khuôn mặt hằn đầy dấu tích của u uẩn, khắc
khổ đau đớn cùng tận ấy là những câu chuyện chưa bao giờ được kể. Ông cứ
như người đi gom bão, nhặt hết bi ai của một thân phận khốn cùng để rồi mọi
giá trị tìm thấy trong cuộc đời cuối cùng chỉ có thể nén lại trong một câu nói:
“Phải đi qua hết những đau thương của cuộc sống mới hiểu được tình người
là thứ quý giá nhất trên đời”. “Gã giang hồ viết văn” ý thức được điều đó,
ông hiểu nếu cứ kể tả theo mạch, tham chi tiết thì đến một lúc nào đó độc giả
cũng sẽ quen thuộc, sẽ chán. Ông tự tìm cách thay đổi bút pháp, chọn một
góc nội tâm và xoáy sâu vào diễn biến tâm lý. Nhiều truyện ngắn được đăng
báo gần đây đã chứng tỏ được khả năng thể hiện và lao động nghiêm túc của

nhà văn chân đất này” [68,1]. Như vậy ta nhận thấy nhà văn không trực tiếp
nêu rõ đề tài, chủ đề, hình ảnh con người, quan niệm nghệ thuật và thế giới
con người của nhà văn, nhưng chúng ta có thể nhận thấy những yếu tố ấy qua
những lời bộc bạch chân thành của Nguyễn Trí.


5
Bên cạnh đó là những bài báo nghiên cứu sâu về giá trị nghệ thuật được
thể hiện trong tác phẩm của ông trên phương diện phân tích, bình luận về kết
cấu, ngôn ngữ, giọng điệu, nhân vật, thời gian… như: Th.s Huỳnh Thu Hậu
(Hội VHNT Quảng Nam), Đọc Bãi vàng của Nguyễn Trí, tác giả khẳng định sự
cuốn hút của Bãi vàng của nhà văn trước hết ở nghệ thuật xây dựng nhân vật:
“Chỉ với một vài từ, Nguyễn Trí đã khắc họa được chân dung lẫn tính của nhân
vật. Ví dụ những lang bạt như Thành, những nhờn nhợt màu da, về già hết
duyên như bà Năm Tằm, hay đèm đẹp như Li, Dung…”, Huỳnh Thu Hậu cũng
khẳng định sự thành công của Nguyễn Trí trong việc xây dựng nhân vật đa tính
cách: “Thành và Dung đều là những nhân vật đa tính cách, ở họ có kiểu bất cần
đời, liều mạng, cũng đánh đấm, xung đột va chạm của dân bãi nhưng bên cạnh
đó ta thấy được những nét đáng yêu đặc biệt là tình yêu mà họ dành cho nhau”.
Bài viết đã chỉ ra sự kiến tạo không gian nghệ thuật đặc sắc của Nguyễn Trí:
“Để xây dựng nhân vật , Nguyễn Trí đã kiến tạo nên không gian nghệ thuật đặc
sắc đó chính là bãi vàng. Bãi vàng có tên và không có tên là bãi X: “Bãi nằm
sâu trong rừng nguyên sinh. Ba quân thiên hạ cho tất cả nằm xuống, cây lớn ra
ván cừ hầm, cây nhỏ làm khung, nhỏ nữa làm chòi trú thân, làm quán, làm
động mại dâm. Trên diện tích vài chục hécta chứa vài nghìn nhân mạng. Đủ
thứ, khui hầm, đánh ca, tiệm vàng dã chiến…Người ơi là người, vui ơi là vui.
Không khí bãi rất khác đời thường, nó luôn luôn quá cái mức cần thiết”. Một
thế giới đủ hạng người khốn cùng, quần ngư tranh thực, ở đó, nhân vật sống và
hành xử theo quy luật cá lớn nuốt cá bé, kẻ mạnh thắng kẻ yếu một cách
nghiệt ngã. Vừa sống sượng và sống thật. Giá cả sinh hoạt thì đắt đỏ, chuyện

đánh đấm xảy ra như cơm bữa, chuyện người chết vì sập hầm cũng như cơm
bữa. Vì thế, dường như mọi người ở bãi vàng đều sống gấp, sống để hưởng thụ
vì biết đâu đấy ngày mai mình sẽ chết. Sống ở bãi vàng, thân phận con người
thật mong manh và xót xa. Những trận sụp hầm lấy đi hàng mấy chục mạng


