Tải bản đầy đủ (.pdf) (61 trang)

Thực trạng loãng xương ở phụ nữ mãn kinh trên 5 năm độ tuổi 5070 tại TP. Thái Bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (871.98 KB, 61 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC THÁI BÌNH
BỘ MÔN: DINH DƯỠNG - AN TOÀN THỰC PHẨM
---------------

BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ

THỰC TRẠNG LOÃNG XƯƠNG Ở PHỤ NỮ
MÃN KINH TRÊN 5 NĂM TRONG ĐỘ TUỔI 50-70
TẠI TP. THÁI BÌNH NĂM 2017

Họ và tên: Đinh Diễm My
Tổ 1
Lớp: YTCC 4 – K2

Thái Bình, tháng ...../201…


MỤC LỤC
(chị tạo giúp em với ạ)


ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh lý xương khớp là vấn đề rất đáng quan tâm ở những phụ
nữ mãn kinh, thường đứng thứ 2 sau bệnh lý tim mạch. Loãng xương
và thoái hóa khớp là biểu hiện hay thường gặp nhất ở lứa tuổi 50 trở
lên. Loãng xương là hệ quả của sự rối loạn quá trình chuyển hóa xương
dẫn đến mất chất khoáng trong xương, cấu trúc xương bị suy thoái và
gia tăng nguy cơ gãy xương. Loãng xương còn được xem là một căn
bệnh âm thầm, không gây triệu chứng đặc hiệu cho đến khi xương bị
gãy. Do đó cần phải phát hiện bệnh kịp thời để điều trị nhằm giảm nguy
cơ gãy xương.


Vào những năm đầu của thế kỷ 21, theo báo cáo của Hiệp hội
loãng xương Quốc tế, mỗi năm trên Thế giới có khoảng 200 triệu người
bị loãng xương, trong đó có khoảng 1/4 số phụ nữ trên 60 tuổi bị gãy
xương do loãng xương. Tỷ lệ loãng xương ở phụ nữ Bỉ trên 65 tuổi là
15%, tỷ lệ này lên tới > 30% ở phụ nữ Anh trên 50 tuổi. Người ta thấy
ở Châu Âu, cứ 30 giây có một người bị gãy xương do loãng xương. Tỷ
lệ gãy xương do loãng xương ở Đông Nam Á chiếm 17,4% toàn thế giới.
Dự báo tới năm 2050, toàn thế giới sẽ có tới 6,3 triệu trường hợp gãy
cổ xương đùi do loãng xương, và 51% số này sẽ ở các nước châu Á;
nơi mà khẩu phần ăn hàng ngày còn rất thiếu calci, nơi mà việc chẩn
đoán sớm và điều trị tích cực bệnh loãng xương còn gặp rất nhiều khó
khăn. Ở Việt Nam, theo thống kê về tình hình bệnh khớp tại Bệnh viện
Bạch Mai trong 3 năm 1983-1985 thì khoảng 10,4% số bệnh nhân đến
khám và điều trị vì thoái hóa khớp và tỷ lệ loãng xương ở phụ nữ sau mãn
kinh chiếm khoảng 13 -15%.


Biến chứng của loãng xương gây giảm chất lượng cuộc sống, gia
tăng tỷ lệ tử vong và chi phí điều trị tốn kém: Hàng năm, chính phủ Anh
phải tiêu tốn 2,7 triệu đồng Euro cho điều trị gãy xương do loãng xương,
còn ở Mỹ chi phí này lên tới 3,8 tỷ USD. Tại Việt Nam hiện nay mỗi ca
gãy cổ xương đùi điều trị tại bệnh viện cũng chi phí hết khoảng hơn 30
triệu đồng. Tuy chi phí cho điều trị biến chứng của loãng xương rất lớn
nhưng hiệu quả điều trị lại không cao: 20% trường hợp gãy cổ xương
đùi do loãng xương có thể tử vong trong vòng một năm sau đó, 30% bị
tàn phế hoàn toàn, 40% phụ thuộc vào người khác và 80% không thể
tái hòa nhập với cộng đồng.
Phụ nữ sau mãn kinh là đối tượng có nguy cơ cao bị loãng xương
vì buồng trứng giảm sản xuất estrogen. Estrogen tác động đến các tế
bào tạo xương và tế bào hủy xương để ức chế sự phân hủy xương

trong mọi giai đoạn trong quá trình tái mô hình xương. Vì vậy loãng
xương là một biến chứng thường gặp ở phụ nữ sau mãn kinh. Tuy nhiên
hiện nay, lối sống, sinh hoạt, vận động thể lực, chế độ dinh dưỡng của
phụ nữ sau mãn kinh chưa được quan tâm, chú trọng. Trên cơ sở đó,
tôi lựa chọn thực hiện nghiên cứu đề tài: “Thực trạng loãng xương ở
phụ nữ mãn kinh trên 5 năm trong độ tuổi 50 – 70 tại TP. Thái bình
năm 2017”.
Nghiên cứu bao gồm các mục tiêu sau:
1.Mô tả thực trạng loãng xương ở phụ nữ mãn kinh trên 5 năm trong độ
tuổi 50- 70 tại TP.Thái Bình năm 2017.
2. Mô tả các yếu tố liên quan đến tình trạng loãng xương ở phụ nữ mãn
kinh trên 5 năm trong độ tuổi 50-70 tại TP.Thái Bình năm 2017.


