Tải bản đầy đủ (.pdf) (78 trang)

Bước đầu nghiên cứu một số nguyên nhân gây gãy ngang thân keo lai (acacia mangium x acacia auriculiformis) ở trạm thực nghiệm hàm yên, tuyên quang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.03 MB, 78 trang )

Bộ giáo dục và đào tạo

Bộ nông nghiệp và Phát triển nT

Trường đại học lâm nghiệp
--------------------------------------------------

Trần Thị Quyên

Bước đầu nghiên cứu một số nguyên nhân gây gãy
ngang thân Keo lai (Acacia Mangium Acacia Auriculiformis)
ở Trạm thực nghiệm Hàm Yên, Tuyên Quang

Luận Văn thạc sỹ khoa học lâm nghiệp

Hà Tây, 2007


Bộ giáo dục và đào tạo

Bộ nông nghiệp và Phát triển NT

Trường đại học lâm nghiệp
--------------------------------------------------

Trần thị quyên

Bước đầu nghiên cứu một số nguyên nhân gây gãy
ngang thân Keo lai (Acacia Mangium Acacia Auriculiformis)
ở Trạm thực nghiệm Hàm Yên, Tuyên Quang


Chuyên ngành: Lâm Học
Mã số: 60.62.60

Luận Văn thạc sỹ khoa học lâm nghiệp

Người hướng dẫn: GS.TS Nguyễn Hải Tuất

Hà Tây, 2007



1

Đặt vấn đề
Keo lai là giống lai tự nhiên giữa Keo tai tượng và Keo lá tràm. Giống
lai tự nhiên này được Trung tâm nghiên cứu giống cây rừng, Viện khoa học
Lâm nghiệp phát hiện và chủ trì nghiên cứu. Kết quả nghiên cứu bước đầu cho
thấy, Keo lai có nhiều đặc tính sinh vật học, sinh thái học ưu việt hơn hẳn các
loài cây bố, mẹ và một số loài cây khác như: sinh trưởng nhanh, biên độ sinh
thái rộng, có khả năng thích ứng với nhiều loại đất, điều kiện lập địa khác
nhau; Có một lượng nốt sần vi khuẩn cố định đạm lớn (lớn hơn so với loài cây
bố, mẹ), có khả năng chịu hạn (Lê Đình Khả, 1999) Gỗ Keo lai được sử
dụng trong công nghiệp giấy, công nghiệp gia công chế biến các loại ván sàn,
ván dăm, cung cấp gỗ trụ mỏ, củi và chất đốt tại chỗ cho người dân địa
phương. Ngoài ra trong các mô hình nông lâm kết hợp, Keo lai còn có thể là
một trong số các loài cây trồng kết hợp với các loài cây mục đích khác như: cà
phê, chè, cây ăn quả vừa có tác dụng phòng hộ vừa cho thêm sản phẩm phụ
để tăng thêm thu nhập, nâng cao hiệu quả của mô hình. Như vậy, có thể nói
Keo lai là một loài cây đa tác dụng.
Năm 1995, Hội đồng khoa học của Bộ Lâm nghiệp (cũ) đã tổ chức đánh

giá các dòng vô tính Keo lai tại Ba Vì. Hội đồng đã khuyến nghị đưa ra một số
dòng vô tính tốt nhất đã được chọn lọc qua khảo nghiệm tại Ba Vì vào trồng
thử nghiệm tại một số vùng sinh thái chính ở nước ta. Các mô hình dòng vô
tính đó là: BV5, BV10, BV16, BV29, BV32 và BV33 (Lê Đình Khả, 1999).
Năm 2000, các dòng vô tính Keo lai BV10, BV16, BV32 của Trung tâm
Nghiên cứu giống cây rừng thuộc Viện khoa học Lâm nghiệp Việt Nam;
TB03, TB05, TB06, TB12 của Trung tâm Nghiên cứu giống cây rừng và Trung
tâm Khoa học Sản Xuất lâm nghiệp Đông Nam Bộ thuộc Viện khoa học Lâm
nghiệp Việt Nam và dòng KL2 của Viện cây nguyên liệu giấy Phù Ninh đã
được công nhận là giống quốc gia [4]


2

Từ những ưu điểm đã nói ở trên mà trong những năm qua (đặc biệt là
giai đoạn 1999 2004) Keo lai đã được gây trồng phổ biến ở nhiều vùng sinh
thái trong cả nước và được đánh giá là một trong những giống cây trồng chủ
lực, chiếm tỷ trọng trong các chương trình trồng rừng và khôi phục rừng ở
nước ta. Chỉ tính riêng ở vùng Trung tâm Bắc Bộ, giai đoạn 2002 - 2004 đã
gây trồng gần 5000 ha Keo lai, chiếm khoảng 26,5% tổng diện tích rừng cả
vùng [42]. Và trong quyết định số 16/2005/QĐ-BNN của Bộ Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn ngày 15/03/2005, Keo lai được xác định là 1 trong 48 loài
cây trồng chính để trồng rừng sản xuất ở các vùng sinh thái [5].
Tuy nhiên, hiện nay ở 1 số địa phương, lâm trường xẩy ra hiện tượng
Keo lai bị đổ gãy hàng loạt sau mỗi lần gió bão và ở một số nơi còn có hiện
tượng Keo lai bị khô ngọn làm cho năng suất cũng như chất lượng rừng Keo
lai giảm đi. Vì lý do đó mà diện tích trồng Keo lai đã dần bị thu hẹp.
Xuất phát từ thực tế trên, để xây dựng cơ sở khoa học làm căn cứ cho
việc đề xuất các giải pháp tối ưu, phục vụ cho nhu cầu thực tiễn kinh doanh
rừng Keo lai trong cả nước nói chung và rừng Keo lai ở Hàm Yên nói riêng, tôi

tiến hành nghiên cứu đề tài:
Bước đầu nghiên cứu một số nguyên nhân gây gãy ngang thân Keo lai
(Acacia Mangium Acacia Auriculiformis) ở Trạm thực nghiệm Hàm Yên,
Tuyên Quang


