Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

Bước đầu đề xuất kế hoạch hoạt động bảo tồn đa dạng sinh học tại khu bảo tồn thiên nhiên bắc hướng hóa tỉnh quảng trị giai đoạn 2007 2011

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.25 MB, 101 trang )

Bộ giáo dục và đào tạo

Bộ nông nghiệp và PTNT

Trường đại học lâm nghiệp
-------------o0o---------------

Văn Ngọc Thắng

Bước đầu đề xuất kế hoạch hoạt động
bảo tồn đa dạng sinh học tại khu bảo tồn
thiên nhiên bắc hướng hóa-tỉnh quảng trị
giai đoạn 2007-2011

Luận văn thạc sỹ khoa học lâm nghiệp

Hà tây, năm 2007


Bộ giáo dục và đào tạo

bộ nông nghiệp và PTNT

Trường đại học lâm nghiệp
---------------o0o----------------

Văn Ngọc Thắng

Bước đầu đề xuất kế hoạch hoạt động
bảo tồn đa dạng sinh học tại khu bảo tồn
thiên nhiên bắc hướng hóa-tỉnh quảng trị


giai đoạn 2007-2011
Chuyên ngành Lâm học
Mã số: 60.62.60

Luận văn thạc sỹ khoa học lâm nghiệp

Người hướng dẫn khoa học

PGS- TS . Lê diên dực

Hà Tây, năm 2007


Lời cảm ơn
Đề tài:"Bước đầu đề xuất kế hoạch hoạt động bảo tồn đa dạng sinh
học tại khu bảo tồn thiên nhiên Bắc Hướng Hóa- Tỉnh Quảng Trị giai đoạn
2007- 2011" được thực hiện trong khuôn khổ một bản luận văn tốt nghiệp cao
học tại trường Đại học Lâm nghiệp Việt Nam.
Trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt
tình và những ý kiến đóng góp quý báu của các thầy, cô giáo, Lãnh đạo Chi
cục Kiểm lâm Quảng Trị, Hạt Kiểm lâm Hướng Hóa, Uỷ ban nhân dân các xã
Hướng Lập, Hướng Việt, Hướng Phùng, Hướng Sơn, Hướng Linh cùng các
bạn đồng nghiệp.
Tác giả xin chân thành cám ơn lãnh đạo trường Đại học Lâm nghiệp Việt
Nam, các thầy cô giáo đã tận tình giảng dạy trong suốt thời gian theo học
cũng như trong quá trình thực hiện đề tài.
Tác giả xin chân thành cám ơn sâu sắc đến Phó giáo sư Tiến sỹ Lê Diên
Dực, thầy giáo hướng dẫn trực tiếp đã dành nhiều thời gian quý báu cho bản
luận văn này.
Xin chân thành cám ơn ban lãnh đạo Chi cục Kiểm Lâm Quảng Trị đã

tạo mọi điều kiện thuận lợi trong quá trình học tập và thực hiện đề tài.
Xin chân thành cám ơn Uỷ ban nhân dân các xã Hướng Lập, Hướng
Việt, Hướng Phùng, Hướng Sơn, Hướng Linh cùng các ban ngành cấp huyện
đã giúp tác giả có được những thông tin cần thiết phục vụ cho xây dựng luận
văn. Xin chân thành cám ơn các bạn đồng nghiệp đã giúp đỡ tôi về mọi mặt để
hoàn thành luận văn này.

Tác giả: Văn Ngọc Thắng


MỞ ĐẦU
Vùng Bắc Hướng Hoá nằm ở phía Tây Bắc của tỉnh Quảng Trị, thuộc
phía Nam của vùng Bắc Trường Sơn có độ cao từ 450 mét đến 1.770 mét.
Đây là vùng chuyển tiếp giữa các vùng khí hậu Bắc- Nam và Đông - Tây của
dãy Trường Sơn. Do vị trí địa lý đặc biệt nên trong vùng đã hình thành nhiều
kiểu rừng như: rừng kín thường xanh nhiệt đới, rừng kín hỗn giao giữa lá
rộng-lá kim á nhiệt đới, rừng tre nứa, rừng trên núi đá vôi. Các hệ sinh thái
rừng ở đây còn ít bị tác động nên còn mang nhiều tính nguyên sinh.
Theo điều tra ban đầu của tổ chức chim Quốc tế (Birdlife
International), của viện sinh thái và tài nguyên sinh vật thì đây là vùng có tính
đa dạng sinh học cao với : 920 loài thực vật, 42 loài thú, 171 loài Chim, 30
loài lưỡng cư, 31 loài bò sát. Trong đó có 17 loài thực vật, 11 loài thú và 12
loài chim được ghi trong sách đỏ Việt Nam; 23 loài thực vật, 11 loài thú và 9
loài chim được ghi trong sách đỏ thế giới. Đây được xem là quê hương của
các loài chim trĩ đặc hữu ở Đông Dương, là một vùng chim quan trọng theo
các tiêu chí Quốc Tế bởi sự có mặt của các loài chim đặc hữu; các loài thú
lớn và linh trưởng đang bị đe dọa mang tính toàn cầu.
Khu vực này còn là rừng phòng hộ đầu nguồn xung yếu của 4 con sông
là: sông Bến Hải, sông Cam Lộ (sông Hiếu), sông Xê Păng Hiêng (chảy vào
sông Mê Kông bên Lào) và đặc biệt quan trọng là sông Rào Quán (sông

Quảng Trị) nơi có công trình thủy điện Rào Quán, sắp hoàn thành. Nơi đây
cũng có nhiều cảnh quan đặc biệt, có thể xây dựng các điểm, tuyến du lịch
sinh thái kết hợp với tuyến đường Hồ Chí Minh chạy suốt chiều dọc theo
hướng Bắc - Nam qua các bản làng của người dân tộc Vân Kiều, Pa Cô, bổ
sung tuyến du lịch các di sản miền Trung như động Sa Mùi, dốc Dân Chủ,
động Tri, động Voi Mẹp...
Sau nhiều năm chiến tranh ác liệt kéo dài, đời sống kinh tế, văn hoá xã
hội của người dân, đặc biệt là các dân tộc thiểu số như Vân Kiều, Pa Cô còn
rất nhiều khó khăn. Đáng chú ý là sự gia tăng dân số, nạn săn bắt động vật


hoang dã, chặt rừng và phát nương làm rẫy bất hợp pháp… kéo dài trong
nhiều năm đã gây áp lực đáng kể lên nguồn tài nguyên rừng trong vùng.
Thực hiện nghị quyết của Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Quảng Trị lần
thứ XIV - nhiệm kỳ 2005 - 2010 " Phát triển lâm nghiệp toàn diện theo
hướng xã hội hoá nghề rừng. Tập trung bảo vệ và phát triển nguồn tài nguyên
rừng, chú trọng trồng rừng phòng hộ, bảo vệ môi trường sinh thái; rừng kinh
tế đảm bảo nguyên liệu cho các cơ sở chế biến lâm sản. Đảm bảo rừng và đất
rừng có chủ thực sự, gắn với việc tăng thu nhập xoá đói giảm nghèo, góp
phần thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo của chính phủ
giai đoạn 2006 – 2010 (QĐ số 20/2007/QĐ-TTg, ngày 5/2/2007) ; nâng độ
che phủ lên 43% vào năm 2010. Ngăn chặn có hiệu quả nạn khai thác, buôn
bán lâm sản trái phép, nạn cháy rừng, đốt phá rừng làm nương rẫy".
Nhận thức rõ tầm quan trọng của khu vực rừng Bắc Hướng Hóa trong
nhiều lĩnh vực, sau hơn 2 năm triển khai các thủ tục đề nghị, xây dựng và
thẩm định, ngày 14/3/2007, UBND tỉnh Quảng Trị đã ra quyết định số 479/
QĐ-UBND phê duyệt Dự án quy hoạch và đầu tư Khu bảo tồn thiên nhiên
Bắc Hướng Hóa, huyện Hướng Hóa với tổng diện tích là 25.200 ha. Cho đến
nay Ban quản lý KBT đang được xúc tiến để thành lập. Tuy nhiên tại đây
chưa có một kế hoạch hoạt động bảo tồn nào được xây dựng. Để đáp ứng