CHƯƠNG I
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1.ĐẠI CƯƠNG VỀ LOÃNG XƯƠNG
1.1.1. Định nghĩa loãng xương
Loãng xương được đặc trưng bới sự thay đổi sức mạnh của
xương. Sức mạnh này được đặc trưng bởi mật độ xương và chất lượng
xương. Năm 1993, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) chủ trì một hội nghị
loãng xương tại Thụy Sĩ đã đưa ra một định nghĩa: “Loãng xương là
một bệnh lý của xương được đặc trưng bởi khối lượng xương suy giảm
kèm theo hư biến cấu trúc của xương dẫn đến tính dễ gãy của xương,
tức là có nguy cơ gãy xương.”
Trong vòng 15 năm qua, rất nhiều nghiên cứu về loãng xương đã
được thực hiện và qua đó, chúng ta đã hiểu và biết nhiều hơn về loãng
xương, nhất là về chất lượng của xương. Năm 2001, Viện Y tế Mĩ chủ
trì một hội nghị chuyên đề loãng xương với sự tham gia của nhiều
chuyên gia quốc tế đã đúc kết những hiểu biết mới về loãng xương và

đi đến đến một định nghĩa mới về loãng xương như sau: “loãng xương
được đặc trưng bởi sự thay đổi sức mạnh của xương. Sức mạnh của
xương được đặc trưng bởi mật độ xương và chất lượng xương. Chất
lượng xương được đánh giá bởi các thông số: Cấu trúc xương, chu
chuyển xương, độ kháng hóa, tổn thương tích lũy, tính chất của các
chất cơ bản của xương”
Ngoài ra WHO cũng đưa ra khái niệm về giảm mật độ xương: “Đó
là khi một khối lượng xương thấp hơn đơn thuần so với tuổi và giới”.


1.1.2. Phân loại loãng xương:
Theo nguyên nhân, loãng xương được chia làm hai loại là loãng
xương nguyên phát và thứ phát. Loãng xương nguyên phát lại được
chia thành 2 loại: loãng xương sau mãn kinh (loại 1) và loãng xương
tuổi già (loại 2). Loãng xương sau mãn kinh thường gặp ở phụ nữ sau
mãn kinh hoặc phụ nữ sau cắt bỏ buồng trứng khoảng 5 – 10 năm, liên
quan đến sự thiếu hụt Estrogen. Loãng xương tuổi già xuất hiện ở cả
nam và nữ trên 70 tuổi.
1.1.2.1. Loãng xương nguyên phát:
Là loại loãng xương không tìm thấy căn nguyên nào khác ngoài
tuổi và/hoặc tình trạng mãn kinh ở phụ nữ.
-Loãng xương nguyên phát typ 1 (loãng xương sau mãn kinh):
thường gặp ở phụ nữ 50 – 60 tuổi đã mãn kinh. Tổn thương chủ yếu là
mất chất khoáng ở xương xốp, biểu hiện bằng sự lún các đốt sống hoặc
gãy xương Pouteau – Colles. Loãng xương nhóm này thường xuất hiện
sau mãn kinh 5 – 15 năm. Nguyên nhân ngoài sự thiếu hụt Estrogen,
còn có sự giảm tiết hormon cận giáp trạng, tăng đào thải calci qua nước
tiểu, suy giảm hoạt động Enzym 25–OH–Vitamin D1 alpha hydroxylase.
- Loãng xương nguyên phát typ 2 (loãng xương tuổi già): loãng
xương liên quan đến tuổi tác và có sự mất cân bằng tạo xương. Loại

này xuất hiện ở cả nam và nữ; thường trên 70 tuổi, mất chất khoáng
toàn thể cả xương xốp và xương đặc. Biểu hiện chủ yếu là gãy cổ
xương đùi, liên quan đến 2 yếu tố quan trọng là giảm hấp thu calci và
giảm chức năng đại cốt bào dẫn tới cường giáp trạng thứ phát.


1.1.1.2. Loãng xương thứ phát
Là loại loãng xương tìm thấy nguyên nhân do một số bệnh hoặc
một số thuốc gây nên.
1.1.3. Triệu chứng lâm sàng
Những biểu hiện lâm sàng chỉ xuất hiện khi mật độ xương giảm
trên 30%. Triệu chứng lâm sàng có thể xuất hiện đột ngột sau một chấn
thương nhẹ hoặc có thể xuất hiện từ từ tăng dần.
- Đau: Thông thường loãng xương gây đau xương và đó là triệu
chứng chính. Thường đau ở vùng xương chịu tải của cơ thể (cột sống
thắt lưng, chậu hông), đau nhiều sau chấn thương, đau âm ỉ nếu là tự
phát. Đau tăng khi vận động, đi lại, đứng ngồi lâu và giảm khi nghỉ ngơi.
- Hội chứng kích thích rễ thần kinh: Có thể có các dấu hiệu chèn
ép rễ thần kinh như đau dọc theo dây thần kinh liên sườn, thần kinh
tọa...nhưng không bao giờ gây hội chứng ép tuỷ
- Biến dạng cột sống: Gù vẹo cột sống là hậu quả của đau và nén
cột sống lưng, thắt lưng kéo dài không được điều trị. Những trường hợp
gù vẹo cột sống do loãng xương thường xảy ra từ từ, gù có đường cong
rộng, không có điểm gồ.
- Chiều cao của cơ thể giảm: Mỗi một đốt sống bị xẹp hoàn toàn
có thể làm chiều cao của cơ thể giảm 1cm và trong những trường hợp
nặng khi nhiều đốt sống bị xẹp chiều cao của cơ thể có thể giảm từ 1020cm.
- Gãy xương: Gãy xương do loãng xương thường là những gãy
xương tự nhiên hoặc sau một sang chấn rất nhỏ như ho hắt hơi, ngã
nhẹ....



1.1.4. Hậu quả của loãng xương
1.1.4.1. Hậu quả đối với cá nhân người bệnh
Hậu quả lớn nhất của loãng xương là làm gia tăng nguy cơ gãy
xương. Gãy xương do loãng xương (gãy xương đùi; gãy xương sống;
gãy xương cẳng tay) để lại những đau đớn và hậu quả không kể xiết
cho bệnh nhân như: tàn tật suốt đời; chất lượng cuộc sống bị hạ thấp
thậm chí có thể dẫn đến tử vong. Đối với những người cao tuổi sống
sót sau gãy xương do loãng xương thì cứ 1 người trong 3 người có thể
sống mà không phụ thuộc vào người khác. Đối với những người đã bị
gãy cột sống thì sẽ có nguy cơ rất cao tiếp tục bị gãy cột sống khoảng
từ 1-2 năm tiếp theo.
1.1.4.2. Hậu quả đối với gia đình bệnh nhân
Loãng xương không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe người
bệnh mà còn gây ra những ảnh hưởng gián tiếp đối với gia đình bệnh
nhân. Do phải dành thời gian chăm sóc người bệnh bị gãy xương, nên
những người khỏe mạnh không thể tiếp tục công việc hàng ngày của họ.
1.1.4.3. Hậu quả đối với xã hội
Loãng xương là một vấn đề sức khỏe y tế công cộng nổi cộm với
những tác động to lớn về mặt kinh tế và xã hội ở mỗi quốc gia và toàn
cầu. Theo WHO, mặc dù loãng xương dễ dàng được chẩn đoán và điều
trị, tuy nhiên hầu hết người bệnh không được chẩn đoán sớm và điều
trị kịp thời, triệt để hậu quả là có hàng triệu người có nguy cơ cao với
gãy xương. Bên cạnh đó do sự gia tăng dân số người cao tuổi làm số
người bị gãy xương do loãng xương sẽ tăng lên gấp từ 2-3 lần trong
một vài thập kỷ tiếp theo. Điều này đã dẫn đến hệ thống y tế của rất
nhiều các quốc gia đã không thể cung cấp đầy đủ các phương tiện để



