TIỂU LUẬN:
Đánh giá tình hình tăng
trưởng kinh tế Việt Nam từ
năm 1991 đến nay
Phần I: MỞ ĐẦU
1.1 Mục đích nghiên cứu
Từ khi đổi mới đường lối kinh tế nước nhà đến nay nền kinh tế Việt Nam chúng ta đã
đạt được những thành tựu thật sự đáng tự hào như tăng trưởng cao và bền vững trong
cả một thời kì dài từ năm 1986-2009. Theo đó GDP năm 2009 tăng gấp 4 lần năm
1990.
Vậy tại sao chúng ta lại muốn GDP tăng hay tăng trưởng cao? tăng trưởng là điều kiện
cần để chúng ta hoàn thành các mục đích kinh tế của xã hội. Mà mục đích kinh tế của
xã hội là làm sao cho mức sống người dân tăng lên và sự công bằng xã hội sẽ đến với
những cá nhân là như nhau. Vậy tăng trưởng của cả thời kì dài như vậy nó tác động
như thế nào đến mức sống của người dân và sự công bằng xã hội? Đó là câu hỏi hình
thành nên chủ đề nghiên cứu đề tài: “Đánh giá tình hình tăng trưởng kinh tế việt nam
từ năm 1991 đến nay”
1.2 Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Đánh giá là cả một quá trình chúng ta theo dõi sự biến đổi của một sự vật hiện tượng
nào đó rồi đưa ra nhận xét và qua đó có thể đưa ra giải pháp nhằm khắc phục hoặc
tăng cường những tác động của hiện tượng đến đối tượng nghiên cứu của mình.
Trong phạm vi đề tài này thì hiện tượng của đề tài xem xét đó là “tăng trưởng kinh tế
việt nam từ năm 1991 đến nay” và đối tượng nghiên cứu là quy mô, tốc độ, hiệu quả
và cấu trúc của tăng trưởng kinh tế việt nam.
1.3 kết cấu nội dung nghiên cứu
Nội dung nghiên cứu của đề tài này gồm các phần như sau:
Phần II: Cơ sở lý thuyết đánh giá tăng trưởng kinh tế.
1. Các khái niệm
1.1. Tổng giá trị sản xuất (GO): Là tổng giá trị sản phẩm vật chất được tạo ra trên
phạm vi lãnh thổ của một quốc gia trong một thời kỳ nhất định(thường là 1 năm).
Ta có thể tính chỉ tiêu tổng giá trị sản xuất theo 2 cách:
+ Là tổng doanh thu bán hang thu được từ các đơn vị, các nghành trong toàn bộ nền
kinh tế.
+ Tính trực tiếp từ sản xuất và dịch vụ gồm chi phí trung gian(IC) và giá trị gia tăng
của sản phẩm vật chất và dịch vụ (VA).
1.2. Tổng sản phẩm quốc nội (GDP):
Chỉ tiêu tổng sản phẩm trong nước (GDP) là tổng giá trị hàng hoá, dịch vụ cuối cùng
được sản xuất ra của một nền kinh tế trong một thời gian nhất định, thường được tính
trong một năm; Thuật ngữ “hàng hoá dịch vụ cuối cùng” được hiểu theo nghĩa không
Dựa trên cơ sở lý thuyết
đã học
Theo dõi tình hình tăng
trưởng kinh tế việt nam từ
năm 1991 đến nay
Rút ra nhận xét
Rồi từ đó đề xuất giải
pháp của nhóm
Phần IV Phần IV
Phần II Phần III
tính giá trị hàng hoá và dịch vụ sử dụng ở các khâu trung gian trong quá trình sản xuất
ra sản phẩm.
Dựa vào phân tích luồng chu chuyển thu nhập và chi tiêu của nền kinh tế, các nhà kinh
tế đã chứng minh trong nền kinh tế luôn tồn tại một đồng nhất thức mô tả mối liên hệ
giữa Tổng thu nhập (từ sản xuất), Tổng chi tiêu và Tổng sản phẩm trong nước như
sau:
Tổng thu nhập = Tổng chi tiêu = Tổng sản phẩm trong nước
Tổng thu nhập gồm thu nhập từ các yếu tố tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất:
thu nhập từ cung cấp dịch vụ lao động được thể hiện qua chỉ tiêu tiền lương và các
khoản thu nhập có tính chất lương; thu nhập từ máy móc, thiết bị tham gia vào sản
xuất được thể hiện qua chỉ tiêu khấu hao tài sản cố định; thuế sản xuất và giá trị thặng
dư.
Tổng chi tiêu của nền kinh tế gồm những khoản chi tiêu đáp ứng cho nhu cầu sử dụng
cuối cùng gồm: chi cho đầu tư (tích luỹ tài sản); chi cho tiêu dùng cuối cùng; chi cho
xuất khẩu.
Các nhà kinh tế đưa ra 3 phương pháp đánh giá kết quả hoạt động sản xuất của nền
kinh tế trong một thời gian nhất định.
- Phương pháp thứ nhất đánh giá GDP bằng cách cộng giá trị của tất cả hàng hoá và
dịch vụ cuối cùng được sản xuất ra ở trong nước theo từng ngành kinh tế. Nói cách
khác, phương pháp thứ nhất đánh giá kết quả của các đơn vị sản xuất. Phương pháp
tính GDP theo phương pháp này là phương pháp sản xuất.
- Phương pháp hàng hoá và dịch vụ tạo ra thu nhập dưới dạng thu của người lao động;
khấu hao tài sản cố định; thuế sản xuất và thặng dư thu nhập tổng hợp. Phương pháp
đánh giá GDP bằng cách cộng những khoản thu nhập trên được gọi là phương pháp
thu nhập
- Phương pháp thứ 3 căn cứ vào những khoản chi tiêu cần thiết cho các mục đích: tiêu
dùng cuối cùng; tích luỹ tài sản; xuất nhập khẩu quốc gia được gọi là phương pháp sử
dụng.
1.2.1 Phương pháp sản xuất
Phương pháp sản xuất tập trung vào đánh giá giá trị sản phẩm cuối cùng được tạo ra
theo ngành, theo thành phần kinh tế và bằng chênh lệch giữa giá trị sản xuất và chi phí
trung gian.
Khái niệm giá trị sản xuất dùng để đánh giá kết quả của đơn vị sản xuất (đơn vị cơ sở
hoặc doanh nghiệp), không dùng đánh giá cho từng công đoạn sản xuất của đơn vị. Vì
vậy giá trị sản xuất chỉ tính cho hàng hoá và dịch vụ do đơn vị sản xuất ra dùng cho
đơn vị khác, không tính cho sản phẩm chu chuyển nội bộ cho các công đoạn sản xuất
của đơn vị. Thu do chênh lệch giá cũng không tính vào giá trị sản xuất.