6
người”. Tác giả đã bày tỏ sự cảm thông với trải nghiệm của một người trong
cuộc. Có thể nói, ấn tượng nhất là những hình ảnh bãi vàng trong mùa mưa:
“Mùa mưa ở bãi buồn ơi là buồn. Hoàn toàn khác với ở rẫy nương, hay phố thị.
Mưa ở rừng nguyên sinh ầm ầm, rào rào rồi rả rích không ngừng nghỉ”. Sự
khắc nghiệt của nơi đây gợi nhắc chúng ta nhớ đến không gian nghệ thuật trong
sáng tác của Jack LonDon, với hành trình đi tìm vàng ở vùng Klonđai.
Huỳnh Thu Hậu chỉ ra nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ, cách dùng phương
ngữ, giọng điệu, thông điệp tình yêu đầy nhân văn ở cuối tác phẩm Bãi vàng
của Nguyễn Trí: “ngôn ngữ cực hạn, cách viết câu đặc biệt, nghệ thuật dùng
phương ngữ, ngôn ngữ đời thường tràn vào trong tác phẩm. Nguyễn Trí
không sa vào miêu tả rườm rà, mà đi ngay vào bản chất của vấn đề. Văn anh
viết, vì thế rất kén người đọc. Đã từng có những người đọc truyền thống thích
cách viết câu phải mượt mà, bay bổng, bảo truyện Bãi vàng rất khó đọc, cứ
trúc tra trúc trắc [38,1]...
Mặc dù có một số bài báo viết về vấn đề trên nhưng chưa có công trình
nghiên cứu toàn diện nào về đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Trí, do đó chúng tôi
chọn đề tài “Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Trí” để thực hiện luận văn của mình.
Mặc dù như vậy, những bài báo kể trên cũng là những gợi ý rất quý báu
để chúng tôi hoàn thành công trình nghiên cứu này.
Trong giới nghiên cứu và phê bình văn học cũng như công chúng văn
học của cả nước vấn đề truyền thống, cách tân trong sáng tác văn học nói
chung và trong sáng tác truyện ngắn nói riêng đã và đang được bàn luận sôi
nổi, thậm chí có những ý kiến trái chiều dẫn đến tranh luận kéo dài và chưa

tìm được tiếng nói chung như: Thế nào là truyền thống? Thế nào là cách tân
nghệ thuật? Có phải cứ cách tân nghệ thuật mới hay và ngược lại?...
Nghiên cứu đề tài “Đặc điểm truyện ngắn của Nguyễn Trí” chúng tôi hy
vọng góp thêm một tư liệu để trả lời những câu hỏi trên bởi cách viết truyền


7
thống của Nguyễn Trí vẫn tạo ra những truyện ngắn hay, đủ sức lôi cuốn và
ám ảnh trái tim bạn đọc (và ngược lại có một số tác phẩm viết theo xu thế cách
tân lại không hay và bị chìm vào quên lãng).
3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu những đặc điểm nội dung và nghệ thuật
trong 02 tập truyện ngắn tiêu biểu của Nguyễn Trí: Bãi vàng, đá quý, trầm
hương - tập truyện ngắn - NXB Trẻ, 2013 và Ảo và sợ - tập truyện ngắn NXB Trẻ, 2016.
Trong quá trình thực hiện luận văn, chúng tôi có mở rộng so sánh với
các tác phẩm khác của Nguyễn Trí và một số tập truyện ngắn của một số nhà
văn đương đại khác như: Phạm Duy Nghĩa, Nguyễn Đình Tú, Nguyễn Bình
Phương... để làm nổi bật những vấn đề mà luận văn nghiên cứu.
3.2. Mục tiêu nghiên cứu
Trong các tác phẩm của Nguyễn Trí, chúng tôi tập trung vào 02 tập
truyện ngắn của nhà văn. Luận văn tập trung vào một số đặc điểm nổi bật về
nội dung như: Đề tài, chủ đề, cảm hứng nghệ thuật, quan niệm nghệ thuật về
cuộc sống và con người của nhà văn; một số đặc điểm nổi bật của nghệ thuật
tự sự trong truyện ngắn của Nguyễn Trí như: thế giới nhân vật và nghệ thuật
xây dựng nhân vật, và ngôn ngữ nghệ thuật.
4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu
4.1. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Qua việc khảo sát, nghiên cứu, phân tích, đánh giá một số phương diện
nổi bật trong nội dung tư tưởng và nghệ thuật tự sự của truyện ngắn Nguyễn

Trí, chúng tôi mong muốn khẳng định giá trị của tác phẩm; đóng góp của nhà
văn cũng như các tính sáng tạo độc đáo của tác giả này cho nền văn xuôi Việt
Nam đương đại.