phát hiện và điều trị bệnh cho cộng đồng. Ước tính chi phí trực tiếp cho
điều trị gãy xương do loãng xương của các nước châu Âu, Mỹ và
Canada vào khoảng 48 tỷ đô la mỗi năm. Các chi phí gián tiếp cho điều
trị loãng xương chỉ tính riêng ở Mỹ tốn khoảng 4,5 - 6,4 tỷ đô mỗi năm.
1.2. LOÃNG XƯƠNG Ở PHỤ NỮ SAU MÃN KINH
1.2.1. Vài nét về thời kỳ mãn kinh
Thời kỳ mãn kinh bắt đầu một cách tự nhiên khi các buồng trứng
bắt đầu suy giảm tiết Estrogen và Progesterone. Do đó mãn kinh – thuật
ngữ y khoa tiếng Anh là Menopause - đã từng được xem là các rối loạn
do thiếu hụt Estrogen. Nhưng mãn kinh không phải là bệnh lý mà là một
quá trình sinh lý bình thường. Mãn kinh cũng không phải là điềm kết
thúc tuổi thanh xuân hay khả năng tình dục của người phụ nữ, mặc dù
nó có liên quan với nhiều biến đổi về nội tiết tố và tâm sinh lý.
1.2.1.1. Định nghĩa mãn kinh
Mãn kinh là tình trạng vô kinh ở người phụ nữ ít nhất là 12 tháng.
Thời kỳ mãn kinh là khoáng thời gian tính từ hiện tượng mãn kinh cho
đến hết cuộc đời. Mỗi người phụ nữ trài qua thời kỳ mãn kinh một khác
nhau. Ngay cả tuổi bắt đầu mãn kinh cũng thay đổi. Một số người bắt
đầu từ 30 – 40 tuổi, một số khác có thể đến trên 60 tuổi. Phổ biến nhất
là khoảng 50 – 51 tuổi.
1.2.1.2. Phân loại mãn kinh
- Mãn kinh tự nhiên là tình trạng vô kinh liên tục sau 12 tháng mà
không có bất kỳ nguyên nhân bệnh lý nào.


- Mãn kinh nhân tạo: là tình trạng dừng kinh nguyệt sau khi cắt bỏ
buồng trứng (có hoặc không cắt bỏ tử cung) hoặc do điều trị hóa chất,
phóng xạ làm suy giảm chức năng buồng trứng.
1.2.2. Nguyên nhân và một số yếu tố nguy cơ gây loãng xương
Mặc dù sự giảm sút khối lượng chất xương là một hiện tượng sinh

lý bình thường trong cơ thể, song có rất nhiều yếu tố nội sinh và yếu tố
ngoại sinh tác động làm cho tình trạng mất xương ở một số đối tượng
trở lên nhanh hơn, mạnh mẽ hơn và họ có nguy cơ bị loãng xương cũng
như gãy xương cao hơn. Những yếu tố đã được nhiều tác giả thừa
nhận bao gồm:
Tuổi: Tuổi càng cao mật độ xương càng giảm.
- Loãng xương tuổi già xuất hiện ở cả nam và nữ, thường trên 70
tuổi với tỉ lệ nữ so với nam là 2/1. Đây là hậu quả của sự mất xương từ
từ trong nhiều năm. Biểu hiện gãy xương hay gặp là gãy cổ xương đùi,
gãy lún đốt sống do tổn thương xuất hiện đồng đều cả trên xương đặc
cũng như xương xốp.
- Người già có sự mất cân bằng giữa tạo xương và hủy xương
tạo nên những cân bằng âm tại những vị trí mất xương làm cho vỏ
xương bị mỏng đi, liên kết giữa các bè xương bị đứt gãy do hậu quả
của sự thiếu hụt của nhiều yếu tố kích thích tại xương do đó gián tiếp
làm các yếu tố kích thích hủy xương tăng lên. Đồng thời có sự giảm hấp
thu calci ở ruột và giảm tái hấp thu calci ở ống thận do đó làm tăng khả
năng mắc loãng xương.
Hormon sinh dục: Phụ nữ mãn kinh, giảm tiết Estrogen dẫn đến
nguy cơ loãng xương.


- Estrogen được bài tiết ở buồng trứng và một lượng nhỏ do
tuyến vỏ thượng thận. Ảnh hưởng của Estrogen đến quá trình tái mô
hình là làm giảm lượng tế bào và hoạt động của tế bào hủy xương.
Estrogen còn tác động đến sự phát sinh và hình thành các enzym và
protein qua những cơ chế phức tạp liên quan đến các hormon khác.
Tính trung bình, phụ nữ mất khoảng 50% xương xốp và 35% xương
đặc trong quãng đời. Nhưng chưa ai biết bao nhiêu phần trăm của sự
mất xương này là do thiếu (hay suy giảm) estrogen, và bao nhiêu là do

