Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Tiểu luận đánh giá tình hình vi phạm sử dụng đất đai và quản lý sử dụng đất

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (204.5 KB, 15 trang )

Mở Đầu
Đất đai là tài nguyên thiên nhiên vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt
không thể thay thế, là thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống, là địa
bàn phân bố các khu dân cư, các cơ sở kinh tế, xã hội và an ninh, quốc phòng.
Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 nêu ra
Nguyên tắc đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và
thống nhất quản lý được ghi nhận tại Điều 53, 54 Hiến pháp 2013; Điều 4 Luật đất
đai năm 2013.
Việc sử dụng đất liên quan chặt chẽ đến mọi hoạt động của từng ngành và
từng lĩnh vực, quyết định đến hiệu quả sản xuất và sự sống còn của từng người dân
cũng như vận mệnh của cả quốc gia. Vì vậy cần phải kiểm soát Quản lý và sử
dụng đất là một trong các nội dung quan trọng về quản lý Nhà nước về đất đai đã
được Luật đất đai quy định. Ngoài ra công tác kiểm soát sử dụng đất ở các cấp
giúp nhà nước thực hiện được quyền định đoạt về đất đai, nắm chắc quỹ đất, đảm
bảo cơ sở pháp lý quan trọng cho công tác giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích
sử dụng đất, thu hồi đất, lập hồ sơ địa chính và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất đưa công tác quản lý đất đai ở các địa phương đi vào nề nếp. Kiểm soát sử
dụng đất đảm bảo cho việc chủ động dành quỹ đất hợp lý cho phát triển của các
ngành, các lĩnh vực, đáp ứng nhu cầu đất đai cho xây dựng cơ sở hạ tầng xã hội,
xây dựng các khu công nghiệp, khu đô thị, thương mại, dịch vụ, khu dân cư.... góp
phần quan trọng thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế, giữ vững ổn định tình hình
xã hội đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước.
Do đó cần “ Đánh giá tình hình vi phạm sử dụng đất của cả nước”
Tiểu luận bao gồm 3 chương
Chương I : Đánh giá tình hình chung về sử dụng đất của cả nước
Chương II : Đánh giá về tình hình vi phạm sử dụng đất của cả nước theo giai đoạn

Chương III: Kết Luận về tình hình sử dụng đất và tình hình vi phạm sử dụng đất


Chương I


Đánh giá tình hình chung về sử dụng đất của cả nước .
I. Công tác quản lý đất đai nhìn từ nhiều phía
Xây dựng và hoàn thiện chính sách pháp luật về đất đai là nhiệm vụ trọng tâm của
công tác quản lý đất đai qua các thời kỳ, theo định hướng của Đảng. Những năm
qua, công tác quản lý đất đai đạt được những thành tựu quan trọng. Chính sách
giao ruộng đất ổn định, lâu dài cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng gắn với các quy
định về quyền của người sử dụng đất đã góp phần quan trọng vào việc xóa đói,
giảm nghèo, đưa nước ta trở thành một trong ba nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế
giới. Đồng thời, với các quy định đất có giá cũng đã tạo điều kiện để đất đai trở
thành nguồn lực quan trọng trong phát triển kinh tế, ổn định xã hội, nâng cao chất
lượng cuộc sống và thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Công tác
điều tra, khảo sát đánh giá, phân hạng đất, phân hạng đất lúa phục vụ cho chương
trình phát triển lương thực quốc gia, phân hạng đất lúa nước tại các địa phương để
phục vụ cho việc tính thuế sử dụng đất nông nghiệp đã và đang được thực hiện tại
5 vùng là trung du Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ, duyên hải Nam Trung Bộ, Tây Nguyên
và đồng bằng sông Cửu Long, nhằm sử dụng hiệu quả tài nguyên đất trong phát
triển kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường. Công tác điều tra, thống kê, kiểm kê
đất đai được thực hiện thường xuyên, 5 năm một lần đáp ứng yêu cầu nghiên cứu
chuyên sâu phục vụ quản lý nhà nước về đất đai. Từ đó xây dựng được bộ số liệu
về đất đai để phục vụ hoạch định chính sách, lập quy hoạch, kế hoạch của các
ngành kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng.Vệc thiết lập hệ thống hồ sơ địa chính
với đầy đủ những thông tin cần thiết về các mặt tự nhiên, kinh tế, xã hội, pháp lý là
một tiến bộ quan trọng trong công tác quản lý đất đai. Công tác lưu trữ thông tin
đất đai đang từng bước được hiện đại hóa. Công nghệ GIS phát triển đã cung cấp
khả năng mới cho việc sử dụng bản đồ địa chính, đó là xây dựng hệ thống thông tin
đất đai trên cơ sở các loại bản đồ dạng số, đặc biệt là bản đồ địa chính, giúp cho
việc xử lý, quản lý và khai thác thông tin đất đai có hiệu quả.
Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất là cơ sở để thực hiện việc kế hoạch hóa quá trình