3

Chương 1
tổng quan vấn đề nghiên cứu
1.1. Giới thiệu sơ lược về nguồn gốc cây Keo lai
Keo lai là tên gọi viết tắt để chỉ giống lai tự nhiên giữa Keo tai tượng
(Acacia mangium) và Keo lá tràm (Acacia auriculiformis). Giống lai tự nhiên
này được Messrs Herburn và Shim phát hiện lần đầu tiên vào năm 1972 trong
số các cây Keo tai tượng trồng ven đường ở Sook Telupid thuộc bang Sabah
của Malaysia. Sau này Tham (1972) cũng coi đó là giống lai (Lê Đình Khả,
1999 [20]).
Keo lai tự nhiên còn được phát hiện ở Papua New Guinea (Turnbull,
1986, Gun et al, 1987), ở một số nơi khác tại Malaisia (Rufelds, 1987; Darus,
1989) và Thái Lan (Kijkar, 1992). Ngoài ra, Keo lai tự nhiên còn được tìm thấy
trong vườn ươm Keo tai tượng (lấy giống tại Malaysia) của trạm nghiên cứu JonPu của viện nghiên cứu lâm nghiệp Đài Loan (Kiang Tao et al, 1988) và ở khu
trồng Keo tai tượng ở Quảng Châu (Trung Quốc) (Lê Đình Khả, 1999 [20]).
Tại Việt Nam Keo lai được Trung tâm nghiên cứu giống cây rừng (Viện
Khoa học lâm nghiệp Việt Nam) phát hiện tại Ba Vì (Hà Tây), Đông Nam Bộ
và Tân Tạo (Thành Phố Hồ Chí Minh). Sau đó, Keo lai đã được phát hiện lác
đác tại nhiều nơi ở Đông Nam Bộ, ở Trung Bộ, Tây Nguyên và ở Bắc Bộ
Các cây lai này đã xuất hiện trong các rừng trồng Keo tai tượng lấy giống từ
các khu khảo nghiệm Keo tai tượng trồng cạnh Keo lá tràm tại Đông Nam Bộ
và tại Ba Vì. Vì thế có thể biết mẹ của chúng là Keo tai tượng và bố chúng là
Keo lá tràm (Lê Đình Khả, 1997, 1999 [17], [20]).


1.2. Nghiên cứu Keo lai trên thế giới
Như đã nói ở trên, Keo lai được Messrs Herburn và Shim phát hiện lần
đầu tiên vào năm 1972 ở Sook Telupid thuộc bang Sabah của Malaysia. Sau


4

nhiều năm với nhiều công trình nghiên cứu, đến 7/1978 sau khi xem xét các
mẫu tiêu bản tại Phòng tiêu bản thực vật ở Queensland (Australia), Pedgley đã
công nhận đó là giống lai tự nhiên giữa Keo tai tượng và Keo lá tràm (Lê Đình
Khả, 1997 [17]).
Những nghiên cứu về tỷ lệ xuất hiện cây Keo lai cho thấy: ở khu
Ulukukut, Keo lai có thể xuất hiện với tỷ lệ 3-4 cây /ha, còn theo thông báo
miệng của Wong (dẫn từ Pinso và Nasi, 1991) thì Keo lai đã xuất hiện với tỷ lệ
1 Keo lai: 500 Keo tai tượng và có thể thấy cây lai con gần các cây lai đã trưởng
thành. Trong các vườn ươm tại Sabah: ở vườn ươm Keo tai tượng (trong trường
hợp này Keo tai tượng là mẹ và Keo lá tràm là bố) tỷ lệ Keo lai xuất hiện có thể
đạt 3,3 9,3%, cá biệt có trường hợp có thể đạt 23%; Còn trong vườn ươm Keo
lá tràm (Keo tai tượng là bố và Keo lá tràm là mẹ) tỷ lệ Keo lai xuất hiện là 6,8
10,3%, cá biệt có thể đến 22,5% (Gan and Sim Boon Liang, 1991) (Lê Đình
Khả, 1999 [20]).
Rufelds, 1988 và Gan and Sim Boon Liang, 1991 khi nghiên cứu hình
thái cây con Keo lai cho thấy: Keo lai xuất hiện lá giả sơm hơn Keo tai tượng
và muộn hơn Keo lá tràm. Nói cách khác, cây lai thể hiện đặc tính trung gian
giữa hai loài bố mẹ.
Tính trung gian giữa Keo tai tượng và Keo lá tràm của Keo lai còn được
phát hiện ở các tính trạng như hoa tự, hoa và hạt (Bowen, 1981), hình thái
nhiễm sắc thể (Shukor et al, 1994) (Lê Đình Khả, 1997, 1999 [17], [20]).
Theo thông báo của Tham, 1976 thì cây lai thường cao hơn cả 2 loài bố

mẹ, song vẫn giữ hình dáng kém của Keo lá tràm. Còn theo thông báo miệng
của Wong thì trong nhiều trường hợp ở Sabah, cây lai vẫn giữ được hình dáng
đẹp của Keo tai tượng. Ông cũng thấy ưu thế lai thể hiện rất rõ ở Ulu Kukut và
cây lai thường to và cao hơn hẳn so với các loài Keo Bố mẹ. Tuy vậy, Rufelds
(1987) lại không tìm thấy sự sai khác nào đáng kể về sinh trưởng của Keo lai
so với các loài bố mẹ (Lê Đình Khả, 1999 [20]).


5

Đánh giá Keo lai tại Sabah một cách tổng hợp của Pinso và Nasi, 1991
[44] cho thấy: cây lai có ưu thế lai và ưu thế lai này có thể chịu ảnh hưởng của
cả yếu tố di truyền lẫn điều kiện lập địa. Sinh trưởng của cây Keo lai tự nhiên
đời F1 tốt hơn xuất xứ Sabah của Keo tai tượng song kém hơn các xuất xứ
ngoại lai như Oriomo River (Papua New Guinea) hoặc Claudie River
(Queensland, Australia), còn sinh trưởng của những cây lai đời F2 trở đi thì rất
không đồng đều với trị số trung bình còn kém hơn cả Keo tai tượng, mặc dù
một số cây xuất sắc có khá hơn.
Khi đánh giá các chỉ tiêu chất lượng của cây Keo lai Pinso và Nasi (1991)
thấy rằng độ thẳng thân, đoạn thân dưới cành, độ tròn đều của thân, vv ở Keo
lai đều tốt hơn hai loài Keo bố mẹ và cho rằng Keo lai rất phù hợp cho trồng
rừng thương mại. Cây Keo lai còn có ưu điểm là có đỉnh ngọn sinh trưởng tốt,
thân cây đơn trục và tỉa cành tự nhiên tốt (Pinyopusarerk, 1990) [44]
Keo lai đã được nghiên cứu nhân giống bằng hom (Griffin, 1988) hoặc
nuôi cấy mô bằng môi trường cơ bản Murashige và Skooge (MS) có thêm
6-Benzyl amino purine (BAP) 0,5mg/l và cho ra rễ trong phòng hoặc nền cát
sông 100% với khả năng ra rễ đến hơn 70% (Darus, 1991). Sau một năm cây
mô có thể cao 1,09m (Lê Đình Khả, 1999 [20]).
Những nghiên cứu về tiềm năng bột giấy Keo lai ở Malaysia [45], 2002
cho kết quả: Keo lai đem lại sản lượng bột giấy cao hơn so với Keo tai tượng.