Giá trị sản xuất bao gồm các yếu tố chi phí trung gian và giá trị tăng thêm, như vậy có
sự tính trùng trong chỉ tiêu giá trị sản xuất. Mức độ tính trùng phụ thuộc vào mức độ
chuyên môn hoá và mức độ chi tiết của phân ngành kinh tế. Phân ngành kinh tế càng
chi tiết, mức độ tính trùng của chỉ tiêu giá trị sản xuất càng lớn.
Chi phí trung gian bao gồm toàn bộ chi phí về sản xuất vật chất, dịch vụ cho sản xuất
vật chất và không bao gồm khấu hao tài sản cố định. Những sản phẩm vật chất và dịch
vụ tính vào chi phí trung gian phải là chi phí sản xuất, được hạch toán vào giá thành
sản phẩm, phải là kết quả sản xuất do các ngành sản xuất ra trong năm hoặc sản xuất
từ năm trước chuyển sang cho sản xuất hoặc nhập khẩu từ nước ngoài. Những sản
phẩm không phải là kết quả của sản xuất mà sử dụng từ tự nhiên như ánh sáng mặt
trời, nước tự nhiên không tính vào chi phí trung gian. Chẳng hạn, nước mưa sử dụng
trong sản xuất nông nghiệp không tính vào chi phí trung gian của ngành nông nghiệp.
Ranh giới giữa chi phí trung gian và tích luỹ tài sản: chi phí trung gian gồm những chi
phí về hàng hoá và dịch vụ sử dụng hết trong quá trình sản xuất. Tích luỹ tài sản gồm
hàng hoá sử dụng nhiều lần trong sản xuất và có giá trị lớn.
Chi phí trung gian luôn được tính theo giá sử dụng, nghĩa là bao gồm cả phí vận tải và
cả các loại chi phí khác do đơn vị sản xuất phải trả để đưa nguyên, nhiên vật liệu,v.v…
vào sản xuất. Trong khi đó chỉ tiêu giá trị sản xuất có thể được tính theo 3 loại giá (giá
cơ bản, giá bán của người sản xuất, giá sử dụng).
Giá trị tăng thêm theo ngành kinh tế bằng hiệu giữa giá trị sản xuất và chi phí trung
gian. Giá trị sản xuất tính theo giá nào thì chỉ tiêu giá trị tăng thêm cũng tính theo giá
đó. Giá trị tăng thêm theo ngành kinh tế được biểu thị theo công thức sau:
Giá trị tăng thêm = Giá trị sản xuất – Chi phí trung gian
Tổng sản phẩm trong nước tính theo phương pháp sản xuất bằng tổng giá trị tăng
thêm của tất cả các ngành kinh tế cộng với thuế nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ. Dưới
dạng công thức Tổng sản phẩm trong nước (GDP) được biểu thị như sau:
GDP = Tổng giá trị tăng thêm + Thuế nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ
Tổng sản phẩm trong nước luôn được đánh giá theo giá sử dụng. Nếu giá trị tăng thêm
tính theo giá cơ bản thì tổng sản phẩm trong nước được tính như sau:
GDP = Tổng giá trị tăng thêm theo giá cơ bản + Thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản
phẩm + Thuế nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ
Nếu giá trị tăng thêm tính theo giá sản xuất thì tổng sản phẩm trong nước được tính
như sau:
GDP = Tổng giá trị tăng thêm theo giá sản xuất + Thuế giá trị gia tăng (VAT) phải
nộp + Thuế nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ
1.2.2 Phương pháp thu nhập
Như trên đã nói tổng sản phẩm trong nước tính theo phương pháp thu nhập bằng tổng
các yếu tố như thu nhập của người lao động từ sản xuất; thuế trừ đi trợ cấp sản xuất;
khấu hao tài sản cố định; thặng dư/ thu nhập hỗn hợp.
Tài khoản quốc gia 1993 định nghĩa thu nhập của người lao động từ sản xuất như sau:
“Tổng thù lao bằng tiền và hiện vật mà đơn vị sản xuất phải trả cho người lao động do
người lao động đã làm việc cho đơn vị sản xuất trong kỳ hạch toán. Thu nhập của
người lao động từ sản xuất bao gồm tiền lương thực nhận (bằng tiền và hiện vật) và
phần bảo hiểm xã hội đơn vị sản xuất nộp thay người lao động.
1.2.3 Phương pháp chi tiêu:
Tổng sản phẩm trong nước tính theo phương pháp sử dụng bằng tiêu dùng cuối cùng
của hộ gia đình và của nhà nước cộng với tích luỹ tài sản và cộng với chênh lệch xuất,
nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ. Dưới dạng công thức, tổng sản phẩm trong nước tính
theo phương pháp sử dụng được viết như sau:
GDP = C+G+I+(X-M)
Tiêu dùng cuối cùng là một phần của tổng sản phẩm trong nước sử dụng để thoả mãn
nhu cầu cho đời sống, sinh hoạt của cá nhân, dân cư, hộ gia đình và nhu cầu tiêu dùng
chung của xã hội. Tiêu dùng cuối cùng gồm 2 phần:
- Tiêu dùng cuối cùng của hộ gia đình
- Tiêu dùng cuối cùng của Nhà nước.
Chỉ tiêu GDP là một chỉ báo kinh tế tổng hợp, phản ánh một cách khá toàn diện sức
mạnh kinh tế của một quốc gia hay vùng lãnh thổ, vì vậy các nhà kinh tế thường sử
dụng chỉ tiêu này để so sánh trình độ phát triển kinh tế với nhau thông qua chỉ tiêu GDP.
3.1. Tăng trưởng kinh tế.
1.3.1 Khái niêm
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng của tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hoặc tổng sản
lượng quốc gia (GNP) hoặc quy mô sản lượng quốc gia tính bình quân trên đầu người
(PCI) trong một thời gian nhất định.
1.3.2 Đo lường tăng trưởng kinh tế
Để đo lường tăng trưởng kinh tế có thể dùng mức tăng trưởng tuyệt đối, tốc độ tăng
trưởng kinh tế hoặc tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm trong một giai đoạn.
Mức tăng trưởng tuyệt đối là mức chênh lệch quy mô kinh tế giữa hai kỳ cần so sánh.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế được tính bằng cách lấy chênh lệch giữa quy mô kinh tế kỳ
hiện tại so với quy mô kinh tế kỳ trước chia cho quy mô kinh tế kỳ trước. Tốc độ tăng
trưởng kinh tế được thể hiện bằng đơn vị %.