chuyển dịch cơ cấu sử dụng đất đồng bộ với quá trình chuyển dịch cơ cấu lao
động, cơ cấu đầu tư, tạo bước đi hợp lý cho quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Thông qua quy hoạch, kế
hoạch sử dụng đất đã tạo nguồn cung về quỹ đất cho thị trường bất động sản; việc
công khai quy hoạch sử dụng đất, đặc biệt là quy hoạch sử dụng đất cấp xã đã từng
bước nâng cao dân chủ ở cơ sở, tạo điều kiện thuận lợi để người dân tham gia,
giám sát việc quản lý sử dụng nguồn tài nguyên đất. Mặc dù đạt được nhiều thành
tựu, song công tác quản lý đất đai vẫn còn nhiều bất cập. Một số vấn đề về quan hệ
đất đai chưa được giải quyết triệt để và thống nhất; chất lượng xây dựng và thực
hiện quy hoạch sử dụng tài nguyên đất còn yếu, gây lãng phí, thất thoát; quản lý thị
trường bất động sản còn lúng túng, sơ hở...
Hệ thống chính sách pháp luật đất đai tuy đã được điều chỉnh, bổ sung thường
xuyên, nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu giải quyết một số vấn đề vướng mắc
trong thực tế. Số lượng các văn bản quy phạm pháp luật về đất đai nhiều, nhưng
thiếu đồng bộ, thiếu ổn định. Một số văn bản quy phạm pháp luật về đất đai thuộc
thẩm quyền địa phương ban hành còn chậm, nội dung hướng dẫn chưa rõ ràng, gây
khó khăn cho việc thực hiện công tác quản lý nhà nước về đất đai.
Phương pháp, công nghệ trong điều tra cơ bản chậm đổi mới; điều tra thiếu tập
trung, còn chồng chéo; kết quả điều tra còn thiếu độ tin cậy, chỉnh lý cập nhật
không thường xuyên. Việc xử lý, lưu trữ, thông tin còn bất cập, tài liệu điều tra
chưa được khai thác có hiệu quả.
- Chất lượng lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất ở các địa phương có nhiều tiến
bộ nhưng thực sự chưa đạt yêu cầu đề ra. Tiến độ lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng
đất các cấp, đặc biệt cấp huyện, xã còn chậm. Nội dung quy hoạch, kế hoạch sử
dụng đất còn những bất cập về: phân định cấp độ, nội dung của quy hoạch sử dụng
đất và kế hoạch sử dụng đất giữa các cấp; kết hợp giữa quy hoạch sử dụng đất với
quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội và quy hoạch xây dựng; gắn với mục tiêu phát
triển bền vững, bảo đảm an ninh lương thực. Trong lập, thực hiện quy hoạch, kế
hoạch sử dụng đất thiếu sự giám sát chặt chẽ, tuân thủ triệt để chỉ tiêu quy hoạch,
kế hoạch sử dụng đất phải là chỉ tiêu pháp lệnh; việc áp dụng các công nghệ tiên

tiến còn nhiều hạn chế.


Cơ chế thuê đất để thực hiện dự án đầu tư giữa tổ chức kinh tế, hộ gia đình, cá
nhân với tổ chức, cá nhân nước ngoài vẫn còn tạo ra sự bất bình đẳng không chỉ về
kinh tế mà cả trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất. Việc
thu hồi đất để thực hiện các dự án phát triển kinh tế - xã hội vẫn là một trong
những vấn đề vướng mắc ở nhiều địa phương, làm chậm tiến độ triển khai nhiều
dự án đầu tư, chưa tạo được sự đồng thuận giữa người sử dụng đất, nhà đầu tư và
chính quyền địa phương. Việc thực hiện các quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư thực hiện thiếu sự thống nhất giữa các dự án thu hồi đất để sử dụng vào
mục đích vì lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng với các dự án thu hồi đất để sử dụng
đất vào mục đích phát triển kinh tế - xã hội. Các quy định bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư đối với người thuộc diện thu hồi đất còn thiếu ổn định và có sự khác nhau
giữa các địa phương đã gây nên sự mất công bằng đối với người sử dụng đất.
Hệ thống đăng ký quyền sử dụng đất hiện nay còn mang tính thủ công, thực hiện
thiếu thống nhất ở các địa phương. Công tác đăng ký, cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất chưa theo kịp tiến độ
đo đạc lập bản đồ địa chính, do đó hạn chế hiệu quả đầu tư của việc đo vẽ bản đồ.
Cơ sở dữ liệu bản đồ, hồ sơ địa chính thiếu về số lượng và kém về chất lượng,
được cập nhật không thường xuyên, chưa đáp ứng được yêu cầu quản lý đất đai và
thị trường bất động sản trong giai đoạn hiện nay. Tiến độ cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất thực hiện chậm, không đạt được mục tiêu đề ra đã ảnh hưởng
đến việc thực hiện quyền sử dụng đất của tổ chức và hộ gia đình cá nhân, hạn chế
việc giao dịch quyền sử dụng đất trên thị trường bất động sản.
Công tác định giá đất chưa đáp ứng được yêu cầu giá quy định sát giá thị trường,
hiện nay giá đất do Nhà nước quy định vẫn chỉ bằng từ 30% tới 60% giá đất
chuyển nhượng thực tế. Chưa tổ chức hệ thống theo dõi giá đất trên thị trường để
làm cơ sở định giá đất phù hợp. Công tác thẩm định giá đất còn hạn chế, đội ngũ
cán bộ định giá đất chưa được đào tạo cơ bản, hoạt động còn mang tính kiêm