8
4.2. Phương pháp nghiên cứu:
Khi thực hiện luận văn này chúng tôi sử dụng đồng bộ và linh hoạt một
số phương pháp nghiên cứu sau đây:
Phương pháp nghiên cứu văn học theo đặc trưng thể loại
Phương pháp xã hội học
Phương pháp nghiên cứu tự sự học
Ngoài ra chúng tôi còn sử dụng một số thao tác nghiên cứu văn học
quen thuộc như: phân tích, so sánh, liệt kê...
5. Phạm vi nghiên cứu
Những vấn đề đặt ra và cần phải nghiên cứu trong 02 tập truyện ngắn kể
trên của Nguyễn Trí là rất phong phú, đa dạng, nhưng trong khuôn khổ của
một luận văn thạc sĩ khoa học, chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu một số đặc
điểm nổi bật về nội dung và một số đặc điểm nổi bật nhất, có giá trị nghệ thuật
và ý nghĩa nhân văn sâu sắc nhất như: Đề tài, chủ đề, cảm hứng nghệ thuật,
quan niệm nghệ thuật về cuộc sống và con người của nhà văn, thế giới nhân
vật và nghệ thuật xây dựng nhân vật, ngôn ngữ nghệ thuật.
6. Cấu trúc của luận văn
Luận văn gồm 03 chương:
Chương 1: Truyện ngắn Nguyễn Trí trong bộ phận truyện ngắn
Việt Nam đương đại.
Chương 2: Một số đặc điểm nổi bật trong nội dung truyện ngắn
Nguyễn Trí.
Chương 3: Một số đặc điểm nghệ thuật nổi bật trong truyện ngắn
Nguyễn Trí.



9
7. Đóng góp của luận văn
Đây là công trình nghiên cứu đầu tiên có tính toàn diện và hệ thống về
02 tập truyện ngắn Bãi vàng, đá quý, trầm hương và Ảo và sợ của nhà văn
Nguyễn Trí. Trong đó tập truyện Bãi vàng, đá quý, trầm hương - tập truyện
ngắn - NXB Trẻ, 2013 – tác phẩm đầu tay của nhà văn Nguyễn Trí đã giành
được giải thưởng Hội nhà văn 2013 với số phiếu bầu chọn tuyệt đối. Thông
qua công trình nghiên cứu này chúng tôi không chỉ mong muốn khẳng định
giá trị của tác phẩm, cá tính sáng tạo, đóng góp của nhà văn cho nền văn xuôi
Việt Nam đương đại mà còn góp phần nhận diện và phản ánh các xu thế vận
động khác nhau của truyện ngắn Việt Nam đương đại.


10

NỘI DUNG
Chương 1
TRUYỆN NGẮN NGUYỄN TRÍ
TRONG BỘ PHẬN TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI
1.1. Khái quát về truyện ngắn Việt Nam đương đại
1.1.1. Diện mạo
Sau những năm 80 của thế kỷ XX, văn học Việt Nam phát triển trong
không khí dân chủ, cởi mở cùng với nhu cầu và ý thức giao lưu, hội nhập, mở
rộng ngày càng rõ rệt. Vì thế văn học trong nước vừa gia sức làm mới mình và
mặt khác cũng rất tích cực tiếp xúc, lĩnh hội những giá trị đích thực và thành
tựu to lớn của văn học thế giới. Vai trò lãnh đạo, quản lý văn nghệ của Đảng
cũng có những thay đổi nhất định, nhà văn được tôn trọng trong cá tính sáng
tạo nghệ thuật, chế độ đãi ngộ xứng đáng cũng làm cho đội ngũ những nhà

văn mới xuất hiện thêm phần đông đảo.
Không khí đổi mới đã tạo cho văn học Việt Nam hiện đại nói chung và
truyện ngắn Việt Nam đương đại nói riêng một không khí sáng tác mới. Với tự
do và trách nhiệm trong sáng tạo nghệ thuật, người nghệ sĩ đã nhanh chóng đã
tự đổi mới ngòi bút của mình. Dựa trên nhu cầu thẩm mĩ mới của người đọc
và sự khuyến khích động viên của Đảng, văn học Việt Nam đã thực sự có
những cách tân đổi mới. Sự đổi mới đó bắt đầu từ sự thay đổi về tư duy sáng
tác của các nhà văn: Nếu như văn học trước đây quan tâm đến số phận, hạnh
phúc chung của cả cộng đồng, cả dân tộc thì nay các nhà văn dành nhiều trang
viết để quan tâm đến số phận cá nhân. Với một số lượng tác giả đông đảo –
một số lượng tác phẩm lớn lao các khuynh hướng sáng tác rất đa dạng. Có thể
chia thành một số khuynh hướng sau đây:
Khuynh hướng viết về chiến tranh bằng cảm hứng “hậu chiến” với sự tái
hiện những hồi ức đau đớn và dữ dội về chiến tranh, về những ứng xử của


