Tải bản đầy đủ (.docx) (55 trang)

Nâng cao sức cạnh tranh sản phẩm nội thất trên thị trường miền Bắc của Công ty TNHH Đầu tư và Phát triển Phú Hưng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (358.92 KB, 55 trang )

TÓM LƯỢC
Trong những năm gần đây, sự phát triển của ngành nội thất đã đóng góp một phần
không nhỏ vào sự phát triển chung của nền kinh tế Việt Nam. Sản phẩm nội thất không
chỉ mang lại GDP từ xuất khẩu mà còn đáp ứng một lượng lớn cho tiêu dùng trong
nước. Do nhu cầu ngày càng tăng cao, cùng với những chính sách ưu đãi cho phát triển
từ phía Nhà nước, thị trường miền Bắc ngày càng có nhiều doanh nghiệp tham gia vào
sân chơi hấp dẫn này. Để có thể đứng vững trong môi trường cạnh tranh ngày càng gay
gắt như hiện nay thì việc nâng cao sức cạnh tranh sản phẩm của doanh nghiệp là vô
cùng cần thiết, và công ty TNHH Đầu tư và Phát triển Phú Hưng cũng là một trong số
đó. Đề tài dưới đây tập trung phân tích những lý thuyết về cạnh tranh và thực trạng sức
cạnh tranh sản phẩm nội thất của công ty trên thị trường miền Bắc thông qua các
phương pháp so sánh, toán thống kê, chỉ số…. Hi vọng rằng, đề tài hoàn thành có thể
giúp doanh nghiệp đánh giá một cách khách quan khả năng cạnh tranh của sản phẩm,
đồng thời cung cấp những cơ sở cần thiết cho công tác hoạch định chính sách của công
ty trong thời gian tới.


LỜI CẢM ƠN
Trong thời gian thực hiện đề tài khóa luận tốt nghiệp, dưới sự hướng dẫn tận tình
của giáo viên hướng dẫn và được phía Nhà trường tạo điều kiện thuận lợi, em đã có
một quá trình nghiên cứu tìm hiểu và học tập nghiêm túc để hoàn thành đề tài. Kết quả
thu được không chỉ do nỗ lực của cá nhân mà còn có sự giúp đỡ của Quý thầy cô, gia
đình và bạn bè.
Trước tiên em xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến Ban giám hiệu nhà trường,
Ban chủ nhiệm Khoa Kinh tế - Trường ĐH Thương Mại đã quan tâm, tạo điều kiện
giúp em hoàn thành khóa luận này.
Em cũng xin gửi lời cảm ơn đến PGS.TS Hà Văn Sự - thầy đã hướng dẫn, giúp đỡ
về mặt phương pháp, lý luận và nội dung trong suốt quá trình thực hiện khóa luận tốt
nghiệp.
Cuối cùng, em xin gửi lời cảm ơn đến gia đình và bạn bè - những người đã luôn
động viên giúp đỡ em trong suốt quá trình học tập và thực hiện đề tài.


Trong quá trình thực hiện và trình bày khóa luận không thể tránh khỏi những sai
sót và hạn chế, do vậy em rất mong nhận được sự góp ý, nhận xét phê bình của Quý
thầy cô và các bạn.
Em xin chân thành cảm ơn !


MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG BIỂU
DANH MỤC SƠ ĐỒ, HÌNH VẼ


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết nghiên cứu của đề tài
Do ảnh hưởng của toàn cầu hóa, nền kinh tế thế giới hiện nay đang chuyển thành
một hệ thống liên kết ngày càng chặt chẽ thông qua các mạng lưới công nghệ thông
tin. Toàn cầu hóa đòi hỏi các quyết định kinh tế, dù được đưa ra ở bất kỳ nơi nào trên
thế giới, đều phải tính tới các yếu tố quốc tế. Từ cuối thế kỷ XX trở lại đây, sự chuyển
dịch hàng hóa, dịch vụ và các nguồn vốn đầu tư giữa các nước gia tăng ngay càng
nhanh, tạo ra sự biến đổi về chất so với trước đây.
Xu thế mới nhất trong sự phát triển của nền kinh tế thế giới và cũng là xu thế cơ
bản của cạnh tranh quốc tế ngày nay là một mặt, tất cả các nước đều phải gia tăng thực
lực kinh tế của mình và lấy đó làm điểm tựa chính để mở rộng khả năng tham dự vào
cuộc cạnh tranh ngày càng quyết liệt trên phạm vi toàn cầu; mặt khác, cuộc cạnh tranh
quốc tế lấy thực lực kinh tế làm cốt lõi có xu hướng ngày càng quyết liệt đó cũng
khiến cho nền kinh tế thế giới phát triển theo hướng quốc tế hóa và tập đoàn hóa khu
vực.
Cạnh tranh là thuộc tính cố hữu của nền kinh tế thị trường, là động lực và cũng là
con đường của sự phát triển. Cuộc sống của cả nhân loại đã không thể và cũng sẽ
không thể thay đổi một cách thực sự ngoạn mục trong vài thế kỷ gần đây và cả trong
tương lai nếu như không có nền kinh tế hàng hóa và không có cạnh tranh. Cạnh tranh