nhiệm. Sự phát triển của thị trường đất đai đôi khi còn mang tính tự phát, bị các
yếu tố đầu cơ chi phối, tạo nên những biến động một cách cực đoan, đặc biệt tại
các khu vực đô thị, khu công nghiệp và những nơi mà sự chuyển dịch cơ cấu sử
dụng đất đang diễn ra mạnh mẽ. Tại khu vực nông thôn, thị trường đất đai không
phát huy được hết tiềm năng. Nguồn thu từ đất đai chưa tương xứng với tiềm năng
quỹ đất. Chính sách thuế và phí trong lĩnh vực quản lý đất đai thiếu điều tiết hợp lý


nguồn thu từ đất vào ngân sách nhà nước; chưa trở thành công cụ quản lý thị
trường, chống đầu cơ về đất đai, khuyến khích sử dụng đất tiết kiệm và có hiệu
quả. Giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về quản lý và sử dụng đất đai chưa
tương xứng. Các vi phạm, tranh chấp về đất đai tuy có giảm nhưng lại diễn biến
phức tạp, đặc biệt tình trạng tham nhũng trong quản lý đất đai vẫn còn diễn ra ở
nhiều địa phương, nhưng một số vụ việc chưa được thanh tra, phát hiện và xử lý
kịp thời. Ý thức chấp hành pháp luật của người dân, kể cả cán bộ, công chức trong
hệ thống cơ quan quản lý đất đai các cấp chưa nghiêm, mức độ sai phạm trong
quản lý, sử dụng đất đai còn nhiều.
II. Giải quyết hiệu quả những bất cập mới trong công tác quản lý đất đai trong thời
gian tới
Đất đai là vấn đề nóng, là tâm điểm chú ý của xã hội. Đây vừa là thuận lợi cho
công tác quản lý đất đai phát triển, nhưng cũng là thách thức lớn, chịu sức ép trong
quá trình vận hành. Cơ chế phân cấp ngân sách hiện nay tạo điều kiện cho các địa
phương chủ động phân bổ nguồn lực theo khả năng và nhu cầu phát triển của từng
địa phương. Tuy nhiên, đây cũng là một trở ngại cho việc tập trung nguồn vốn đủ
lớn để phát triển đồng bộ một ngành, đặc biệt đối với các địa phương có nguồn
ngân sách hạn hẹp. Cơ chế này cũng gây áp lực cho công tác quản lý đất đai, trong
điều kiện thiếu vốn, mọi nguồn lực đều trông chờ vào nguồn tài chính - đất đai, các
địa phương tìm cách để tăng nguồn thu từ đất. Tham nhũng trong lĩnh vực đất đai
vẫn xảy ra ở nhiều nơi, nhiều cấp, nhiều ngành. Đầu cơ đất đai đã trở thành phổ
biến với những quy mô khác nhau, gây nên những cơn sốt trên thị trường bất động

sản, đẩy giá đất tăng cao một cách bất hợp lý, tăng chi phí đầu tư, giảm năng lực
cạnh tranh của các doanh nghiệp tác động xấu đến tình hình kinh tế - xã hội.
Hệ thống tổ chức của ngành, chính sách pháp luật đất đai được hình thành và phát
triển qua nhiều giai đoạn, đã khẳng định tính phù hợp với điều kiện chính trị, kinh
tế, xã hội hiện tại nhưng chưa khẳng định sự phù hợp với yêu cầu của một hệ thống
quản lý đất đai hiện đại, vận hành trong cơ chế thị trường phát triển và hội nhập
quốc tế sâu rộng. Cơ sở hạ tầng trang thiết bị kỹ thuật công nghệ được đầu tư xây
dựng, mua sắm từ nhiều nguồn, nhiều chương trình, dự án khác nhau nên mặc dù
có đủ số lượng nhưng còn thiếu đồng bộ. Đây là một thách thức lớn, bởi phải tập
trung nguồn kinh phí lớn, đặc biệt vì sự đồng bộ ở nhiều cấp khác nhau. Nguồn tài