Biểu diễn bằng toán học, sẽ có công thức:
y = dY/Y × 100(%),
Trong đó Y là qui mô của nền kinh tế, và y là tốc độ tăng trưởng. Nếu quy mô kinh tế
được đo bằng GDP (hay GNP) danh nghĩa, thì sẽ có tốc độ tăng trưởng GDP (hoặc
GNP) danh nghĩa. Còn nếu quy mô kinh tế được đo bằng GDP (hay GNP) thực tế, thì
sẽ có tốc độ tăng trưởng GDP (hay GNP) thực tế. Thông thường, tăng trưởng kinh tế
dùng chỉ tiêu thực tế hơn là các chỉ tiêu danh nghĩa.
1.4 Năng suất lao động
1.4.1 khái niệm.
Năng suất lao động là chỉ tiêu hiệu quả sử dụng nguồn lao động sống, đặc trưng bởi
quan hệ so sánh giữa một chỉ tiêu đầu ra (kết quả sản xuất) và một chỉ tiêu đầu vào
(lao động và làm việc).Đây là một chỉ tiêu khá tổng hợp nói lên năng lực sản xuất của
một đơn vi hay của nền kinh tế xã hội.
1.4.2 Cách tính năng suất lao động
Tùy theo muc đích nghiên cứu của mỗi nước, mỗi ngành khác nhau trong từng gai
đoạn khác nhau mà áp dụng chỉ tiêu năng suất lao đong theo các phương thức khác
nhau.Được tính toán bắng chỉ tiêu đầu ra khác nhau.
Cách tính: +tính theo tổng giá trị sản xuất(GO)
+tính theo tổng giá trị tăng thêm(GDP)
Trên phạm vi nền kinh tế GDP là chỉ tiêu phân tích tính toán tốc độ tăng trưởng kinh
tế ,làm căn cứ đánh giá sự phát triển của một đất nước và tính toán nhiều chỉ tiêu quan
trọng khác nên tất nhiên nó được tính toán năng suất lao động trong nền kinh tế quốc
dân.
Năng suất lao động tính theo giá trị tăng thêm có ưu điểm hơn hẳn so với năng suất lao
động tính theo giá trị sản xuất vì ở tử số của chỉ tiêu năng suất lao động không tính
phần chi phí trung gian (phần giá trị này luôn bị tính trùng giữa các doanh nghiệp,
giữa các ngành) nên sự biến động của chỉ tiêu năng suất lao động không phụ thuộc vào
thay đổi tổ chức sản suất như năng suất lao động tính theo giá trị sản xuất. Hơn nữa,
nếu trong toàn nền kinh tế, năng suất lao động tính theo tổng sản phẩm trong nước, thì
đối với từng ngành, từng doanh nghiệp, năng suất lao động cũng cần được tính theo
giá trị tăng thêm. Có như vậy mới cho phép nghiên cứu, phân tích mối liên hệ giữa
năng suất lao động của các doanh nghiệp, các ngành với năng suất lao động chung của
toàn nền kinh tế quốc dân.
Ở Việt Nam, năng suất lao động được tính toán theo chỉ tiêu giá trị tổng sản lượng
(tính toàn bộ giá trị của sản phẩm tương tự như chỉ tiêu giá trị sản xuất ngày nay) được
đưa vào chế độ báo cáo thống kê của các xí nghiệp (nay gọi là doanh nghiệp) trong các
ngành công nghiệp, giao thông vận tải, xây dựng, ngay từ những năm đầu mới thành
lập ngành thống kê. Trong thời kỳ kế hoạch hóa tập trung có những năm năng suất lao
động được coi là một trong những chỉ tiêu pháp lệnh để đánh giá tình hình thực hiện
kế hoạch nhà nước của doanh nghiệp thuộc các ngành công nghiệp, xây dựng, giao
thông vận tải,
2. Các chỉ tiêu đánh giá tăng trưởng kinh tế:
2.1 Quy mô, tốc độ tăng trưởng:
-Qui mô của một nền kinh tế thể hiện bằng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hoặc tổng
sản phẩm quốc gia (GNP), hoặc tổng sản phẩm bình quân đầu người hoặc thu nhập
bình quân đầu người (Per Capital Income, PCI).
GDP, GNP, PCI càng lớn thể hiện quy mô của nền kinh tế càng lớn
-Tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế thể hiện là sự gia tăng của GDP năm này so với
năm trước. tốc độ tăng trưởng nói lên xu hướng tăng lên hoặc giảm đi về quy môcủa
một nền kinh tế.
-GDP/người được tính bằng tổng sản phẩm quốc nội chia cho tổng dân số. nó phản
ánh một phần nào sự đóng góp của một ngươi dân vào GDP
2.2 Hiệu quả tăng trưởng:
- Năng suất lao động: là chỉ tiêu phản ánh hiệu quả của tăng trưởng tốt nhất vì nó phản
ánh năng lực của một lao động chính đóng góp vào tổng sản phẩn đầu ra.
Lao động là thành phần chính để tạo nên sản phẩm trong một nền kinh tế, năng suất
lao động ngày càng cao thì tốc độ tăng trưởng ngày càng lớn
- So sánh tốc độ tăng GO và GDP:
Nếu tốc độ tăng GO>GDP thì phản ánh xu hướng chi phí trung gian tăng
Nếu tốc độ tăng GO=GDP thì phản ánh xu hướng chi phí trung gian không thay
đổi.
Nếu tốc độ tăng GO<GDP thì phản ánh xu hướng chi phí trung gian giả.
2.3 Cấu trúc tăng trưởng:
-Nếu GDP là thể hiện quy mô của nền kinh tế thì GDP theo ngành nó lại thể hiện cơ
cấu của một nền kinh tế cơ cấu của một nền kinh tế cho ta biết nền kinh tế đang ở thời
kì nào của quá trình phát triển kinh tế chung.
-Đóng góp của các yếu tố đầu vào (K,L,TFP) cho GDP cho ta biết được yếu tố nào tạo
ra GDP nhiều nhất trong các yếu tố đầu vào đó.
Phần III: TÌNH HÌNH TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VIỆT NAM TỪ NĂM 1991
ĐẾN NAY
3.1 Quy mô, tốc độ tăng trưởng:
3.1.1 GDP và GDP/người
Quy mô của nền kinh tế việt nam còn nhỏ!