trong kinh doanh đã như một sức mạnh vô hình đòi hỏi các nhà kinh doanh luôn luôn
phải vận động, tìm tòi, không ngừng tìm kiếm các khả năng, con đường để tìm kiếm
lợi nhuận trong kinh doanh và cũng từ đó khoa học công nghệ cũng như nền kinh tế xã
hội sẽ phát triển.
Để tồn tại và phát triển trong một môi trường mà sự xáo trộn của nó là không
ngừng, mọi dự đoán đều không thể vượt quá 5 năm như hiện nay thì các quốc gia cũng
như bản thân mỗi doanh nghiệp trong quốc gia đó phải xác định sẵn cho mình rằng
phải cạnh tranh và chỉ có cạnh tranh mới có thể tồn tại. Trong những điều kiện, hoàn
cảnh nhất định cả về môi trường bên ngoài cũng như nội lực bên trong của doanh
nghiệp mà cách đi đến đích sẽ khác nhau. Vì thế, các doanh nghiệp luôn cố gắng tạo ra
những ưu thế tuyệt đối, những sự khác biệt, những nét nổi trội hơn đối thủ cạnh tranh
với mình để từ đó luôn chủ động trong mọi tình huống. Cạnh tranh sẽ làm ai mạnh sẽ
mạnh hơn và ai yếu sẽ bị đào thải. Do vậy, trên thương trường sẽ chỉ tồn tại những
doanh nghiệp nào thích ứng được với việc cạnh tranh.
Ngành nội thất ở Việt nam là một trong những ngành có tiềm năng phát triển.
Những năm gần đây rất nhiều công ty nước ngoài đã đầu tư vào Việt nam để hoạt động
trong lĩnh vực này và họ đã mang đến những kiến trúc sư và bộ máy quản lý có kinh
nghiệm. Các công việc liên quan đến kiến trúc và nội thất có hàm lượng giá trị cao đều
do họ đảm trách, trong khi các công ty nội thất của Việt nam đều mới phát triển, tuổi
đời phần lớn chưa đạt đến 10 tuổi, trình độ quản lý, trình độ nghề nghiệp còn non nớt.


Thực tế cho thấy, chỉ có khoảng 20% doanh số tiêu thụ đồ gỗ trong nước thuộc về các
sản phẩm của doanh nghiệp Việt Nam, còn lại 80% với giá trị hàng trăm triệu USD
mỗi năm thuộc về các sản phẩm của các nhà sản xuất Malaysia, Trung Quốc, Đài
Loan, Hông Kông, Thái Lan…Trong hoàn cảnh thị trường nội thất ngoài nước còn
nhiều biến động, thị trường trong nước bị cạnh tranh khốc liệt đến từ cả các công ty
nước ngoài với trình độ cao và các công ty trong nước với lợi thế giá rẻ; cùng với tình
trạng hàng nội thất nhập khẩu tràn ngập trên thị trường là những áp lực lớn đối với các
công ty nội thất trong việc cạnh tranh chiếm lĩnh thị trường nội địa. Vì vậy, để có thể