nguyên đất đai của nước ta rất hạn chế, lại đang phải đối mặt với nguy cơ suy giảm
về diện tích và chất lượng. Vì vậy, việc quản lý, bảo vệ, khai thác và sử dụng phải
theo quy hoạch, bảo đảm hợp lý, hiệu quả, tiết kiệm và bền vững.
Chính sách, pháp luật đất đai bảo đảm đưa đất đai thành nguồn lực quan trọng để
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Yếu tố đất đai trong
thị trường được xác lập đồng bộ với các yếu tố thị trường khác vừa tuân theo các
quy luật của kinh tế thị trường vừa bảo đảm tính định hướng xã hội chủ nghĩa. Quy
hoạch, kế hoạch sử dụng đất phải đi trước một bước bảo đảm phân bổ một cách
hợp lý nguồn tài nguyên quốc gia phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội bền
vững là định hướng chủ đạo và yêu cầu xuyên suốt trong công tác quản lý đất đai.
Việc quản lý, sử dụng đất phải thông qua công cụ quy hoạch sử dụng đất, vừa bảo
đảm quỹ đất phục vụ mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vừa bảo
đảm mục tiêu bảo vệ môi trường, an ninh lương thực, xóa đói giảm nghèo, công
bằng xã hội, thích ứng với biến đổi khí hậu, bảo đảm quỹ đất sử dụng phù hợp cho
từng giai đoạn và lâu dài.
Xây dựng và kiện toàn công tác quản lý đất đai theo hướng hiện đại hóa trên cơ sở
ứng dụng công nghệ hiện đại và mô hình quản lý tiên tiến. Đẩy mạnh ứng dụng
công nghệ là một trong những đột phá chiến lược chính để phát triển.Nâng cao khả

năng đóng góp của đất đai cho phát triển kinh tế - xã hội theo hướng thúc đẩy việc
vận dụng các quan hệ kinh tế với các quan hệ hành chính trong hoạt động quản lý;
xã hội hóa cung cấp dịch vụ công; tăng cường sử dụng công cụ tài chính nhằm
nâng cao nguồn thu ngân sách, bảo đảm công bằng trong thụ hưởng các lợi ích từ
đất đai.


Chương II
Đánh giá về tình hình vi phạm sử dụng đất của cả nước theo giai đoạn
I.Kết quả của công tác kiểm kê 2 năm 2008-2009 của các tổ chức là:
“Tính đến 1/4/2008, cả nước có 144.485 tổ chức đang quản lý, sử dụng đất được
Nhà nước giao, cho thuê, trong đó có 141.812 tổ chức sử dụng đúng mục đích
được giao, được thuê với diện tích 7.148.536,47 ha, chiếm 91,26%; 3.311 tổ chức
sử dụng không đúng mục đích được giao, được thuê với diện tích 25.587,82ha,
ngoài ra còn cho thuê, cho mượn, chuyển nhượng trái phép...”. Đây là kết quả kiểm
kê quỹ đất năm 2008 của các tổ chức đang quản lý, sử dụng được Nhà nước giao
đất, cho thuê đất theo Chỉ thị 31 của Thủ tướng Chính phủ, vừa được Bộ TN&MT
báo cáo Thủ tướng Chính phủ.
Việc kiểm kê đã xác định rõ diện tích đất mà các tổ chức đang quản lý, sử dụng;
diện tích đất lấn chiếm, diện tích bị lấn chiếm; diện tích sử dụng sai mục đích; diện
tích đất chuyển nhượng, cho thuê trái phép; diện tích đất chưa đưa vào sử dụng.
Đây chính là số liệu quan trọng để đánh giá đúng thực trạng tình hình và đề xuất
các biện pháp quản lý sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả đối với quỹ đất đã giao cho
các tổ chức sử dụng.
Theo đó, trên 90% các loại hình tổ chức sử dụng đất đúng mục đích, đạt hiệu quả
trong sử dụng. 6 vùng có tỷ lệ đạt trên 90% là Tây Bắc, Đông Bắc, đồng bằng sông
Hồng, duyên hải Nam Trung Bộ, Tây nguyên và đồng bằng Cửu Long. 2 vùng đạt
tỷ lệ thấp là Đông Nam Bộ và Bắc Trung Bộ.
Tình trạng sử dụng vào mục đích khác hay còn gọi là sử dụng không đúng mục
đích được giao, được thuê xảy ra ở hầu hết các loại hình tổ chức, trong đó chủ yếu