các yếu tố liên quan đến sự lão hóa hay các yếu tố môi trường. Tuy
nhiên có ước tính cho rằng khoảng 25% xương xốp và 15% xương đặc
bị mất là do suy giảm/thiếu estrogen.
- Estrogen kích thích thụ thể calcitonin, ức chế quá trình hủy
xương, kích thích quá trình tạo xương.
- Ở cơ quan: Estrogen và sức căng cơ học duy trì khối lượng
xương. Ở mức độ tổ chức, Estrogen làm cân bằng quá trình tạo xương
và hủy xương. Ở mức độ tế bào, Estrogen ảnh hưởng lên quá trình sản
xuất, đời sống và hoạt tính của tế bào tạo xương và hủy xương.
Sự suy giảm Estrogene ở phụ nữ mãn kinh kích hoạt các tế bào
hủy xương khiến cho tốc độ hủy xương cao hơn tạo xương khiến khung
xương ngày càng thưa, dẫn đến loãng xương. Đây là nguyên nhân gây
loãng xương quan trọng nhất ở phụ nữ mãn kinh. Người ta nhận thấy,
khối lượng xương thấp và tốc độ mất xương xảy ra nhanh ở những phụ
nữ bị cắt bỏ buồng trứng. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng liệu pháp
hormon thay thế sẽ làm giảm sự mất xương. Liệu pháp hormon thay thế
được áp dụng trong vòng 5 – 10 năm sau mãn kinh sẽ làm giảm tới 50%
nguy cơ gãy xương do loãng xương.


Viêm khớp dạng thấp và loãng xương: Người bị viêm khớp
dạng thấp có nguy cơ bị phá hủy xương và nứt gãy xương cao.
Glucocorticoid là thuốc thường được sử dụng để điều trị viêm khớp
dạng thấp. Việc sử dụng lâu dài glucocorticoid sẽ gây mất xương. Ngoài
ra, những cơn đau và việc khớp bị mất chức năng cũng khiến người
bệnh ít vận động và làm gia tăng nguy cơ loãng xương. Một số nghiên
cứu đã chỉ ra việc phá hủy xương là kết quả trực tiếp của bệnh viêm
khớp dạng thấp. Việc mất xương thường xảy ra ở khu vực bao quanh
những khớp bị viêm.
Chủng tộc: Tỷ lệ loãng xương thay đổi đáng kể từ nước này đến

nước khác. Ở Mỹ, người da trắng và nguồn gốc Châu Á có tỷ lệ loãng
xương cao hơn những người da đen và trên thực tế những người da
đen này có khối lượng xương cao hơn.
Giới: Nữ giới luôn loãng xương nhiều hơn nam giới.
Yếu tố cân nặng: Ở những phụ nữ nhẹ cân, sự mất xương xảy
ra nhanh hơn và tần suất gãy cổ xương đùi và xẹp đốt sống do loãng
xương cao hơn. Ngược lại, cân nặng cao là một yếu tố bảo vệ cơ thể
khỏi tình trạng mất xương thông qua việc tăng tạo xương và tăng
chuyển hóa androgen của tuyến thượng thận thành estron ở mô mỡ.
Yếu tố cân nặng có ảnh hưởng tốt trên khối xương, những người béo
có mật độ xương cao hơn so với những người gầy.
Tiền sử kinh nguyệt và sinh đẻ:
Mối liên quan giữa mãn kinh và loãng xương cũng đã được biết
đến từ lâu. Theo Nghiên cứu của Phạm Thị Thu Hương và cộng sự
cũng cho thấy tỷ lệ loãng xương tăng dần theo thời gian đã mãn kinh


với 11% (nhóm mãn kinh dưới 5 năm), và 38,5% (nhóm mãn kinh 1620 năm). Bên cạnh đó, quá trình mang thai và cho con bú có thể làm
hao tổn calci, góp phần làm tăng tỷ lệ loãng xương. Những người đẻ
càng nhiều, tỷ lệ loãng xương càng cao. Có thể thấy yếu tố đông con là
yếu tố nguy cơ đối với loãng xương của người phụ nữ.
Một số yếu tố khác:
Yếu tố di truyền và gia đình: Người ta thấy có những cá thể
trong gia đình có bà, mẹ hoặc một người nào khác bị loãng xương thì
con cháu họ cũng có nguy cơ bị loãng xương cao hơn. Theo đó, những
phụ nữ có tiền sử gãy xương hoặc và/hoặc có người thân ruột thịt bị
loãng xương đều có nguy cơ mắc bệnh cao hơn những phụ nữ khác
không có các yếu tố nguy cơ này.
Yếu tố dinh dưỡng: Là yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến tình trạng
của bộ xương. Chế độ ăn không đủ calci, vitamin D, thiếu hoặc quá

thừa protein, không cân đối calci và phospho sẽ ảnh hưởng tới sự đạt
được đỉnh cao của khối lượng xương và mất xương sau này.
Khẩu phần canxi: Sự thiếu hụt khẩu phần calci và vitamin D cho
cơ thể trong một thời gian dài cũng như sự mất cân đối về dinh dưỡng
và tỷ lệ calci/phospho trong khẩu phần ăn hàng ngày là một trong những
nguyên nhân quan trọng nhất góp phần gây ra bệnh loãng xương của
con người do ảnh hưởng trực tiếp đến khối lượng xương đỉnh và tốc độ
mất xương. Ở những phụ nữ sau mãn kinh có chế độ dinh dưỡng thiếu
calci, khối lượng xương có thể giảm tới 15% do thiếu estrogen và 16%
do thiếu calci và vitamin D.


Theo bảng nhu cầu dinh dưỡng khuyến nghị cho người Việt Nam
năm 2007, nhu cầu calci của phụ nữ trên 60 tuổi là 1000mg/ ngày.
Người cao tuổi, do năng lượng khẩu phần giảm nên dễ bị thiếu các
vitamin và khoáng chất, đặc biệt là calci và vitamin D. Calci tuy không
phải là yếu tố giải quyết hoàn toàn chứng loãng xương nhưng chúng có
vai trò tác động lên hệ xương trên 2 phương diện: Cung cấp cho cơ thể
các chất cần thiết để tạo xương, duy trì hồi phục xương suốt cuộc đời.
Nếu chế độ ăn không đủ calci, cơ thể buộc phải điều động calci từ
xương, điều này lâu dần sẽ dẫn đến loãng xương. Theo khuyến cáo
của WHO, nhu cầu calci của người trên 50 tuổi tối thiểu là
1.200mg/ngày, vitamin D là 400 – 800 IU/ngày.
Vitamin D (1,25 hydroxy vitamin D3): Vitamin D là một chất dinh
dưỡng quan trọng trong việc duy trì sức khỏe của xương. Các chức
năng chính của vitamin D là quy định của sự hấp thụ canxi ở ruột và sự
kích thích tiêu xương dẫn đến việc duy trì nồng độ calci huyết thanh.
Sự thiếu hụt vitamin D làm giảm sự hấp thu calci của cơ thể từ ruột từ
đó làm gia tăng sản xuất tế bào hủy xương, cơ thể không được cung
cấp đủ vitamin D có thể dẫn đến nguy cơ cao loãng xương. Ánh sáng