tồn tại và phát triển trong giai đoạn hiện nay thì tất yếu các doanh nghiệp cần nâng cao
năng lực cạnh tranh nhằm củng cố và mở rộng thị trường.
Nói đến cạnh tranh chúng ta có thể hiểu là cạnh tranh giữa các quốc gia với nhau,
cạnh tranh giữa các ngành và cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong từng ngành
thuộc các thành phần kinh tế. Trong khuôn khổ của khóa luận này em chỉ xin được đi
sâu về vấn đề cạnh tranh trong ngành. Sau một thời gian thực tập tại Công ty TNHH
Đầu tư và Phát triển Phú Hưng, trên cơ sở báo cáo thực tập tổng hợp em nhận thấy, tuy
đã đạt được những thành tựu đáng kể về doanh thu nhưng nếu so sánh với các đối thủ
trên thị trường có cùng mặt hàng thì thị phần của công ty vẫn còn khá khiêm tốn.
Nguyên nhân chính là do năng lực cạnh tranh hàng nội thất trên thị trường còn chưa
cao đặc biệt là thị trường miền Bắc, chưa tạo được thương hiệu với khách hàng, thị
trường không ổn định... Do vậy, em đã chọn đề tài “Nâng cao sức cạnh tranh sản
phẩm nội thất trên thị trường miền Bắc của Công ty TNHH Đầu tư và Phát triển
Phú Hưng” với hy vọng có được cái nhìn tổng quát về hoạt động sản xuất, kinh doanh
của công ty cũng như đề xuất những giải pháp để nâng cao sức cạnh tranh cho sản
phẩm nội thất của Công ty trên thị trường miền Bắc trong thời gian tới.
2. Tổng quan các công trình nghiên cứu có liên quan
Ở Việt Nam, vấn đề sức cạnh tranh bắt đầu được nhắc đến nhiều khi nước ta
chuyển đổi nền kinh tế sang cơ chế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa. Đã có rất
nhiều hội thảo, công trình nghiên cứu và các bài viết trên các tạp chí về vấn đề này.
Đề tài “Giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của các sản phẩm nội thất ở Công
ty Xuân Hoà” (Luận văn tốt nghiệp năm 2005, tác giả Đoàn Thu Giang - Khoa Kinh tế
- Trường ĐH Kinh tế quốc dân)[13] đã hệ thống khá đầy đủ lý thuyết về cạnh tranh, sức
cạnh tranh của sản phẩm, thực trạng sức cạnh tranh sản phẩm nội thất của công ty
Xuân Hòa cũng như các giải pháp nâng cao sức cạnh tranh cho sản phẩm. Tuy nhiên
đề tài có thời gian nghiên cứu từ năm 2005 nên chưa thể đánh giá hết tình hình biến
động của thị trường và đối thủ cạnh tranh trong ngành nội thất thời gian gần đây.
Đề tài “Giải pháp nguồn nguyên liệu nhằm phát triển thương mại sản phẩm gỗ trên
thị trường miền Bắc” (Luận văn tốt nghiệp năm 2008, tác giả Trần Anh Dũng - Khoa
Kinh tế - Trường ĐH Thương Mại)[12] cũng là đề tài nghiên cứu về sản phẩm gỗ trên thị

trường miền Bắc nhưng lại có khác biệt lớn khi chỉ tập trung phân tích các giải pháp về


nguồn nguyên liệu nhằm phát triển thương mại. Hơn nữa đối tượng nghiên cứu của đề
tài là khá rộng và không tập trung vào một mặt hàng cụ thể nào.
Đề tài “Nâng cao năng lực cạnh tranh xuất khẩu sản phẩm nội thất của Việt Nam
sang thị trường Mỹ” (Luận văn tốt nghiệp năm 2009, tác giả Phạm Thị Hoàn - Khoa
Thương mại Quốc tế - Trường ĐH Ngoại thương)[14] đã nghiên cứu rất đầy đủ năng lực
cạnh tranh sản phẩm nội thất của Việt Nam trong giai đoạn 2005 - 2009. Tuy nhiên,
hướng đi của đề tài là sản phẩm nội thất xuất khẩu sang thị trường Mỹ chứ không
nghiên cứu sức cạnh tranh của các sản phẩm tiêu dùng nội địa.
Đề tài “Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm bánh kẹo của CTCP
Bánh kẹo Hải Hà trên thị trường nội địa” (Luận văn tốt nghiệp năm 2006, tác giả Lê
Thị Hồng Huê - Khoa Marketing - ĐH Thương Mại)[15] đã hệ thống hóa lý thuyết cạnh
tranh cũng như đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao sức cạnh tranh cho sản phẩm bánh
kẹo của CTCP Bánh kẹo Hải Hà. Đề tài này thuộc bộ môn Marketing nên những giải
pháp mà tác giả đưa ra tập trung về lĩnh vực marketing; bên cạnh đó có sự khác biệt
lớn về đặc tính sả phẩm nên chỉ phù hợp với mặt hàng bánh kẹo mà chưa có tính ứng
dụng cao đối với các sản phẩm nội thất.
Bên cạnh đó một số đề tài luận án, luận văn có hướng nghiên cứu liên quan như:
luận văn tốt nghiệp của tác giả Vũ Mạnh Xứng - ĐH Thương Mại về đề tài “Đẩy mạnh
bán lẻ mặt hàng sàn gỗ trên thị trường Hà Nội của công ty TMCP Yên Hạ” (2009),
luận văn thạc sĩ về đề tài “Nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam nhằm thực
hiện chủ động hội nhập kinh tế quốc tế” của tác giả Bùi Văn Thành (2003); luận văn
“Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm rượu vang ở CTCP Thăng
Long” của tác giả Dương Thị Hường - ĐH Thương Mại (2005),… Các nghiên cứu trên
mặc dù đều hệ thống được cơ sở lý luận về cạnh tranh và những kinh nghiệm thực tế
quí báu nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm tuy nhiên lại có thời gian, đối
tượng và quy mô nghiên cứu khác nhau do đó có tính ứng dụng khác nhau.
3. Xác lập và tuyên bố vấn đề nghiên cứu