Đơn vị : tỷ đồng
n
ăm
1990
1991
1992
1993
1994
1995
GDP 41955 76707 110532 140258 178534 228892
năm 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002
GDP 272036 313623 361017 399942 441646 481295 535762
năm
2003
2004
2005
2006
2007
2008
2009
GDP 613443 715307 839211 974266 1143715 1477717 1645481
Năm 2008 theo xếp hạng về GDP của các nước trên thế giới thì GDP của việt nam xếp
thứ 61 với 90,88 tỷ đô la. Và tỷ trọng GDP của việt nam so với thế giới là vào khoảng
0,15% GDP toàn thế giới.
tỷ trọng GDP của các nước trên thế giới
các nước khác
việt nam
cộng đồng châu
âu
mỹ
Tỷ trọng sản phẩm nội địa của các nước_theo Theo CIA World Factbook
GDP/ người của nền kinh tế việt nam còn thấp do quy mô của nền kinh tế còn nhỏ
trong khi đó dân số của VIỆT NAM vào khoảng 86 triệu người năm 2009 và có tốc độ
tăng hàng năm vào khoảng 1,2% và xếp thứ 12 trên thế giới sau TRUNG QUỐC,
NHẬT BẢN, MEXICO…
3.1.2 Tốc độ tăng trưởng.
Một trong những thành quả nổi bật của nền kinh tế Việt Nam trong thời kỳ đổi mới
chính là tốc độ tăng trưởng kinh tế cao khá ổn định. Thời kỳ từ năm 1986 tới nay là
thời kỳ đổi mới, tốc độc tăng trưởng bình quân 1986 1990 là 4,5%, thời kỳ 1991-1995
là 8,2%, thời kỳ 1996-2000 là 7% và từ 2001-2007 là 7,6%. Tốc độ tăng trưởng kinh
tế ngang bằng Hàn Quốc và chỉ đứng sau Trung Quốc.
Biểu đồ tốc độ tăng trưởng kinh tế qua các năm
Nguồn: Niên giám thống kê Việt Nam từ 1985 đến 2008
Từ kết quả tính toán và biểu đồ trên thấy rằng: thời kỳ 1991-2003 GDP ở phạm vi
chung toàn nền kinh tế quốc dân tăng bình quân năm là: 7,45%/năm. Nếu so sánh giữa
các năm ta thấy GDP tăng không đồng đều. Năm có tốc độ tăng cao nhất là 9,54%
(1995), thấp nhất 4,77%(1999). Có 8 năm tốc độ tăng GDP năm sau cao hơn tốc độ
tăng năm trước và 5 năm có tốc độ tăng GDP năm sau thấp hơn tốc độ tăng năm trước.
Tuy nhiên, nếu xét về giá trị tuyệt đối thì không có trường hợp nào có GDP năm sau
thấp hơn năm trước, tức là có tốc độ tăng đạt "giá trị âm". Tốc độ tăng GDP chung
toàn nền kinh tế quốc dân theo các thời kỳ như sau:
- Thời kỳ 1991-1995 có tốc độ tăng GDP bình quân năm đặt khá cao (8,18%), trong
đó năm 1991 đạt 5,81%, các năm còn lại đều tăng hơn 8%, riêng năm 1995 tăng
9,54%.
- Đến thời kỳ 1996-2000 chịu ảnh hưởng khá nặng nề của cuộc khủng hoảng tài chính
- tiền tệ Châu Á (1997) đã làm cho tốc độ tăng GDP trong các năm ở thời kỳ này giảm
liên tục (từ 9,34% năm 1996 xuống 8,15% năm 1997 rồi 5,76% năm 1998 và 4,77%
năm 1999). Năm 2000 tốc độ tăng đã bắt đầu nhích lên nhưng vẫn ở mức dưới 7%.
Bình quân năm thời kỳ 1996-2000 tăng 6,95%, thấp hơn tốc độ tăng giai đoạn 1991-
1995 là 1,23%;
- Thời kỳ 2001-2007 đã chấm dứt được xu thế giảm mạnh của thời kỳ trước và GDP
đã tăng dần qua các năm, song tốc độ tăng ở những năm đầu thiên niên kỷ mới không
lớn, năm sau chỉ nhích hơn năm trước từ 0,1 đến 0,2% làm cho tốc độ tăng bình quân
năm giai đoạn 2001-2003 mới đạt 7,06%, thấp hơn mức tăng bình quân chung 13 năm
(1991-2003) là 0,39% và thấp hơn mức tăng bình quân của 5 năm đầu (1991-1995) là
1,12%.Tuy nhiên những năm sau đó tốc độ tăng trưởng của nước ta đã vươn lên cao và
năm trong nhóm những nước co tăng trưởng cao nhất trên thế giới.Tăng trưởng năm
2001 là 6,7%, năm 2005 là 8,4% và đạt đỉnh năm 2007 với 8,5%.
- Thời kỳ từ 2008 đến nay, do Việt Nam cũng chịu ảnh hưởng nặng nề sau cuộc
khủng hoảng kinh tế toàn cầu cuối năm 2008 nên tốc độ tăng trưởng kinh tế nước nhà
đã sự suy giảm lớn. Tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2008 chỉ đạt 6,23% thâps nhất so
với 9 năm trước đó, và hậu quả nặng nề của khủng hoang kinh tế toàn cầu còn dư am
sang tới những quý đầu năm 2009 và anh hưởng rất lớn đến tình hình kinh tế chung
của cả nước. Tốc độ tăng trưởng GDP năm 2009 chỉ đạt 5,32% cho thấy hậu quả nặng
nề sau khủng hoảng và mặc dù Chính phủ đã đưa ra những gói kích cầu nhưng không
thể cải thiện tốt hơn cho nền kinh tế Việt Nam.
3.2 Hiệu quả tăng trưởng:
3.2.1 Năng suất lao động
Năm 2000 2004 2005 2006 2007 2008
Tổng số 11,7 17,2 19,7 22,5 25,9 32,9
Nông nghiệp và lâm nghiệp 4,0 5,6 6,3 7,2 8,4 12,2
Thủy sản 15,1 19,6 22,2 24,6 28,2 34,7
Công nghi
ệp khai mỏ
166,6
223,5
260,5
269,5
281,0
306.1
Công nghiệp chế biến 23,1 30,1 33,0 36,6 40,8 49,5
sản xuất điên và khí đốt 169,2 182,9 191,1 193,6 202,4 212,1
Xây d
ựng
22,7
23,2
26,7
30,2
35,1
40,0
TN,sửa xe moto đồ dùng gđ 16,1 20,3 23,1 26,0 29,6 31,8
Vân t
ải kho bãi và tt liên lạc
14,8
25,3
30,3
36,1
42,0
54,9
Khách sạn nhà hàng 20,9 19,8 38,2 45,8 55,3 78,0
Tài chính tín d
ụng
108.4
102,0
96,4
96,3
98,9
123,7
Hoạt động khcn 124,7 172,6 214,2 233,0 262,6 342,8
Giáo d
ục
đà
o t
ạo
14,9
19,7
21,8
23,6
25,7
27,5
Hoạt động cứu trợ xã hội 26,6 31,5 34,5 37,8 40,2 46,5
Hoạt động văn hóa thể thao 19,4 28,7 31,3 34,4 38,1 44,4
Hoạt động Đảng và đoàn thể 9,6 7,0 7,1 7,1 7,4 8,5
Hoạt động phục vụ Cn và cộng đồng 21,9 25,3 24,0 25,1 26,6 31,9
ANQP và đ
ảm bảo xã hội
32,1
35,6
35,5
37,3
39,5
47,3
(Tổng sản phẩm trong nước /giá trị tăng thêm theo giá trị thưc tế bình quân 1 lao động
đang làm việc).