Sản phẩm giấy tạo ra cũng có độ bền cơ học cao hơn về mặt khả năng chịu sự
gấp nếp, chỉ số làm rách, vò. Nó tạo ra sự thuận lợi khi in và viết bởi đặc tính
trơn và độ sáng cao. Hơn nữa, giấy sản xuất từ gỗ Keo lai có giá thành thấp
hơn so giấy sản xuất từ gỗ Keo tai tượng.

1.3. Những nghiên cứu về Keo lai ở Việt Nam
ở Việt Nam, Keo lai xuất hiện lác đác tại một số nơi ở Nam Bộ như Tân
Tạo, Trảng Bom, Sông Mây, Trị An và ở Ba Vì thuộc Bắc Bộ [13]. Những cây


6

lai này xuất hiện trong rừng Keo tai tượng với những tỷ lệ khác nhau. ở các tỉnh
Miền Nam là 3-4%, còn ở Ba Vì là 8-10%. Riêng giống lai tự nhiên ở Ba Vì
được xác định là giữa A.mangium (xuất xứ Daintree thuộc bang Queensland) với
A.auriculiformis (xuất xứ Dar-win thuộc bang North territoria của Australia).
Những nghiên cứu về Keo lai tự nhiên của các tác giả Lê Đình Khả,
Nguyễn Đình Hải, Phạm Văn Tuấn, Hồ Quang Vinh, Trần Cự, Lưu Bá Thịnh
(1993, 1995, 1997, 2001, 2005) [13], [15], [18], [34], [37] cho thấy: Keo lai là
một dạng lai tự nhiên giữa Keo tai tượng và Keo lá tràm, có tỷ trọng gỗ và
nhiều đặc điểm hình thái trung gian giữa hai loài Keo bố mẹ. Keo lai có có ưu
thế lai rõ rệt về sinh trưởng so với các loài bố mẹ. Điều tra sinh trưởng tại rừng
trồng Keo tai tượng có xuất hiện Keo lai tại Ba Vì cho thấy, Keo lai có sinh
trưởng nhanh hơn Keo tai tượng 1,2-1,6 lần về chiều cao và 1,3-1,8 lần về
đường kính, ở giai đoạn 4, 5 tuổi Keo lai có thể tích gấp 2 lần Keo tai tượng.
Tại Sông Mây, khi so sánh với Keo lá tràm cùng tuổi đã thấy rằng Keo lai sinh
trưởng nhanh hơn Keo lá tràm 1,3 lần về chiều cao, 1,5 lần về đường kính
Bảng 1.1. Sinh trưởng của Keo lai tại Ba Vì - Hà Tây và Sông Mây - Đồng Nai
Các chỉ tiêu sinh trưởng


Keo lai

Keo tai tượng

9,68
12,40
58,45

7,95
9,61
28,83

10,92
9,29
37,0

7,25
5,59
8,90

Keo lá tràm

Tại Ba Vì, làm đất cơ giới
(4.5 tuổi) Chiều cao Hvn (m)
Đường kính D1.3 (cm)
Thể tích V (dm3/cây)
Tại Song Mây, làm đất cơ giới
(3 tuổi) Chiều cao Hvn (m)
Đường kính D1.3 (cm)
Thể tích V (dm3/cây)


7,69
6,16
11,86

Kết quả khảo nghiệm khác của các tác giả cũng cho thấy: Hầu hết các
dòng Keo lai có sinh trưởng vượt trội hơn 2 loài Keo bố mẹ, ở giai đoạn 4 tuổi,
cây hom của Keo lai đời F1 có thể tích gấp 1,6 - 2 lần Keo tai tượng và 3 - 4 lần


7

Keo lá tràm. Tốc độ sinh trưởng của cây hom đời F1 nhanh hơn cây hạt và cây
hom của những xuất xứ sinh trưởng nhanh nhất trong các loài bố mẹ. Ví dụ, ở Ba
Vì (Hà Tây), Bình Thanh (Hoà Bình), Bình Phước ở cả phương thức trồng rừng
thâm canh hay quảng canh thì sinh trưởng của Keo lai cũng vượt trội hơn hẳn
Keo lá tràm và Keo tai tượng về cả đường kính, chiều cao và thể tích. Tuy nhiên,
giữa các dòng Keo lai được khảo nghiệm cũng có sự khác biệt rõ rệt về tốc độ
sinh trưởng, chất lượng thân cây và tỷ trọng gỗ. Một số dòng tuy có sinh trưởng
nhanh nhưng các chỉ tiêu chất lượng không đạt yêu cầu. Một số dòng vừa có sinh
trưởng nhanh vừa có các chỉ tiêu chất lượng tốt như: BV10, BV16, BV32, BV33,
TB3, TB6 có thể nhân nhanh hàng loạt để phát triển vào sản xuất.
Khi nghiên cứu sự thoái hoá và phân ly của cây Keo lai, GS.TS Lê Đình
Khả khẳng định: không nên dùng hạt của cây Keo lai để gây trồng rừng mới
[16]. Keo lai đời F1 có hình thái trung gian giữa hai loài bố mẹ và tương đối
đồng nhất, đồng thời có ưu thế lai rõ rệt về sinh trưởng và nhiều đặc trưng ưu
việt khác. Đến đời F2 Keo lai có biểu hiện thoái hoá và phân ly khá rõ rệt
thành các dạng cây khác nhau. Cây lai F2 không những có sinh trưởng kém
hơn cây lai đời F1 mà còn có biến động rất lớn về sinh trưởng. Tác giả cũng
khẳng định rằng: để phát triển giống lai vào sản xuất phải dùng phương pháp

nhân giống hom hoặc nuôi cấy mô cho những dòng Keo lai tốt nhất đã được
chọn lọc và đánh giá qua khảo nghiệm.
Nghiên cứu nhân giống hom Keo lai của Lê Đình Khả, Đoàn Thị Bích,
Nguyễn Đình Hải (1995, 1999) [21] cho thấy: Khi cắt cây để tạo chồi thì Keo
lai cho rất nhiêu chồi và từ đó cắt được một lượng hom khá lớn (trung bình 289
hom/gốc). Các hom này có tỷ lệ ra rễ trung bình là 47%, trong đó có 11 dòng
có tỷ lệ ra rễ 57-85%. Dùng thuốc kích thích ra rễ Indol Butiric Axit (IBA)
dạng bột (tức TTG1) nồng độ 0,75% có thể cho tỷ lệ ra rễ trung bình của Keo
lai là 86,7-93,3%.
Các nghiên cứu của Nguyễn Ngọc Tân, Trần Hồ Quang, Ngô Thị Minh