mặt trời là nguồn phổ biến nhất của vitamin D. Một đề nghị cho đủ lượng
vitamin D từ ánh sáng mặt trời là sự tiếp xúc trực tiếp của da trên khuôn
mặt, cánh tay, bàn tay hoặc lưng với ánh nắng mặt trời trong khoảng
15 phút từ trước 10 giờ sáng hoặc sau 3 giờ chiều vào mùa xuân, mùa
hè, và mùa thu ít nhất hai lần mỗi tuần. Người cao tuổi đặc biệt dễ bị
thiếu vitamin D vì họ thường ít ra khỏi nhà, ít tiếp xúc với ánh nắng mặt
trời, và bởi vì từ 60 tuổi trở đi khả năng tổng hợp vitamin D trong da của
họ giảm.


Tuy nhiên, hiện nay tỷ lệ thiếu vitamin D trong dân số Việt Nam
cao, và có thể được giải thích một phần thiếu vitamin D là do ít tiếp xúc
với ánh mặt trời (ở thành thị, mùa đông). Có thể lý giải trong điều kiện
Việt Nam, tuy là đất nước có nguồn nắng dồi dào, nhưng người dân
thường che kín cơ thể khi ra ngoài, ít sinh hoạt ngoài trời, không có chế
độ bổ sung vitamin D thường xuyên là những nguyên nhân dễ thấy. Tỷ lệ
thiếu vitamin D ở cộng đồng Việt Nam cao vì vậy cần phải nâng cao
nhận thức về các vấn đề sức khỏe đặc biệt là bệnh loãng xương.
Yếu tố chiều cao: những người có tầm vóc thấp, nhỏ, có khối
lượng xương thấp hơn nên dễ có nguy cơ loãng xương. Nghiên cứu
của tác giả Vũ Thị Thanh Thủy cho thấy rằng những phụ nữ có chiều
cao từ 145 cm trở xuống có nguy cơ giảm mật độ xương nhanh hơn so
với những phụ nữ có chiều cao trên 145cm. Nhiều nghiên cứu ở Việt
Nam và trên thế giới chỉ ra rằng yếu tố chiều cao có liên quan đến mật
độ xương.
Chỉ số khối cơ thể (BMI): Nhiều nghiên cứu cho rằng, cùng với
cân nặng thì chỉ số khối của cơ thể cũng có ảnh hưởng đến mật độ
xương. M. Boyanov và P. Popivanov trong nghiên cứu của mình đã
nhận thấy BMI ≥ 25 dường như là yếu tố bảo vệ đối với mật độ xương
trong khi ở những người gầy hơn với BMI ≤ 22 thì lại tăng nguy cơ loãng

xương.
Yếu tố vận động: các hoạt động thể lực có tác động đến xương
bởi vì các hoạt động này giúp mật độ xương đạt đỉnh ở tuổi trưởng
thành. Sự giảm vận động ở những người lớn tuổi cũng là yếu tố nguy
cơ dẫn tới sự mất xương. Sự vận động của các cơ kích thích sự tạo
xương và tăng khối lượng xương. Ngược lại sự giảm vận động dẫn tới
mất xương nhanh. Ngoài ra tập thể dục thường xuyên làm cho cơ chắc


khỏe và giảm bớt nguy cơ té ngã.
Các yếu tố như: sử dụng một số thuốc (glucocorticoid,
heparin…), di truyền, uống rượu, hút thuốc lá, tình trạng sinh đẻ đều có
ảnh hưởng tới loãng xương.
Các bệnh lý ảnh hưởng tới loãng xương: Bệnh lý gen, viêm
khớp dạng thấp, suy sinh dục, cường cận giáp, cường giáp, tình trạng
suy dinh dưỡng, bệnh viêm ruột…
1.3. CÁC PHƯƠNG PHÁP ĐÁNH GIÁ TÌNH TRẠNG LOÃNG XƯƠNG
1.3.1. Phương pháp chụp X – quang quy ước
Chụp X - quang xương bàn tay tính chỉ số Barnett và Nordin. Khi
chỉ số này xuống dưới 0,45 thì được coi là loãng xương.
-Chụp X - quang cột sống theo tư thế nghiêng rồi nhận xét hình
dạng và cho điểm.
- Chỉ số Singh: do Singh và cộng sự đưa ra năm 1970 trên cơ sở xác
định những nhúm bố xương chủ yếu ở đầu trên xương đùi. Dựa vào số
lượng những bè xương này, tác giả phân chia loãng xương thành 6 giai
đoạn và cũng là 6 mức độ loãng xương.
Đây là phương pháp đơn giản, không đắt, có thể thực hiện được
ở các cơ sở y tế do đó có giá trị trong các nghiên cứu dịch tễ học về
loãng xương. Tuy nhiên phương pháp này cũng có độ nhạy thấp,
thường chỉ chẩn đoán được loãng xương muộn khi lượng chất khoáng

giảm từ 30 – 50%.
1.3.2. Đo hấp thụ photon đơn (SPA– Single photon absorptiometry)
Phương pháp này dựa trên nguyên lý là nghiên cứu các thay đổi
của sự giảm tia gamma phát ra từ nguồn phóng xạ Iode 125 qua một