Vốn có thể vay được,công nghệ có thể mua được còn lao động là yếu tố nội lực,lại
đang có lợi thế về số lượng dồi dào,tỷ lệ lao động trẻ cao có tính chịu khó và giá nhân
công rẻ…Để đạt được mức tăng trưởng hằng năm la 8,5% thì năng suất lao đông đang
là vấn đề được quan tâm lớn. Nhìn vào bảng số liệu trên ta thấy gì?
+Năng suất lao động của Việt Nam qua các năm đều tăng khá,nhưng so với khu
vực và các nước phát triển khác mức năng suất lao động của nước ta còn quá thấp
+Nếu chia theo nhóm ngành thì năng suất thuộc nhóm ngành nông,lâm nghiệp
thấp nhất.Mà Việt Nam là nước co tỷ lệ lao động trong ngành này rất cao.
Năng suất lao động thấp:(số liệu năm 2005 theo tổng cục thống kê)
Tên nước và lãnh thổ
Mức năng suất lao động Tốc độ tăng NSLĐ
M
ức NSL
Đ
Th
ứ tự
T
ốc
đ
ộ (%)
Th
ứ tự
(USD)
M
ỹ
77346
1
1,8
12
Nh
ật 77061 2 1,9 10
Ai
-
len
6
2936
3
1,0
15
Hồng Kông 60299 4 5,0 4
Pháp 57677 5 1,4 14
Phần Lan 55698 6 0,1 18
Xin-ga-po 52426 7 1,9 10
Anh
51882
8
0,9
16
Đức 50789 9 0,9 16
Ca
-
na
-
đa
49308
10
1,6
13
Ô-xtrây-li-a 45545 11 -1,0 20
Đài Loan 35856 12 2,7 8
Hàn Quốc 27907 13 2,6 9
Ma-lai-xi-a 11300 14 3,0 6
Thái Lan
4305
15
3,0
6
Phi-lip-pin 2807 16 -0,8 19
Trung Quốc 2272 17 7,1 1
In-đô-nê-xi-a 1952 18 4,4 5
Ấn Độ 1242 19 6,6 2
Vi
ệt Nam
1237
20
5,51
3
Tỷ lệ tăng NSLĐ của nước ta đạt mức khá,nhưng hãy thử so sánh mức năng suất lao
động của nước ta so với nước có mức năng suất lao động cao nhất là Mỹ thi chúng ta
chỉ bằng 1/60.So với các nước trong khu vực như Ma-lai-xi-a hay Thái lan,Phi-lip-pin
thì năng suất lao động của nước ta còn kém xa.
Năng suất lao động trong các ngành nông,lâm nghiệp thấp:
Mức năng suất trong ngành nông,lâm nghiệp thấp chỉ bằng một phần ba so với năng
suất lao động của cả nước và chỉ bằng một phần tám so với năng suất lao động của
ngành công nghiệp,chưa bằng một phần ba mức năng suất lao động của ngành thủy
sản.
nguyên nhân làm cho năng suất lao động trong ngành nông lâm nghiệp thấp là do số
lao động chiếm tỷ trọng lớn nhất nhưng thời gian chưa sử dụng còn nhiều.Năng suất
cây con thấp(năng suất lúa của Việt Nam năm 2006 đạt 48,9 ta/ha,trong khi đó Trung
Quốc đạt 62 tạ/ha.Mỹ đạt 80 tạ/ha).
Ngành công nghiệp có năng suất lao động cao nhất nhưng số lượng lao động chiếm tỷ
lện thấp(13,5%),tốc độ gia tăng chậm tính gia công và khai thác nguyên nhiên vật liệu
còn cao,giá trị tăng thêm thấp,tỷ trọng doanh nghiệp có công nghệ cao chỉ đạt 20.5%.
Nhìn tổng quát, năng suất lao động của nước ta còn thấp do nhiều nguyên nhân. Có
nguyên nhân do những ngành có năng suất lao động thấp lại chiếm tỷ trọng lao động
rất cao (như nông nghiệp, buôn bán nhỏ ). Có nguyên nhân do chất lượng lao động
mà biểu hiện trước hết ở tỷ lệ lao động đã qua đào tạo còn rất thấp và tăng rất chậm,
hiện mới đạt khoảng một phần tư tổng số. Ngay cả số đã qua đào tạo thì cơ cấu cũng
còn nhiều điểm chưa hợp lý.
Tỷ số người tốt nghiệp các cấp đào tạo theo chuẩn mực của thế giới là 1 cao đẳng, đại
học/4 trung cấp chuyên nghiệp/10 học nghề, thì ở nước ta các tỷ số tương ứng là 1 -
0,98 - 3,03, gây ra tình trạng "thiếu thợ nhiều hơn thiếu thầy". Đó là chưa kể trình độ
đào tạo cũng còn không ít vấn đề: lý thuyết nhiều hơn tay nghề, thực tế; trung cấp
chuyên nghiệp thì nửa thầy nửa thợ, cao đẳng, đại học thì khoa học cơ bản chưa đủ,
còn khoa học ứng dụng còn yếu. Ngay cả giáo sư, tiến sĩ thì có tới gần một phần ba là
danh nhiều hơn thực. Cán bộ khoa học, kỹ thuật ở cơ sở, ở thực tiễn thì ít. Ngoài ra
còn tình trạng mua bán bằng, Trình độ kỹ thuật - công nghệ
3.2.2 So sánh tốc độ tăng của GO và GDP
So sánh tốc độ tăng GO và GDP ngành NN
Từ biểu đồ trên ta thấy: tốc độ tăng GDP ổn định hơn tốc độ tăng GO ở ngành NN, tuy
nhiên tốc độ tăng GO lại ở mức cao hơn tốc độ tăng GDP. Vì sao lại thế? Vì GO chịu
ảnh hưởng của nhiều yếu tố như chi phí trung gian, năng suất lao động, số lượng lao
động… còn GDP phụ thuộc chủ yếu vào giá trị gia tăng của ngành. Năm 1991-1993,
tốc độ tăng GO giảm mạnh có thể do chúng ta giảm mạnh được chi phí trung gian từ
việc đầu tư vào cơ sở hạ tầng. Năm 2001, tốc độ tăng GO đạt mức thấp do ảnh hưởng
của cuộc khủng hoảng tài chính khu vực làm giá nông phẩm giảm mạnh. Còn năm
2007 đến nay, tốc độ tăng GO tăng mạnh do ảnh hưởng của nhiều yếu tố trong đó có
việc gia nhập WTO. Chuyển giao công nghệ đã giúp chúng ta tăng được năng suất
trong ngành nông nghiệp. Mặc dù hơn 70% dân số làm việc trong ngành nông nghiệp
nhưng đóng góp vào GDP là rất thấp.