8

Duyên, Đoàn Thị Mai (1995, 1998) [23], [30] về nuôi cấy mô Keo lai cho
thấy: Có thể nhân nhanh Keo lai bằng phương pháp nuôi cấy mô trong môi
trường MS với BAP 2mg/l thì số chồi nhân lên 20-21 lần và có thể cho các
chồi ra rễ bằng biện pháp giâm hom thông thường trên nền cát sông được phun
sương trong nhà kính. Các tác giả đã xác định được môi trường thích hợp và tỷ
lệ các nguyên tố đa lượng, vi lượng, tỷ lệ các chất kích thích sinh trưởng cũng
như điều kiện môi trường tốt nhất (chế độ nhiệt, cường độ chiếu sáng) cho
nuôi cấy mô Keo lai.
Kết quả nghiên cứu tiềm năng bột giấy gỗ Keo lai [11], [13], [14] đã chỉ
ra rằng: gỗ Keo lai có tỷ trọng trung gian giữa Keo tai tượng và Keo lá tràm và
thấp hơn Bạch đàn trắng (xuất xứ Petford).
Các dòng Keo lai được lựa chọn có tỷ trọng gỗ và tính co rút của gỗ khác
nhau, trong đó dòng BV32 có tỷ trọng gỗ cao nhất, dòng BV16 có gỗ ít bị nứt
nhất khi phơi sấy khô.
Bảng 1.2. Tỷ trọng và mức độ nứt của gỗ ở các dòng Keo lai
được chọn và các loài bố mẹ

Loài cây
Keo lai
BV 5
BV10
BV16
BV29
BV32
BV33
Trung bình
A.m. Pongaki
A.au. Coen R
A.au. Morehed R
E.ca. Petfpord

Tỷ trọng gỗ
Khô tự
Khô kiệt
nhiên
0,583
0,528
0,577
0,511
0,629
0,617
0,574
0,555
0,576
0,633

0,498

0,467
0,480
0,474
0,537
0,494
0,491
0,474
0,493
0,541
0,576

Mức độ nứt vỏ
Số vết nứt
Chiều rộng TB
trên mặt cắt
vết nứt
1,5
1,0
0
1,67
1,33
1,67
1,20
1,22
0,60
1,00
0,94

2,83
2,27

0
3,17
1,67
4,83
2,46
3,89
1,00
2,50
1,44


9

Kết quả phân tích thành phần hoá học gỗ Keo lai so với 2 loài bố mẹ và
một số loài cây khác [11], [13], [14] cho trong bảng 1.3 ở dưới.
Bảng 1.3. Thành phần hoá học gỗ Keo lai và các cây nguyên liệu giấy khác
Loài cây

Xenlulo (%)

Linhin (%)

Pentozan (%)

Keo tai tượng (4 tuổi)

49,05

22,55


22,27

Keo lá tràm (4 tuổi)

47,64

25,65

20,06

Keo lai (4 tuổi)

49,00

25,65

20,52

Bồ đề

45,36

23,40

14,76

Mỡ

46,56


30,17

17,16

Bạch đàn Caman (7 tuổi)

48,10

27,50

19,60

Bạch đàn Uro (7 tuổi)

47,64

25,46

19,21

Qua nghiên cứu, các tác giả đã khẳng định: Hàm lượng xelulo của một
số dòng Keo lai cao hơn hẳn các loài cây làm nguyên liệu thông dụng đang
được sử dụng làm bột giấy hiện nay. Trong đó, dòng BV33 có hàm lượng
xellulo cao nhất, tiếp đến là các dòng BV10, BV5 (ở tuổi 5). Đánh giá một
cách tổng hợp về hàm lượng các chất trong gỗ có thể nói dòng BV10 là dòng
có giá trị cao nhất. Ngoài có hàm lượng xellulo cao, dòng BV10 còn có hàm
lượng linhin, hàm lượng các chất tan trong Cồn, benzel và hàm lượng chất tan
trong nước nóng (hàm lượng tạp chất) thấp, trong lúc hàm lượng pentozan
tương đối cao, tạo điều kiện cho xellulo dễ phân bố đều trên bề mặt giấy. Đây
là dòng được đánh giá là có hiệu suất bột giấy cao nhất và tiếp đến là các dòng

BV32, BV5, BV16 và BV29. Giấy được sản xuất từ các dòng Keo lai được
chọn có độ dài đứt và độ chịu gấp cao hơn rõ rệt so với hai loài Keo bố mẹ và
Bạch đàn trắng caman.
Khi nghiên cứu về nốt sần và khả năng cải tạo đất của Keo lai, các tác giả
đã khẳng định: các dòng Keo lai được lựa chọn không những sinh trưởng, có
hình dáng thân cây đẹp mà còn có một lượng nốt sần cố định đạm cao, đồng
thời có khả năng cải tạo đất tốt hơn cả hai loài cây bố mẹ [22], [43]. Trong điều


10

kiện tự nhiên ở giai đoạn vườn ươm 3 tháng tuổi, Keo lai có số lượng và khối
lượng nốt sần trên rễ nhiều gấp 3-10 lần hai loài Keo bố mẹ. Tuy nhiên, một số
dòng lại có tính chất trung gian. Sau khi nhiễm khuẩn một năm ở vườn ươm
Keo tai tượng có tăng trưởng mạnh hơn Keo lá tràm, tăng trưởng của Keo lai có
tính chất trung gian giữa hai loài bố mẹ. Dưới tán rừng 5 tuổi, số tế bào vi sinh
vật và vi khuẩn cố định đạm trong 1g đất dưới tán rừng Keo lai cao hơn rõ rệt
so với Keo tai tượng và Keo lá tràm đất dưới tán rừng Keo lai được cải thiện
hơn đất dưới tán các loài bố mẹ cả về hoá tính, lý tính và vi sinh vật đất [22].
Vũ Tấn Phương (2001) [29] khi nghiên cứu mối quan hệ giữa sinh trưởng của
Keo lai và một số tính chất của đất ở Ba Vì cho kết quả: độ ẩm đất dưới rừng
Keo lai ở các tuổi khác nhau được cải thiện một cách rõ rệt so với nơi không có
rừng. Độ ẩm đất, độ phì, dung trọng của đất cũng biến đổi theo hướng tích cực
khi tuổi rừng tăng đặc biệt ở tầng đất từ 0 - 20 cm.
Bảng 1.4. Nốt sần tự nhiên trên rễ cây ươm và số tế bào vi khuẩn cố định đạm
trong bầu đất của Keo lai và các loài bố mẹ ở giai đoạn 3 tháng tuổi (Ba Vì)
Loài cây

Số nốt


Khối lượng nốt sần/cây

Số TB vi khuẩn

sần/cây

Khô
(g/cây)