vùng định nghiên cứu của xương. Phương pháp có ưu điểm là máy gọn
nhẹ, liều tia xạ thấp ( 5 – 10 mrem) nhưng cũng có nhược điểm là chịu
ảnh hưởng bởi tổ chức phần mềm bao quanh nên chỉ giới hạn trong
việc nghiên cứu các xương ở nông, chỉ áp dụng ở những vị trí xương
ngoại vi mà không đo được xương đùi, xương cột sống. Tỷ lệ sai số
khoảng 4 – 5%.
1.3.3. Đo hấp thụ photon kép (DPA – Dual photon absorptiometry)
Phương pháp cho phép đo tỉ trọng khoáng xương ở những vị trí
trung tâm như đầu trên xương đùi, cột sống và tất cả bộ xương của cơ
thể. Hệ số hấp thụ của xương và mô mềm khác nhau cho phép đánh
giá chính xác khối lượng xương. Tỷ lệ sai lầm là 3 – 6%, tùy vị trí đo.
1.3.4. Đo khối lượng xương bằng chụp cắt lớp vi tính (QCT)
QCT là phương pháp đo mật độ xương mới có nhiều triển vọng.
Phương pháp này dựa vào đặc tính hấp thu khác nhau của các tổ chức
calci ion hóa với nguồn tia xạ ion hóa, với những lớp cắt 8 – 10 mm đi
quan trung tâm cỏc thõn đốt sống từ L1 – L5. Tỷ trọng khoáng của xương
được so sánh với một photon đi kèm chứa K2HPO4 hoặc CaCO3 ở các
nồng độ khác nhau. Kết quả được biểu diễn bằng g/cm3. Tỷ lệ sai số 5 –
10%. Khả năng tái lập kỹ thuật 4%, thời gian thăm dò 15 phút.
1.3.5. Đo hấp thụ tia X năng lượng đơn (SXA – Single Xray
absorptiometry)
Từ năm 1994 phương pháp này đã được Kelly và cộng sự đưa
vào sử dụng cho vị trí ngoại vi. Đây là một kỹ thuật mới được ứng dụng
để đo tại các vị trí đầu dưới xương quay và gót chân. Vị trí được đo đòi



hỏi phải được bao quanh bởi môi trường nước hoặc gel. Mức độ sai số
tương tự như SPA.
1.3.6. Đo hấp thụ tia X năng lượng kép (DEXA – Dual energy xray
absorptiometry)
Nguyên lý của DEXA tương tự như DPA nhưng nguồn tia gamma
phát ra Gadonilium 153 được thay thế bằng nguồn phát tia X. Phương
pháp này có ưu điểm là độ chính xác cao, mức độ sai số là 1%, thời
gian thăm dò ngắn (5 – 7 phút) do nguồn photon phát xạ cao lớn hơn
DPA gấp 500 – 1000 lần; liều tia thấp (2 – 4 mcrem), khả năng tái lập
kỹ thuật tốt, có thể đánh giá tách biệt giữa xương bè và xương vỏ và
rất có giá trị trong thử nghiệm lâm sàng. Phương pháp này đuợc coi là
phương pháp chẩn đoán vàng để chẩn đoán loãng xuơng. Tuy nhiên,
sử dụng phuơng pháp này rất tốn kém và khó có khả thi khi áp dụng
cho các nghiên cứu tại cộng đồng.
1.3.7. Chẩn đoán xương bằng phương pháp sinh thiết xương
Phương pháp sinh thiết xương đã được áp dụng rộng rãi trên Thế
giới từ những năm của thập kỷ 80 – 90. Vị trí sinh thiết thường là xương
chậu. Ít gây đau đỡn và có thể cho phép lấy được mẩu xương lớn và
an toàn. Sinh thiết xương có vai trò quan trọng trong chẩn đoán loãng
xương, giúp đánh giá được chu chuyển của xương và chất lượng
xương, chẩn đoán phân biệt loãng xương nguyên phát và loãng xương
thứ phát, đánh giá được cơ chế bệnh sinh của loãng xương do các
nguyên nhân khác nhau (các phương pháp chẩn đoán loãng xương
khác không thể làm được), giúp đánh giá được khả năng đáp ứng điều
trị.


Tuy nhiên đây là phương pháp chẩn đoán có xâm nhập nên có

những biến chứng nhất định. Những biến chứng thường gặp là chảy
máu, đau kéo dài trên 7 ngày, bệnh lý thần kinh ở đầu trên xương đùi,
nhiễm trùng ngoài da. Mặt khác phương pháp này không có giá trị chính
xác cao trong việc xác định sự hủy xương và cũng chỉ cho kết quả
chuyển hóa xương của một vùng xương nhỏ, không đại diện được cho
toàn bộ hệ thống xương. Chính vì vậy, ngày này phương pháp này ít
được áp dụng.
1.3.8. Siêu âm định lượng (QUS)
Siêu âm là một phương pháp đo mật độ xương tương đối mới.
Phương pháp này không đòi hỏi có nguồn phóng xạ.
Nguyên lý: phát chùm sóng siêu âm qua vị trí xương gót, xương
bánh chè hoặc xương cẳng tay để đánh giá chất lượng xương.
QUS sử dụng hai đầu dò, một đầu dò truyền xung siwwu âm, một
đầu dò nhận xung siêu âm ở bên đối diện của xương. Trong quá trình
truyền xung siêu âm, đầu dò di chuyển dọc theo xương của bệnh nhân
và truyền xung siêu âm có tần số từ 160 – 600 kHz xuyên qua mô. Bằng
cách tính toán tốc độ truyền của các xung siêu âm và những biến đổi
của xung sau khi đã qua mô, người ta đánh giá được thực trạng của
xương. Những xung siêu âm khi truyền qua xương bình thường sẽ có
thời gian truyền ngắn, tốc độ truyền xung nhanh hơn và biên dộ của
xung nhận được bên đối diện cũng giảm đi nhiều. Ngược lại, những
xung truyền qua xương bị loãng sẽ có thời gian truyền dài hơn, tốc đọ
truyền chậm hơn và biên độ của những xung nhận được sẽ giảm đi ít
hơn.