được yêu cầu bảo tồn đa dạng sinh học của khu bảo tồn nhưng đồng thời cũng
đảm bảo được các nhu cầu cho sự phát triển bền vững, tôi đã chọn đề tài
“Bước đầu đề xuất kế hoạch hoạt động bảo tồn đa dạng sinh học tại khu
bảo tồn thiên nhiên Bắc Hướng Hóa- Quảng Trị giai đoạn 2007-2011”.
Yêu cầu hoạt động bảo tồn phải phù hợp với tình hình thực tế, gắn kết với các
hoạt động địa phương và phù hợp với các chủ trương chính sách của nhà
nước, đòi hỏi mọi hoạt động dù ngắn hạn hay dài hạn đều nhằm tới mục tiêu
kết hợp bảo tồn với phát triển bền vững. Kế hoạch hoạt động bảo tồn được
xây dựng trên cơ sở đó sẽ góp phần cho Ban quản lý khu bảo tồn và các đối
tác liên quan thực hiện có kết quả kế hoạch quản lý của mình trong thời gian
tới.


Chương 1
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1.1. Bảo tồn đa dạng sinh học
1.1.1. Những khái niệm cơ bản về đa dạng sinh học
Công ước đa dạng sinh học năm 1992, định nghĩa đa dạng sinh học
(ĐDSH) như sau:
" Đa dạng sinh học là sự khác biệt trong mọi cơ thể sống có từ mọi
nguồn, từ các hệ sinh thái ở đất liền, ở biển, và các hệ sinh thái khác ở môi
trường nước, và mọi tổ hợp sinh thái mà các cơ thể sống là thành phần hợp
thành. Đa dạng sinh học cũng bao gồm sự đa dạng trong loài, giữa các loài, và
các hệ sinh thái. Đa dạng sinh học bao gồm cả các nguồn tài nguyên di truyền,
các cơ thể hay các phần của cơ thể , các chủng quần, hay các hợp phần sinh
học khác của hệ sinh thái, hiện đang có giá trị sử dụng hay có tiềm năng sử
dụng cho loài người"[16, tr.11].
Vậy đa dạng sinh học là sự phong phú về sự sống trên trái đất của hàng
triệu loài thực vật, động vật, vi sinh vật cùng với nguồn gen của chúng và các

hệ sinh thái mà chúng tạo nên. Đa dạng sinh học hay tính ĐDSH là một thuật
ngữ bao trùm về sự khác nhau trong thế giới hữu sinh. Thuật ngữ này thường
được dùng để mô tả về số lượng, sự khác nhau và tính chất biến đổi của các
cá thể sinh vật. Thông thường ĐDSH được xác định bởi các gen, loài và hệ
sinh thái, tương ứng với ba cấp hạng của tổ chức sinh học, đó là 1) Đa dạng di
truyền còn gọi là đa dạng gen, 2) đa dạng loài và 3) đa dạng hệ sinh thái .
Đa dạng về di truyền là đa dạng về các kiểu gen. Đột biến gen và nhiễm
sắc thể thông qua quá trình tái tổ hợp sẽ tạo ra các biến dị di truyền làm nguồn
nguyên liệu cho chọn lọc tự nhiên trong quá trình tiến hoá để tạo ra bộ mặt
các loài như ngày nay.
Đa dạng về loài thường dùng để chỉ sự phong phú về loài cụ thể là số


loài trong một vùng có cùng một điều kiện lập địa hay sinh cảnh. Sự đa dạng
về loài trên thế giới được thể hiện đặc trưng bởi tổng số loài trong các nhóm
taxon khác nhau.
Đa dạng về hệ sinh thái là thước đo sự phong phú của các hệ sinh thái,
đó là những sự tương tác phức tạp giữa các sinh vật với nhau và với các thành
phần vô sinh của hệ sinh thái đó. Sự đa dạng này được phản ánh bởi sự đa
dạng về sinh cảnh, các quần xã sinh vật và các quá trình sinh thái trong tự
nhiên.
Từ 3 góc độ này người ta có thể tiếp cận với đa dạng sinh học từ 3
mức độ khác nhau: mức độ phân tử (gen), mức độ cơ thể và mức độ hệ sinh
thái (IUCN,1994).
Như vậy, ĐDSH bao gồm sự phong phú của tất cả thế giới sinh vật ở
tất cả các dạng, các bậc phân loại, các mức độ và tổ hợp của chúng. Đó không
chỉ là tổng số của các hệ sinh thái, các loài, các vật chất di truyền mà còn bao
gồm tất cả các mối quan hệ phức tạp bên trong và giữa chúng với nhau, với
thế giới vô sinh và với xã hội loài người (Vì người cũng được coi là thành
phần của HST). Vì vậy, cũng có thể nói rằng ĐDSH là kết quả của sự tương

tác giữa hai hệ thống tự nhiên và xã hội.
1.1.2. Bảo tồn đa dạng sinh học trên thế giới
Ngày nay bảo tồn ĐDSH đã trở thành một chiến lược toàn cầu. Đa
dạng sinh học có vai trò cực kỳ quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế
xã hội, trong đời sống vật chất và tinh thần của con người, trong việc duy trì
các chu trình tuần hoàn tự nhiên và sự cân bằng sinh thái. Đó là cơ sở của sự
sống còn, sự thịnh vượng và bền vững của loài người cũng như của trái đất
nói chung. Thế nhưng do dân số và yêu cầu sử dụng tài nguyên thiên nhiên
của con người ngày càng tăng nên cũng chính con người đã và đang khai thác
nguồn tài nguyên này một cách quá mức, đặc biệt ở vùng nhiệt đới, dẫn tới sự
suy thoái các hệ sinh thái, làm nghèo kiệt nguồn ĐDSH, thậm chí hủy diệt
nguồn tài nguyên quý giá đó để đáp ứng cho nhu cầu ngày càng tăng của


mình. Đến nay đã có hơn 40% diện tích rừng nhiệt đới nguyên thuỷ bị phá
huỷ, trung bình hàng năm có khoảng 6-7 triệu hecta đất trồng trọt bị mất khả
năng sản xuất do xói mòn. Ước tính 5-10% số loài trên thế giới sẽ biến mất
vào khoảng giữa những năm 1990 đến 2020, và số loài bị tiêu diệt sẽ tăng lên
đến 25% vào khoảng năm 2050 (IUCN, UNEP, WWF, 1996). Đứng trước
tình hình đó nhiều tổ chức quốc tế như IUCN, Chương trình môi trường Liên
hợp quốc (UNEP), WWF, Viện tài nguyên di truyền quốc tế (IPGRI) v.v đã
hướng dẫn, giúp đỡ và tổ chức việc đánh giá, bảo tồn và phát triển ĐDSH trên
toàn phạm vi toàn thế giới. Nhu cầu cơ bản và sự sống còn của loài người phụ
thuộc vào các nguồn tài nguyên của trái đất, nhất là tài nguyên ĐDSH, nếu
những tài nguyên đó bị giảm sút thì cuộc sống của chúng ta và con cháu mai
sau sẽ bị đe doạ. Con người đã quá lạm dụng trong việc khai thác các nguồn
tài nguyên của trái đất mà không nghĩ đến tương lai, có thể nói đây là một
thảm hoạ. Nhận thức được tầm quan trọng của ĐDSH đối với sự tồn tại của
xã hội loài người và đứng trước sự suy giảm với tốc độ ngày càng nhanh của
ĐDSH, con người đã bắt đầu những hoạt động có hiệu quả để bảo tồn nguồn