Tươi
(g/cây)

cố định đạm/g

BV5

80,3

0,080

0,41

18,61

BV10

54,7

0,089


0,33

15,42

BV16

50,1

0,126

0,43

12,45

BV32

59,7

0,120

0,41

9,04

BV33

39,9

0,116


0,39

5,38

Trung bình

56,5

0,110

0,41

12,62

Keo lá tràm hạt

16,9

0,015

0,15

16,62

Keo lá tràm hom

6,6

0,011


0,075

10,79

Keo tai tượng hạt

6,0

0,017

0,097

3,18

Keo tai tượng hom

8,7

0,011

0,099

5,66

đất (x105)

Keo lai


11


Nghiên cứu khả năng chịu hạn của một số dòng Keo lai được lựa chọn
tại Ba Vì cho thấy: các dòng Keo lai có sự khác nhau về cường độ thoát hơi
nước, áp suất thẩm thấu, độ ẩm cây héo và thể hiện tính chịu hạn cao hơn các
loài Keo bố mẹ. Trong đó dòng BV32, có sức chịu hạn tốt nhất, tiếp đó là các
dòng BV5, BV10, BV16 [17], [20].
Những nghiên cứu chọn lọc cây trội, nhân giống và bước đầu trồng
khảo nghiệm dòng vô tính Keo lai của Phạm Văn Tuấn, Lưu Bá Thịnh, Phạm
Văn Chiến (1995) [35] ở Đông Nam Bộ đã đưa ra kết luận: hom chồi của Keo
lai cho tỷ lệ ra rễ cao nhất nếu được giâm từ tháng thứ 5 đến tháng 7 và được
xử lý bằng iba dạng bột, nồng độ 0,7% va 1%. Trong đó, hom của các cá thể
Keo lai khác khau có tỷ lệ ra rễ khác nhau. Kết quả khảo nghiệm dòng vô tính
cho thấy, chỉ một số dòng Keo lai là có sinh trưởng nhanh hơn so với Keo tai
tượng và Keo lá tràm, đã chọn được các dòng Keo lai 3, 5, 6 và 12 có sinh
trưởng nhanh có thể nhân giống đại trà cho trồng rừng sản xuất ở Đông Nam
Bộ và các địa phương có điều kiện tương tự.
Kết quả nghiên cứu ứng dụng công nghệ rhizobium cho Keo lai ở vườn
ươm và rừng trồng của Lê Quốc Huy và Nguyễn Minh Châu cho thấy: áp
dụng bón chế phẩm rhizobium đa chủng cho Keo lai ở vườn ươm đã có tác
dụng tăng tất cả các chỉ tiêu sinh trưởng (Hn, Do, và sinh khối), bình quân đạt
từ 180- 200%. Còn tại rừng trồng Keo lai khi áp dụng chế phẩm rhizobium đa
chủng (20g/cây) cũng có tác dụng tăng sinh trưởng các chỉ tiêu về chiều cao,
đường kính, bình quân đạt 128-130% sau trồng 10 tháng và 118-120% sau 24
tháng [10]
Các công trình nghiên cứu về biện pháp kỹ thuật thâm canh để tăng
năng suất rừng trồng Keo lai có rất nhiều. Trong đó, nổi lên là công trình
nghiên cứu của tác giả Lê Đình Khả và Hồ Quang Vinh (1998) [19]. Kết quả
cho ở bảng 1.5 ở dưới:



12

Bảng 1.5. Sinh trưởng của Keo lai và các loài bố mẹ ở các điều kiện thâm
canh khác nhau tại Ba Vì (trồng tháng 10/1996 và đo vào tháng 7/1998)
Quảng canh
Giống

H
(m)

D1.3

V

Thâm canh cao
H

D1.3

V

(cm) (dm3/cây) (m) (cm) (dm3/cây)

Keo lai

4,4

3,7

4,7


6,3

6,3

19,6

Keo tai tượng hom, pongaki

2,4

2,5

1,2

3,7

4,6

6,1

Keo tai tượng hạt, Đồng Nai

2,4

2,5

1,2

3,2


4,3

4,6

Keo lá tràm hom, coen R

2,2

1,8

0,6

3,2

3,3

2,7

Keo lá tràm hạt. Đồng Nai

2,1

1,4

0,2

3,2

2,5


1,6

Ghi chú: Quảng canh: Không làm đất, bón 50gNPK/hố
Thâm canh : Cày toàn diện, bón mỗi hố 4 kg phân chuồng và 100g NPK

Như vậy, cải thiện giống và các biện pháp kỹ thuật thâm canh khác đều
có vai trò rất quan trọng để nâng cao năng suất rừng trồng. Muốn tăng năng
suất rừng trồng cao nhất phải áp dụng tổng hợp các biện pháp cải thiện giống
kết hợp với các biện pháp thâm canh. Sự kết hợp giữa giống được cải thiện với
các biện pháp kỹ thuật trồng rừng thâm canh mới tạo sẽ đạt được năng suất cao
trong sản xuất lâm nghiệp. Các giống Keo lai đã được chọn lọc sau khảo
nghiệm có năng suất cao hơn rất nhiều so với các loài bố mẹ [19].
Kết quả nghiên cứu của tác giả Phạm Thế Dũng, Ngô Văn Ngọc (2006)
[6] về biện pháp kỹ thuật thâm canh rừng trồng ở Bình Phước cho thấy: Keo
lai sinh trưởng nhanh trong 3 năm đầu, và có thể trồng Keo lai trên nhiều loại
đất ở vùng Đông Nam Bộ nhưng trên đất xám bạc màu phù sa cổ cần thiết phải
bón phân khi trồng. Trong điều kiện đất dốc, không nhất thiết phải san ủi thực
bì mà có thể phát dọn thủ công để trồng rừng, không nên đốt thực bì mà sử
dụng chúng làm lớp thảm rải đều trên mặt đất. Trên đất feralit phát triển trên
phù sa cổ và trên đất xám bạc màu vùng Đông Nam Bộ có thể bón lót hỗn hợp


13

phân vi sinh Sông Danh với NPK theo liều lượng 0,5kg+0,1kg/hố trước khi
trồng. Tuỳ theo điều kiện có thể bón thúc bằng phân vi sinh và NPK vào năm
thứ 2-3 nếu cây sinh trưởng kém. Trồng mật độ 1428 cây/ha nếu làm nguyên
liệu giấy. Trường hợp muốn sử dụng gỗ nhỡ và gỗ lớn nên trồng với mật độ
1111 cây/ha và nghiên cứu tiếp về vấn đề tỉa thưa. Phun thuốc diệt cỏ ridweed