Đề tài về cạnh tranh không phải là vấn đề mang tính chất thời sự song nó lại là yếu
tố quyết định đối với sự tồn tại cũng như sự phát triển của các doanh nghiệp nói chung
và với Công ty TNHH Đầu tư và Phát triển Phú Hưng nói riêng. Nhất là trong giai
đoạn thị trường có nhiều biến động như hiện nay, việc xác định rõ vị thế của doanh
nghiệp trên thị trường đồng thời đề xuất giải pháp nhằm nâng cao sức cạnh tranh cho
sản phẩm trở nên cấp thiết. Các đề tài tiền hành trước đây đã đưa ra khá đầy đủ cơ sở
lý luận về sức cạnh tranh của sản phẩm cũng như một số giải pháp và kiến nghị nhằm
nâng cao sức cạnh tranh cho sản phẩm. Đây là những tài liệu quan trọng, cung cấp cơ
sở lý luận và thực tiễn mà em có thể kế thừa trong quá trình hoàn thành đề tài của
mình.
Đề tài em đưa ra có đối tượng nghiên cứu là sản phẩm nội thất - sản phẩm đã được
nghiên cứu trong rất nhiều công trình trước đó. Tuy nhiên, đây lại là đề tài đầu tiên
nghiên cứu về sức cạnh tranh sản phẩm nội thất của công ty TNHH Đầu tư và Phát
triển Phú Hưng. Hơn nữa, 100% sản phẩm của công ty được tiêu thụ nội địa do đó
phạm vi nghiên của đề là thị trường miền Bắc chứ không phải là sức cạnh tranh đối với
hàng xuất khẩu như một số đề tài đã thực hiện. Vì những lý do trên, em mạnh dạn
chọn đề tài nghiên cứu theo hướng này với tên đề tài cụ thể là “Nâng cao sức cạnh
tranh sản phẩm nội thất trên thị trường miền Bắc của Công ty TNHH Đầu tư và
Phát triển Phú Hưng”. Đề tài hệ thống một cách hoàn thiện lý thuyết về sản phẩm nội
thất, cạnh tranh, sức cạnh tranh; phân tích những thành tựu và hạn chế về sức cạnh
tranh sản phẩm nội thất của công ty TNHH Đầu tư và Phát triển Phú Hưng trên thị
trường miền Bắc giai đoạn 2009 - 2011 từ đó đưa ra những giải pháp nâng cao sức
cạnh tranh cho sản phẩm.
4. Phương pháp nghiên cứu
 Phương pháp thu thập dữ liệu: Dữ liệu gồm 2 loại là dữ liệu sơ cấp và dữ liệu thứ cấp.
Dữ liệu sơ cấp là những dữ liệu tự thu thập cho phù hợp với vấn đề nghiên cứu đặt ra.
Dữ liệu thứ cấp là dữ liệu do người khác thu thập, sử dụng cho các mục đích trước đó;
có thể là dữ liệu chưa xử lý (dữ liệu thô) hoặc dữ liệu đã xử lý.