là các tổ chức sử dụng đất sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp với 1.527 tổ chức
trên diện tích 21.499,68 ha, chiếm 84,02%. Có 1.828 tổ chức sử dụng làm nhà ở


với diện tích 4.088,24 ha, trong đó phần lớn là xây nhà cho cán bộ công nhân viên.
Có 1.205 tổ chức sử dụng đất cho thuê trái phép với diện tích 2.918,65 ha, tập
trung lớn nhất ở vùng đồng bằng sông Cửu Long với 271 tổ chức trên diện tích
1.756,59 ha, sau đó tới vùng Đông Bắc, vùng Đông Nam Bộ. Cho thuê trái phép
xảy ra ít nhất ở vùng Tây Bắc, Tây Nguyên.
Có 1.647 tổ chức sử dụng đất để cho mượn với diện tích cho mượn 6.740,76 ha,
tập trung lớn nhất ở vùng Đông Bắc với 653 tổ chức, rồi tới vùng đồng bằng sông
Cửu Long với 478 tổ chức, vùng Đông Nam Bộ 141 tổ chức. 188 tổ chức sử dụng
đất chuyển nhượng trái phép với 375,28 ha đất chuyển nhượng trái phép. Trong đó
tập trung chủ yếu tại vùng đồng bằng sông Cửu Long với 43 tổ chức và diện tích
chuyển nhượng trái phép là 163,79 ha, tập trung nhiều nhất tại Long An với diện
tích 97,72 ha, Kiên Giang với diện tích 55,7 ha.
Tổng diện tích để bị lấn chiếm là 254.033,19 ha do 3.915 tổ chức đang quản lý.
Trong đó 397 tổ chức là cơ quan Nhà nước, 34 tổ chức chính trị, 22 tổ chức xã hội,
25 tổ chức chính trị xã hội, 14 tổ chức chính trị xã hội nghề nghiệp. Đông nhất phải
kể tới 1.458 tổ chức sự nghiệp công, 965 tổ chức kinh tế, 712 UBND xã...
Theo Tổng cục Quản lý Đất đai, diện tích đất bị lấn chiếm có nguyên nhân chủ yếu
là do tình trạng sử dụng không hiệu quả, sử dụng chưa hết diện tích được giao,
quản lý lỏng lẻo ở hầu hết các loại hình tổ chức, trong đó tập trung chủ yếu ở loại
hình tổ chức sự nghiệp công, UBND xã, tổ chức kinh tế, quốc phòng, an ninh,
nông, lâm trường. Thiếu kiểm tra thường xuyên, chưa quan tâm đến việc lập hồ sơ
và lưu giữ đầy đủ các giấy tờ để theo dõi, quản lý nên không quản lý được mốc
ranh khu đất đã được giao, chưa xây dựng tường rào hoặc cắm mốc giới để phân
định với đất của dân, của các tổ chức khác.
Mặt khác, thời gian giao đất trước đây đã quá lâu, thủ tục không đầy đủ, thay đổi
thủ trưởng đơn vị nhiều lần và không bàn giao cho người sau để tiếp tục quản lý...,

nên trong suốt quá trình sử dụng đất để cho người dân hoặc tổ chức lấn, chiếm. Cá
biệt có tổ chức không biết ranh giới đất của đơn vị mình, nên khi kiểm kê hiện
trạng rất khó khăn, phải mất nhiều thời gian mới xác định được diện tích đất được
giao.


Đất do các nông, lâm trường quản lý bị lấn chiếm, có nguyên nhân khách quan là
do diện tích lớn, lại thường ở khu vực vùng sâu vùng xa đi lại khó khăn trong khi
lực lượng cán bộ công tác tại các nông lâm trường lại mỏng, trong địa bàn quản lý
có dân cư sinh sống xen kẽ. Về chủ quan, các cấp chính quyền địa phương, Ban
quản lý nông, lâm trường và cán bộ quản lý tại đây thiếu tính chủ động, làm ngơ
trước tình trạng lấn chiếm của người dân địa phương.
Đất của các tổ chức đang có tranh chấp, lấn chiếm cũng là vấn đề đáng quan tâm
bởi có diện tích không nhỏ, trên 313.969 ha, trong đó tranh chấp trên 34.200 ha và
lấn chiếm trên 25.700 ha. Đất bị chiếm lên tới trên 254.000 ha với 3.915 tổ chức,
chủ yếu xảy ra ở tổ chức kinh tế, quốc phòng, an ninh, nông, lâm trường, UBND
xã, tổ chức sự nghiệp công. Nguyên nhân phải kể đến là khi thực hiện giao đất cho
các tổ chức, hồ sơ lập chưa đầy đủ, không chặt chẽ, mô tả ranh giới, mốc giới
không rõ ràng cụ thể. Một số khu đất đã có mốc giới nhưng quá trình xây dựng các
công trình đã làm thất lạc mốc hoặc dịch chuyển vị trí ngoài ý muốn. Việc giải
quyết khi có tranh chấp vì thế rất khó khăn.
Diện tích đất chưa đưa vào sử dụng của các tổ chức được giao, thuê cũng lên tới
trên 299.719 ha, trong đó diện tích còn để hoang hóa là trên 250.862 ha do 2.455 tổ
chức quản lý. Diện tích đầu tư, xây dựng chậm cũng lên tới trên 48.888 ha, tập
trung chủ yếu là các trường học và những dự án phát triển đô thị mới, dự án xây
dựng khu công nghiệp.
Diện tích đất chưa sử dụng tập trung chủ yếu tại Bắc Trung Bộ chiếm 56,1% tổng
diện tích đất chưa sử dụng (Nghệ An 73,23% diện tích của vùng); Tây Nguyên
chiếm 16,9% (Gia Lai 90,17%), duyên hải Nam Trung Bộ chiếm 15,8% (Ninh
Thuận chiếm 83,78%).