QUS có thể được đánh giá qua nhiều vị trí khác nhau của xương,
nhưng do có tính dễ khả thi và do cấu tạo, xương gót vẫn được dùng
để đánh giá tình trạng của các xương ngoại biên.
Còn rất nhiều phương pháp thăm dò khối lượng xương khác như:

đồng vị phóng xạ, cộng hưởng từ. Tuy nhiên, trên thực tế chúng cũng
ít được sử dụng hoặc do liều tia xạ quá cao hoặc còn đang nghiên cứu.
Sự lựa chọn một phương pháp đòi hỏi cân nhắc nhiều yếu tố như: độ
chính xác, chi phí, khả năng sẵn có và những tính năng khác.
Phương pháp siêu âm định lượng đã được sử dụng khá nhiều đặc
biệt là nghiên cứu điều tra cộng đồng. Với ưu điểm là giá thành rẻ, tính
khả thi cao khi mang máy di chuyển tại cộng đồng, và độ tin cậy có thể
chấp nhận đuợc. Vì vậy, trong nghiên cứu này tôi chọn sử dụng phương
pháp siêu âm định lượng với máy siêu âm siêu âm xương gót chân. Kỹ
thuật đo là SOS, kết quả được tính bằng m/s.
1.4. Tình hình loãng xương trên Thế giới và tại Việt Nam
1.4.1. Tình hình loãng xương trên Thế giới
Loãng xương ngày càng trở thành một vấn đề sức khoẻ lớn của
thế kỷ 21, nhất là đối với phụ nữ sau mãn kinh. Ngày nay, tuổi thọ trung
bình của con người đang tăng lên một cách nhanh chóng trên toàn thế
giới. Tại các nước phát triển, dân số độ tuổi từ 60 trở lên đang tăng
trưởng với tốc độ nhanh nhất từ trước đến nay (2% mỗi năm), dự kiến
sẽ tăng lên là 416 vào năm 2050 . Tuổi thọ của con người tăng dự báo
tỷ lệ loãng xương và gãy xương tự phát sẽ tăng.
Theo số liệu của Tổ chức chống loãng xương Quốc tế (IOF),
Loãng xương là nguyên nhân đứng hàng thứ hai gây nên bệnh tật, chỉ
sau bệnh tim mạch.


Theo WHO nữ giới là những người có nguy cơ mắc bệnh cao
hơn gấp khoảng 3 lần so với nam giới. Từ 45 tuổi trở lên, cứ 3 người
phụ nữ sẽ có 1 người mắc loãng xương, tuy nhiên con số này ở nam
giới chỉ là 1/5. Năm 2000, đã có khoảng 9 triệu ca gãy xương do loãng
xương, trong đó có 1,6 triệu người gãy xương hông, 1,7 triệu là ở cẳng
tay và 1,4 triệu bị gãy xương cột sống, trong đó Châu Âu và châu Mỹ

chiếm 51% các ca gãy xương và hầu hết số còn lại xảy ra ở khu vực
Tây Thái Bình Dương và Đông Nam Á. Tại Hoa Kỳ, có hơn 40 triệu
người hoặc đã bị loãng xương hoặc có nguy cơ cao do khối lượng
xương thấp. Dự báo tới năm 2050, toàn thế giới sẽ có 6,3 triệu trường
hợp gãy cổ xương đùi do loãng xương và 51% số này sẽ ở các nước
châu Á. Tỷ lệ loãng xương của phụ nữ châu Á sau mãn kinh là từ 17
đến 21%. Tỷ lệ gãy xương do loãng xương ở Đông Nam Á chiếm 17,4%
toàn thế giới. Tỷ lệ lún xẹp đốt sống ở phụ nữ châu Á: 14% tại Đài Loan,
30% tại Hồng Kong; trong khi đó tại châu Âu tỷ lệ này chỉ chiếm 12%.
Hiện nay, loãng xương đang được coi là một “bệnh dịch âm thầm”,
ngày càng gia tăng và có xu hướng lan rộng khắp thế giới, đặc biệt ở
các nước Châu Á. Trước đây, loãng xương thường gặp ở những phụ
nữ da trắng sống ở vùng khí hậu ôn đới, phụ nữ Châu Á, phụ nữ Mỹ
gốc Phi có nguy cơ bị loãng xương thấp hơn. Tuy nhiên hiện nay nhiều
dự báo cho rằng phần lớn loãng xương tự phát sẽ xảy ra ở khu vực
Châu Á và những nước kém phát triển. Tuy nhiên việc phát hiện sớm
loãng xương không phải việc dễ dàng bởi thiết bị đo loãng xương không
phải là phổ biến rộng rãi trong hầu hết các nước đang phát triển ở Châu
Á, đặc biệt là ở các khu vực có nền kinh tế còn kém phát triển.


1.4.2. Tình hình loãng xương tại Việt Nam
Tại Việt Nam, bệnh loãng xương đã vượt mức báo động. Ước
tính hiện có hơn 2,8 triệu người bị loãng xương trong đó phụ nữ chiếm
76% và có trên 170.000 trường hợp gãy xương do loãng xương, 25.600
trường hợp gãy xương hông, 17.000 ca GCXĐ ở nữ và 6.300 ca GCXĐ
ở nam và con số này sẽ tăng lên gấp 2 lần trong vòng 20 năm tới . Hiện
nay, số phụ nữ Việt Nam trên 50 tuổi bị gãy lún đốt sống chiếm 23%..
Trong khi đó khẩu phần ăn của người Việt Nam hiện nay chưa đáp ứng
được nhu cầu hạn chế loãng xương. Lượng canxi đưa vào cơ thể trung

bình là 524mg/ngày, thấp hơn nhiều so với nhu cầu trung bình 800 1000mg/người/ngày đối với người lớn.
Đa số bệnh nhân loãng xương của Việt Nam chưa được chẩn
đoán, chưa được điều trị đầy đủ và chưa được theo dõi lâu dài. Khi
chẩn đoán được bị loãng xương thì đa số đã muộn, vào lúc đã có biến
chứng như đau kéo dài do chèn ép rễ thần kinh, gãy lún đốt sống, gãy
xương,… Việc điều trị hầu hết chỉ dựa vào Canxi, Vitamin D và chất
chuyển hóa của Vitamin D (Canxitriol). Các thuốc điều trị tận gốc, thuốc
điều trị tích cực khác còn rất hạn chế. Một số nghiên cứu tại một số tỉnh
thành đã cho thấy:
-Khẩu phần ăn hàng ngày của chúng ta rất thiếu Canxi, việc sử
dụng sữa và các chế phẩm từ sữa trong cộng đồng còn chưa phổ biến
và hầu hết chỉ tập trung ở trung tâm các thành phố lớn như TP Hồ Chí
Minh và Hà Nội.
- Khối lượng xương đỉnh ở người trưởng thành là khá thấp, tỷ lệ
thiếu xương và loãng xương là khá cao trong cộng đồng.
- Chưa có chiến lược phòng ngừa bệnh từ sớm, kiên trì lâu dài và