2 lần/năm, trong hai năm đầu cho sinh trưởng cây tốt hơn và có thể thay thế
phương pháp dãy cỏ thông thường. Tỉa cành 2 lần khi rừng 8 và 20 tháng tuổi
cho cây sinh trưởng tốt nhất. Chăm sóc rừng thủ công 2 năm, với 3 lần/năm
vào các tháng 4, 8 và 12 tốt hơn chỉ chăm sóc 2 lần vào tháng 4 và tháng 12.
áp dụng tổng hợp các giải pháp kỹ thuật thâm canh rừng, có thể cho tăng trữ
lượng cao nhất tới 84,21% so với trồng rừng quảng canh.
Ngoài ra còn nhiều công trình nghiên cứu khác về biện pháp thâm canh
rừng trồng Keo lai. Ví dụ, công trình nghiên cứu của các tác giả: Nguyễn Huy
Sơn, Nguyễn Thanh Minh, Bùi Thanh Hằng, Nguyễn Toàn Thắng (2005) về
ảnh hưởng của một số biện pháp kỹ thuật thâm canh đến sinh trưởng rừng
trồng Keo lai ở Đông Nam Bộ,
Năm 2003, tác giả Nguyễn Trọng Nhân đã nghiên cứu cây Keo lai theo
hướng sử dụng gỗ làm nguyên liệu sản xuất ván dăm. Tác giả đã khẳng định
[26], độ bền uốn tĩnh, độ bền kéo vuông góc, tỷ lệ trương nở chiều dày của ván
phụ thuộc vào khối lượng thể tích của ván và vào tuổi của cây. Độ bền uốn tĩnh,
độ bền kéo vuông góc tăng theo khối lượng thể tích ván và tăng theo cấp tuổi
cây. Tỷ lệ trương nở chiều dày tăng theo khối lượng thể tích ván và giảm khi cấp
tuổi cây tăng. Ván dăm gỗ Keo lai 6 tuổi, loại ván 3 lớp, chất kết dính ureaformadehyde, keo lớp ngoài 12%, keo lớp trong 8%, với khối lượng thể tích
0,70g/cm3, 0,75g/cm3 độ bền uốn tĩnh tương đương là 16,15 MPa, 17,73 MPa,
độ bền kéo vuông góc đạt 0,34 MPa, 0,36 MPa. Nhìn chung, các loại ván này
đáp ứng yêu cầu loại ván 1A trong tiêu chuẩn cấp ngày 04TCN2-1999. Cũng


14

trong năm đó, khi nghiên cứu khuyết tật gỗ của một số loài Keo (trong đó có
Keo lai) làm nguyên liệu sản xuất đồ mộc xuất khẩu, tác giả Nguyễn Trọng
Nhân khẳng định: Gỗ Keo lai, Keo tai tượng, Keo lá tràm là nguyên liệu hiện
được sử dụng để sản xuất dăm giấy xuất khẩu. Không những thế, các loại gỗ
này còn được sử dụng làm nguyên liệu sản xuất đồ mộc xuất khẩu, trong đó có

bàn ghế dùng ngoài trời. Trong các loại gỗ được khảo sát, Keo lai và Keo lá
tràm khuyết tật do mắt gỗ chiếm tỷ lệ lớn. Khi sử dụng gỗ của 3 loại Keo trên
làm nguyên liệu sản xuất bàn ghế xuất khẩu dùng ngoài trời, phôi các chi tiết có
thể giảm tới 30% số lượng do có những khuyết tật mắt sống có đường kính
trung bình lớn hơn 2cm, mắt mục, gỗ biến màu và gỗ bị hà [27].
Gần đây, năm 2004 - 2005 tác giả Nguyễn trọng Bình đã tiến hành
nghiên cứu và lập ra biểu thể tích, biểu cấp đất, biểu sản lượng và biểu sản
phẩm tạm thời cho rừng Keo lai thuần loài. Với mục tiêu nghiên cứu là phục
vụ cho công tác điều tra, kinh doanh rừng trồng Keo lai, các nghiên cứu của
tác giả đã cung cấp những hiểu biết nhất định về qui luật sinh trưởng, sản
lượng làm cơ sở xác định qui mô, phạm vi gây trồng và kinh doanh loài cây
này một cách có hiệu quả [1], [2], [3].
Tóm lại, Keo lai là loài cây đa tác dụng. Chúng vừa có sinh trưởng
nhanh, cho năng suất rừng trồng cao, vừa có khả năng cải tạo, nuôi dưỡng, bảo
vệ môi trường sinh thái. Từ năm 1995 trở lại đây, đã có rất nhiều công trình
nghiên cứu về loài cây này. Tuy nhiên, những nghiên cứu tập trung chủ yếu ở
lĩnh vực giống, trồng rừng (như nghiên cứu khảo nghiệm giống; kỹ thuật tạo
giống; các biện pháp kỹ thuật trồng và thâm canh rừng), một số nghiên cứu
thuộc về lĩnh vực điều tra - sản lượng (nghiên cứu lập các biểu sản lượng) và
một số thuộc về lĩnh vực chế biến lâm sản (nghiên cứu sử dụng gỗ làm nguyên
liệu giấy, nguyên liệu ván dăm). Và đặc biệt, các số liệu công bố của các tác
giả hầu hết đều lấy từ rừng trồng trong các Trung tâm nghiên cứu, rất ít số liệu


15

được lấy từ rừng trồng của các đơn vị kinh doanh. Điều này làm cho kết quả
nghiên cứu phần nào mang tính chủ quan.
Vài năm gầy đây, vào mùa mưa bão, trong các lô rừng trồng Keo lai
thường xuất hiện hiện tượng cây bị đổ, gãy hàng loạt làm thiệt hại đáng kể cho

người làm nghề rừng. Hiện tượng này xuất hiện ở hầu hết các tỉnh thành có diện
tích rừng trồng Keo lai từ Bắc vào Nam. Theo GS.TS Lê Đình Khả và một số tác
giả khác thì Keo lai là giống cây ưa sáng mạnh lại sinh trưởng nhanh nên khi
trồng ở nơi có mưa lớn và gió mạnh thường hay bị đổ gãy. Tuy nhiên, cho đến
nay vẫn chưa có một công trình nghiên cứu cụ thể nào về các nguyên nhân dẫn
đến tình trạng đổ, gãy trên của Keo lai.