tài nguyên quý giá này. Nhiều hội thảo đã được tổ chức và nhiều cuốn sách có
nội dung liên quan đã được xuất bản từ những năm đầu thập kỹ 90 của thế kỹ
trước. Tất cả các tài liệu đó đều mang tính chiến lược và chương trình hành
động nhằm hướng dẫn về bảo tồn ĐDSH, làm nền tảng cho công tác bảo tồn
và phát triển trong tương lai. Chính phủ các nước trên thế giới đã thông qua
05 Công ước quốc tế liên quan đến bảo tồn ĐDSH:
- Công ước ĐDSH (CBD) đã được ký kết tại Hội nghị thượng đỉnh Rio
de Janeiro tháng 6/1992 và có hiệu lực vào cuối năm 1993, cho đến nay đã
được 127 nước phê chuẩn
- Công ước về đất ngập nước (RAMSAR)
- Công ước buôn bán quốc tế các loài bị đe dọa (CITES)
- Công ước di sản Thế giới
- Công ước bảo tồn các loài di cư (CMS)


Một trong những nỗ lực mà nhiều nước triển khai đó là giành một diện
tích lớn để thành lập các khu bảo tồn nhằm bảo vệ nguyên vị các hệ sinh thái
điển hình, các loài động thực vật hoang dã đặc biệt là các loài đặc hữu, có
vùng phân bố hẹp, loài quí hiếm và có nguy cơ bị tuyệt chủng. Đây là giải
pháp vô cùng quan trọng trong công tác bảo tồn ĐDSH trên toàn cầu cũng
như tại mỗi quốc gia trong thời đại ngày nay.
Năm 1933, hội nghị quốc tế tổ chức tại London đã qui định 4 loại hình
khu bảo vệ gồm: Vườn quốc gia (VQG), Khu dự trữ thiên nhiên, Khu dự trữ
động vật và Khu dự trữ đặc biệt .
Năm 1978, tổ chức bảo tồn thiên nhiên (BTTN) thế giới (IUCN) đã đưa
ra một hệ thống phân loại các khu bảo vệ gồm 10 hạng:
1. Khu BTTN toàn phần (hoặc cho khoa học) hay khu bảo tồn nghiêm
ngặt (Scientific reserve/Strict Nature Reserve);
2. Vườn quốc gia (National Park);
3. Thắng cảnh tự nhiên (Natural Monument/Natural Landmark);

4. Khu BTTN / Khu BTTN có quản lý / Khu bảo tồn động vật (Nature
Conservation Reserve / Managed Nature Reserve / Wildlife Sanctuary);
5. Khu bảo vệ cảnh quan trên đất liền và trên biển (Protected Landscape
or Seascape);
6. Khu bảo tồn tài nguyên (Resource Reserve);
7. Khu bảo tồn sinh học tự nhiên/Khu bảo tồn nhân chủng học (Nature
biotic Area/Anthropological Reserve);
8. Khu quản lý đa tác dụng/Khu quản lý tài nguyên (Multiple Use
Management Area / Managed Resource Area);
9. Khu bảo tồn sinh quyển (Biosphere Reserve);
10.Khu Di sản thiên nhiên thế giới (World Natural Heritage Site)
Năm 1994 sau hội nghị của hội đồng khu bảo tồn thiên nhiên và vườn
quốc gia tại Caracas, thủ đô của Venezuela, IUCN đã đưa ra hệ thống mới bao
gồm các loại hình để quản lý và tùy theo từng loại hình mà mức độ quản lý có


khác nhau, bao gồm:
1. Loại I: Khu BTTN nghiêm ngặt / Khu bảo tồn tính hoang dã (Strict
nature Reserve/Wildeness Area).
Ia. Khu bảo tồn thiên nhiên nghiêm ngặt ( Strict Nature Reserve)
Khu bảo vệ được quản lý chủ yếu nhằm mục đích khoa học
Ib. Khu bảo tồn tính hoang dã (Wildeness Area)
Khu bảo vệ được quản lý chủ yếu nhằm bảo vệ tính hoang dã của tự nhiên.
2. Loại II: Vườn quốc gia (National Park)
Khu bảo vệ được quản lý chủ yếu nhằm bảo vệ hệ sinh thái và vui chơi,
giải trí.
3. Loại III: Thắng cảnh tự nhiên (Natural Monument)
Khu bảo vệ được quản lý chủ yếu nhằm bảo vệ các cảnh quan thiên nhiên
đặc biệt.
4. Loại IV: Khu bảo vệ loài / sinh cảnh (Habitat/Species Management

Area):
Khu bảo vệ được quản lý chủ yếu cho công tác bảo tồn một số sinh cảnh
hay các loài đặc biệt cần bảo vệ.
5. Loại V: Khu

bảo tồn cảnh quan (trên đất liền hoặc trên biển)

(Protected Landscape or Seascape)
Khu bảo vệ được quản lý chủ yếu cho mục đích vệ các cảnh quan đẹp trên
đất liền hoặc trên biển sử dụng cho giải trí và du lịch.
6. Loại VI: Khu bảo tồn tài nguyên có quản lý (Managed Resource
Protected Area)
Khu bảo vệ được quản lý chủ yếu nhằm mục đích sử dụng bền vững các hệ
sinh thái và tài nguyên thiên nhiên.
Ngoài ra theo tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hiệp Quốc
(UNESCO) còn có Khu di sản thế giới, khu dự trữ sinh quyển (MAB), và theo
công ước RAMSAR thì còn có khu bảo tồn đất ngập nước RAMSAR.
1.1.3. Bảo tồn đa dạng sinh học ở Việt Nam


Việt Nam được cộng đồng Quốc tế công nhận là một trong những
nước có nguồn tài nguyên đa dạng sinh học cao trên thế giới. Nhận thức được
vai trò quan trọng của rừng và Đa dạng sinh học nên Chính phủ Việt Nam đã
có nhiều chủ trương, chính sách và hành động nhằm bảo vệ các nguồn tài
nguyên thiên nhiên có nhiều giá trị này.
Quá trình hình thành hệ thống khu BTTN Việt Nam gắn liền với lịch
sử đất nước và những giai đoạn phát triển của ngành lâm nghiệp và có thể
khái quát như sau:
Ngay từ trước năm 1945, Thực dân Pháp đã đề nghị xây dựng 5 khu dự
trữ thiên nhiên và bảo vệ toàn phần, trong đó 2 khu ở Sa Pa, 2 khu ở Bà Nà và

khu Bạch Mã .
Trong thời kỳ chiến tranh diễn ra rất ác liệt, Chính phủ Việt Nam đã
quyết định thành lập khu rừng cấm đầu tiên là rừng cấm Cúc Phương vào
ngày 17 tháng 7 năm 1962 .
Sau Cúc Phương, 10 khu rừng cấm khác trong phạm vi toàn quốc được
công nhận, theo quyết định 41/TTg ngày 24/1/1977 của Thủ Tướng Chính
Phủ. Tiếp theo đó, nhiều khu rừng có giá trị BTTN, bảo tồn ĐDSH được phát
hiện, tiếp tục trình Hội đồng Bộ trưởng ra quyết định thành lập như Khu
BTTN Nam bãi Cát Tiên (1978); Khu BTTN Mom Ray-Ngọc Vin (1982);
Khu rừng cấm Côn Đảo (1986).
Ngày 9/8/1986, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng có quyết định số 194/CT
công nhận tiếp 73 khu rừng đặc dụng , trong đó gồm 2 VQG, 46 khu dự trữ
thiên nhiên, 25 khu di tích lịch sử văn hoá .
Cho tới tháng 8 năm 1986 một hệ thống các khu rừng cấm, thực chất
là những khu Bảo tồn thiên nhiên do ngành Nông - Lâm nghiệp quản lý đã
được hình thành bao gồm 87 khu với tổng diện tích trên 900.000ha và được
chia làm 3 loại hình:
1. Vườn Quốc Gia (National Park): 7 khu
2. Khu Bảo Tồn Thiên Nhiên (Nature Reserve): 49 khu