đúng phương pháp. Mọi người chưa nhận thấy mức độ nguy hiểm của
bệnh và chưa chủ động phát hiện bệnh sớm.
- Đa số người bệnh không có khả năng về tài chính và phương
tiện, ít có khả năng sử dụng thuốc điều trị lâu dài khi có bệnh, chưa có
giải pháp đúng để đương đầu với những khó khăn khi bị bệnh.
Bệnh viện Từ Dũ, thành phố Hồ Chí Minh, bằng phương pháp đo
mật độ xương ở 1530 phụ nữ đã cho kết quả: tỉ lệ loãng xương là:
62,5% (sau mãn kinh), 30,5% (tiền mãn kinh) và 23,3% (độ tuổi sinh
sản)
Năm 2002, nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thị Hoài Châu trên 305
đối tượng phụ nữ tuổi từ 40 trở lên ở thành phố Hồ Chí Minh và một số
tỉnh miền Tây Nam Bộ tiến hành đánh giá loãng xương bằng phương pháp

sử dụng máy siêu âm định lượng gót chân. Kết quả nghiên cứu cho thấy
tỷ lệ loãng xương và thiếu xương ở nhóm phụ nữ mãn kinh là 39,8% cao
hơn nhiều so với nhóm chưa mãn kinh chỉ là 10%.
Năm 2007, Đỗ Thị Khánh Hỷ nghiên cứu trong 1224 phụ nữ sau
mãn kinh đến khám tại Viện Lão khoa nhận thấy: Tỷ lệ giảm mật độ
xương và loãng xương ở phụ nữ sau mãn kinh tăng theo tuổi rõ rệt,
tăng mạnh sau 60 tuổi và đạt tới 95,9% ở độ tuổi trên 80. Có mối liên
quan giữa nhóm nghề nghiệp tĩnh tại và vận động, mãn kinh sớm, BMI
và sinh trên 2 con với loãng xương
1.5. Một vài nét về vấn đề phòng ngừa và điều trị loãng xương hiện
nay
1.5.1. Mục tiêu chính của điều trị loãng xương
Thứ nhất là phòng chống hay giảm thiểu nguy cơ gãy xương. Đây
là mục tiêu hàng đầu mang tính chiến lược, vì làm thuyên giảm nguy cơ


gãy xương cũng có nghĩa góp phần vào việc nâng cao tuổi thọ của con
người, góp phần duy trì năng suất lao động cho xã hội.
Thứ hai là bệnh nhân loãng xương có nguy cơ gãy xương rất cao,
khi bị gãy xương thường có nguy co gãy xương lần thứ 2, cho nên mục
tiêu điều trị ở nhóm bệnh nhân này là ngăn chặn gãy xương lần thứ 2
hay kế tiếp.
Thứ ba là ngăn chặn tình trạng giảm, mất chất khoáng trong
xương, mật độ xương thấp là nguyên nhân quan trọng nhất dẫn đến
gãy xương; thành ra mục tiêu quan trọng của điều trị là ngăn ngừa tình
trạng giảm mất chất khoáng của xương.
Các thuốc đang sử dụng cho việc phòng chống loãng xương và
chương trình tập thể dục thường xuyên cũng có thể làm tăng mật độ
xương, nâng cao hiệu năng của cơ bắp và giảm nguy cơ gãy xương.
1.5.2. Phòng ngừa loãng xương

Chẩn đoán loãng xương không thể dựa vào triệu chứng lâm sàng
vì bệnh nhân không có triệu chứng lâm sàng cho đến khi xương trở nên
giòn và dễ gẫy. Vì vậy việc tăng cường khối lượng xương đỉnh lúc trẻ
và phòng ngừa nhằm giảm thiểu nguy cơ loãng xương lúc về già là vấn
đề rất quan trọng.
-Chế độ ăn: Đảm bảo chế độ ăn đầy đủ calci và vitamin D theo
nhu cầu của cơ thể trong mỗi giai đoạn phát triển khác nhau. Phụ nữ ở
độ tuổi 50 trở xương cần 1000mg calci mỗi ngày. Phụ nữ trên 50 tuổi
và phụ nữ sau mãn kinh không điều trị bằng liệu pháp thay thế hormon
(HRT) cần 1200mg calci mỗi ngày. Ngoài calci và vitamin D, chế độ ăn
cũng cần đảm bảo có đầy đủ các yếu tố khác như: protein; hoa quả và
rau các loại; các vitamin và các khoáng chất (vitamin A,B, K; Magie;
kẽm)


- Chế độ tập luyện thể dục: Thể dục thể thao và các hoạt động thể
lực rất quan trọng đối với sự vững chắc của bộ xương. Cần duy trì các
hoạt động thể lực ít nhất 3 ngày/ tuần và mỗi lần ít nhất 30 phút. Các
hoạt động thể lực tốt cho xương bao gồm: đi bộ, chạy, khiêu vũ, cầu
lông, xà đơn, xà kép, cử tạ...)
- Thay đổi lối sống: Từ bỏ các thói quen không tốt cho xương như
hút thuốc lá, lạm dụng rượu, thói quen tĩnh tại ít vận động, duy trì cân
nặng bình thường.
- Sử dụng thuốc: Sử dụng các nội tiết tố: tuy nhiên hiện nay các nội
tiết tố được cho là chỉ có lợi ích về sinh dục mà ít hiệu quả trong dự
phòng mất xương sau mãn kinh. Estrogen kèm theo progesteron chỉ
định với loãng xương sau mãn kinh. Nội tiết tố sinh dục nam chỉ định
dự phòng loãng xương ở nam giới.



×