Tải bản đầy đủ (.doc) (89 trang)

Vốn lưu động và các giải pháp tài chính nhằm nâng cao hiệu quả tổ chức, sử dụng vốn lưu động tại công ty abc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.98 MB, 89 trang )

LuËn v¨n tèt nghiÖp

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Nền kinh tế Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi và vận hành theo cơ
chế thị trường, mở cửa, hội nhập với nền kinh tế toàn cầu. Đối với các doanh
nghiệp Việt Nam, một mặt nó đem lại những cơ hội mới trong việc mở rộng và
tiếp cận thị trường nhưng mặt khác nó là những thách thức không nhỏ trong quá
trình cạnh tranh để thích nghi với những thay đổi của nền kinh tế toàn cầu. Cuộc
khủng hoảng kinh tế thế giới từ cuối năm 2008 và những bài học của nó là
những kinh nghiệm quý giá đối với các nhà quản lý, quản trị doanh nghiệp đặc
biệt là vấn đề làm sao tạo lập, quản lý và sử dụng vốn kinh doanh của mình hiệu
quả để hoạt động doanh nghiệp được diễn ra liên tục và tối đa hóa lợi nhuận
trong điều kiện kinh tế thị trường luôn biến động như hiện nay.
Vốn lưu động là một bộ phận của vốn kinh doanh nói chung nên cũng
không nằm ngoài yêu cầu đó. Vốn lưu động có khả năng quyết định tới quy mô
kinh doanh của doanh nghiệp, hiệu quả sử dụng vốn lưu động sẽ tác động trực
tiếp tới quá trình tái sản xuất của doanh nghiệp, ảnh hưởng đến kết quả kinh
doanh từng kỳ của doanh nghiệp.
Nhận thức rõ vai trò của vốn lưu động trong quá trình sản xuất kinh doanh
và qua thực tế tìm hiểu tại Công ty ABC, em đã chọn và nghiên cứu đề tài: “Vốn
lưu động và các giải pháp tài chính nhằm nâng cao hiệu quả tổ chức, sử dụng
vốn lưu động tại Công ty ABC”.
2. Mục đích nghiên cứu
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận về vốn lưu động.
- Phân tích thực trạng tổ chức, sử dụng vốn lưu động tại Công ty ABC từ đó
đề xuất một số giải pháp tài chính nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu
động tại Công ty này.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu là thực trạng quản lý vốn lưu động tại Công ty ABC.
1




LuËn v¨n tèt nghiÖp
- Phạm vi nghiên cứu là các nội dung trong phân tích hiệu quả tổ chức, sử
dụng vốn lưu động thực tế tại Công ty ABC.
4.Về phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu chủ yếu được sử dụng là phương pháp so sánh,
thống kê, tổng hợp số liệu, đánh giá mức độ ảnh hưởng và xu thế biến động của
các chỉ tiêu và các phương pháp khác: Phân tích nhân tố, phương pháp số chênh
lệch…
Ngoài lời mở đầu và kết luận, nội dung đề tài của em gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về vốn lưu động và hiệu quả sử
dụng vốn lưu động của doanh nghiệp.
Chương 2: Thực trạng công tác tổ chức và sử dụng vốn lưu động ở
Công ty ABC.
Chương 3: Một số giải pháp tài chính chủ yếu nhằm góp phần nâng
cao hiệu quả tổ chức sử dụng vốn lưu động ở Công ty ABC.
Mặc dù đã cố gắng hết sức song do điều kiện nghiên cứu và kiến thức còn
hạn chế nên luận văn của em không tránh khỏi sai sót. Em rất mong được sự
đóng góp của thầy cô giáo và các bạn để đề tài nghiên cứu của em được hoàn
thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên

CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ VỐN LƯU ĐỘNG VÀ
HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN LƯU ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP
2



LuËn v¨n tèt nghiÖp

1.1. VỐN LƯU ĐỘNG VÀ NGUỒN VỐN LƯU ĐỘNG CỦA DOANH
NGHIỆP
1.1.1. Vốn lưu động của doanh nghiệp
Trong nền kinh tế thị trường, để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh,
các doanh nghiệp cần có sự kết hợp của ba yếu tố: Sức lao động, tư liệu lao động
và đối tượng lao động.
Tư liệu lao động khi tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh thì không
thay đổi hình thái biểu hiện ban đầu, giá trị được chuyển dịch từng phần vào giá
trị sản phẩm và chỉ được thu hồi qua nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh. Về mặt
hiện vật, tư liệu lao động là các tài sản cố định (máy móc, thiết bị, nhà
xưởng…). Về mặt giá trị thì được gọi là vốn cố định của doanh nghiệp.
Đối tượng lao động thì chỉ tham gia vào một chu kỳ sản xuất kinh doanh,
luôn thay đổi hình thái vật chất ban đầu, giá trị của nó được chuyển dịch một lần
và toàn bộ vào giá trị sản phẩm và được thu hồi toàn bộ khi kết thúc một chu kỳ
kinh doanh. Xét về mặt hình thái hiện vật gọi là các tài sản lưu động (TSLĐ), xét
về hình thái giá trị được gọi là vốn lưu động (VLĐ) của doanh nghiệp. TSLĐ gồm
hai bộ phận: TSLĐ sản xuất và TSLĐ lưu thông.
- TSLĐ sản xuất gồm: Vật tư để dự trữ để đảm bảo quá trình sản xuất được
tiến hành liên tục như: nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ, nhiên liệu,… và những
vật tư đang trong quá trình cần hoàn thiện như: sản phẩm dở dang, bán thành
phẩm.
- TSLĐ lưu thông: Là những TSLĐ nằm trong quá trình lưu thông của doanh
nghiệp như sản phẩm hàng hóa chờ tiêu thụ, vốn bằng tiền, vốn trong thanh
toán, chi phí trả trước,…
Trong quá trình sản xuất, TSLĐ sản xuất và TSLĐ lưu thông luôn vận
động, thay thế chuyển hóa lẫn nhau làm cho quá trình sản xuất kinh doanh được
diễn ra liên tục, thường xuyên.