11
người lính trong cuộc sống đời thường, trong các mối quan hệ riêng tư… Đây
vẫn là một đề tài lớn của văn học thời kì Đổi mới bởi lẽ, dư âm và dư vị của
chiến tranh vẫn còn hiện diện giữa đời sống của chúng ta. Hàng triệu nạn nhân
chất độc da cam đang đi đòi công lý, hàng vạn tấn bom mìn đang cần được
tháo dỡ (mà theo cách ta làm hiện nay thì phải mất một trăm năm nữa), có đến
bốn triệu người Việt Nam đang định cư ở nước ngoài. Nó như một “thực thể
tha hương”, một hậu quả chiến tranh). Vấn đề hòa giải và hòa hợp dân tộc
đang hiện diện trong mỗi gia đình Việt Nam…Tuy nhiên, nhận thức và tái
hiện chiến tranh ở các thế hệ nhà văn, và mỗi nhà văn, lại không hề giống
nhau. Có những nhà văn dùng hình thức bi kịch để tái hiện chiến tranh kiểu
như Bảo Ninh với Nỗi buồn chiến tranh, Dương Hướng với Bến không chồng,
Nguyễn Trí Huân với Chim én bay, Trần Huy Quang với Nước mắt đỏ,…Có
những nhà văn dùng hình thức tráng ca để tái hiện chiến tranh như tác phẩm

của các nhà văn Hồ Phương với Ngàn dâu, Phan Tứ với Người cùng quê, Nam
Hà với Đất Miền Đông, Đặng Đình Loan với Đường thời đại,…Có những nhà
văn không trải qua chiến tranh với tư cách người trong cuộc, họ “sinh sau đẻ
muộn” nên cảm nhận chiến tranh với ý nghĩa là người bình luận như Nguyễn
Đình Tú với Xác phàm, Nguyễn Bình Phương với Mình và họ,...
Khuynh hướng sáng tác về đề tài con người trong cuộc sống đô thị với
cảm hứng thế sự đời tư. Bên cạnh khuynh hướng viết về chiến tranh của thời
kì hậu chiến truyện ngắn giai đoạn này còn hướng đến khai thác mảng nội
dung lớn nữa là con người trong cuộc sống đời thường với những phức tạp và
bộn bề những lo toan. Các nhà văn đã hoà mình vào cuộc sống, cùng trải
nghịêm và trăn trở với chính cuộc sống ấy thì tất yếu cảm hứng sáng tạo sẽ
phong phú, đa dạng hơn. Đó cũng chính là một trong những lí do khiến cho
văn xuôi sau 1986 chuyển từ cảm hứng sử thi sang cảm hứng thế sự đời tư.
Xuất hiện trong văn xuôi lúc này không còn là những con người anh hùng với
giọng điệu ngợi ca đầy hào sảng mà là những số phận cá nhân đời thường
chân thực và gần gũi nhất. Hay bằng cái nhìn con người và hiện thực theo lối


12
đơn giản, một chiều và có phần phiến diện thì truyện ngắn sau đổi mới đã nhìn
con người và hiện thực từ nhiều góc độ, trong mọi mối quan hệ vô cùng phức
tạp. Nói cách khác, con người như một “tiểu vũ trụ”, một sự “tổng hòa của các
mối quan hệ” hiện lên chân thật và gần gũi trong văn học Việt Nam sau 1986.
Bước phát triển của truyện ngắn tiếp tục ghi tên các nhà văn như Lê Lựu,
Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng, Nguyễn Minh Châu đều là những cây bút tiên
phong của dòng văn học thời kỳ đổi mới, tiếp đến là sự xuất hiện của Nguyễn
Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Bảo Ninh, Nguyễn Vịêt Hà, Tạ Duy Anh, Hồ Anh
Thái, Phan Thị Vàng Anh, Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Hoàng Diệu… đã đưa tiến
trình đổi mới truyện ngắn tiến thêm một bước nữa.
Khuynh hướng các nhà văn trẻ viết về thế hệ của mình với biết bao