So sánh tốc độ tăng GO và GDP ngành CN
So sánh tốc độ tăng GO và GDP ngành NN
0
20
40
60
80
100
120
1991
1993
1995
1997
1999
2001
2003
2005
2007
Năm
%
Tốc độ tăng GO ngành NN
Tốc độ tăng GDP ngành NN
So sánh tốc độ tăng GO và GDP ngành CN
0
5
10
15
20
25
30
35
40
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
Năm
%
Tốc độ tăng GO ngành CN
Tốc độ tăng GDP ngành CN
Tốc độ tăng của GO ngành công nghiệp lớn hơn tốc độ tăng GDP trong giai đoạn
1997-2004 phản ánh chi phí trung gian cao mặt khác đây là thời kì mà chúng ta chủ
yếu là gia công chế tác sản phẩm mà không có các mặt hàng chính.
Tốc độ tăng của GO ngành công nghiệp năm 2005-2007 không tăng trong khi đó GDP
ngành công nghiệp tăng đều với tốc độ khoảng 10% có thể nói được rằng xu hướng
giảm thiểu chi phí trung gian do chúng ta đầu tư cho kế cấu hạ tâng lớn.
3.3 Cấu trúc tăng trưởng:
3.3.1 Cơ cấu kinh tế.
Tăng trưởng và phát triển kinh tế của mỗi quốc gia đều đi kèm với những thay đổi
trong cơ cấu kinh tế, đặc biệt là cơ cấu ba nhóm ngành nông nghiệp (bao gồm nông-
lâm nghiệp và thuỷ sản), công nghiệp (bao gồm công nghiệp và xây dựng) và dịch vụ.
Cơ cấu kinh tế của nước ta trong thời gian qua đã có sự chuyển dịch tích cực (mặc dù
chưa rõ nét): tỷ trọng nông- lâm- thuỷ sản trong GDP đã giảm đều đặn (từ 40,5%
xuống 22,09% trong thời kỳ 1991-2008) và tỷ trọng công nghiệp- xây dựng tăng lên
tương ứng (từ 23,8% tăng lên 39,73% trong cùng thời kỳ). Trong khi đó, khu vực dịch
vụ sau một thời gian dài chững lại (1995-2004) và tăng chậm hơn nhịp độ tăng trưởng
chung của GDP, hiện nay đã trở lại tốc độ tăng trưởng khá.
Cơ cấu kinh tế Việt Nam phân theo nhóm ngành, 1991-2008
Tuy nhiên, cơ cấu kinh tế Việt Nam chuyển dịch chậm hơn dự kiến, kể cả cơ cấu
ngành, cơ cấu lao động, cơ cấu công nghệ Trong nhiều năm qua, xét theo tỷ trọng
giá trị tăng thêm trong GDP, cơ cấu kinh tế chủ yếu biến đổi theo sự chuyển dịch của
hai nhóm ngành nông- lâm - thủy sản và công nghiệp- xây dựng. Tỷ trọng dịch vụ
trong GDP trồi sụt theo từng năm và chưa thể hiện một xu thế chuyển dịch rõ ràng
hướng tới một cơ cấu hiện đại, trong khi đây là khu vực có rất nhiều cơ hội và tiềm
năng phát triển. Mục tiêu đặt ra cho chuyển dịch cơ cấu ngành trong GDP năm 2010
(khu vực nông nghiệp 15-16%; công nghiệp và xây dựng 43- 44%; dịch vụ 40- 41%)
rất khó đạt được.
Sự chuyển dịch cơ cấu ngành có liên quan chặt chẽ đến cơ cấu lao động và cơ cấu đầu
tư. Cơ cấu lao động chưa có sự chuyển dịch rõ rệt theo hướng tiến bộ, lao động chưa
có việc làm còn lớn, đang bị “tắc nghẽn” trong lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn.
Trong khi đó, cơ cấu đầu tư thể hiện sự mất cân đối lớn giữa nguồn vốn đầu tư xây
dựng cơ bản và tình trạng đầu tư tràn lan ở các địa phương.
Nhìn từ góc độ dài hạn, quá trình chuyển dịch cơ cấu chưa diễn ra theo một quy hoạch
chiến lược tổng thể có tầm nhìn dài hạn, với một lộ trình hợp lý và được bảo đảm thực
hiện nghiêm ngặt. Những năm qua là giai đoạn hình thành cơ cấu được định hướng bởi
các quy hoạch mang tính cục bộ ngành và địa phương, nhằm phục vụ cho các lợi ích
cục bộ và ngắn hạn. Chính vì thế, quy hoạch tổng thể thường bị điều chỉnh, phá vỡ,
hiệu quả đầu tư thấp, cơ cấu chuyển dịch không đúng yêu cầu thúc đẩy tăng trưởng
cao, bền vững, nâng cao sức cạnh tranh. Tất cả những điều nói trên phản ánh tầm nhìn
cơ cấu hạn chế, nặng về hiện vật và tư duy “chính sách ngành”, chưa theo kịp các xu
hướng công nghệ và nguyên lý phát triển hiện đại
3.3.2 Đóng góp của các yếu tố đầu vào.