3


LuËn v¨n tèt nghiÖp
Tùy từng điều kiện sản xuất, lĩnh vực kinh doanh mà mỗi doanh nghiệp đòi
hỏi phải có lượng TSLĐ nhất định để quá trình kinh doanh được diễn ra liên tục,
thường xuyên. Hình thành nên số TSLĐ này, các doanh nghiệp phải ứng ra một
số vốn tiền tệ nhất định đầu tư vào các tài sản đó, số vốn này được gọi là VLĐ
của doanh nghiệp. VLĐ của doanh nghiệp thường xuyên vận động, chuyển hóa
qua nhiều hình thái khác nhau:
Đối với doanh nghiệp sản xuất: sự vận động của VLĐ trải qua 3 giai đoạn:
T – H – SX – H’ – T’
Trong đó: T’ = T+T
+ Giai đoạn mua sắm dự trữ vật tư: ở giai đoạn này, VLĐ từ hình thái vốn
bằng tiền chuyển sang hình thái vật tư dự trữ.
+ Giai đoạn sản xuất: VLĐ từ hình thái vật tư dự trữ chuyển sang hình thái
sản phẩm dở dang, bán thành phẩm. Kết thúc quá trình sản xuất chuyển sang
hình thành vốn thành phẩm.
+ Giai đoạn tiêu thụ: VLĐ từ hình thái sản phẩm hàng hoá chuyển sang hình
thành vốn bằng tiền.
Đối với doanh nghiệp thương mại: sự vận động của VLĐ qua 2 giai đoạn:
T – H – T’
Trong đó: T’ = T + T
+ Giai đoạn mua: vốn từ hình thái tiền tệ chuyển sang hình thái vốn hàng hoá
dự trữ.
+ Giai đoạn bán: VLĐ từ hình thái hàng hoá dự trữ chuyển sang vốn bằng
tiền.
Sự vận động của VLĐ từ hình thái ban đầu là vốn bằng tiền chuyển qua các
hình thái khác nhau của các giai đoạn trong quá trình sản xuất kinh doanh cuối
cùng lại trở về hình thái ban đầu của nó gọi là sự tuần hoàn của VLĐ. Do quá

trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp diễn ra một cách thường xuyên liên
tục nên VLĐ tuần hoàn không ngừng, được lặp đi lặp lại có tính chất chu kì và
được gọi là sự chu chuyển của VLĐ. Do sự chu chuyển không ngừng cho nên
4


LuËn v¨n tèt nghiÖp
trong cùng một lúc thường xuyên có sự tồn tại của các bộ phận VLĐ khác nhau
trên các giai đoạn khác nhau của quá trình sản xuất. Trong quá trình tham gia
vào sản xuất kinh doanh, VLĐ chuyển hết giá trị ngay trong một lần và được
hoàn lại toàn bộ khi doanh nghiệp thực hiện xong việc tiêu thụ và xác định có
doanh thu. Do đó VLĐ hoàn thành một vòng tuần hoàn sau một chu kỳ sản xuất
kinh doanh.
Như vậy từ những phân tích trên đây, ta có khái niệm về VLĐ: “VLĐ của
doanh nghiệp là số vốn ứng ra để hình thành nên các TSLĐ khác nhằm đảm bảo
cho quá trình kinh doanh của doanh nghiệp được thực hiện thường xuyên, liên
tục. VLĐ luân chuyển toàn bộ ngay trong một lần và thu hồi toàn bộ, hoàn
thành một vòng luân chuyển khi kết thúc một chu kỳ kinh doanh.”
1.1.2. Phân loại VLĐ
Để quản lý VLĐ được tốt cần phải phân loại VLĐ. Dựa theo tiêu thức khác
nhau, có thể chia VLĐ thành các loại khác nhau. Thông thường có một số cách
phân loại chủ yếu sau đây:
1.1.2.1. Dựa vào hình thái biểu hiện và khả năng hoán tệ của vốn
Nếu dựa trên tiêu thức hình thái biểu hiện và khả năng hoán tệ của vốn thì
VLĐ trong doanh nghiệp có thể được chia thành hai loại:
* Vốn bằng tiền và các khoản phải thu:
Vốn bằng tiền bao gồm: Tiền mặt tại quỹ, tiền gửi Ngân hàng và tiền đang
chuyển. Tiền là một loại tài sản có tính linh hoạt cao, doanh nghiệp có thể dễ
dàng chuyển đổi thành các loại tài sản khác hoặc để trả nợ. Dù vậy, trong hoạt
động kinh doanh đòi hỏi mỗi doanh nghiệp cần phải có một lượng tiền cần thiết

nhất định.
Các khoản phải thu (vốn trong thanh toán) bao gồm: Chủ yếu là các khoản
phải thu của khách hàng (thể hiện ở số tiền mà các khách hàng nợ doanh nghiệp
phát sinh trong quá trình bán hàng, cung ứng dịch vụ dưới hình thức bán trước
trả sau). Ngoài ra với một số trường hợp mua sắm vật tư khan hiếm, doanh

5


LuËn v¨n tèt nghiÖp
nghiệp còn có thể phải ứng trước tiền mua hàng cho người cung ứng, từ đó hình
thành khoản tạm ứng.
* Vốn về hàng tồn kho:
Trong doanh nghiệp sản xuất, vốn vật tư hàng hóa gồm: Vốn về vật tư dự
trữ, vốn sản phẩm dử dang, vốn thành phẩm. Các loại này được gọi chung là vốn
về hàng tồn kho. Xem xét chi tiết hơn cho thấy, vốn về hàng tồn kho của doanh
nghiệp gồm:
Vốn về nguyên vật liệu chính: Là giá trị các loại nguyên vật liệu chính dự
trữ cho sản xuất, khi tham gia vào sản xuất, chúng hợp thành thực thể của sản
phẩm.
Vốn vật liệu phụ : Là giá trị các loại vật liệu phụ dự trữ cho sản xuất, giúp
cho việc hình thành sản phẩm, nhưng không hợp thành thực thể chính của sản
phẩm, chỉ làm thay đổi màu sắc, mùi vị, hình dáng bề ngoài của sản phẩm hoặc
tạo điều kiện cho quá trình sản xuất kinh doanh thực hiện thuận lợi.
Vốn nhiên liệu: Là giá trị các loại nhiên liệu dự trữ dùng trong hoạt động
sản xuất kinh doanh.
Vốn phụ tùng thay thế: Là giá trị cá loại vật tư dùng để thay thế, sửa chữa
các tài sản cố định.
Vốn vật đóng gói: Là giá trị các loại vật liệu bao bì dùng để đóng gói sản
phẩm trong qua trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.

Vốn công cụ, dụng cụ: Là giá trị các loại công cụ dụng cụ không đủ tiêu
chuẩn tài sản cố định dùng cho hoạt động kinh doanh.
Vốn sản phẩm đang chế: Là biểu hiện bằng tiền các chi phí sản xuất kinh
doanh đã bỏ ra cho các loại sản phẩm đang trong quá trình sản xuất (Giá trị sản
phẩm dở dang, bán thành phẩm).
Vốn về chi phí trả trước: Là các khoản chi phí thực tế đã phát sinh nhưng
có tác dụng cho nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh nên chưa thể tính hết vào giá
thành sản phẩm trong kỳ này, mà được tính dần vào giá thành sản phẩm các kỳ
tiếp theo như chi phí cải tiến kỹ thuật, chi phí nghiên cứu thí nghiệm…
6