16

Chương 2
đặc điểm đối tượng nghiên cứu, Mục tiêu
và giới hạn đề tài
2.1. Đặc điểm đối tượng nghiên cứu
2.1.1. Một số đặc điểm về cây Keo lai
Keo lai là giống lai tự nhiên giữa Keo tai tượng và Keo lá tràm. Tên
khoa học: Acacia mangium Wild. x Acacia auriculiformis A. Cunn. ex Benth.
Một số đặc điểm chủ yếu: Cây gỗ thường xanh, cao 25 - 30m, đường
kính 30 - 40cm. Thân thẳng, vỏ màu xám, hơi nứt dọc. Lá, hoa, quả và hạt đều
có tính trung gian giữa Keo tai tượng và Keo lá tràm. Lá đơn, mọc cách 3 4 gân song song xuất phát từ gốc lá. Hoa tự bông đuôi sóc nhỏ, màu trắng
vàng. Quả đậu, mặt cắt ngang hình bầu dục. Quả chín tự khai. Hạt đen,
hình elip, dài 4 - 5mm, rộng 2,5 - 3,5mm. Sinh trưởng nhanh hơn Keo tai
tượng và Keo lá tràm. Năng suất có thể đạt 45 m3/ha/năm.
Phân bố tự nhiên:
- Địa phương: Việt Nam, Thái Lan, Malaysia, Indonesia, Australia, ấn
Độ và một số nước khác vùng Châu á - Thái Bình Dương.
- Vĩ độ: 8 - 22o.
- Độ cao so với mặt nước biển: 5 - 300m
Điều kiện khí hậu nơi nguyên sản:
- Lượng mưa trung bình năm: 1300 - 2500mm/năm

- Nhiệt độ trung bình năm: 23 - 27oC
- Nhiệt độ tối cao trung bình tháng nóng nhất: 31 - 34oC


17

- Nhiệt độ tối thấp trung bình tháng lạnh nhất: 15 - 22o C
Vùng có thể gây trồng ở Việt Nam:
- Vĩ độ: 8 - 22o
- Độ cao so với mặt nước biển: 5 - 500m (miền Nam), 5 - 300m (miền Bắc)
- Điều kiện khí hậu:
+ Lượng mưa TB năm: 1500-2500 mm/năm (tốt nhất là 1800-2500 mm/năm)
+ Mùa mưa ( 100 mm/tháng): từ tháng 4 đến tháng 10
- Nhiệt độ trung bình năm: 23 - 28oC
- Nhiệt độ tối cao trung bình tháng nóng nhất: 31 - 34oC
- Nhiệt độ tối thấp trung bình tháng lạnh nhất: 13 - 23o C
- Điều kiện đất đai:
+ Loại đất có thể trồng: đất phù sa và phù sa cổ, đất feralit phát triển trên
diệp thạch, sa thạch và sa diệp thạch, tối ưu: đất phù sa và phù sa cổ, đất phát
triển trên diệp thạch.
+ Độ sâu tầng đất có thể trồng: >40cm, tối ưu: >60cm
+ pH có thể trồng: 4 - 7, tối ưu: 5 - 6
+ Độ dốc có thể trồng: dưới 25o, tối ưu: dưới 15o
Vùng trồng và các giống có triển vọng
Xuất xứ
hoặc giống
BV10, BV16,
V32, BV33,

Vùng trồng (rất thích hợp: xxx, thích hợp vừa: xx, ít thích hợp: x)

Tây TTâm Đông

ĐB

Bắc Nam

Đông

Tây

Bắc

NB

Tây

MBắc

BBộ

Bbộ

TBộ TBộ Nguyên NBộ

xx

x

xxx


xxx

x

xx

xxx

x

xx

xx

x

BV71, BV75
TB6, TB12

xx


18

Công dụng:
+ Tính chất gỗ: Gỗ giác màu xám trắng, gỗ lõi màu nâu nhạt, tỷ trọng
gỗ khô tự nhiên: 0,56 - 0,63, tỷ trọng gỗ khô kiệt 0,48 - 0,54. Hiệu suất bột
giấy 0,49 - 0,52, rất thích hợp để làm giấy.
+ Gỗ được sử dụng vào nhiều mục đích khác nhau: làm nguyên liệu
giấy, dăm, MDF; làm gỗ xẻ, gỗ dán, gỗ đồ mộc (đóng bàn ghế)

+ Rễ Keo lai có nốt sần có tác dụng cải tạo đất, bảo vệ môi sinh.
2.1.2. Đặc điểm khu vực nghiên cứu
2.1.2.1. Điều kiện tự nhiên
* Vị trí địa lý: Hàm Yên là một huyện Miền núi nằm ở phía Bắc của tỉnh
Tuyên Quang, cách trung tâm Thị xã khoảng 43 Km, có tọa độ địa lý từ
21o0339 đến 22o0122 vĩ độ Bắc.
Địa giới hành chính bao gồm:
- Phía Đông giáp huyện Na Hang và huyện Chiêm Hoá.
- Phía Tây giáp huyện Yên Bình và huyện Lục Yên tỉnh Yên Bái
- Phía Nam giáp huyện Yên Sơn
- Phía Bắc giáp huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang
Huyện nằm dọc theo đường Quốc lộ 2. Toàn huyện có tổng diện tích tự
nhiên là 90,007 ha, với 18 đơn vị hành chính, bao gồm 17 xã, 1 thị trấn.
* Địa hình: Địa hình phân bố phức tạp, đồi núi cao, độ dốc lớn, tập
trung ở một số xã như Yên Thuận, Bạch Xa, Minh Dân, Phù Lưu, Yên Lâm.
* Đất đai: Đất ở khu vực Hàm Yên chủ yếu là đất Feralit vàng nâu phát
triển trên đá mẹ phiến thạch sét, độ sâu tầng đất trung bình từ 30 - 100 cm, pH
(KCl) bằng 4,7-4,8. Hàm lượng đạm và cacbon trung bình, lân dễ tiêu nghèo.
Đất có cấu tượng tốt, thành phần cơ giới trung bình.


19

* Khí hậu: Hàm Yên nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, một năm
chia làm 2 mùa rõ rệt: mùa mưa và mùa khô, mùa mưa từ tháng 4 đến tháng 9,
mùa khô từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau. Nhiệt độ trung bình là 230C với trung
bình tối cao là 27,70C và trung bình tối thấp là 19,20C, độ ẩm 87,0 %. Lượng
mưa trung bình năm là 1.800 - 2.200 mm, tập trung chủ yếu vào mùa nóng từ
tháng 5 - 8. Mùa khô nhiệt độ thấp và lạnh thường xuất hiện sương giá, mùa mưa
nhiệt độ cao thời tiết nóng ẩm thuận tiện cho một số cây trồng phát triển.