- Phương pháp tổng quan tài liệu: là tổng hợp tất cả những vấn đề liên quan đến
nghiên cứu dựa trên những tài liệu, báo cáo và công trình nghiên cứu đã được thực
hiện (kể cả trong nước và trên thế giới). Tổng quan tài liệu không phải chỉ là việc xem
xét, tập hợp, liệt kê thông tin, ý tưởng được nêu trong các tài liệu sẵn có mà còn phải
phân tích, đánh giá, so sánh, tổng hợp những tài liệu này trong mối liên hệ với mục
tiêu đề ra. Phương pháp này được sử dụng khi tổng hợp những lý thuyết liên quan đến
vấn đề nghiên cứu như: khái niệm cạnh tranh, sức cạnh tranh, phân loại, các chỉ tiêu
đánh giá sức cạnh tranh…
 Phương pháp phân tích dữ liệu:
- Phương pháp đánh giá và phân tích: Các số liệu được kiểm tra về giá trị và độ
tin cậy, giải thích ý nghĩa và sắp xếp lại một cách thích hợp.


- Phương pháp so sánh: là đối chiếu các chỉ tiêu, các hiện tượng kinh tế đã được
lượng hóa có cùng một nội dung, một tính chất tương tự để xác định xu hướng và mức
độ biến động của các chỉ tiêu đó. Phương pháp này được sử dụng trong quá trình so
sánh cơ cấu sản phẩm, chủng loại - mẫu mã, giá cả đối với các đối thủ cạnh tranh
nhằm chỉ ra những điểm mạnh, điểm yếu đối với sức cạnh tranh của sản phẩm so với
các đối thủ.
- Phương pháp thống kê: là sử dụng các công cụ thống kê như ghi chép, nghiên
cứu các tài liệu sẵn có để phân tích doanh thu, chi phí, lợi nhuận.
- Phương pháp chỉ số: Là phương pháp phân tích số liệu dựa trên các con số tỷ lệ
hoặc phần trăm của đối tượng nghiên cứu so với tổng thể, qua đó rút ra các nhận xét,
đánh giá về tỷ lệ thu được so với tổng thể tùy theo các mục tiêu nghiên cứu.
5. Mục tiêu, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
+ Mục tiêu:
- Mục tổng quát:
Nghiên cứu những giải pháp nhằm nâng cao sức cạnh tranh sản phẩm nội thất trên
thị trường miền Bắc của công ty TNHH Đầu tư và Phát triển Phú Hưng.
- Mục tiêu cụ thể: Để đạt được mục tiêu trên, đề tài đã đưa ra những nhóm giải pháp

nâng cao sức cạnh tranh cho sản phẩm cụ thể như sau:
 Chính sách giá: giảm chi phí sản xuất, chi phí tiêu thụ nhằm hạ giá thành sản
phẩm
 Chính sách sản phẩm: nâng cao chất lượng, đa dạng hóa mẫu mã, đẩy mạnh
chính sách khác biệt hóa sản phẩm…
 Chính sách phân phối: mở rộng mạng lưới phân phối thông qua tăng số lượng
showroom và nhà phân phối…
+ Đối tượng nghiên cứu:
Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu lý luận và thực tiễn sức cạnh tranh sản phẩm nội
thất của công ty TNHH Đầu tư và Phát triển Phú Hưng.
+ Phạm vi nghiên cứu:
- Về nội dung nghiên cứu: Công ty TNHH Đầu tư và Phát triển Phú Hưng là công ty
hoạt động trong lĩnh vực tư vấn thiết kế, thi công nội - ngoại thất; khai thác và nhập
khẩu, bán buôn gỗ nguyên liệu hợp pháp cho thị trường Việt Nam; đầu tư xây
dựng, phát triển dự án; cung cấp các thiết bị khoa học-kỹ thuật,….Tuy nhiên, đề tài
chỉ tập trung nghiên cứu sức cạnh tranh của sản phẩm nội thất - một trong những
mặt hàng chủ lực có vị trí quan trọng đóng góp vào tổng doanh thu của công ty.
- Về mặt không gian: Đề tài tập trung nghiên cứu sức cạnh tranh sản phẩm nội thất
trên thị trường miền Bắc của công ty do đây là khu vực thị trường chủ yếu, có tiềm
năng phát triển trong khi lại có rất nhiều đối thủ cạnh tranh.