LuËn v¨n tèt nghiÖp
Vốn thành phẩm: Là giá trị những sản phẩm đã được sản xuất xong, đạt tiêu
chuẩn kỹ thuật và đã được nhập kho.
Trong các doanh nghiệp thương mại, vốn về hàng tồn kho chủ yếu là giá trị
các loại hàng hóa dự trữ.
Việc phân loại VLĐ theo cách này tạo điều kiện thuận lợi cho việc xem xét
đánh giá mức tồn kho dự trữ và khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Mặt
khác, thông qua cách phân loại này có thể tìm các biện pháp phát huy chức năng
các thành phần vốn và biết được kết cấu VLĐ theo hình thái biểu hiện để định
hướng điều chỉnh sao cho hợp lý và có hiệu quả.
Từ các cách phân loại trên giúp cho doanh nghiệp có thể xác định được kết
cấu VLĐ của mình theo những tiêu thức khác nhau. Kết cấu VLĐ phản ánh
thành phần và mối quan hệ trong tỷ lệ giữa các thành phần trong tổng số vốn lưu
động của doanh nghiệp.
Tại các doanh nghiệp khác nhau thì kết cấu VLĐ cũng không giống nhau,
thậm chí tại một doanh nghiệp nhưng ở những thời điểm khác nhau thì kết cấu
VLĐ cũng khác nhau. Việc phân tích kết cấu VLĐ của doanh nghiệp theo các
tiêu thức phân loại để hiểu rõ hơn những đặc điểm riêng về số VLĐ mà mình

đang quản lý và sử dụng. Từ đó xác định đúng đắn các trọng điểm và biện pháp
quản lý VLĐ có hiệu quả hơn, phù hợp với điều kiện cụ thể của doanh nghiệp.
1.1.2.2. Dựa vào vai trò của VLĐ đối với quá trình sản xuất kinh doanh
Theo cách phân loại này thì vốn lưu động được chia làm 3 loại: VLĐ trong
khâu dự trữ sản xuất,VLĐ trong khâu trực tiếp sản xuất và VLĐ trong khâu lưu
thông.
* VLĐ trong khâu dự trữ sản xuất:
Bao gồm:
- Vốn nguyên, vật liệu chính.
- Vốn vật liệu phụ.
- Vốn nhiên liệu.
- Vốn phụ tùng thay thế.
7


LuËn v¨n tèt nghiÖp
- Vốn vật đóng gói.
- Vốn công cụ dụng cụ nhỏ.
* VLĐ trong khâu trực tiếp sản xuất:
Bao gồm:
- Vốn sản phẩm đang chế tạo.
- Vốn về chi phí trả trước.
* VLĐ trong khâu lưu thông:
Bao gồm:
- Vốn thành phẩm.
- Vốn bằng tiền.
- Vốn trong thanh toán: Gồm các khoản phải thu và các khoản tiền tạm ứng
trước phát sinh trong quá trình mua vật tư hàng hóa hoặc thanh toán nội bộ.
- Các khoản vốn đầu tư ngắn hạn về chứng khoán, cho vay ngắn hạn…
Phương pháp này cho phép biết được kết cấu VLĐ theo vai trò. Từ đó, giúp

cho việc đánh giá tình hình phân bổ VLĐ trong các khâu của quá trình luân
chuyển vốn, thấy được vai trò của từng thành phần vốn đối với quá trình kinh
doanh. Trên cơ sở đó, đề ra các biện pháp tổ chức quản lý thích hợp nhằm tạo ra
một kết cấu VLĐ hợp lý, tăng được tốc độ luân chuyển VLĐ.
1.1.3. Kết cấu VLĐ và các nhân tố ảnh hưởng tới kết cấu VLĐ của doanh nghiệp
Từ các cách phân loại trên giúp cho doanh nghiệp có thể xác định được kết
cấu VLĐ của mình theo những tiêu thức khác nhau. Kết cấu VLĐ phản ánh
thành phần và mối quan hệ trong tỷ lệ giữa các thành phần trong tổng số vốn lưu
động của doanh nghiệp.
Tại các doanh nghiệp khác nhau thì kết cấu VLĐ cũng không giống nhau,
thậm chí tại một doanh nghiệp nhưng ở những thời điểm khác nhau thì kết cấu
VLĐ cũng khác nhau. Việc phân tích kết cấu VLĐ của doanh nghiệp theo các
tiêu thức phân loại để hiểu rõ hơn những đặc điểm riêng về số vốn VLĐ mà
mình đang quản lý và sử dụng. Từ đó xác định đúng đắn các trọng điểm và biện

8


LuËn v¨n tèt nghiÖp
pháp quản lý VLĐ có hiệu quả hơn, phù hợp với điều kiện cụ thể của doanh
nghiệp.
* Các nhân tố ảnh hưởng đến kết cấu VLĐ:
- Các nhân tố về mặt cung ứng, dự trữ vật tư, thành phẩm:
Biểu hiện của sự ảnh hưởng này được thể hiện ở những điểm sau:
+ Khoảng cách giữa doanh nghiệp với nguồn vật tư: ảnh hưởng tới việc dự
trữ nguyên vật liệu, vật tư của doanh nghiệp, khoảng cách này càng gần thì mỗi
lần mua nguyên vật liệu càng ít dẫn tới nhu cầu dự trữ giảm, còn nếu khoảng
cách này càng xa thì mỗi lần mua phải mua nhiều lên làm cho nhu cầu dự trữ
tăng.


+ Khả năng cung cấp của thị trường: nếu thị trường trong giai đoạn đang
trong thời gian khan hiếm hàng hoá vật tư thì doanh nghiệp phải dự trữ nhiều để
đảm bảo sản xuất kinh doanh được diễn ra bình thường và liên tục. Ngược lại,
nếu thị trường luôn sẵn sàng đáp ứng đầy đủ nhu cầu nguyên vật liệu hàng hoá
của doanh nghiệp thì doanh nghiệp sẽ không cần phải dự trữ nhiều.
+ Kỳ hạn giao hàng và khối lượng vật tư mỗi lần cung cấp: kỳ hạn dài, khối
lượng vật tư nhiều thì doanh nghiệp phải dự trữ nhiều và ngược lại.
+ Tính thời vụ và sự khan hiếm của vật tư: đối với nguyên vật liệu theo mùa
như hàng nông sản chẳng hạn thì lượng hàng tồn kho sẽ lớn vào thời điểm thu
hoạch và sẽ ít vào thời điểm cuối vụ. Ví dụ điển hình là dự trữ hàng tồn kho của
các doanh nghiệp thương mại hoạt động trong lĩnh vực thu mua nông sản như
gạo, cà phê,…thường tăng cao vào khi vào vụ thu hoạch của nông dân.
+ Khoảng cách giữa doanh nghiệp với thị trường tiêu thụ: điều này ảnh hưởng
đến việc dự trữ thành phẩm của doanh nghiệp. Thị trường tiêu thụ càng gần thì
doanh nghiệp càng dễ tiêu thụ hàng hoá cho nên mức dự trữ cũng được giảm đi.
+ Hợp đồng giao bán và khối lượng hàng hoá bán ra.
+ Hàng hoá tiêu thụ có tính chất thời vụ: ảnh hưởng đến khối lượng hàng tồn
kho của doanh nghiệp tại mỗi thời điểm.
- Những nhân tố về mặt sản xuất:
9