3.Khu Văn hoá, Lịch sử, Môi trường (Cultural, Historical and
Environmental Site ) : 31 khu
Ngày 19/12/1986, Bộ Lâm nghiệp (cũ) ra quyết định 1171-QĐ ban hành
Qui Chế quản lý 3 loại rừng: rừng sản xuất, rừng phòng hộ và rừng đặc dụng.
Lần đầu tiên thuật ngữ “rừng đặc dụng”(RĐD) được sử dụng thay cho thuật
ngữ “rừng cấm” một cách chính thức và cũng lần đầu tiên rừng đặc dụng và 3
loại hình (Categories) của nó được định nghĩa và phân cấp quản lý.
Rừng đặc dụng (Special use forest) là một thành phần của vốn rừng
Quốc gia, được xây dựng nhằm các mục tiêu sau đây:

- Bảo tồn các mẫu sinh cảnh rừng khác nhau
- Bảo tồn nguồn gen động vật và thực vật
- Bảo tồn các khu rừng có giá trị về cảnh quan, văn hoá lịch sử và bảo
vệ sức khoẻ.
- Nghiên cứu khoa học, giáo dục và đào tạo
Từ đầu năm 1987, cùng với xu thế của khu vực và thế giới, vấn đề bảo
tồn ĐDSH và bảo vệ môi trường nói chung được đặc biệt quan tâm trên phạm
vi toàn cầu. Nhiều khu bảo tồn đã được thành lập và Việt Nam đã ký kết
nhiều công ước quốc tế (Công ước di sản thế giới năm 1987, Công ước về đất
ngập nước có tầm quan trọng quốc tế năm 1989, Công ước về ĐDSH năm
1993 và Công ước về buôn bán quốc tế các loài bị đe doạ CITES năm 1994).
Tiếp theo việc phê chuẩn công ước ĐDSH năm 1994, Chính phủ ta đã xây
dựng kế hoạch hành động ĐDSH của Việt Nam nhằm bảo tồn tính ĐDSH của
quốc gia một cách có hiệu quả .
Đầu năm 2001, trong Quyết định số 08/2001/QĐ - TTg, ngày 11 tháng
1 năm 2001 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Qui chế quản lý rừng
đặc dụng, rừng phòng hộ, rừng sản xuất là rừng tự nhiên. Rừng đặc dụng
được chia thành 3 loại :
1.Vườn quốc gia.
2. Khu Bảo tồn thiên nhiên


2a. Khu dự trữ thiên nhiên
2b. Khu bảo tồn loài hay sinh cảnh
3. Khu rừng văn hoá-lịch sử-môi trường (khu rừng bảo vệ cảnh quan).
Do những thay đổi về tình hình kinh tế xã hội của đất nước đòi hỏi
phải có những thay đổi trong hệ thống quản lý các loại rừng ở Việt Nam .
Luật bảo vệ và phát triển rừng năm 2004 ban hành nhằm thể chế hóa những
chủ trương, đường lối đổi mới của Đảng và nhà nước. Để cụ thể hóa cho việc
thực hiện luật bảo vệ và phát triển rừng , ngày 14/8/2006 thủ tướng chính phủ

đã ban hành quyết định số 186/2006/QĐ-TTg ban hành quy chế quản lý rừng
thay cho Quyết định số 08/2001/QĐ - TTg, ngày 11 tháng 1 năm 2001 trước
đây. Rừng đặc dụng được chia thành 4 loại :
1.Vườn quốc gia.
2.Khu Bảo tồn thiên nhiên
2a. Khu dự trữ thiên nhiên
2b. Khu bảo tồn loài hay sinh cảnh
3. Khu bảo vệ cảnh quan
4. Khu rừng nghiên cứu, thực nghiệm khoa học
Bảng 1.1: Hệ thống khu rừng đặc dụng ở Việt Nam
Phân hạng
I.

Vườn Quốc gia

Số lượng (khu)

Diện tích (ha)

30

1.041.956

II. Khu bảo tồn thiên nhiên

60

1.184.372

- IIa. Khu BTTN dữ trữ thiên nhiên


48

1.100.892

- IIb. Khu BTTN bảo tồn loài/sinh cảnh

12

83.480

III. Khu bảo vệ cảnh quan

38

173.764

128

2.400.092

Tổng cộng:

Nguồn: Số liệu thống kê đến 10/2006 - Cục Kiểm lâm
Theo hệ thống phân loại rừng đặc dụng Việt Nam khu bảo tồn thiên
nhiên Bắc Hướng Hóa được xác định là khu bảo tồn loài và sinh cảnh.


1.1.4. Đánh giá tình hình tổ chức, quản lý hệ thống rừng đặc dụng ở Việt
Nam.

Như vậy, công tác bảo tồn đa dạng sinh học của Việt Nam đã hình
thành, phát triển trong hơn 40 năm qua. Trong quá trình phát triển chúng ta đã
từng bước bổ sung, mở rộng, hình thành được một hệ thống khu bảo tồn rừng
và đất ngập nước ven biển. Chúng ta cũng đã xây dựng, bổ sung, các quy định
của pháp luật, các văn bản có liên quan đến việc quản lý tài nguyên rừng và
đa dạng sinh học. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để triển khai các hoạt động
bảo tồn.
Nếu so hệ thống phân hạng rừng đặc dụng của Việt Nam với hệ thống
phân hạng của IUCN, 1994 thì còn có những điểm chưa tương thích. Hệ
thống phân hạng của IUCN,1994 được sắp xếp theo mục tiêu bảo tồn giảm
dần ( khu bảo tồn thiên nhiên đứng đầu, vườn quốc gia đứng thứ 2...) và các
mục tiêu phát triển (sử dụng hợp lý) tăng dần (từ khu quản lý tài nguyên thiên
nhiên, đến khu bảo tồn cảnh quan...). Theo hệ thống phân hạng của Việt Nam
thì khu bảo tồn loài và sinh cảnh là một phân loại (Sub- category) của khu bảo
tồn trong khi theo hệ thống phân hạng của IUCN thì nó là một loại riêng vì có
mục tiêu quản lý khác nhau.
Như vậy hệ thống phân hạng các khu bảo tồn Việt Nam chưa có sự
thống nhất với cách phân hạng quốc tế. Trong quản lý hiện nay vẫn chủ yếu là
bảo vệ nghiêm ngặt, chưa gắn kết được các quan điểm hiện đại về bảo tồn là
vừa bảo tồn vừa phát triển.
Về quản lý, hiện nay việc quản lý hệ thống các khu bảo tồn đang phân
chia theo các ngành chức năng nên chưa thống nhất được (Bộ Nông nghiệp và
Phát triển Nông thôn đang quản lý các khu bảo tồn liên quan đến môi trường
rừng trên đất liền và ven biển, Bộ Thủy Sản quản lý các khu bảo tồn biển, Bộ
tài nguyên và môi trường quản lý các khu đất ngập nước). Do chưa phân chia
các cấp quản lý cụ thể nên hệ thống quản lý và nguồn đầu tư cho các khu bảo
tồn hiện nay chủ yếu dựa vào nhà nước, chưa huy động được sự tham gia của


các thành phần trong xã hội khác tham gia vào lĩnh vực bảo tồn.