hoang mang, nghi ngờ giằng xé rồi vẫn khát khao hướng thiện vươn lên. Tiêu
biểu là: Phong Điệp, Đỗ Bích Thúy,… những nhà văn trẻ này chia sẻ trải
nghiệm về sự đổ vỡ của một xã hội tiêu dùng và sự lên ngôi của văn hóa đại
chúng, ở Ngô Phan Lưu, truyện ngắn hầu như chỉ là việc ghi chép một mảnh
đời sống thường nhật, cố nhiên là những mảnh đời giàu suy tư…
Chúng tôi thấy một điều đặc biệt đã xuất hiện, truyện ngắn Nguyễn Trí
hình như không thể xếp vào khuynh hướng sáng tác nào trong các khuynh
hướng kể trên, bởi sau mấy chục năm đứt gãy, Nguyễn Trí như đã nối tiếp một
cách bất ngờ và không có ý thức một mạch sáng tác được khởi đầu bằng
Nguyên Hồng, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan…Và sau đó thưa vắng
trên văn đàn. Sau Bỉ vỏ, Số đỏ, Lục xì, Cơm thầy cơm cô… thì không có nhà
văn nào dành tâm huyết sáng tác về những số phận bên lề xã hội và những
khoảng “khuất lấp” trong đời sống xã hội.
Nguyễn Trí đã đưa trở lại văn đàn những con người “dưới đáy” trong xã
hội. Những vùng hiện thực đó được gọi là những vùng khuất lấp chưa hoặc ít
được miêu tả trong văn học đương đại.
Nhìn vào văn học Việt Nam từ Đổi mới, có thể nhận thấy ba “làn sóng”
của sự vận động và phát triển: Làn sóng thứ nhất là những nhà văn từ trong
nền văn học lãng mạn cách mạng tự làm mới mình để thích ứng với đời sống


13
thế sự đời tư nhiều đớn đau dằn vặt, đồng song cùng với quá trình trước và
trong bước ngoặt Đổi mới các nhà văn này đã tự đổi mới chính mình để góp
phần làm nên bước ngoặt Đổi mới. Làn sóng thứ hai và thứ ba là những nhà
văn sống trong tâm thức Đổi mới. Họ là thành quả thực sự của Đổi mới, sinh
ra từ trong Đổi mới và sáng tác trong không khí mà Đổi mới mang lại.
Chính những làn sóng đó đã tạo nên một khối lượng đồ sộ những tác
phẩm truyện ngắn Việt Nam đương đại, tiêu biểu như: Nguyễn Minh Châu người được mệnh danh là nhà văn tiên phong của quá trình đổi mới với Cỏ
lau, Phiên chợ Giát, Khách ở quê ra, Bức tranh, Chiếc thuyền ngoài khơi,

Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành…, Nguyễn Quang Lập (Tiếng gọi phía
mặt trời lặn), Nguyễn Huy Thiệp (Tướng về hưu), Nguyễn Quang Thiều (Hai
người đàn bà xóm trại), Phạm Hoa (Đùa của tạo hoá), Tạ Duy Anh (Bước qua
lời nguyền, Xưa kia chị đẹp nhất làng), Võ Thị Hảo (Biển cứu rỗi), Nguyễn
Thị Thu Huệ (Hậu thiên đường), Y Ban (Bức thư gửi mẹ Âu Cơ), Phan Thị
Vàng Anh (Khi người ta trẻ), Phan Triều Hải (Một tối ở quán bar) v.v...
Tất nhiên, bên cạnh những thành tựu quan trọng, văn học từ 1986 đến nay
vẫn còn nhiều hạn chế, và những hạn chế này đã được Nghị quyết 23 của Bộ
Chính trị về tiếp tục xây dựng và phát triển văn học nghệ thuật trong thời kì
mới chỉ rõ. Nhưng cùng với sự gia tăng những tên tuổi mới và số lượng tác
phẩm, truyện ngắn thời kỳ này đã mở ra nhiều hướng tìm tòi cả trong tiếp
nhận lẫn thi pháp thể loại. Đó là chiều sâu triết lý và những cảm nhận về nỗi
cô đơn, của thân phận con người, là sự đan cài giữa cái ảo và cái thực, giữa
chất thơ và văn xuôi... Những bước cách tân ấy đã tạo nên sắc diện mới và sự
lôi cuốn cho thể loại. Có thể nói rằng, trong văn xuôi, truyện ngắn là thể loại
đã khẳng định được vị trí của mình và có tầm ảnh hưởng rộng rãi nhất đối với
đời sống văn học thời kỳ đổi mới.
1.1.2. Đội ngũ tác giả, tác phẩm
Từ sau Đổi mới (1986) văn học Việt Nam có bước phát triển mạnh mẽ.
Bên cạnh các nhà văn đã khẳng định được tên tuổi của mình còn xuất hiện
nhiều cây bút mới gây ấn tượng mạnh cho công chúng văn học. Điều đặc biệt