Đóng góp các yểu tố đầu vào trong tăng trưởng GDP Việt Nam (%) giai đoạn (1993-
2007)
Hàm sản xuất: Y=f(K,L,TEP)
K,L: Các yếu tố tăng trưởng tho chiều rộng
TEP: Các yếu tố tăng trưởng theo chiều sâu
Đóng góp củ các yếu tố 1993_1997 1998- 2007
1.Đóng góp theo điểm phần trăm
(%)
- Vốn
- Lao động
- TEP
8.8
6.1
1.4
1.3
6.44
3.7
1.29
1.45
2. Đóng góp theo tỷ lệ phần trăm
(%)
- Vốn
- Lao động
- TFP
100
69.3
15.9
14.8
100
57.5
20
23
Nguồn: CIEM và Thời báo kinh tế Việt Nam
Tăng trưởng kinh tế xét ở đầu vào, có ba yếu tố đóng góp. Đó là sự đóng góp của yếu
tố số lượng vốn đầu tư, sự đóng góp của số lượng lao động và sự đóng góp của yếu tố
năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP).
Theo tính toán ban đầu, yếu tố số lượng vốn đầu tư đã đóng góp khoảng 57%, yếu tố
số lượng lao động đóng góp khoảng 20%, yếu tố TFP đóng góp 23%.
Từ sự đóng góp như trên, có thể rút ra một số nhận xét đáng lưu ý.
Một là, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam dựa chủ yếu vào sự đóng góp của yếu tố số
lượng vốn đầu tư.
Tỷ lệ vốn đầu tư so với GDP từ năm 2004 đến nay đều đã vượt qua mốc 40% (năm
2004 đạt 40,7%, năm 2005 đạt 40,9%, năm 2006 đạt 41%, ước năm 2007 đạt 40,4%),
kế hoạch năm 2008 còn cao hơn, lên đến 42%.
Đây là tỷ lệ thuộc loại cao nhất thế giới, chỉ sau tỷ lệ trên dưới 44% của Trung Quốc -
một tỷ lệ làm cho tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc đạt cao nhất thế giới, đã nhiều
năm liền tăng hai chữ số, hiện đang giữ kỷ lục thế giới về số năm tăng trưởng liên tục
(28 năm), nhưng Trung Quốc đưa ra mục tiêu giảm độ nóng của tăng trưởng và đẩy
mạnh chống lạm phát do tốc độ tăng giá tính theo năm của tháng 2/2008 đã lên đến
8,3%, cao nhất trong 12 năm qua.
Hai là, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam hiện còn dựa một phần quan trọng vào yếu tố
số lượng lao động, sự quan trọng này được xét trên hai mặt.
Một mặt, do nguồn lao động hàng năm vẫn còn tăng khoảng 2%, tức là trên 1 triệu
người mỗi năm. Mặt khác, do tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị và tỷ lệ thiếu việc làm ở
nông thôn còn cao.
Ba là, nếu tính cả sự đóng góp của yếu tố số lượng vốn đầu tư và sự đóng góp của yếu
tố số lượng lao động, thì hai yếu tố này đã đóng góp trên ba phần tư tổng tốc độ tăng
trưởng kinh tế của Việt Nam.
Điều đó chứng tỏ, sự đóng góp của yếu tố TFP đối với tổng tốc độ tăng trưởng kinh tế
còn nhỏ, chưa được một phần tư, thấp chỉ bằng hai phần ba tỷ trọng đóng góp của yếu
tố này của các nước trong khu vực hiện nay.
Điều đó cũng chứng tỏ, nền kinh tế Việt Nam hiện vẫn đi theo hướng tăng trưởng về
số lượng, chưa chuyển sang tăng trưởng về chất lượng, vẫn chủ yếu phát triển theo
chiều rộng, chưa chuyển mạnh sang phát triển theo chiều sâu.
Hiệu quả sử dụng vốn chưa cao
TFP là tổng hợp của các nhân tố hiệu quả sử dụng vốn đầu tư và năng suất lao động.
Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư được thể hiện ở nhiều chỉ tiêu. Gần đây, trên các diễn
đàn hội thảo và trên một số phương tiện thông tin đại chúng, khi đề cập đến hiệu quả
đầu tư các chuyên gia thường dùng hệ số ICOR.
Chỉ tiêu này được tính bằng nhiều cách, song theo cách tính đơn giản mà các chuyên
gia đề cập là lấy tỷ lệ vốn đầu tư/GDP chia cho tốc độ tăng trưởng GDP. Hệ số ICOR
càng lớn thì hiệu quả đầu tư càng thấp và ngược lại.
Tỷ lệ vốn đầu tư/GDP và tốc độ tăng GDP thì ICOR qua các thời kỳ như sau:
Tính chung ICOR của Việt Nam trong thời kỳ 1991-2007 là 4,86 lần, cao hơn nhiều so
với 2,7 lần của Đài Loan (trong thời kỳ 1961-1980), 3 lần của Hàn Quốc (trong thời kỳ
1961- 1980), 3,7 lần của Indonesia (trong thời kỳ 1981-1995), 4 lần của Trung Quốc
(trong thời kỳ 2001-2006), 4,1 lần của Thái Lan (trong thời kỳ 1981-1995); cũng cao
hơn so với 4,6 lần của Malaysia (trong thời kỳ 1981-1995).
Điều đó chứng tỏ, hiệu quả đầu tư của Việt Nam còn thấp.
Hiệu quả đầu tư còn được tính theo cách lấy GDP chia cho vốn đầu tư hàng năm (đều
tính theo giá thực tế). Theo cách này, thì GDP/Vốn đầu tư (có nghĩa là 1 đồng vốn đầu
tư tạo ra được bao nhiêu đồng GDP) của Việt Nam đã bị sút giảm qua các thời kỳ: nếu
thời kỳ 1991-1995 đạt 3,55 đồng/đồng, thì năm 1996-2000 còn 3,0 đồng/đồng, 2001-
2005 còn 2,56 đồng/đồng, 2006-2007 còn 2,46 đồng/đồng.
Năng suất lao động của Việt Nam còn thấp. Năm 2007 mới đạt 25.886 đồng/người,
của nhóm ngành nông, lâm nghiệp-thuỷ sản còn đạt thấp hơn chỉ có 9.607 nghìn
đồng/người, ngay cả nhóm ngành công nghiệp-xây dựng cao nhất cũng mới đạt 55.072
đồng/người và của nhóm ngành dịch vụ cũng chỉ đạt 38.159 nghìn đồng/người.
Nếu quy ra USD theo tỷ giá hối đoái, năng suất lao động của toàn nền kinh tế cũng
mới đạt khoảng 1,6 nghìn USD, của nhóm ngành nông, lâm nghiệp- thuỷ sản chỉ đạt
0,6 nghìn USD, của nhóm ngành công nghiệp- xây dựng đạt khoảng 3.438 USD, của
nhóm ngành dịch vụ đạt khoảng 2.385 USD.
Các con số trên còn thấp xa so với năng suất lao động chung của thế giới (khoảng trên
14,6 nghìn USD), còn thấp hơn cả mức bình quân đầu người của thế giới (khoảng 6,5
nghìn USD/người). Với năng suất còn thấp như trên thì giá trị thặng dư còn đang rất
nhỏ nhoi.