II.Kết quả thông kê và kiểm kê sử dụng đất năm 2010
Thực hiện điều 53 Luật Đất đai năm 2003 về thống kê đất đai hàng năm và
kiểm kê đất đai 5 năm 1 lần, ngày 15/5/2009 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành
Chỉ thị 618/CT-TTg v/v kiểm kê đất đai và xây dựng bản đồ hiện trạng sử dụng đất


năm 2010, Bộ TN&MT đã chỉ đạo thực hiện công tác kiểm kê đất đai 1/1/2010 và
xây dựng bản đồ hiện trạng sử dụng đất trên địa bàn cả nước với 63 đơn vị hành
chính cấp tỉnh, 693 đơn vị hành chính cấp huyện và 11.076 đơn vị hành chính cấp
xã.
Qua kiểm kê cho thấy cả nước có tổng diện tích tự nhiên 33.093.857 ha bao
gồm đất nông nghiệp 26.100.106 ha chiếm 79%, đất phi nông nghiệp 3.670.186 ha
chiếm 11% và đất chưa sử dụng 3.323.512 ha chiếm 10% diện tích tự nhiên, trong
đó có 24.989.102 ha chiếm 75,51% là đã có chủ sử dụng. So với năm 2005, diện
tích đất sản xuất nông nghiệp tăng 1.277.600 ha, trong đó đất trồng lúa có
4.127.721 ha, vượt so với quy hoạch 10,33% nhưng giảm 37.546 ha, bình quân
hàng năm giảm 7.000 ha; Đất lâm nghiệp tăng 571.616 ha, riêng Quảng Nam tăng
135.000 ha do giao đất trồng rừng, bổ sung đất rừng tự nhiên đặc dụng, khu bảo
tồn đặc dụng; Cơ cấu 3 loại rừng của cả nước có sự thay đổi lớn là đất rừng sản
xuất tăng 1.954.606 ha, rừng phòng hộ giảm 1.484.350 ha, rừng đặc dụng tăng
71.361 ha; Đất nuôi trồng thuỷ sản giảm 9.843ha; Đất làm muối tăng 3.487 ha; Đất
nông nghiệp khác tăng 10.015 ha; Đất ở nông thôn tăng 54.054 ha, đạt bình quân
91m2 /người; Đất ở đô thị tăng 27.994 ha, đạt bình quân 21m 2/người; Đất chuyên
dùng tăng 410.713 ha, tăng nhiều nhất là cho mục đích công cộng, giao thông, thuỷ
lợi, an ninh, quốc phòng; Đất tôn giáo tăng 1.816 ha; Đất nghĩa trang nghĩa địa
tăng 3.887 ha; Đất sông suối và mặt nước chuyên dùng giảm 61.709 ha; Đất chưa
sử dụng giảm 1.742.372 ha.
III .Hiện trạng sử dụng đất đai năm 2015
Theo nhóm đất sử dụng, tổng diện tích tự nhiên của cả nước là 33.123.077
ha, trong đó 31.000.035 ha đất đã được sử dụng vào các mục đích nông nghiệp và

phi nông nghiệp, chiếm 93,59% tổng diện tích tự nhiên; còn 2.123.042 ha đất chưa
được sử dụng vào các mục đích, chiếm 6,41% tổng diện tích tự nhiên. Trong đó,
nhóm đất nông nghiệp có diện tích là 27.302.206 ha, chiếm 82,43% tổng diện tích
tự nhiên và chiếm 87,07% tổng diện tích đất đã sử dụng; nhóm đất phi nông nghiệp
có diện tích là 3.697.829 ha, chiếm 11,16% tổng diện tích tự nhiên và chiếm
11,93% tổng diện tích đất đã sử dụng; nhóm đất chưa sử dụng có diện tích là
2.123.042 ha, chiếm 6,41 % tổng diện tích tự nhiên cả nước.