14
là các nhà văn như Nguyễn Minh Châu, Ma Văn Kháng, Nguyễn Khải... tuy
đã định hình được phong cách nhưng luôn có ý thức đổi mới ngòi bút của
mình để bắt kịp với những biến chuyển của thời cuộc.
Nguyễn Minh Châu sau khi viết Lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ
minh họa đã cho ra đời những truyện ngắn đột phá, mở đầu cho một kiểu tư
duy mới về hiện thực và con người, như các truyện Bức tranh, Người đàn bà

trên chuyến tàu tốc hành, Cỏ lau, Phiên chợ Giát. Với Bức tranh, Nguyễn
Minh Châu đã chính thức mở màn cho kiểu nhân vật “tự thú, sám hối” của văn
học đổi mới; còn với Phiên chợ Giát người đọc đã thấy những dấu hiệu của
cảm quan hậu hiện đại trong việc thể hiện thân phận của con người qua nhân
vật lão Khúng.
Ma Văn Kháng cũng gây ấn tượng cho người đọc khi cho ra đời các tập
truyện Ngày đẹp trời, Trăng soi sân nhỏ và sau đó là Một mối tình si. Một mối
tình si tiếp tục ghi nhận những nỗ lực tìm tòi của Ma Văn Kháng khi dấn thân
vào mảng đề tài thế sự, khai thác những va đập của nền kinh tế thị trường với
sự thống trị đầy quyền lực của đồng tiền. Ngoài ra tác giả còn thâm nhập vào
một miền đất mới khi đi sâu khám phá bản năng phồn thực của con người, đặc
biệt là chú ý miêu tả vẻ đẹp cơ thể người phụ nữ gắn với bản năng tính dục
của họ, đem lại sự mềm mại, hấp dẫn cho những trang viết.
Sau nhiều tiểu thuyết có tiếng vang, Nguyễn Khải tiếp tục ghi dấu
những thành công của mình ở thể loại truyện ngắn với giải thưởng của Hội
Nhà văn Việt Nam năm 1998 cho Tập truyện ngắn và tạp văn. Truyện ngắn
của Nguyễn Khải chủ yếu đề cập đến những chuyện thường ngày và những
trăn trở trong chuyện nghề, chuyện đời. Sức lôi cuốn của truyện ngắn Nguyễn
Khải là những phát hiện sắc sảo, tính luận đề, tính triết luận cộng với sự lôi
cuốn của giọng kể nhẩn nha, hóm hỉnh mà có duyên.
Các gương mặt truyện ngắn của thế hệ tiếp theo xuất hiện ngay từ thời
kỳ đầu của văn học đổi mới đã nhanh chóng thu hút được sự quan tâm của độc


15
giả tiêu biểu như: Nguyễn Huy Thiệp, Tạ Duy Anh, Phạm Ngọc Tiến, Nguyễn
Quang Thiều, Nguyễn Quang Lập, Hồ Anh Thái, Ngô Tự Lập, Sương Nguyệt
Minh, Phan Triều Hải... Truyện ngắn của các cây bút này là tiếng nói của một
thế hệ nhà văn đã thật sự có những chuyển hướng trong tư duy với những
khám phá mới về hiện thực và con người.

Nguyễn Huy Thiệp xuất hiện đã lập tức tạo nên một “hiện tượng”. Nhà
văn của miền sơn cước, nông thôn và đô thị đã thu hút một lượng lớn độc giả
và cùng với nó là một “trào lưu” phê bình về các tác phẩm của ông. Sự xuất
hiện của Nguyễn Huy Thiệp đã mang lại một làn gió mới khiến cho giới sáng
tác và phê bình tốn không ít giấy mực. Dù còn ý kiến trái triều nhưng khách
quan có thể khẳng định Nguyễn Huy Thiệp xứng đáng là trong số các nhà văn
viết truyện ngắn xuất sắc nhất của nền văn học Việt Nam từ sau đổi mới.
Sau Nguyễn Huy Thiệp, Tạ Duy Anh cũng là cây bút gây được sự chú ý
trong dư luận khi trình làng hai truyện ngắn nổi tiếng Bước qua lời nguyền và
Xưa kia chị đẹp nhất làng. Với tập Bước qua lời nguyền, Tạ Duy Anh đã “báo
hiệu một tấm lòng lớn, một tầm nhìn xa”. Truyện của anh, dù viết dưới góc
nhìn nào, cũng đều thể hiện sự trăn trở của nhà văn về số phận con người: số
phận của người nông dân dưới áp lực của những thù hận, những u tối của cơ
tầng văn hóa cổ hủ lạc hậu, bi kịch của con người do chiến tranh hay do hậu
quả của căn bệnh hình thức, quan liêu, bệnh thành tích, giả dối... Với giọng
văn da diết, nhức nhối và cách khai thác hiện thực từ chiều sâu nhân bản,
truyện của Tạ Duy Anh là “tín hiệu của một dòng văn học mới, dòng văn học
bước qua lời nguyền” (Hoàng Ngọc Hiến).
Xuất hiện muộn hơn một chút nhưng cái tên Hồ Anh Thái lập tức gây
được sự chú ý trên văn đàn khi các tập truyện ngắn Tự sự 265 ngày và Bốn lối
vào nhà cười ra mắt bạn đọc. Đối tượng trong sáng tác của Hồ Anh Thái là
cuộc sống thời mở cửa với những vấn đề của giới trí thức, sinh viên, công