- Về mặt thời gian: Đề tài nghiên cứu trong thời gian 3 năm từ 2009 đến 2011 từ đó
đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao sức cạnh tranh cho sản phẩm nội thất của công
ty trong giai đoạn 2012 - 2015.
6. Kết cấu khóa luận tốt nghiệp
Ngoài phần tóm lược, lời cảm ơn, mục lục, danh mục bảng biểu, danh mục sơ đồ
hình vẽ, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục; khóa luận tốt nghiệp được kết cấu như
sau:
Chương I: Một số lý luận cơ bản về cạnh tranh và nâng cao sức cạnh tranh của sản

phẩm
Chương II: Thực trạng sức cạnh tranh sản phẩm nội thất trên thị trường miền Bắc của
công ty TNHH Đầu tư và Phát triển Phú Hưng
Chương III: Một số đề xuất và kiến nghị nhằm nâng cao sức cạnh tranh sản phẩm nội
thất trên thị trường miền Bắc của công ty TNHH Đầu tư và Phát triển Phú Hưng


Chương I: MỘT SỐ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ SỨC CẠNH TRANH SẢN PHẨM
CỦA DOANH NGHIỆP
1.1.
MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN
1.1.1. Khái niệm sản phẩm nội thất
Khái niệm "nội thất" có thể nói là khá mới mẻ và mới xuất hiện trong vài thập niên
gần đây. "Nội thất" là thuật ngữ chỉ những loại mặt hàng, tài sản (thường là động sản)
và các vật dụng khác được bố trí, trang trí bên trong một phạm vi nhất định như căn
nhà, căn phòng hay cả tòa nhà nhằm mục đích hỗ trợ cho các hoạt động khác nhau của
con người trong công việc, học tập, sinh hoạt, nghỉ ngơi, giải trí phục vụ thuận tiện cho
công việc, hoặc để lưu trữ, cất giữ tài sản...
Đồ nội thất khác một chút so với những vật dụng mà chúng ta thường sử dụng
trong cuộc sống hàng ngày như các sản phẩm công nghệ hay thực phẩm, nước hoa,
giày dép…. Hầu như mọi người mua đồ nội thất để sử dụng trong một khoảng thời
gian dài, do vậy mà xu hướng của đồ nội thất cũng không thể thay đổi nhanh chóng
mà cần phải mất một thời gian để phát triển tùy theo phong cách và sự thay đổi điều
kiện sống. Theo nhận định của Eurpean Furniture Manufacturers Federation, đồ nội
thất vừa là hàng hóa đầu tư (dùng rồi vẫn có thể bán lại) vừa là hàng hóa tiêu dùng
mang tính thời trang. Đồ nội thất cũng là loại hàng hóa lâu bền, có khi truyền qua
nhiều thế hệ.
Sản phẩm nội thất được phân loại trên cơ sở nguyên liệu sử dụng, gồm có đồ gỗ
nội thất, đồ nội thất kim loại và các loại khác; trong đó đồ gỗ nội thất chiếm phần lớn
sản lượng nội thất. Các loại gỗ nguyên liệu chủ yếu được chia thành 2 loại:

 Gỗ tự nhiên: là loại gỗ được khai thác trực tiếp từ những cây trồng lấy gỗ trong rừng tự
nhiên; hoặc từ những cây gỗ rừng trồng lấy nhựa (cao su); cây lấy tinh dầu, lấy quả có
thân cứng chắc (Xoan đào, Sồi đỏ, Căm xe, Tần bì, Bạch tùng, Tếch,…). Sau khi khai
thác, gỗ này được đưa vào sản xuất trực tiếp đồ nội thất không phải qua giai đoạn chế
biến thành vật liệu khác. Gỗ tự nhiên có đặc điểm dẻo dai, giãn nở và liên kết chắc
chắn; là gỗ có tuổi thọ cao, không bị hỏng trong môi trường ẩm ướt và rất bền trong
môi trường khô ráo; tuy nhiên nó lại có nhược điểm như co giãn, cong vênh.
 Gỗ nhân tạo: Với nguồn gỗ tự nhiên ngày càng cạn kiệt, và để đáp ứng nhu cầu sử
dụng gỗ trong thiết kế nội thất, sản xuất nội thất gia dụng trong gia đình, ván gỗ nhân
tạo ra đời; với nhiều chủng loại phong phú, màu sắc đa dạng, phù hợp cho nhiều mục
đích sử dụng khác nhau trong nội thất. Ván gỗ nhân tạo có đặc tính cơ lý ưu việt là
không cong vênh, co ngót nên hiện nay gỗ công nghiệp thường được ứng dụng nhiều
trong thiết kế nội thất hiện đại.
Các loại gỗ công nghiệp phổ biến hiện nay:
- Ván sợi (MDF, HDF)
- Ván ghép thanh (hay gỗ ghép)
- Ván dăm (MFC, PB)