Theo các loại đối tượng sử dụng, quản lý, diện tích đất đã được giao cho các
loại đối tượng sử dụng là 26.802.054 ha, chiếm 80,92% tổng diện tích tự nhiên.
Trong đó, hộ gia đình và cá nhân đang sử dụng 15.894.447 ha, chiếm 47,99% tổng
diện tích tự nhiên, bằng 59,30% diện tích đất của các đối tượng sử dụng; các tổ
chức trong nước đang sử dụng 10.518.593 ha, chiếm 31,76% tổng diện tích tự
nhiên và bằng 39,25% diện tích đất đã giao cho các đối tượng sử dụng; tổ chức
nước ngoài, cá nhân nước ngoài sử dụng 45.717 ha, chiếm 0,17% diện tích đất đã
giao cho các đối tượng sử dụng; cộng đồng dân cư và cơ sở tôn giáo đang sử dụng
là 343.294 ha, chiếm 1,28% diện tích đất đã giao cho các đối tượng sử dụng. Diện
tích đất giao cho các đối tượng để quản lý là 6.321.023 ha, chiếm 19,08% tổng
diện tích tự nhiên của cả nước.
IV.Tình hình biến động đất đai trong năm 2015
Theo báo cáo thống kê diện tích đất đai năm 2015 của các địa phương, tổng
diện đất tích tự nhiên của cả nước là 33.123.077 ha, tăng so với số liệu kiểm kê đất
đai năm 2014 là 21 ha. Trong đó, có 11/63 tỉnh, thành phố có diện tích tự nhiên
thay đổi so với số liệu năm 2014 do có sự điều chỉnh địa giới hành chính cho đúng
theo bản đồ địa giới 364/CT.


Bi
ến động diện tích đất nông nghiệp toàn quốc

Diện tích nhóm đất nông nghiệp của cả nước tăng 21.166 ha.
Diện tích đất sản xuất nông nghiệp tăng 24.725 ha, trong đó, diện tích đất
trồng cây lâu năm tăng 29.471 ha và diện tích đất trồng cây hàng năm giảm 4.746
ha.
Diện tích đất trồng cây lâu năm cả nước tăng 29.471 ha chủ yếu do hiện nay
việc trồng các loại cây lâu năm (đặc biệt là keo lá tràm) đem lại thu nhập kinh tế
cao, ổn định đời sống nên người dân sử dụng đất đồi, đất rừng, chuyển từ cây hàng
năm hiệu quả thấp sang để trồng cây lâu năm.
Đất trồng cây hàng năm có diện tích đất lúa giảm 3.230 ha và có sự biến
động ở hầu hết các tỉnh. Diện tích đất trồng lúa giảm là do nhiều diện tích đất trồng
lúa kém hiệu quả, năng suất thấp đã được chuyển qua đất trồng cây lâu năm, cây
hàng năm…; mặt khác quá trình đô thị hóa, phát triển nhanh các công trình công
cộng, trụ sở cơ quan, các công trình sự nghiệp cũng làm giảm diện tích đất lúa
chuyển sang loại đất khác. Một số tỉnh có diện tích đất trồng lúa tăng là do chuyển
từ đất trồng cây hàng năm khác, đất trồng cây lâu năm, đất lâm nghiệp và đất nuôi
trồng thủy sản sang trồng lúa.
Diện tích đất lâm nghiệp của cả nước giảm 4.027 ha, trong đó giảm chủ yếu
ở đất rừng sản xuất (6.023 ha), đất rừng phòng hộ tăng (46 ha), đất rừng đặc dụng
tăng (1.949 ha). Giảm diện tích đất lâm nghiệp chủ yếu do đất lâm nghiệp chuyển
sang các loại: đất trồng cây lâu năm, đất sản xuất kinh doanh, đất có mục đích công
cộng, đất giao thông,…Một số tỉnh tăng diện tích đất lâm nghiệp do việc trồng


rừng đem lại giá trị kinh tế lớn nên các địa phuơng đẩy mạnh phong trào trồng
rừng, phát triển kinh tế vườn.