16
chức nhà nước, của giới trẻ. Sự xuống cấp trong nhân cách, lối sống, đạo lý,
văn hóa của họ phần nào phản ánh sự xuống cấp của xã hội đương đại nhiều
phức tạp và bất ổn. Tất cả những hệ lụy đó được nhà văn phô diễn trong một
chất giọng khách quan, lạnh lùng, đậm chất trào phúng hài hước.
Tiếp bước thế hệ của Nguyễn Huy Thiệp, Hồ Anh Thái là một loạt

gương mặt cá tính ở thế hệ 7X, 8X như Nguyễn Ngọc Thuần, Nguyễn Ngọc
Tư, Phạm Duy Nghĩa, Đỗ Bích Thúy, Phong Điệp, Đỗ Hoàng Diệu, Nguyễn
Vĩnh Nguyên, Vũ Đình Giang, Phan Việt, Cấn Vân Khánh, Keng, Nguyễn
Quỳnh Trang, Từ Nữ Triệu Vương, Nguyễn Thị Cẩm... và một số gương mặt
mới xuất hiện trong các tác phẩm gần đây, mỗi người một dáng vẻ, một giọng
điệu. Đây thực sự là những gương mặt mà ngay ở những tác phẩm đầu tay đã
tạo được ấn tượng bởi những lạ lẫm trong khám phá hiện thực, bởi những táo
bạo trong cách phơi trải tâm hồn, với cách viết đầy ngẫu hứng luôn có sự kết
hợp giữa tài năng thiên bẩm và vốn tri thức văn hóa mới mẻ.
Con đường đi của truyện ngắn Việt Nam còn đang ở phía trước, sẽ lại
còn nhiều thế hệ cầm bút mới kế tiếp. Ghi nhận thành tựu của văn học đổi mới
cũng là khẳng định sự đóng góp lớn lao và sự lớn mạnh không ngừng của đội
ngũ những người cầm bút. Một sự lớn mạnh dự báo những tín hiệu tốt lành
với nhiều bứt phá cho một nền văn học tương lai.
1.1.3. Thành tựu và hạn chế
1.1.3.1. Thành tựu
Ở thời đại văn học nào thì truyện ngắn cũng là thể loại xung kích và tiên
phong. Ví dụ giai đoạn 1930 – 1945 trước khi có tiểu thuyết Sống mòn thì
Nam Cao đã gây tiếng vang trên văn đàn với một loạt truyện ngắn xuất sắc
như Chí Phèo, Lang Rận, Nước mắt, Dì Hảo... Với Nguyễn Công Hoan cũng
thế, trước khi ông viết bước đường cùng thì hàng trăm truyện ngắn của nhà
văn đã ra đời, làm xôn xao dư luận lúc bấy giờ như Kép Tư Bền, Báo hiếu trả
nghĩa cha – Báo hiếu trả nghĩa mẹ, Tinh thần thể dục... Và xét kỹ trào lưu văn


17
học cách mạng thì truyện kí Nguyễn Ái Quốc cũng là nguồn khởi đầu của nó.
Từ những năm 20 của thế kỉ XX như Lời than vãn của hai bà Trưng, Vi hành,
Những trò lố hay là Va – ren và Phan Bội Châu... Ở giai đoạn văn học sử thi
cách mạng 1945- 1975, trước khi có tiểu thuyết đồ sộ ra đời các nhà văn đều