- Ván ép tổng hợp (PW)
1.1.2. Khái niệm cạnh tranh
Cạnh tranh là một quy luật vận động cơ bản của kinh tế thị trường là động lực thúc
đẩy sự phát triển của nền kinh tế, nhờ có cạnh tranh - với sự thay đổi liên tục về nhu
cầu và bản tính tham lam của con người mà nền kinh tế thị trường đã có những bước
phát triển nhảy vọt chưa từng có trong lịch sử nhân loại. Cạnh tranh đã hình thành và
phát triển ở các nước tư bản từ rất lâu nhưng cho đến nay, các nhà khoa học vẫn chưa
đi đến một định nghĩa thống nhất về cạnh tranh.
Theo K. Marx: “cạnh tranh là sự ganh đua, đấu tranh gay gắt giữa các nhà tư bản
nhằm dành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu dùng hàng hóa để thu
được lợi nhuận siêu ngạch”.

Theo Black’Law Dictionary, cạnh tranh - với tư cách là động lực nội tại trong mỗi
chủ thể kinh doanh được hiểu là “sự nỗ lực hoặc hành vi của hai hay nhiều thương
nhân nhằm tranh giành những lợi ích giống nhau từ chủ thể thứ ba”[1].
Trong cuốn Khuôn khổ cho việc xây dựng và thực thi luật và chính sách cạnh
tranh, Ngân hàng Thế giới (WB) và Tổ chức Hợp tác và Phát triển (OECD) cho rằng :
“cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường được dùng để chỉ một hoàn cảnh trong đó các
doanh nghiệp hoặc người bán cố gắng một cách độc lập dành được sự quan tâm chú ý
của người mua để đạt được một mục tiêu kinh doanh nhất định như lợi nhuận,doanh
thu, thị phần”[7].
Với tư cách là hiện tượng xã hội, theo cuốn Từ điển Kinh doanh của Anh xuất bản
năm 1992, cạnh tranh được định nghĩa “là sự ganh đua, sự kinh địch giữa các nhà kinh
doanh nhằm tranh giành cùng một loại tài nguyên hoặc cùng một loại khách hàng về
phía mình”.
Theo nhà kinh tế học Michael Porter của Mỹ thì: “cạnh tranh (kinh tế) là giành lấy
thị phần; bản chất của cạnh tranh là tìm kiếm lợi nhuận, là khoản lợi nhuận cao hơn
mức lợi nhuận trung bình mà doanh nghiệp đang có. Kết quả quá trình cạnh tranh là sự
bình quân hóa lợi nhuận trong ngành theo chiều hướng cải thiện sâu dẫn đến hệ quả
giá cả có thể giảm đi”[3].
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam: “cạnh tranh trong kinh doanh là hoạt động
tranh đua giữa những người sản xuất hàng hoá, giữa các thương nhân, các nhà kinh
doanh trong nền kinh tế thị trường, chi phối quan hệ cung cầu, nhằm dành các điều
kiện sản xuất, tiêu thụ thị trường có lợi nhất”.
Các tác giả trong cuốn "Các vấn đề pháp lý về thể chế và chính sách cạnh tranh
kiểm soát độc quyền kinh doanh” thuộc dự án VIE/97/016 thì cho rằng “cạnh tranh có
thể được hiểu là sự ganh đua giữa các doanh nghiệp trong việc giành một số nhân tố
sản xuất hoặc khách hàng nhằm nâng cao vị thế của mình trên thị trường, để đạt đựơc
một mục tiêu kinh doanh cụ thể, ví dụ như lợi nhuận, doanh số hoặc thị phần”.