Biến động diện tích đất 2015
Diện tích đất phi nông nghiệp tăng 14.239 ha
Diện tích đất phi nông nghiệp tăng chủ yếu là đất chuyên dùng (10.664 ha),
đất ở (3.317 ha). Hiện nay, tốc độ đô thị hóa diễn ra rất nhanh cùng với việc xây

dựng mới các cụm công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, hình thành các khu du lịch,
các khu vui chơi giải trí, phát triển hạ tầng giao thông, thủy lợi… đã làm cho diện
tích đất chuyên dùng tăng rất lớn để đảm bảo cho mục tiêu phát triển kinh tế, xã
hội; mặt khác do chuyển từ đất nông nghiệp, đất chưa sử dụng và các loại đất phi
nông nghiệp khác sang xây dựng các công trình như giao thông, thủy lợi, cơ sở
giáo dục – đào tạo và đất sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp, đất ở…
Diện tích đất chưa sử dụng giảm 35.384 ha
Trong đó, đất đồi núi chưa sử dụng giảm 34.139 ha, đất bằng chưa sử dụng
giảm 1.272 ha, đất núi đá không có rừng cây tăng 27 ha. Diện tích đất chưa sử
dụng giảm do đưa vào sử dụng cho các mục đích nông nghiệp, phi nông nghiệp
phù hợp với nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội, với điều kiện thực tế của từng địa
phương.


Diện tích và cơ cấu sử dụng đất nông nghiệp có sự chuyển dịch theo hướng
tăng diện tích đất cây trồng có giá trị, thích ứng với biến đổi khí hậu đặc biệt là sau
đợt hạn hán ở Miền Trung, Tây Nguyên và hạn hán xâm nhập mặn ở Đồng bằng
sông Cửu Long. Đối với đất phi nông nghiệp đặt biệt là đất ở và đất sản xuất kinh
doanh phi nông nghiệp biến động tăng, chủ yếu do xây dựng các công trình công
cộng, hình thành các cơ sở sản xuất kinh doanh, khu dân cư trong đô thị, các tuyến
dân cư nông thôn do nhu cầu tăng dân số.
Đất chưa sử dụng tiếp tục được đưa vào sử dụng cho mục đích nông nghiệp,
trồng rừng, khoanh nuôi rừng với quy mô khác nhau, đất chưa sử dụng là đất bãi
bồi ven biển, đã được khai thác để đưa vào sử dụng, trong những năm tới những
vùng đất bãi bồi ven biển cũng phải được quy hoạch, trồng rừng lấn biển, góp phần
phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp, tạo thêm công ăn việc làm, thu nhập cho
nông dân và cải thiện môi trường sinh thái ở các địa phương. Dự án tổng thể đo
đạc, đăng ký cấp giấy chứng nhận, lập hồ sơ địa chính và xây dựng cơ sở dữ liệu
quản lý đất đai được các địa phương tích cực thực hiện.



Chương III
Kết Luận về tình hình sử dụng đất và tình hình vi phạm sử dụng đất.
Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do nhà nước thống nhất quản lý theo quy định
cảu pháp luật. Đây là yếu tố khách quan để mọi chính sách pháp luật về đất đai
phát huy hiệu lực góp phần phát triển kinh tế xã hội trước mắt và trong tương lai.
Hiện nay cùng với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là sự bùng nổ
của nền kinh tế thị trường kéo theo đó là các vấn đề phức tạp khác như sự gia tăng
dân số.
Việc phát triển và quy hoạch các khu công nghiệp, khu chế xuất, các công
trình công cộng, phúc lợi xã hội khác…đòi hỏi phải có một quỹ đất rất lớn. Chính
vì vậy bây giờ chúng ta phải có kế hoạch quản lý sử dụng đất sao cho phù hợp nhất
với phương châm tiết kiệm hiệu quả cao.
Cũng nhận thấy được tình hình vi phạm còn diễn ra khá phổ biến bao hàm cả
những nguyên nhân chủ quan , cũng như nguyên nhân khách quan dù đã có những
chính sách pháp luật cụ thể những chưa đạt được yêu cầu đề ra là việc sử dụng đất
sao cho tiết kiệm và hiệu quả, nâng cao việc nhận thức về pháp luật .
Tuy nhiên, vẫn còn những bất cập, hạn chế như công tác quản lý nhà nước
về đất đai trên địa bàn vẫn còn những hạn chế, chưa phát huy được tiềm năng đất
đai, hiệu quả sử dụng đất chưa cao; tình trạng giao đất, cho thuê đất nhưng chưa
đưa vào sử dụng quá thời hạn quy định còn nhiều và phổ biến ở nhiều địa phương,
ở mọi loại đối tượng sử dụng đất; công tác lập, cập nhật, chỉnh lý bổ sung hồ sơ địa
chính, biến động đất đai, kiểm tra, phát hiện, xử lý những vi phạm về đất đai, giải
quyết tranh chấp đất đai chưa kịp thời; diện tích đất trồng lúa nước còn manh mún,
chậm hình thành các mô hình phát triển vùng chuyên canh, các cánh đồng mẫu
lớn…




×