Một nền kinh tế tăng trưởng chủ yếu dựa vào vốn, mà hiệu quả đầu tư thấp, nhất là
hiệu quả đầu tư của khu vực kinh tế Nhà nước còn thấp hơn; năng suất lao động
thấp, nên nhu cầu đối với tiền tệ, yêu cầu cung tiền luôn luôn cao, tạo sức ép làm
tăng lạm phát.
Sức ép này cộng hưởng với lạm phát trên thế giới trong khi đồng Việt Nam được neo
giá chặt với USD mà USD lại mất giá lớn so với các đồng tiền mà Việt Nam có quan
hệ buôn bán lớn nhất lại càng tạo ra sưc ép lạm phát tại Việt Nam lớn hơn các nước.
Phần IV: KIẾN NGHỊ ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP TĂNG TRƯỞNG KINH
TẾ VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI.
4.1. Mô hình tăng trưởng kinh tế việt nam hiện nay.
Như phần trên đã xem xét chúng ta có thể thấy được tình hình tăng trưởng kinh tế việt
nam nó tác động như thế nào đến các mục đích của xã hội?
-Tăng trưởng cao nhưng chưa bền vững thể hiện qua việc tốc độ tăng giảm không
đồng đều và ngày càng bị ảnh hưởng của nền kinh tế thế giới (đó là xu hướng của việc
phân công lao động toàn cầu).
-Tăng trưởng cao nhưng chất lượng tăng trưởng chưa cao trong khi đó môi trường lại
bị hủy hoại là những điều mà các nước đang phát triển thường phải đối mặt.
-Dân số đứng thứ 12 trên thế giới mà trong khi đó GDP chỉ xếp thứ 62, mà trong khi
đó phần chênh lệch thu nhập nhân tố nước ngoài của việt nam ngày một lớn.
-Tăng trưởng kinh tế không đi đôi với việc chú trọng đầu tư, quy hoạch kết cấu hạ tâng
dẫn đến chi phí trung gian cao.
-Cơ cấu kinh tế chưa hợp lý thể hiện bằng việc các cơ chế của chính phủ chưa đủ
thông thoáng và chưa tạo điều kiện cho sức bật của các ngành mới hay là chưa có sự
dẫn hướng của pháp luật.
-Giá trị đóng góp vào tăng trưởng của việt nam chủ yếu là do vốn còn các yếu tố khác
như lao động và TFP thì lại thấp. thể hiện đây là nền kinh tế có trình độ ứng dụng khoa
học thấp.
Tăng trưởng chủ yếu là dựa vào việc gia tăng thêm các yếu tố đầu vào đó là lao
động và vốn. Tăng trưởng không bền vững vì không tạo ra các ngành có sức bật, ổn
định làm nền tảng chung cho chuỗi hoạt động của nền kinh tế.
Cuối cùng ta có thể nói được rằng mô hình tăng trưởng của nền kinh tế việt nam từ
năm 1991 đến nay là mô hình tăng trưởng theo chiều rộng.
4.2. Định hướng tăng trưởng Việt Nam trong thời gian tới .
-Tiếp tục tạo điều kiện cho nền kinh tế thu hút vốn nhằm mục đích giải phóng sức sản
xuất dư thừa từ phía lao động đông đảo và rẻ ở các đô thị, nông thôn, miền núi.
-Chú ý tạo điều kiện cho các ngành nghề mới có điều kiện pháp lý để hành nghề kinh
doanh nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế hợp lý.
-Quy hoạch và tăng chi tiêu cho kết cấu hạ tâng ở các vùng kinh tế trọng điểm để tạo
ra sức bật của nền kinh tế.
-Tạo những ngành nghề chính có lợi thế nhằm từng bước giảm thiểu số đơn đặt hàng
gia công chế tác và tăng số đơn hàng có giá trị gia tăng cao.
4.3. Đề xuất giải pháp.
Giải pháp chung, mang tính dài hạn bao gồm:
* Điều chỉnh cơ cấu đầu tư vào hình thành các loại tài sản vốn và nâng cao hiệu quả
đầu tư, đặc biệt là đầu tư công, mà trước hết là đầu tư từ ngân sách Nhà nước. Điều 40
chỉnh cơ cấu đầu tư phải gắn với cải cách khu vực doanh nghiệp nhà nước và cải thiện
môi trường đầu tư và kinh doanh. Kiến nghị này dựa vào bằng chứng về sự thiên lệch
trong đầu tư vào hình thành hai loại tài sản vốn vật chất và vốn con người. Đầu tư
trong giai đoạn vừa qua thể hiện sự bất hợp lý trong phân bổ nguồn lực cho tăng
trưởng.
* Từ bằng chứng về đóng góp cao của vốn con người vào tăng trưởng cho thấy tăng
đầu tư cho giáo dục thông qua các biện pháp trực tiếp và gián tiếp là rất cần thiết,
thông qua nhiều kênh khác nhau trong đó tiếp tục huy động nguồn vốn ngoài ngân
sách. Đầu tư từ ngân sách cho giáo dục cần chú trọng đến cơ cấu phân bổ, hiệu quả và
chất lượng, góp phần tạo điều kiện cho người nghèo có nhiều cơ hội hơn để tiếp cận
dịch vụ giáo dục và được hưởng lợi từ nguồn đầu tư đó.
* Tăng đầu tư cho khoa học và công nghệ nhưng phải gắn với tăng hiệu quả và chất
lượng đầu tư.
* Chú trọng khía cạnh phân phối thành quả tăng trưởng. Mục đích chung là tạo điều
kiện cho người nghèo có thể tham gia sâu và rộng hơn vào quá trình tăng trưởng. Có
thể chia làm hai loại giải pháp: trực tiếp như trợ cấp vốn đầu tư và đầu tư vào vốn con
người của người nghèo và gián tiếp như xây dựng và hoàn thiện các thị trường nhân
tố, nhất là thị trường vốn; đẩy mạnh phân cấp quản lý Nhà nước cho chính quyền cấp
dưới; mở rộng sự tham gia của cộng đồng vào xây dựng và thực hiện chính sách tại địa
phương v.v.
Các giải pháp trên đây mang tính lâu dài, trong ngắn hạn Báo cáo đề xuất các
biện pháp sau đây:
(1) Trong thời gian tới cần đặt mục tiêu tăng hiệu quả đầu tư, trước hết là đầu tư của
Nhà nước, thay vì quá tập trung vào tăng vốn đầu tư. Một trong các biện pháp có thể