Bộ NN&PTNT là cơ quan của Chính phủ được giao nhiệm vụ quản lý
nhà nước về RĐD trong toàn quốc và hiện nay đang trực tiếp quản lý 8 Vườn
quốc gia có vị trí đặc biệt quan trọng hoặc nằm trên nhiều tỉnh. Đối với các
KBTTN bao gồm cả RĐD có đất ngập nước và biển, Bộ NN&PTTN phối hợp
với bộ Thuỷ sản, Bộ Tài nguyên và Môi trường quản lý theo từng lĩnh vực
chuyên ngành.
Cục Kiểm lâm là cơ quan được Bộ NN&PTTN giao nhiệm vụ giúp Bộ
trưởng giám sát và quản lý về chuyên môn nghiệp vụ đối với hệ thống RĐD
trong toàn quốc.
Uỷ ban nhân dân các tỉnh có trách nhiệm quản lý nhà nứơc về RĐD
theo quy định tại Quyết định số 245/QĐ-TTg ngày 21/12/1998 của Thủ tướng
Chính phủ “Về trách nhiệm quản lý nhà nước của các cấp về rừng và đất lâm
nghiệp” và Quyết định số 186/TTg-2006 ngày 14/8/2006 của Thủ Tướng
chính phủ ban hành "Quy chế quản lý rừng” ; thông tư 99 ngày 6/11/2006 về
hướng dẫn một số điều của Quy chế quản lý rừng. UBND các tỉnh được phân
cấp quản lý toàn diện và trực tiếp hầu hết các KBTTN thuộc hệ thống RĐD
trên địa phận hành chính của mình.
Ban quản lý các khu RĐD là đơn vị sự nghiệp được giao nhiệm vụ là
chủ rừng ở từng Khu BTTN cụ thể. Những khu RĐD chưa có Ban quản lý,
UBND các tỉnh thường giao cho các Hạt Kiểm lâm sở tại chịu trách nhiệm
quản lý, một số khu khác lại giao cho Sở NN & PTNT hoặc Sở Văn hoá –
Thông tin quản lý.
Phân công trách nhiệm và phân cấp quản lý RĐD chưa rõ ràng làm cho
việc quản lý lỏng lẻo, chồng chéo, hiệu quả thấp.
Chưa có một tổ chức phù hợp để giúp Bộ trưởng Bộ NN&PTNT quản
lý tốt hệ thống RĐD. Hiện nay, nhiệm vụ quản lý và bảo vệ RĐD đang do lực
lượng Kiểm lâm đảm nhiệm là chủ yếu, nhưng so với yêu cầu thì rõ ràng về tổ
chức, biên chế và năng lực vẫn còn rất nhiều bất cập, thiếu cán bộ chuyên



trách quản lý hệ thống RĐD.
Ranh giới của hầu hết các RĐD chưa được phân định rõ ràng trên trên
thực địa.
Độ tin cậy của các số liệu điều tra cơ bản về tài nguyên của các khu
rừng đặc dụng còn thấp.
Năng lực tổ chức quản lý tại các Ban quản lý RĐD còn yếu. Phần lớn
các Ban quản lý RĐD chưa lập được kế hoạch quản lý và kế hoạch bảo tồn
ĐDSH tại khu rừng. Cơ sở vật chất và trang thiết bị của Ban quản lý RĐD
còn rất hạn chế, biên chế về nguồn nhân lực chưa đáp ứng được yêu cầu
nhiệm vụ đặt ra.
Nguồn vốn đầu tư cho các khu RĐD chủ yếu dựa vào ngân sách Nhà
nước và nguồn tài trợ từ các dự án hợp tác quốc tế. Tổng mức đầu tư còn
thấp, suất đầu tư cho đơn vị diện tích rừng đựơc giao quản lý còn hạn chế,
phân bổ vốn đầu tư không đồng đều tùy từng địa phương. Hầu hết các khu
RĐD do tỉnh quản lý đều lấy nguồn ngân sách địa phương, nên tổng mức đầu
tư thấp và ít nhận được nguồn đầu tư quốc tế.
Vấn đề quản lý vùng đệm đang gặp những khó khăn như chưa xác định
rõ ranh giới vùng đệm trên bản đồ và trên thực địa. Hầu hết các vùng đệm đều
được hoạch định theo địa giới hành chính các xã; chưa có một quy chế thống
nhất về quản lý và phát triển vùng đệm; chưa có quy định rõ ràng về nội dụng
đầu tư phát triển vùng đệm.
1.2. Cơ sở của kế hoạch quản lý tài nguyên rừng và bảo tồn đa dạng sinh
học dựa trên cơ sở cộng đồng
1.2.1. Quản lý bảo tồn ( Conservation Management)
Quản lý bảo tồn có thể hiểu theo nhiều cách khác nhau. Có ý kiến cho
rằng quản lý bảo tồn là "bảo tồn hiện trạng tự nhiên " . Tuy nhiên có ý kiến lại
cho rằng quản lý bảo tồn là "bảo tồn tối đa tính đa dạng loài". Điều này được
hiểu là bảo tồn các hệ sinh thái và chức năng của chúng.
Quản lý một vườn quốc gia hay khu bảo tồn là việc kiểm soát một



cách khôn khéo các chủng quần động, thực vật hoang dã, các sinh cảnh, đất
và giám sát các tác động của con người nhằm đạt được những mục tiêu cụ thể
mà ta gọi là mục tiêu quản lý. Mục tiêu quản lý của vườn quốc gia hay khu
bảo tồn có thể xem như kim chỉ nam cho những người có trách nhiệm thực thi
các biện pháp quản lý. Kế hoạch quản lý một vườn quốc gia hay khu bảo tồn
phải thể hiện được mục tiêu mà bản kế hoạch tổng thể (thường là luận chứng
kinh tế kỹ thuật) đề ra , một kế hoạch quản lý tốt phải thể hiện được ý kiến
của cộng đồng địa phương nhằm hạn chế mâu thuẫn và đảm bảo sự hài hòa về
mục tiêu quản lý và lợi ích của cộng đồng, trên cơ sở quan điểm bảo tồn và
phát triển bền vững. Bảo tồn (Conservation) là việc bảo vệ các hệ sinh thái và
tài nguyên thiên nhiên thông qua sử dụng bền vững. Nó khác sự bảo tồn
(Preservation) mà ngụ ý là sự bảo vệ nghiêm ngặt mà không sử dụng.[35]
Đa dạng sinh học nói riêng và thiên nhiên của nước ta nói chung đã bị
xuống cấp đến mức độ báo động do nhiều lý do khác nhau, trong đó khâu
quản lý có tầm quan trọng đặc biệt. Tuy nhiên, việc quản lý đến nay hầu như
vẫn chưa có được những tiến bộ mang tính đột phá là do chưa có sự tham gia
“tích cực” của nhân dân nói chung và các cộng đồng địa phương nói riêng.
Hay nói một cách khác là cần có một sự thay đổi trong toàn bộ xã hội về quản
lý bảo vệ đa dạng sinh học và thiên nhiên. Isobel W. Heathcote (1998) cho
rằng quản lý thiên nhiên nói chung là một tiến trình nhằm thiết lập một
chương trình về thay đổi xã hội. Tác giả cho rằng “Thay đổi xã hội không thể
có nếu những cộng đồng bị tác động không cho thay đổi là cần thiết”. Do đó,
công việc lập kế hoạch bảo tồn không chỉ phải quan tâm đến sản phẩm cuối
cùng mà còn phải đáp ứng nguyện vọng và nhu cầu của nhân dân, đặc biệt là
những cộng đồng bị tác động. Bởi vậy việc tham gia vào quá trình lập kế
hoạch bảo tồn của các cộng đồng có liên quan (stakeholders) là khâu then
chốt. Đó cũng chính là vai trò của cộng đồng có liên quan trong việc bảo đa
dạng sinh học, hay nói một cách khác là Quản lý bảo tồn dựa vào cộng đồng
(Community-based conservation management).