LuËn v¨n tèt nghiÖp
+ Đặc điểm kỹ thuật công nghệ thường ảnh hưởng tới vốn sản phẩm dở dang,
công nghệ càng cao thì sản phẩm dở dang càng ít. Mặt khác việc đầu tư vào
khoa học công nghệ làm tăng định phí tuy nhiên sẽ góp phần làm giảm biến phí
trên một đơn vị sản phẩm do đó giảm nhu cầu VLĐ của doanh nghiệp.
+ Mức độ phức tạp của sản phẩm chế tạo: sản phẩm càng phức tạp thì sản
phẩm dở dang càng nhiều và ngược lại.
+ Độ dài của chu kỳ sản xuất nếu chu kỳ kỹ thuật sản xuất nhiều công đoạn

thì sản phẩm dở dang càng nhiều do vậy mà nhu cầu VLĐ càng lớn.
+ Trình độ tổ chức quản lý sản xuất của doanh nghiệp.
- Những nhân tố về mặt thanh toán: đây là các nhân tố ảnh hưởng trực tiếp
đến kết cấu VLĐ trong lưu thông.
+ Các nhân tố tổ chức thu hồi tiền hàng như phương pháp thanh toán hợp lý,
thủ tục thanh toán gọn, không để khách hàng chịu nhiều sẽ làm giảm tỷ trọng
các khoản nợ phải thu.
+ Tình hình chấp hành kỷ luật thanh toán giữa các đơn vị, thực hiện hợp đồng
thanh toán, lựa chọn hình thức thanh toán cũng ảnh hưởng đến kết cấu VLĐ.
Chẳng hạn nếu lựa chọn hình thức thanh toán bằng tiền, phương thức thanh toán
chuyển khoản thì kết cấu vốn nghiêng về tiền gửi ngân hàng…
Ngoài các nhân tố kể trên, kết cấu VLĐ còn ảnh hưởng bởi tính chất thời
vụ của sản xuất, trình độ tổ chức quản lý…
1.1.4. Nguồn hình thành VLĐ của doanh nghiệp
1.1.4.1. Theo quan hệ sở hữu về vốn
Nếu căn cứ quan hệ về vốn trong doanh nghiệp thì nguồn VLĐ của doanh
nghiệp được chia làm 2 loại:
- Nguồn vốn chủ sở hữu: là số vốn huy động được thuộc quyền sở hữu của
doanh nghiệp, doanh nghiệp có đầy đủ các quyền chiếm hữu, sử dụng, chi phôi
và định đoạt. Tuỳ theo loại hình sở hữu doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh
tế khác nhau mà vốn chủ sở hữu có những nội dung cụ thể như: Nguồn vốn từ
ngân sách cấp hay có nguồn gốc từ ngân sách cho các Công ty nhà nước; Vốn do
10


LuËn v¨n tèt nghiÖp
chủ doanh nghiệp tư nhân bỏ ra; Vốn góp cổ phần trong các Công ty cổ phần;
Vốn bổ sung từ lợi nhuận để lại nhằm đáp ứng nhu cầu mở rộng quy mô sản
xuất của doanh nghiệp …
- Các khoản nợ phải trả (nguồn vốn bên ngoài doanh nghiệp):

+ Nguồn vốn tín dụng: là số vốn vay của các ngân hàng thương mại, các tổ
chức tín dụng hoặc qua phát hành trái phiếu.
+ Nguồn vốn chiếm dụng: phản ánh số vốn mà doanh nghiệp chiếm dụng
một cách hợp pháp của các chủ thể khác. Trong nền kinh tế thị trường phát sinh
các quan hệ thanh toán như: phải trả người bán, phải nộp ngân sách, phải trả
công nhân viên…
Cách phân loại này cho thấy kết cấu VLĐ của doanh nghiệp được hình
thành từ vốn bản thân hay từ các nguồn ngoại sinh. Từ đó có các quyết định
trong huy động và quản lý, sử dụng VLĐ một cách hợp lý, đảm bảo an toàn về
tài chính trong sử dụng vốn của doanh nghiệp. Thông thường các doanh nghiệp
luôn có các cách sử dụng kết hợp cả hai loại này.
1.1.4.2. Căn cứ theo thời gian huy động vốn và sử dụng vốn
Nguồn VLĐ được chia thành: Nguồn VLĐ thường xuyên và nguồn VLĐ
tạm thời.
- Nguồn VLĐ thường xuyên: Là tổng thể các nguồn vốn có tính chất ổn định
và dài hạn mà doanh nghiệp có thể sử dụng để hình thành nên các TSLĐ thường
xuyên cần thiết.
Để đảm bảo quá trình sản xuất, kinh doanh được tiến hành thường xuyên,
liên tục thì ứng với một quy mô kinh doanh nhất định, thường xuyên phải có
một lượng TSLĐ nhất định nằm trong các giai đoạn luân chuyển như các tài sản
dự trữ về nguyên vật liệu, sản phẩm dở dang, bán thành phẩm, thành phẩm và nợ
phải thu từ khách hàng. Nguồn VLĐ thường xuyên của doanh nghiệp tại một
thời điểm được xác định như sau:
Nguồn VLĐ
thường xuyên

=

Tổng nguồn vốn thường
xuyên của doanh nghiệp

11

-

Giá trị còn lại của TSCĐ
và các tài sản dài hạn khác


LuËn v¨n tèt nghiÖp
=

TSLĐ - Nợ ngắn hạn

Trong đó:
Tổng nguồn vốn thường
xuyên của DN
Hoặc

=

Vốn chủ sở hữu

=

Tổng tài sản – Nợ ngắn hạn

Giá trị còn lại của TSCĐ =

Nguyên giá TSCĐ


+

-

Nợ dài hạn

Khấu hao lũy kế

- Nguồn VLĐ tạm thời: Là nguồn vốn có tính chất ngắn hạn (dưới một năm)
mà doanh nghiệp có thể sử dụng để đáp ứng nhu cầu có tính chất tạm thời, bất
thường phát sinh trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nguồn
vốn này thường bao gồm: Các khoản vay ngắn hạn, các khoản phải trả người
bán, các khoản phải trả phải nộp khác…
Mỗi doanh nghiệp có cách thức phối hợp khác nhau giữa nguồn VLĐ
thường xuyên và nguồn VLĐ tạm thời trong công việc đảm bảo nhu cầu chung
về VLĐ của doanh nghiệp.
Cách phân loại trên giúp cho nhà quản trị xem xét, huy động các nguồn phù
hợp với thực tế của doanh nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng và tổ chức
nguồn vốn. Mặt khác đây cũng là cơ sở để lập kế hoạch quản lý và sử dụng vốn
sao cho có hiệu quả lớn nhất với chi phí nhỏ nhất.
1.1.4.3. Căn cứ vào phạm vi huy động vốn
Dựa vào tiêu thức này thì nguồn VLĐ của doanh nghiệp được chia thành
nguồn vốn bên trong doanh nghiệp và nguồn vốn bên ngoài doanh nghiệp.
- Nguồn vốn bên trong doanh nghiệp: là nguồn vốn có thể huy động từ bản
thân các hoạt động của doanh nghiệp như tiền khấu hao TSCĐ, lợi nhuận để lại
tái đầu tư, các khoản dự phòng…
- Nguồn vốn bên ngoài doanh nghiệp: là nguồn vốn mà doanh nghiệp có thể
huy động từ việc vay ngân hàng, vay tổ chức tín dụng, phát hành trái phiếu, cổ
phiếu…