* Thuỷ văn : Hàm Yên có hệ thống Sông Lô chạy qua 13 xã, bắt đầu từ
xã Yên Thuận đến xã Đức Ninh. Về mùa mưa, lượng nước chảy qua sông Lô tại
huyện Hàm Yên rất lớn đã cung cấp cho việc tưới tiêu sản xuất nông lâm nghiệp
của huyện.
* Các nguồn Tài nguyên
+ Tài nguyên nước của huyện Hàm Yên đa dạng, bao gồm các nguồn chủ
yếu sau: Nước khe lạch: về mùa mưa lượng nước mưa khá lớn tạo ra dòng chảy
quanh năm đảm bảo cho sản xuất trên toàn huyện; Nước sông: đây là lượng dự
trữ ở tất cả các nguồn chảy về, lượng nước này phục vụ cho việc phát triển
nông nghiệp như chăn nuôi cá lồng.
+ Tài nguyên rừng: Hàm Yên có 2/3 diện tích là đất rừng với 66.253,51
ha. Trong đó đất rừng tự nhiên là 38.693,75 ha, đất rừng sản xuất là 27.559,76
ha. Rừng ở Hàm Yên chủ yếu là rừng phòng hộ đầu nguồn. Với diện tích đất
rừng như vậy đã góp phần không nhỏ cho việc bảo vệ môi trường sinh thái và
phát triển kinh tế xã hội.
2.1.2.2. Điều kiện kinh tế - xã hội.
* Dân số và lao động
Toàn huyện có 70.100 người gồm có các dân tộc Kinh, Tày, Cao Lan,
Hmông, Quần Trắng sinh sống trên 18 xã, thị trấn. Tổng số lao động trong


20

toàn huyện là 30.250 người, chiếm 43,15% tổng dân số, trong đó lao động
nông thôn chiếm 91% tổng lao động toàn huyện. Về chất lượng lao động được
đánh giá ở mức độ trung bình khá so với các huyện khác trong tỉnh.
* Thực trạng phát triển các ngành kinh tế
- Nông nghiệp:
Trong vài năm gần đây do phát triển kinh tế thị trường, sự tiến bộ Khoa
học kỹ thuật, cùng với sự chỉ đạo của Uỷ ban nhân đã tạo nên sự phát triển khá

nhanh trong sản xuất nông nghiệp. Nổi bật của sự phát triển ở đây là trồng cây
Cam, Quýt, hàng năm cho thu hoạch khoảng 2,5 tỷ đồng. Vì vậy, trong nông
thôn đã có nhiều hộ gia đình làm kinh tế giỏi, hộ đói nghèo ngày càng giảm.
Bộ mặt nông thôn ngày càng đổi mới.
- Lâm nghiệp:
Lâm trường và các hộ gia đình trong huyện Hàm Yên tham gia tốt chương
trình trồng, khoanh nuôi bảo vệ rừng bằng vốn tự có, vốn đầu tư của các chương
trình dự án như: Định canh - định cư, 661, dự án lâm nghiệp, trang trại...Đến nay
toàn huyện có 7.612,63 ha rừng trồng, 26.498,52 ha rừng tự nhiên được bảo vệ
tốt, che phủ của rừng đạt 30%. Kinh tế trang trại từng bước được phát triển
- Công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp (CN - TTCN)
Hình thành và phát triển một số cơ sở nhỏ như: Khai thác vật liệu xây
dựng, xay xát, chế biến nông sản, lâm sản và dụng cụ cầm tay... Toàn huyện
có 300 cơ sở và 2 HTX sản xuất tiểu thủ công nghiệp, thu hút khoảng 530 lao
động, giá trị sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp đạt 7,0 tỷ đồng/năm.
- Thực trạng cơ sở hạ tầng.
Giao thông: Hệ thống giao thông của huyện được chú trọng và phát
triển, đặc biệt là các tuyến đường đi liên thôn, liên xã, tuyến quốc lộ chính.


21

Thủy lợi: Xây dựng mới và nâng cấp các công trình hiện có, toàn huyện
có 25 công trình thuỷ lợi kiên cố, 80 công trình thuỷ lợi nhỏ, công suất tưới
tiêu bảo đảm cho 3.804 ha đất trồng lúa.
* Giáo dục: Chất lượng dạy và học của các nhà trường chưa đồng đều,
đội ngũ giáo viên còn thiếu về số lượng, nhất là giáo viên cấp II và cấp III,
giáo viên nhạc hoạ và ngoại ngữ... ở một số địa bàn vùng sâu, vùng xa các có
sở vật chất như phòng làm việc, phòng học, nhà lưu trú giáo viên còn tàm bợ,
chủ yếu là tranh tre nứa lá.

* Y tế: Công tác chăm sóc, bảo vệ sức khoẻ cho nhân dân trong những
năm qua có nhiều cố gắng.
* Văn hóa xã hội: Cùng với sự phát triển kinh tế thì mức sống của người
dân ngày càng được nâng cao. Trên địa bàn huyện có các phong trào thể thao
diễn ra sôi nổi, thu hút nhiều lứa tuổi tham gia. Bên cạnh đó thì các tệ nạn xã
hội như ma túy, cờ bạc đều được đấu tranh ngăn chặn và đạt kết quả tốt.
* Hiện trạng sử dụng đất.
Hàm Yên là huyện miền núi nằm ở phía Bắc của tỉnh Tuyên Quang, có
tổng diện tích tự nhiên là: 90.007ha. Trong đó:
- Đất nông nghiệp là: 78.089,19 ha, chiếm 86,76 %
- Đất phi nông nghiệp: 4.327,84 ha, chiếm 4,80 %
- Đất chưa sử dụng: 7.589,97 ha, chiếm 8,43 %
Tổng diện tích đất trên được phân bố trên 18 xã, thị trấn, đất nông
nghiệp chiếm tỷ lệ lớn, song việc khai thác sử dụng đất vẫn còn hạn chế vì thế
hiệu quả kinh tế sử dụng đất chưa cao


22

2.2. Mục tiêu nghiên cứu
Tìm hiểu một số nguyên nhân gây ra hiện tượng Keo lai bị gãy ngang
thân, đánh giá được mức độ tác động của từng nhân tố gây ra hiện tượng Keo
lai bị gãy làm cơ sở cho việc đề xuất các biện pháp trồng, chăm sóc rừng cũng
như các giải pháp làm hạn chế sự gãy gập của Keo lai.

2.3. Giới hạn đề tài
2.3.1. Không gian
Các lâm phần Keo lai ở Trạm thực nghiệm Hàm Yên, Tuyên Quang.
2.3.2. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là các lâm phần Keo lai từ tuổi 2 đến tuổi 7 thuộc

các dòng BV10, BV16 và BV32.
2.3.3. Nội dung nghiên cứu
Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu và phát hiện những nhấn tố sinh trưởng
(D1.3, Hvn, Hdc, Dt, phân cành) có ảnh hưởng đến khả năng gãy ngang thân cây
bằng các phương pháp so sánh và phân tích định lượng theo những mô hình thích
hợp. Không đi nghiên cứu những nguyên nhân có tính chất cơ lý hoá của gỗ.


×