1.2.2. Quản lý tài nguyên rừng và bảo tồn ĐDSH dựa vào cộng đồng
1.2.2.1. Khái niệm cộng đồng xã hội
Chỉ một tập đoàn người rộng lớn, có những dấu hiệu, những đặc điểm
xã hội chung về thành phần giai cấp, về nghề nghiệp, về địa điểm sinh tụ và
cư trú. Cũng có những cộng đồng xã hội bao gồm cả một dòng họ, một sắc
tộc, một dân tộc. Như vậy cộng đồng xã hội bao gồm một loạt yếu tố xã hội
chung mang tính phổ quát. Đó là những mặt cộng đồng về kinh tế, về địa lý,
về ngôn ngữ, về văn hóa, về tín ngưỡng, về tâm lý, về lối sống. Những yếu tố
này trong tính tổng thể của nó tạo nên tính ổn định và bền vững của một cộng
đồng xã hội. Khẳng định tính thống nhất của một cộng đồng xã hội trên một
quy mô lớn, cũng đồng thời phải thừa nhận tính đa dạng và nhiều màu sắc của
các cộng đồng xã hội trên những quy mô nhỏ hơn (Từ điển Bách khoa Việt
Nam tập I - Hà Nội 1995).
1.2.2.2. Khái niệm về lâm nghiệp cộng đồng
Trên thế giới quản lý rừng cộng đồng đã có lịch sử hình thành và phát
triển từ lâu và có đóng góp ở các mức độ khác nhau đối với việc quản lý rừng
của từng nước. Trong những năm qua đã có nhiều nghiên cứu về rừng cộng
đồng, quản lý rừng cộng đồng, v.v. ở từng nước cũng như trên phạm vi quốc
tế.
Năm 1978, tổ chức lương thực và nông nghiệp của Liên hợp quốc - FAO
đã định nghĩa về lâm nghiệp cộng đồng là "Bất cứ hình thức nào mà thu hút
người dân địa phương tham gia vào các hoạt động lâm nghiệp gọi là lâm
nghiệp cộng đồng. Khái niệm này bao gồm các hoạt động lâm nghiệp rộng rãi
như việc trồng rừng tại các vùng nhất định mà ở đó người dân địa phương
thiếu gỗ và các sản phẩm khác phục vụ cho nhu cầu của mình; Trồng cây ở
mức độ trang trại để thu hoạch các sản phẩm từ cây trồng; Chế biến gỗ và các
sản phẩm khác từ cây để cung cấp thức ăn, và tăng thu nhập; Tạo nguồn thu
nhập bằng việc cung cấp các sản phẩm để sản xuất đồ thủ công hoặc cho các

xưởng chế biến nhỏ v.v. Nó bao gồm một tỷ lệ lớn các hoạt động về công


nghiệp rừng và các hoạt động khác của lâm nghiệp góp phần vào sự phát triển
của cộng đồng thông qua giải quyết việc làm và tăng thu nhập, tuy nhiên nó
không bao gồm các xí nghiệp, công ty công nghiệp rừng và những hoạt động
dịch vụ lâm nghiệp công cộng, những hoạt động này khuyến khích hoặc giúp
đỡ những hoạt động lâm nghiệp ở mức độ cộng đồng".
Theo Arnold (1992) lâm nghiệp cộng đồng là: " Một thuật ngữ chung mô
tả các hoạt động gắn bó người dân nông thôn với rừng và cây cũng như với
các sản phẩm và lợi ích bắt nguồn từ rừng và cây. Nếu có một mặt nào đó cần
được nhấn mạnh hơn cả thì đó là phạm vi và tính đa dạng của mối liên kết
này, và các lĩnh vực khác nhau liên quan tới các khía cạnh của lâm nghiệp
cộng đồng. Do vậy, lâm nghiệp cộng đồng không phải là một mảng riêng biệt
hay một chương trình mà là một mặt của lâm nghiệp, nông nghiệp, năng
lượng nông thôn và các hợp phần khác của phát triển nông thôn.".
Từ một số khái niệm trên đây cho thấy lâm nghiệp cộng đồng có nghĩa
là sự tham gia của người dân vào các hoạt động sản xuất lâm nghiệp như
trồng, bảo vệ rừng, chế biến lâm sản v.v. và các hoạt động này cũng đã mang
lại lợi ích trực tiếp, đáp ứng các nhu cầu của người dân v.v.
Quản lý rừng cộng đồng tại Việt Nam đã được nhiều tổ chức và cá nhân
trong nước và quốc tế nghiên cứu trong thời gian gần đây quan tâm nghiên
cứu và đã có nhiều khái niệm được sử dụng:
Theo tài liệu Thuật ngữ lâm nghiệp - Vụ khoa học công nghệ - Bộ Lâm
nghiệp, 1996 đã định nghĩa lâm nghiệp cộng đồng như sau: "Lâm nghiệp cộng
đồng là một dạng của lâm nghiệp xã hội, trong đó các nhóm người có chung
một mục đích tham gia vào việc quản lý hay cùng hưởng lợi của rừng trên đất
Nhà nước đã giao cho quyền sử dụng, có tính đến lợi ích của cộng đồng và
của Nhà nước".
Luật đất đai mới, đã có những quy định cụ thể liên quan đến cộng đồng

và tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho lâm nghiệp cộng đồng phát triển, đã xác
định: "Các cộng đồng dân cư bao gồm cộng đồng người Việt Nam cư trú


trong cùng một làng xóm hoặc nơi cư trú tương tự với các truyền thống,
phong tục giống nhau hoặc trong cùng một đại gia đình đã được giao đất hoặc
là những người đang sử dụng đất và đã được Nhà nước công nhận về quyền
sử dụng đất".
Luật bảo vệ và phát triển rừng (2004) đã đưa ra khái niệm Cộng đồng
dân cư thôn như sau: "Cộng đồng dân cư thôn gồm cộng đồng người Việt
Nam sinh sống trên cùng địa bàn thôn, làng, bản, ấp, buôn, phun, sóc và các
điểm dân cư tương đương có cùng phong tục tập quán hoặc có chung dòng họ
được Nhà nước giao đất hoặc công nhận quyền sử dụng đất".
Như vậy các khái niệm về cộng đồng đã từng bước làm rõ đối tượng để
áp dụng việc giao đất, giao rừng để quản lý sử dụng có sự đồng nhất tương
đối về mặt địa lý và dân tộc, cũng như các mối quan hệ xã hội được xác định.
Các khái niệm của Việt Nam và quốc tế không có sự khác biệt nhiều. Các
khái niệm về quản lý rừng cộng đồng của Việt Nam đã xác định đối tượng
chủ yếu là thôn, bản hoặc nhóm người tương đương cùng chung mục đích
trong các hoạt động sản xuất lâm nghiệp.
1.2.2.3. Một số chính sách nhà nước có liên quan đến lâm nghiệp cộng
đồng
Chính sách lâm nghiệp là một bộ phận cấu thành của chính sách kinh tế xã hội. Nhận thức được vai trò quan trọng của cộng đồng dân cư thôn bản
trong đời sống kinh tế - xã hội, đặc biệt là các vùng núi, nơi có điều kiện kinh
tế - xã hội còn khó khăn, chậm phát triển, Nhà nước đã từng bước công nhận
về mặt pháp luật đối với quyền lợi và trách nhiệm của cộng đồng.
Trước đây trong các văn bản pháp luật do Quốc hội ban hành như Pháp
lệnh quy định việc bảo vệ rừng năm 1992, luật đất đai 1987, 1993 (được sửa
đổi bổ sung vào năm 1998 và 2001), Luật bảo vệ và phát triển rừng năm 1991
chưa có các quy phạm pháp luật đối với cộng đồng dân cư, không quy định