12


LuËn v¨n tèt nghiÖp
Cách phân loại này giúp nhà quản lý tài chính nắm bắt được tỷ trọng của
từng nguồn vốn theo phạm vi huy động, để từ đó có hoạch định những chính
sách huy động vốn hợp lý tạo lập được một cơ cấu vốn tối ưu nhất.
1.1.5. Nhu cầu VLĐ và các phương pháp xác định nhu cầu VLĐ của doanh
nghiệp
1.1.5.1. Nhu cầu VLĐ của doanh nghiệp
Quá trình kinh doanh của doanh nghiệp diễn ra thường xuyên, liên tục tạo
thành chu kỳ kinh doanh.
“Chu kỳ kinh doanh của doanh nghiệp là khoảng thời gian trung bình cần
thiết để thực hiện việc mua sắm, dự trữ vật tư, sản xuất ra sản phẩm và bán
được sản phẩm, thu được tiền bán hàng.”
Thông thường người ta chia chu kỳ kinh doanh của doanh nghiệp thành 3
giai đoạn sau:

BẮT ĐẦU
Mua sắm, dự trữ
vật tư cần thiết

KẾT THÚC
Sản xuất
tạo ra sản
phẩm

Bán được sản
phẩm, thu được
tiền bán hàng


Do đó, trong chu kỳ kinh doanh của doanh nghiệp phát sinh nhu cầu VLĐ.
“Nhu cầu VLĐ của doanh nghiệp thể hiện số vốn tiền tệ cần thiết doanh nghiệp
phải trực tiếp ứng ra để hình thành một lượng dự trữ hàng tồn kho và khoản cho
khách hàng nợ sau khi đã sử dụng khoản tín dụng của nhà cung cấp và các
khoản nợ phải trả khác có tính chất chu kỳ (tiền lương phải trả, tiền thuế phải
nộp…)”.
Có thể xác định nhu cầu VLĐ của doanh nghiệp theo công thức sau:

Nhu cầu
Mức dự
Khoản phải
vốn lưu = trữ hàng +
thu từ
động
tồn kho
khách hàng
13

Khoản phải trả nhà cung
cấp và các khoản nợ phải
trả khác có tính chu kỳ


LuËn v¨n tèt nghiÖp

Trong đó:
- Mức dự trữ hàng tồn kho: là mức dự trữ những tài sản của doanh nghiệp để
sản xuất hoặc bán ra sau này. Thường thì mức dự trữ hàng tồn kho của doang
nghiệp tồn tại dưới 3 hình thức: nguyên nhiên vật liệu dự trữ sản xuất, các sản

phẩm dở dang và các thành phẩm chờ tiêu thụ.
- Khoản phải thu từ khách hàng: là khoản mà đơn vị phải thu của người mua
sản phẩm, khoản lao vụ và dịch vụ của người giao thầu, xây dựng cơ bản về các
khối lượng công tác xây dựng cơ bản đơn vị đã hoàn thành, bàn giao nhưng
chưa được trả tiền.
- Khoản phải trả nhà cung cấp: là những khoản phát sinh trong quá trình
thanh toán, có tính chất tạm thời mà doanh nghiệp chưa thanh toán cho các bên
do chưa đến hạn thanh toán hoặc trong thời hạn thanh toán theo hợp đồng ký
kết.
Số VLĐ mà doanh nghiệp phải trực tiếp ứng ra tùy thuộc vào nhu cầu VLĐ
lớn hay nhỏ trong từng thời kỳ kinh doanh. Trong công tác quản lý VLĐ, một
vấn đề quan trọng là phải xác định được nhu cầu VLĐ cần thiết tương ứng với
một quy mô và điều kiện kinh doanh nhất định.
“Nhu cầu VLĐ thường xuyên cần thiết tối thiểu là số vốn tính ra phải đủ để
đảm bảo cho quá trình tái sản xuất được tiến hành một cách liên tục. Đồng thời
phải thực hiện chế độ tiết kiệm một cách hợp lý.”
Việc xác định nhu cầu VLĐ thường xuyên của doanh nghiệp là một vấn đề
phức tạp. Tùy theo đặc điểm kinh doanh và điều kiện cụ thể của doanh nghiệp
trong từng thời kỳ mà có thể lựa chọn áp dụng các phương pháp khác nhau để
xác định nhu cầu VLĐ. Hiện có 2 phương pháp chủ yếu: phương pháp trực tiếp
và phương pháp gián tiếp.
a/ Phương pháp trực tiếp xác định nhu cầu VLĐ thường xuyên của
doanh nghiệp

14


LuËn v¨n tèt nghiÖp
Nội dung cơ bản của phương pháp này là: Căn cứ vào các yếu tố ảnh hưởng
trực tiếp đến lượng VLĐ doanh nghiệp phải ứng ra để xác định nhu cầu VLĐ

thường xuyên.
Trình tự của phương pháp này như sau:
- Xác định nhu cầu vốn để dự trữ hàng tồn kho cần thiết cho hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp.
- Xác định chính sách tiêu thụ sản phẩm và khoản tín dụng cung cấp cho
khách hàng.
- Xác định các khoản nợ phải trả cho nhà cung cấp.
- Tổng hợp xác định nhu cầu VLĐ của doanh nghiệp.
(*) Nhu cầu VLĐ xác định theo phương pháp này tương đối sát và phù hợp
với cá doanh nghiệp trong điều kiện hiện nay. Tuy vậy, nó có hạn chế là việc
tính toán tương đối phức tạp, khối lượng tính toán lớn và mất nhiều thời gian.
b/ Phương pháp gián tiếp xác định nhu cầu VLĐ thường xuyên của
doanh nghiệp
Phương pháp này dựa vào thống kê kinh nghiệm để xác định nhu cầu vốn.
Có thể chia làm 2 trường hợp:
Trường hợp thứ nhất: Là dựa vào kinh nghiệm theo thực tế của các doanh
nghiệp cùng loại trong ngành để xác định nhu cầu vốn cho doanh nghiệp mình.
Việc xác định nhu cầu VLĐ theo cách này là dựa vào hệ số VLĐ tính theo
doanh thu được rút từ thực tế hoạt động của các doanh nghiệp cùng loại trong
ngành. Trên cơ sở đó xem xét quy mô kinh doanh dự kiến theo doanh thu của
doanh nghiệp mình để tính ra nhu cầu VLĐ cần thiết.
Phương pháp này tương đối đơn giản, tuy nhiên mức độ chính xác bị hạn
chế. Nó thích hợp với việc xác định nhu cầu VLĐ khi thành lập doanh nghiệp
với quy mô nhỏ.
Trường hợp thứ hai: Dựa vào tình hình thực tế sử dụng VLĐ ở thời kỳ vừa
qua của doanh nghiệp để xác định nhu cầu chuẩn về VLĐ cho các thời kỳ tiếp
theo.
15