luyện bút bằng truyện ngắn và kí văn học. Ta được đọc Nhật kí ở rừng của
Nam Cao; Một lần đến với thủ đô của Trần Đăng, Vợ chồng A Phủ của Tô
Hoài... Nhưng chưa bao giờ truyện ngắn Việt Nam lại bùng nổ với nhiều
khuynh hướng sáng tác, nhiều cá tính sáng tạo độc đáo và sự đa dạng về bút
pháp nghệ thuật đến thế như truyện ngắn Việt Nam đương đại hôm nay. Điều
đó chứng tỏ văn học Việt Nam hiện đại đã chuyển từ tính đơn thanh sang tính
đa thanh, lá cờ dân chủ đã được ngọn gió đổi mới thổi mạnh và hiện diện
không chỉ trong đội ngũ sáng tác mà cả trong đời sống văn học nước nhà.
Không còn “những vùng cấm” trong sáng tác, không cần phải tiết chế khi
miêu tả sự mất mát, hi sinh trong chiến tranh. Vấn đề tình yêu, tình dục không
còn là điều cấm kị và chỉ được miêu tả một chiều bằng cảm hứng lãng mạn
như trước. Tất cả đã được miêu tả một cách trần trụi, mổ xẻ tận cùng cái mảnh
đất hiện thực có cả chất thơ bằng chất văn xuôi, có cả vẻ đẹp hiện thực, trữ
tình và sự gai góc, bề bộn đến khủng khiếp của nó. Chưa bao giờ truyện ngắn
Việt Nam lại có tinh thần dân chủ, đổi mới nhìn thẳng vào hiện thức để phản
ánh sự thật đa chiều, sâu sắc như thế. Ví dụ như Nguyễn Huy Thiệp với
Tướng về hưu đã khắc họa người anh hùng trong chiến tranh đã “lạc thời” để
trở thành người anh hùng bi kịch ở hậu chiến như thế nào. Và sau truyện ngắn
này cảm hứng chủ đạo ấy được tiếp nối bằng hàng loạt tiểu thuyết Chu Lai
như Ăn mày dĩ vãng, Ba lần và một lần, Phố.... Bằng truyện ngắn của Tạ Duy
Anh, Trung Trung Đỉnh, Sương Nguyệt Minh...
Xuất hiện từ rất sớm các cây bút trẻ ngay từ những truyện ngắn ban
đầu đã hình thành một cá tính sáng tạo độc đáo, thậm trí một phong cách riêng
đó là Nguyễn Bình Phương với một loạt truyện ngắn, tiểu thuyết ngay từ khi
xuất hiên đã đánh dấu sự hiện diện của một tài năng độc đáo và nói như


18
Nguyễn Tuân là “không giống ai và không để ai giống mình” như các tác
phẩm tiểu thuyết Tàn đen đốm đỏ, Những đứa trẻ chết già, Người đi vắng,

Ngồi, Thoạt kỳ thủy,..., truyện ngắn Đi. Đó là Tạ Duy Anh với Bước qua lời
nguyền, Nguyễn Ngọc Tư với Cánh đồng bất tận, Bảo Ninh với Thân phận
tình yêu...
Khi xã hội Việt Nam hiện nay có sự phân hóa sâu sắc bởi quá trình đô
thị hóa, sự cách biệt về kinh tế - văn hóa ngày càng lớn hơn của những nhóm
người ở những vị trí khác nhau, những khu vực địa lí khác nhau đã hình thành
nên một hệ thống thị hiếu thẩm mĩ ở trạng thái “động” và “mở”. Nó không chỉ
phong phú đa dạng khác biệt nhau ghê gớm mà còn luôn ở trạng thái chuyển
động và giao thao không ngừng để ảnh hưởng lẫn nhau và đổi mới cho nhau.
Sự pha tạp và vận động, biến đổi nhanh chóng đến không ngờ về thị hiếu
thẩm mĩ của độc giả bạn đọc hôm nay đã thay thế cho sự thuần nhất ổn định
về thị hiếu thẩm mĩ ở giai đoạn 1945 – 1975, với những công chúng văn học
có một hệ thống “động” và “mở” như thế thì tất yếu phải có những sản phẩm
văn học phù hợp với nó. Văn học Việt Nam hiện đại nói chung, truyện ngắn
văn học Việt Nam hiện đại đã đáp ứng nhu cầu thẩm mĩ của độc giả. Bởi mọi
độc giả văn học ở trình độ tiếp nhận khác nhau đều có thể tìm được “món ăn
tinh thần” phù hợp với mình trong thị trường sách hôm nay.
1.1.3.2. Hạn chế:
Bởi vì truyện ngắn Việt Nam đương đại đang vận động và chưa hoàn kết
về cấu trúc thể loại của nó và cũng bởi sự bề bộn pha tạp không thuần nhất cũng
kéo theo một hệ quả tất yếu: Bên cạnh “vàng 10” ta sẽ gặp cả “cát” và “đồng
thau” trong biển văn học sôi sục hôm nay. Những tác phẩm có tính thử nghiệm
thất bại đã đành còn rất nhiều tác phẩm trở thành “thứ phẩm” ngay khi ra đời
khi tác giả của nó thiếu “tài” hoặc thiếu “tâm”, hoặc thiếu “cả tài và tâm”.
Trường hợp tập truyện ngắn Bóng đè của Đỗ Hoàng Diệu là một ví dụ như
thế, bởi dù cách tân nghệ thuật đến đâu, những sáng tạo nghệ thuật lớn lao thì
cuối cùng tính nhân văn và những tiêu chuẩn thẩm mĩ tối thiểu nhằm phân



×