giao đất giao rừng cho cộng đồng. Sau khi có Luật bảo vệ và phát triển rừng
Nhà nước đã ban hành rất nhiều văn bản quy phạm pháp luật quan trọng nhằm


tạo khuôn khổ pháp lý và thu hút mọi lực lượng xã hội tham gia quản lý, bảo
vệ và phát triển rừng. Tuy nhiên cộng đồng chưa được xem là đối tượng điều
chỉnh của các văn bản trên. Bộ Luật dân sự năm 1995 cộng đồng dân cư cũng
không đủ điều kiện để được xem là pháp nhân, là tổ chức, là chủ thể trong
giao dịch dân sự v.v.
Trong quá trình thực thi pháp luật và nghiên cứu các vấn đề đang đặt ra
trong thực tiễn, vai trò của cộng đồng đã từng bước được xác nhận. Nghị định
số 17/HĐBT ngày 17/1/1992 của Hội đồng bộ trưởng về thi hành Luật bảo vệ
và phát triển rừng đã công nhận "rừng làng, rừng bản thuộc quyền sử dụng
công cộng của làng, bản theo quy định của pháp luật. Khi làng, bản đó chuyển
đi nơi khác thì Nhà nước thu hồi và bồi hoàn thoả đáng... Những làng, bản
hiện còn rừng làng, rừng bản trước ngày ban hành Luật bảo vệ và phát triển
rừng và luật đất đai thì được xét công nhận là chủ rừng hợp pháp đối với
những diện tích rừng, đất trồng rừng đang quản lý, sử dụng".
Quy chế tổ chức và hoạt động của thôn và tổ dân phố ban hành theo
Quyết định số 04/2000/QĐ-BNV ngày 6/12/2002 của Bộ trưởng bộ Nội vụ,
gọi thôn (thôn, làng, ấp, bản, buôn, phun, sóc...) và tổ dân phố "không phải là
một cấp hành chính mà là tổ chức tự quản của cộng đồng dân cư, nơi thực
hiện dân chủ một cách trực tiếp, rộng rãi để phát huy các hình thức hoạt động
tự quản và tổ chức nhân dân thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính
sách pháp luật của Nhà nước...".
Trong nghị định số 79/2003/NĐ-CP ngày 7 tháng 7 năm 2003 của chính
phủ ban hành Quy chế thực hiện dân chủ ở xã đã có Chương IV nói về xây
dựng cộng đồng dân cư thôn: Thôn là nơi sinh sống của cộng đồng dân cư
(Điều 15); Hội nghị nhân dân thôn được tổ chức 6 tháng một lần (Điều 16);
Thôn xây dựng hương ước và quy ước (Điều 18) v.v

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã ban hành Thông tư số
56/1999/TT-BNN hướng dẫn xây dựng quy ước bảo vệ và phát triển rừng
trong cộng đồng dân cư thôn, làng, buôn, bản, ấp phù hợp với tiến trình thực


hiện dân chủ ở cơ sở theo Nghị định số 29/1998/NĐ-CP ngày 11/5/1998 của
Chính phủ về việc ban hành Quy chế thực hiện dân chủ ở xã. Nội dung của
Quy ước bảo vệ và phát triển rừng thường bao gồm các vấn đề: Quyền và
nghĩa vụ của các thành viên cộng đồng trong việc bảo vệ rừng; việc phát
nương làm rẫy, bảo vệ chăm sóc rừng; khai thác chế biến, vận chuyển gỗ và
lâm sản; việc bảo vệ, săn bắt và sử dụng động vật rừng; việc phòng cháy,
chữa cháy rừng; việc nhận khoán bảo vệ rừng; việc sản xuất và cung cấp
giống cây rừng; chống chặt phá rừng v.v.
Bước vào thế kỷ 21, với tinh thần tiếp tục đổi mới để phát triển, nhiều
văn bản pháp luật đã được chỉnh sửa cho phù hợp với thực tiễn. Quyết định số
08/TTg ngày 11/01/2001 của Thủ tướng Chính phủ về Quy chế quản lý ba
loại rừng đã quy định: đối với rừng đặc dụng chỉ được tận thu gỗ (cây gỗ đã
chết đứng, đổ gãy... ở các khu rừng văn hoá lịch sử, môi trường). Ngoài ra,
các Ban quản lý khu rừng đặc dụng được tự tổ chức hoặc cho các tổ chức
khác, hộ gia đình và cá nhân thuê hay khoán để kinh doanh dịch vụ, du lịch
sinh thái, tuy nhiên cộng đồng vẫn chưa được công nhận trong văn bản này.
Luật đất đai năm 2003 đã công nhận quyền của cộng đồng dân cư được
nhận đất hoặc công nhận quyền sử dụng đất như đã trình bày ở phần trên.
Luật cũng quy định "Người sử dụng đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng...
đất làm nghĩa trang... và cộng đồng dân cư sử dụng đất nông nghiệp..." được
Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất (Điều 33). Tuy nhiên người sử
dụng đất là cộng đồng dân cư "không được chuyển đổi, chuyển nhượng, cho
thuê, tặng cho quyền sử dụng đất; không được thế chấp, bảo lãnh, góp vốn
bằng quyền sử dụng đất". (Điều 117).
Việc xác định vai trò và vị trí của cộng đồng dân cư thôn bản trong hệ

thống quản lý và thực thi pháp luật hiện nay có ý nghĩa rất quan trọng. Giao
rừng cho cộng đồng là một thực tế khách quan phù hợp với phong tục của
nhiều dân tộc ít người tại các vùng rừng núi trong cả nước.
Năm 2004, Luật bảo vệ và phát triển rừng đã được sửa đổi và đã công