LuËn v¨n tèt nghiÖp
Nội dung chủ yếu của phương pháp này là dựa vào mối quan hệ giữa các
yếu tố hợp thành nhu cầu VLĐ gồm: Hàng tồn kho, nợ phải thu từ khách hàng
và nợ phải trả nhà cung cấp (số nợ phải trả phát sinh có tính chất tự động và có
tính chất chu kỳ) với doanh thu thuần của kỳ vừa qua để xác định tỷ lệ chuẩn
nhu cầu VLĐ tính theo doanh thu và sử dụng tỷ lệ này để xác định nhu cầu VLĐ
cho các kỳ tiếp theo.
Phương pháp này thực hiện theo trình tự sau:
- Xác định số dư bình quân các khoản hợp thành nhu cầu VLĐ trong năm
báo cáo. Khi xác định số dự bình quân các khoản phải phân tích tình hình để loại
trừ số liệu không hợp lý.
- Xác định tỷ lệ các khoản trên so với doanh thu thuần trong năm báo cáo.
Trên cơ sở đó xác định tỷ lệ nhu cầu VLĐ so với doanh thu thuần.
- Xác định nhu cầu VLĐ cho kỳ kế hoạch.
1.2. SỰ CẦN THIẾT PHẢI NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VLĐ CỦA
DOANH NGHIỆP TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1.2.1. Hiệu quả sử dụng VLĐ và sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử
dụng VLĐ của doanh nghiệp
Trong nền kinh tế hiện nay có thể tồn tại và phát triển để đạt được lợi nhuận
tối đa, các doanh nghiệp phải không ngừng nâng cao trình độ quản lý các hoạt
động kinh doanh của mình. Một trong những vấn đề cần phải quan tâm phát
triển đó là nâng cao hiệu quả sử dụng vốn nói chung và nâng cao hiệu quả sử
dụng VLĐ nói riêng.
“Hiệu quả sử dụng vốn là sử dụng và điều hoà vốn thích hợp với tình
hình sản xuất kinh doanh của từng thời kỳ, từng thời điểm sao cho tốt nhất
cho doanh nghiệp.”
Quan niệm về tính hiệu quả của việc sử dụng VLĐ phải được hiểu trên hai
khía cạnh:
+ Một là, với số vốn hiện có có thể sản xuất thêm một số lượng sản phẩm với
chất lượng tốt, giá thành hạ để tăng thêm lợi nhuận cho doanh nghiệp.

16


LuËn v¨n tèt nghiÖp
+ Hai là, đầu tư thêm vốn một cách hợp lý nhằm mở rộng quy mô sản xuất để
tăng doanh thu tiêu thụ sản phẩm với yêu cầu đảm bảo tốc độ tăng trưởng của
lợi nhuận phải lớn hơn tốc độ tăng vốn.
Hai khía cạnh cũng chính là mục tiêu cần đạt được trong công tác tổ chức
quản lý và sử dụng vốn sản xuất kinh doanh nói chung và VLĐ nói riêng. Nâng
cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động ngày càng là một vấn đề cốt yếu trọng doanh
nghiệp vì những lý do sau:
Trước hết, xuất phát từ mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận. Bất kỳ doanh nghiệp
nào khi tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh cũng hướng tới mục tiêu lợi
nhuận. Lợi nhuận là chỉ tiêu chất lượng tổng hợp liên quan tới tất cả các hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, đó là nguồn tích lũy cơ bản để tái
đầu tư, tái sản xuất mở rộng. Trong điều kiện hiện nay, doanh nghiệp có thể tồn
tại và phát triển được hay không thì điều kiện quyết định là doanh nghiệp có tạo
ra được lợi nhuận hay không? Vì vậy lợi nhuận được coi là một trong những đòn
bẩy quan trọng, là chỉ tiêu cơ bản để đánh giá hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp. Do đó trong quá trình sản xuất, việc sử dụng VLĐ như thế nào để
tối đa hóa lợi nhuận là một bài toán dành cho mọi doanh nghiệp.
Thứ hai, xuất phát từ vị trí, vai trò to lớn của VLĐ trong quá trình sản xuất
kinh doanh: Để đảm bảo cho các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp diễn ra một cách thông suốt, liên tục thì ở bất cứ một quy mô hoạt động
nào đều cần phải có một lượng VLĐ phù hợp. Đó là điều kiện quyết định và ảnh
hưởng đến toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Với vai trò
quan trọng đó đòi hỏi doanh nghiệp phải luôn quan tâm đến việc nâng cao hiệu
quả sử dụng và quản lý VLĐ.
Bên cạnh đó, trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện nay , sự cạnh tranh
giữa các doanh nghiệp ngày một quyết liệt, không chỉ bó hẹp trong phạm vi một

quốc gia mà còn mở rộng tới phạm vi cả thế giới. Đứng trước những đòi hỏi
ngày một khắt khe của người tiêu dùng, sản phẩm hàng hóa phải đa dạng về
chủng loại, chất lượng phải không ngừng được nâng cao. Để thực hiện được
17


LuËn v¨n tèt nghiÖp
điều này, doanh nghiệp phải huy động và khai thác các nguồn lực của mình một
cách hợp lý, tiết kiệm và hiệu quả. Từ đó, doanh nghiệp mới có khả năng tái đầu
tư, cải tiến máy móc, tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng, hạ giá thành
sản phẩm. Nâng cao hiệu quả sử dụng VLĐ giúp doanh nghiệp có khả năng mở
rộng quy mô, lĩnh vựa kinh doanh, tạo ra hiệu quả kinh tế, tăng công ăn việc làm
cho người lao động.
Thứ ba, trong điều kiện nền kinh tế nước ta đang phát triển, nhu cầu VLĐ
của doanh nghiệp là rất lớn, song nguồn tài trợ lại có hạn. Do vậy, vấn đề nâng
cao hiệu quả sử dụng vốn càng trở nên một vấn để hết sức cần thiết. Lựa chọn
các hình thức và phương pháp huy động VLĐ thích hợp sẽ giảm được một
khoản chi phí sử dụng vốn không cần thiết, do đó tác động lớn đến việc tăng lợi
nhuận cho doanh nghiệp.
Thứ tư, do tình trạng nền kinh tế nước ta hiện nay, tình hình kinh doanh
kém hiệu quả còn diễn ra tại nhiều doanh nghiệp. Do chưa thích ứng được với
các quy luật khắt khe của nền kinh tế thị trường, trình độ quản lý còn yếu kém
nên đã dẫn đến việc lâm vào tình trạng lúng túng, trì trệ, thậm chí phá sản. Sau
mỗi chu kỳ kinh doanh, vốn không được bảo toàn do thua lỗ trong kinh doanh.
Vì vậy, để nhanh chóng thích ứng với cơ chế mới, nhanh chóng theo kịp với tốc
độ phát triển kinh tế thế giới hiện nay thì cần khắc phục tình trạng yếu kém, trì
trệ, cần phải quan tâm nhiều hơn tới hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh
nói chung và VLĐ nói riêng.
Xuất phát từ những khía cạnh trên cho thấy sự cần thiết phải nâng cao hiệu
quả tổ chức sử dụng VLĐ trong các doanh nghiệp. Đây là một khâu quan trọng

trong công tác quản lý tài chính, là vấn đề quyết định đến sự tồn tại và phát triển
của doanh nghiệp.
1.2.2. Một số chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng VLĐ của doanh nghiệp
Để đánh giá hiệu quả sử dụng VLĐ trong các doanh nghiệp, người ta
thường sử dụng các chỉ tiêu sau:
18