nhận cộng đồng có quyền được giao rừng. Cộng đồng dân cư thôn là chủ thể
đặc biệt trong giao rừng, có một số quyền và nghĩa vụ như những chủ rừng
khác. Đây là một sự thay đổi lớn của Luật bảo vệ và phát triển rừng, là cơ sở
để các cộng đồng quản lý những diện tích rừng đã và sẽ có để phục vụ lợi ích
của cộng đồng cũng như của toàn xã hội. Luật bảo vệ và phát triển rừng ra đời
phù hợp với phong tục tập quán tốt đẹp của nhiều dân tộc, đáp ứng được yêu
cầu của thực tiễn cuộc sống và nguyện vọng của đông đảo đồng bào các dân
tộc vùng nông thôn miền núi.
Để cụ thể hoá và thực hiện Luật bảo vệ và phát triển rừng sửa đổi năm
2004, chính phủ đã có quyết định số 186/2006/QĐ - TTg ngày 14 tháng 8
năm 2006 về việc Ban hành quy chế quản lý rừng. Tại Điều 15 có quy định
"Tổ chức, cộng đồng dân cư thôn được Nhà nước giao rừng đặc dụng mà cấp
Bộ hoặc Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh không thành lập ban quản lý khu rừng, có
trách nhiệm tổ chức việc quản lý khu rừng được giao". Như vậy đây là cơ sở
pháp lý quan trọng để cộng đồng có thể tham gia vào việc quản lý các khu
bảo tồn trong thời gian tới.
Hiện nay, đã có các văn bản pháp luật liên quan đến quản lý rừng của
cộng đồng, tuy nhiên nhìn tổng quát của vấn đề bảo tồn đa dạng sinh học, bao
gồm cả các vấn đề đất ngập nước, rừng và biển thì vẫn thiếu các văn bản pháp
luật điều chỉnh. Luật đa dạng sinh học sẽ đáp ứng vấn đề này, tuy nhiên hiện
nay chúng ta vẫn còn thiếu. Đây là yêu cầu khách quan của quá trình phát
triển công tác bảo tồn, nó đòi hỏi sự nỗ lực đóng góp của các Bộ, các ngành
trong quá trình xây dựng và hoàn thiện Luật đa dạng sinh học.
1.3. Tình hình nghiên cứu và bảo tồn đa dạng sinh học tại Quảng Trị

Hoạt động điều tra nghiên cứu ĐDSH ở Quảng Trị được tiến hành từ
lâu, và một trong các công trình quan trọng đầu tiên đó là "Các nghiên cứu
chim ở tỉnh Quảng Trị và các khu vực lân cận vùng Trung Bộ Việt Nam”
được xuất bản bởi Jean Delacour và Pierre Jabouille vào năm 1925 [50]. Các
địa điểm điều tra tại Quảng Trị vào thời gian đó có thể kể đến từ Vĩnh Linh


đến thị xã Đông Hà vào đến Hải Lăng ở phía Nam, đi về phía Tây có các khu
vực nằm dọc theo đường 9 như Cam Lộ, Hướng Hoá, Làng Khoai, Khe Sanh,
Làng Vây đến Lao Bảo . Trong kết quả điều tra các nhà điểu học người Pháp
nói trên đã mô tả nhiều vật mẫu thuộc 311 loài và phân loài chim thu được tại
các địa điểm nghiên cứu. Đáng chú ý là loài chim Công (Pavo muticus) có 01
mẫu con cái thu tại Cam Lộ vào tháng 4 năm 1924; Gà lôi lam mào trắng
(Lophura edwardsi), thu 07 mẫu con đực và 3 mẫu con cái tại Cam Lộ vào
ngày 29 tháng 11 năm 1923 và ngày 16 tháng 4 năm 1924. Già đẫy java
(Leptoptilos javanicus) thu tại Quảng Trị vào tháng 5 năm 1924; Niệc đầu
trắng (Berenicornis comatus) thuộc họ Hồng Hoàng thu mẫu vào tháng 10
năm 1923; Trĩ sao (Rheinartia ocellata) có nhiều mẫu đã thu tại Cam Lộ vào
các tháng 1và 4 năm 1924. Gà lôi hông tía (Lophura diardi) chỉ có 01 mẫu
con đực được thu ở Lao Bảo vào ngày 25 tháng 2 năm 1924. Tại Quảng Trị
còn có đến gần 20 loài chim ăn thịt (như diều, cắt, ưng, đại bàng,...) đã được 2
tác giả này thu mẫu và mô tả trong tài liệu nói trên.
Trong thời gian chiến tranh kéo dài cho đến năm 1975, không thể có
các điều tra nghiên cứu gì ở Quảng Trị. Tại đây, các cuộc điều tra về ĐDSH
chỉ mới được bắt đầu vào nửa cuối thập kỷ 90 và cũng chưa được tiến hành
một cách có hệ thống. Đồng thời với hiện trạng rừng và ĐDSH của Quảng Trị
bị tổn thương quá nặng nề trong chiến tranh thì các khu rừng đặc dụng tại đây
cũng chưa sớm được xây dựng như tại nhiều nơi khác ở nước ta.
Trong vài năm gần đây, các cuộc điều tra nghiên cứu ĐDSH và xây
dựng khu BTTN tại Quảng Trị đáng chú ý là các dự án được thực hiện bởi Tổ

chức BirdLife quốc tế tại Việt Nam và Viện điều tra quy hoạch rừng Trung
ương từ năm 1995-1996 do Cộng đồng Châu Âu tài trợ (EU), tiếp đến là các
hoạt động của các Tổ chức này tại Khu BTTN Đa Krông, Bắc Hướng Hoá do
quỹ Mc. Arthur Foundation tài trợ. Cũng với sự tài trợ của quỹ này, Trung
tâm Nghiên cứu Tài nguyên và Môi trường (CRES), ĐHQG Hà Nội cũng
thực hiện tại những vùng này của Quảng Trị các hoạt động điều tra ĐDSH và


giáo dục bảo tồn cho cộng đồng. Ngoài ra, tại Quảng Trị, trong thời gian qua,
Chi cục Kiểm lâm (CCKL) tỉnh cũng đã phối hợp tiến hành xây dựng một số
đề tài, chương trình nghiên cứu và thực hiện có hiệu quả các hoạt động điều
tra nghiên cứu và phối hợp các hoạt động nghiên cứu khác, cụ thể như phối
hợp điều tra chim, lưỡng cư – bò sát và thực vật với Viện Sinh thái và Tài
nguyên Sinh vật (IEBR) Hà Nội có sự hợp tác với một số tổ chức quốc tế
khác vào thời gian 2003-2007.
Tất cả các kết quả điều tra nghiên cứu tại Quảng Trị trong thời gian qua
đã cho thấy sự phong phú về tài nguyên ĐDSH và yêu cầu cấp thiết của công
tác bảo tồn trong đó có việc xây dựng hệ thống RĐD hay Khu BTTN của
tỉnh.
Chiến lược phát triển lâm nghiệp tỉnh Quảng Trị giai đoạn 2005-2010
và định hướng đến năm 2020 (QĐ số 1775 /QĐ-UBND/2005) của UBND
tỉnh Quảng Trị đã chỉ ra những nội dung cơ bản về phát triển ngành lâm
nghiệp cùng với nhiệm vụ bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học cũng như
phát triển du lịch sinh thái ở tỉnh. Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh
Quảng Trị lần thứ XIV nhiệm kỳ 2005 - 2010 cũng đã xác định: " Phát triển
lâm nghiệp toàn diện theo hướng xã hội hoá nghề rừng. Tập trung bảo vệ và
phát triển nguồn tài nguyên rừng, chú trọng trồng rừng phòng hộ, bảo vệ môi
trường sinh thái; Rừng kinh tế đảm bảo nguyên liệu cho các cơ sở chế biến
lâm sản. Đảm bảo rừng và đất rừng có chủ thực sự, gắn với việc tăng thu nhập
xoá đói giảm nghèo, góp phần thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia giảm

nghèo của chính phủ giai đoạn 2006 – 2010 (QĐ số 20/2007/QĐ-TTg, ngày
5/2/2007) ; nâng độ che phủ lên 43% vào năm 2010 . Ngăn chặn có hiệu quả
nạn khai thác, buôn bán lâm sản trái phép, nạn cháy rừng, đốt phá rừng làm
nương rẫy”.
Nằm trong vùng sinh thái Trung Trường Sơn, nơi có tiềm năng ĐDSH
phong phú và đang bị đe doạ ở mức độ nghiêm trọng, cho đến nay hệ thống
RĐD ở tỉnh Quảng Trị có 04 khu rừng đặc dụng bao gồm: Khu BTTN


×