LuËn v¨n tèt nghiÖp
1.2.2.1 Tốc độ luân chuyển VLĐ
Việc sử dụng hợp lý VLĐ biểu hiện ở tăng tốc độ luân chuyển VLĐ.
Tốc độ luân chuyển VLĐ nhanh hay chậm nói lên hiệu suất sử dụng VLĐ
của doanh nghiệp là cao hay thấp.
Tốc độ luân chuyển VLĐ được biểu hiện ở hai chỉ tiêu:
+ Số lần luân chuyển VLĐ (Vòng quay VLĐ):
M
L

=
VLĐbq

Trong đó:
L: Số lần luân chuyển VLĐ ở trong kỳ.
M: Tổng mức luân chuyển của VLĐ hay DTT bán hàng trong kỳ.
VLĐbq: VLĐ bình quân trong kỳ.
Chỉ tiêu này phản ánh số lần luân chuyển VLĐ hay số vòng quay của
VLĐ thực hiện được trong một thời kỳ nhất định (thường là 1 năm).
+ Kỳ luân chuyển VLĐ:
Chỉ tiêu này phản ánh số ngày bình quân cần thiết để VLĐ thực hiện
được một lần luân chuyển hay độ dài thời gian một vòng quay của VLĐ

trong kỳ

N
K=

VLĐbq x N
hay

K=

L

M

Trong đó:
K: Kỳ luân chuyển vốn lưu động.
19


LuËn v¨n tèt nghiÖp
N: Số ngày trong kỳ được tính chẵn 1 năm là 360 ngày, 1 quý là 90
ngày, 1 tháng là 30 ngày.
VLĐbq: VLĐ bình quân được sử dụng ở trong kỳ.
M: Tổng mức luân chuyển của VLĐ hay DTT bán hàng trong kỳ.
1.2.2.2. Mức tiết kiệm VLĐ
Chỉ tiêu này phản ánh số VLĐ tiết kiệm được do tăng tốc độ luân chuyển
VLĐ ở kỳ so sánh (kỳ kế hoạch) so với kỳ gốc (kỳ báo cáo).
M1

M1


L1

L0

V TK =
Trong đó:
V TK: Số VLĐ có thể tiết kiệm (-) hay phải tăng thêm (+) do ảnh hưởng
của tốc độ luân chuyển VLĐ kỳ so sánh với kỳ gốc.
M1: Tổng mức luân chuyển VLĐ kỳ so sánh.
L1; L0: Số lần luân chuyển VLĐ kỳ so sánh, kỳ gốc.
1.2.2.3. Hàm lượng vốn lưu động
Hàm lượng VLĐ (còn gọi là mức đảm nhiệm VLĐ) là số VLĐ cần có
để đạt một đồng doanh thu thuần về tiêu thụ sản phẩm. Chỉ tiêu này được
tính như sau:

VLĐbq
Hàm lượng =

Sn

VLĐ
Trong đó:
Sn : Doanh thu thuần bán hàng trong kỳ.

20


LuËn v¨n tèt nghiÖp
Chỉ tiêu này phản ánh để có một đồng doanh thu thuần về bán hàng cần

bao nhiêu VLĐ. Chỉ tiêu này càng thấp thì hiệu quả sử dụng VLĐ càng cao.
1.2.2.4. Tỷ suất lợi nhuận trên VLĐ
Chỉ tiêu này phản ánh một đồng VLĐ có thể tạo ra bao nhiêu đồng lợi
nhuận trước hoặc sau thuế.
Tỷ suất lợi
nhuận sau

Lợi nhuận trước hoặc sau thuế
=

VLĐ

thuế

x 100%

1.2.2.5. Một số chỉ tiêu khác
+ Số vòng quay hàng tồn kho

VHTK

GVHB

=

HTKbq
Trong đó:
GVHB: Giá vốn hàng bán
HTKbq: Hàng tồn kho bình quân trong kỳ
Chỉ tiêu này phản ánh số lần mà hàng tồn kho luân chuyển bình quân

trong kỳ. Số vòng quay càng cao chứng tỏ việc kinh doanh càng tốt vì chỉ
cần đầu tư cho hàng tồn kho thấp nhưng vẫn thu được doanh thu cao.
+ Số vòng quay các khoản phải thu
Vòng quay
các khoản

Doanh thu bán hàng (có thuế)
=

phải thu

Số dư bình quân các khoản phải thu

Chỉ tiêu này phản ánh tốc độ chu chuyển vốn trong thanh toán của
doanh nghiệp. Vòng quay các khoản phải thu càng lớn chứng tỏ tốc độ thu
hồi các khoản phải thu nhanh, giảm số vốn bị chiếm dụng.
+ Kỳ thu tiền bình quân
21


LuËn v¨n tèt nghiÖp
Kỳ thu tiền
bình quân

Số dư bình quân các khoản phải thu

=

Doanh thu có thuế bình quân 1 ngày


Chỉ tiêu này phản ánh độ dài thời gian thu tiền bán hàng của doanh
nghiệp kể từ lúc xuất giao hàng cho đến khi thu được tiền bán hàng. Kỳ thu
tiền trung bình của doanh nghiệp phụ thuộc chủ yếu vào chính sách bán chịu
và việc tổ chức thanh toán của doanh nghiệp.
1.2.2.6. Các chỉ tiêu thể hiện khả năng thanh toán
+ Hệ số khả năng thanh toán nợ ngắn hạn
Hệ số khả năng thanh toán

=

nợ ngắn hạn

Tổng tài sản ngắn hạn
Nợ ngắn hạn

Hệ số này phản ánh khả năng chuyển đổi tài sản thành tiền để trang trải
các khoản nợ ngắn hạn, vì thế hệ số này cũng thể hiện mức độ đảm bảo
thanh toán các khoản nợ ngắn hạn của DN.
+ Hệ số khả năng thanh toán nhanh
Hệ số khả năng
thanh toán nhanh

=

Tổng tài sản ngắn hạn – Hàng tồn kho
Nợ ngắn hạn

Hệ số này phản ánh khả năng thanh toán các khoản nợ trong một thời gian
ngắn, không dựa vào việc bán các loại vật tư hàng hoá.
+ Hệ số khả năng thanh toán tức thời

Hệ số khả năng thanh toán

=

Tiền + Các khoản tương đương tiền

Nợ ngắn hạn
tức thời
Hệ số này cho phép đánh giá sát hơn khả năng thanh toán của doanh
nghiệp.
+ Hệ số khả năng thanh toán lãi vay
Hệ số khả năng thanh toán
lãi vay

=

Lãi vay phải trả + lợi nhuận trước thuế
Lãi vay phải trả

22


LuËn v¨n tèt nghiÖp
Hệ số này cho biết khả năng thanh toán lái tiền vay của doanh nghiệp và
phản ánh mức độ rủi ro có thể gặp phải đối với các chủ nợ
Trên đây là một số chỉ tiêu tài chính giúp doanh nghiệp đứng trên nhiều góc
độ khác nhau thực hiện sự đánh giá toàn diện đối với việc tổ chức và sử dụng
VLĐ của mình.
1.3. PHƯƠNG HƯỚNG, BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG
VLĐ CỦA DOANH NGHIỆP

1.3.1. Những nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng VLĐ của doanh
nghiệp
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, VLĐ của doanh nghiệp vận động
liên tục từ hình thái này sang hình thái khác, tại mỗi thời điểm nó tồn tại
dưới nhiều hình thức khác nhau. Trong quá trình vận động đó VLĐ chịu ảnh
hưởng của rất nhiều nhân tố. Chính vì vậy, trong hoạt động kinh doanh của
mình, để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn các doanh nghiệp phải đi sâu phân
tích các nhân tố ảnh hưởng để từ đó đề ra được các giải phái hợp lý nhằm
nâng cao hơn nữa hiệu quả sử dụng vốn cũng như hiệu quả sản xuất kinh
doanh của mình. Xét một cách tổng quát, có một số nhân tố ảnh hưởng đến
hiệu quả sử dụng VLĐ trong doanh nghiệp như sau:

1.3.1.1. Các nhân tố chủ quan
Các nhân tố chủ quan là những nhân tố chủ yếu quyết định đến hiệu
quả sử dụng vốn của doanh nghiệp gồm có :
* Cơ cấu vốn của doanh nghiệp
Việc xác định cơ cấu vốn càng hợp lý bao nhiêu thì hiệu quả sử dụng
vốn của doanh nghiệp càng được tối ưu hóa bấy nhiêu. Nếu bố trí cơ cấu vốn
không hợp lý, làm mất cân đối giữa VCĐ và VLĐ dẫn đến làm thiếu hoặc
thừa một loại vốn nào đó sẽ làm giảm hiệu quả sử dụng vốn.
23


LuËn v¨n tèt nghiÖp
* Nhu cầu VLĐ của doanh nghiệp
Việc xác định nhu cầu VLĐ của doanh nghiệp thiếu chính xác dẫn đến
thừa hoặc thiếu vốn đều ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp. Nếu thiếu vốn sẽ gây gián đoạn quá trình sản xuất kinh
doanh, làm xuất hiện tình trạng công nhân viên không phải làm việc mà vẫn
được hưởng lương theo quy định, còn nếu thừa vốn sẽ gây lãng phí, làm tăng

chi phí kinh doanh. Như vậy thừa hoặc thiếu vốn đều làm giảm hiệu quả sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
* Việc sử dụng vốn
Do việc sử dụng lãng phí, nhất là VLĐ trong quá trình sản xuất kinh
doanh như : mua sắm vật tư không đúng chất lượng kỹ thuật, bị hao hụt
nhiều trong quá trình mua sắm cũng như trong quá trình sản xuất, không tận
dụng được các phế phẩm, phế liệu loại ra. Điều này gây ảnh hưởng đến hiệu
quả sử dụng VLĐ trong doanh nghiệp.
* Lựa chọn phương án kinh doanh, phương án sản phẩm thích hợp
Hiệu quả sử dụng VLĐ của doanh nghiệp trước hết được quyết định bởi
khả năng sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Do vậy các doanh nghiệp phải luôn
quan tâm đến việc sản xuất sản phẩm gì, số lượng bao nhiêu, tiêu thụ ở đâu
và với mức giá nào để còn có phương án huy động các nguồn lực hợp lý,
nhằm đạt được mức lợi nhuận tối đa. Trong nền kinh tế thị trường, quy mô
và tính chất sản xuất kinh doanh đều do thị trường quyết định. Việc dự đoán,
nắm bắt thời cơ là yếu tố quyết định sự thành bại trong kinh doanh. Vì vậy
việc lựa chọn phương án kinh doanh, phương án sản phẩm có ảnh hưởng lớn
đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Các phương án được lựa chọn phải dựa trên cơ sở tiếp cận thị trường,
xuất phát từ nhu cầu thị trường. Có như vậy, sản phẩm sản xuất ra mới có
khả năng tiêu thụ nhanh, sức cạnh tranh lớn, hiệu quả kinh tế cao và đồng
thời nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp.
24


LuËn v¨n tèt nghiÖp
* Trình độ các nhà quản lý của doanh nghiệp
Cán bộ quản lý doanh nghiệp luôn phải được nâng cao nghiệp vụ
chuyên môn và tư cách đạo đức nghề nghiệp. Phải kiểm tra các số liệu kế
toán một cách thận trọng trước khi ra quyết định cho các hoạt động sản xuất

kinh doanh. Ngoài ra, trong quá trình sản xuất kinh doanh mọi nguồn thu,
chi của doanh nghiệp phải rõ ràng, tiết kiệm, đúng lúc, đúng chỗ... có như
vậy mới nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp.
* Mối quan hệ của doanh nghiệp
Mối quan hệ của doanh nghiệp thể hiện trên hai phương diện, đó là mối
quan hệ giữa doanh nghiệp với khách hàng và giữa doanh nghiệp với nhà cung
cấp. Mối quan hệ của doanh nghiệp rất quan trọng vì nó ảnh hưởng đến nhịp độ
sản xuất và khả năng tiêu thụ sản phẩm...qua đó ảnh hưởng đến lợi nhuận của
doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp có mối quan hệ tốt với khách hàng thì sản
phẩm tiêu thụ nhanh và dễ dàng hơn. Mặt khác quan hệ giữa doanh nghiệp và
nhà cung cấp tốt thì nguyên vật liệu phục vụ cho quá trình sản xuất sẽ được cung
ứng kịp thời, đẩy nhanh tiến độ sản xuất của doanh nghiệp, tránh được tình trạng
ngừng hoạt động do thiếu nguyên nhiên vật liệu, làm giảm được những chi phí
không cần thiết.

1.3.1.2. Các nhân tố khách quan
Ngoài những nhân tố chủ quan trên, việc quản lý và sử dụng VLĐ của
doanh nghiệp còn chịu nhiều ảnh hưởng của một số nhân tố khách quan. Đây
là những nhân tố nằm ngoài tầm kiểm soát của doanh nghiệp, doanh nghiệp
không thể khắc phục một cách hoàn toàn mà phải thích ứng và phòng ngừa
hợp lý.
* Cơ chế và các chính sách của nhà nước

25


×