Với những quan niệm trên, phạm trù cạnh tranh được hiểu “là quan hệ kinh tế, ở

đó các chủ thể kinh tế ganh đua nhau tìm mọi biện pháp, cả nghệ thuật lẫn thủ đoạn
để đạt mục tiêu kinh tế của mình, thông thường là chiếm lĩnh thị trường, giành lấy
khách hàng cũng như các điều kiện sản xuất, thị trường có lợi nhất. Mục đích cuối
cùng của các chủ thể kinh tế trong quá trình cạnh tranh là tối đa hoá lợi ích; đối với
người sản xuất kinh doanh là lợi nhuận, đối với người tiêu dùng là lợi ích tiêu dùng và
sự tiện lợi”.
1.1.3. Khái niệm sức cạnh tranh
1.1.3.1. Khái niệm sức cạnh tranh của doanh nghiệp
Sức cạnh tranh là thuật ngữ ngày càng được sử dụng rộng rãi nhưng đến nay vẫn là
khái niệm khó hiểu và rất khó đo lường.
Theo Từ điển thuật ngữ kinh tế học: “sức cạnh tranh là khả năng giành được thị
phần lớn trước các đối thủ cạnh tranh trên thị trường, kể cả khả năng giành lại một
phần hay toàn bộ thị phần của đối thủ”.
Ủy ban Quốc gia về Hợp tác Kinh tế Quốc tế (CIEM) cho rằng: sức cạnh tranh là
năng lực của một doanh nghiệp “không bị doanh nghiệp khác đánh bại về năng lực
kinh tế”.
Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) định nghĩa, sức cạnh tranh “là khả
năng của các công ty, các ngành, các vùng, các quốc gia hoặc khu vực siêu quốc gia
trong việc tạo ra việc làm và thu nhập cao hơn trong điều kiện cạnh tranh quốc tế trên
cơ sở bền vững”.
Theo WEF (1997) Báo cáo về khả năng cạnh tranh toàn cầu thì sức cạnh tranh
đựơc hiểu “là khả năng, năng lực mà doanh nghiệp có thể duy trì vị trí của nó một
cách lâu dài và có ý chí trên thị trường cạnh tranh, bảo đảm thực hiện một tỷ lệ lợi
nhuận ít nhất bằng tỷ lệ đòi hỏi tài trợ những mục tiêu của doanh nghiệp, đồng thời
đạt được được những mục tiêu của doanh nghiệp đặt ra”.
1.1.3.2. Khái niệm sức cạnh tranh của sản phẩm
Sức cạnh tranh của sản phẩm là tổng hoà các đặc tính về tiêu dùng và giá trị vượt
trội của sản phẩm trên thị trường, có nghĩa là sự vượt trội của sản phẩm so với các sản
phẩm cạnh tranh cùng loại trong điều kiện cung vượt cầu. Một số chuyên gia kinh tế
cho rằng, sức cạnh tranh của sản phẩm là sự vượt trội của nó so với sản phẩm cùng

loại do các đối thủ khác cung cấp trên cùng một thị trường.
Lại có quan điểm cho rằng, sức cạnh tranh của sản phẩm chính là năng lực nắm
giữ và nâng cao thị phần của loại sản phẩm do chủ thể sản xuất và cung ứng nào đó
đem ra để tiêu thụ so với sản phẩm cùng loại do chủ thể sản xuất và cung ứng khác
đem đến tiêu thụ ở cùng một khu vực thị trường vào thời gian nhất định.
Tuy nhiên, tất cả các định nghĩa trên đều thiếu một yếu tố cơ bản mà người tiêu
dùng quan tâm nhất, đó là tương quan giữa chất lượng và giá cả. Với cách tiếp cận
này, sức cạnh tranh của sản phẩm có thể hiểu là sự vượt trội so với các sản phẩm


cùng loại về chất lượng và giá cả với điều kiện các sản phẩm tham gia cạnh tranh đều
đáp ứng các yêu cầu của người tiêu dùng. Có nghĩa là, những sản phẩm mang
lại giá trị sử dụng cao nhất trên một đơn vị giá cả là những sản phẩm có khả
năng cạnh tranh cao hơn.
1.2.
MỘT SỐ LÝ THUYẾT VỀ CẠNH TRANH VÀ SỨC CẠNH TRANH SẢN
PHẨM CỦA DOANH NGHIỆP
1.2.1. Đặc trưng cơ bản của cạnh tranh
Mặc dù được nhìn nhận dưới những góc độ khác nhau, song theo các lý thuyết về
kinh tế, cạnh tranh là sản phẩm riêng có của nền kinh tế thị trường, là linh hồn và là
động lực cho sự phát triển của thị trường. Từ đó, cạnh tranh được mô tả bởi ba đặc
trưng căn bản sau đây:
Thứ nhất, cạnh tranh là hiện tượng xã hội diễn ra giữa các chủ thể kinh doanh. Với
tư cách là một hiện tượng xã hội, cạnh tranh chỉ xuất hiện khi tồn tại những tiền đề
nhất định sau đây:
- Có sự tồn tại của nhiều doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế và các hình
thức sở hữu khác nhau. Kinh tế học đã chỉ rõ cạnh tranh là hoạt động của các chủ thể
kinh doanh nhằm tranh giành hoặc mở rộng thị trường, đòi hỏi phải có sự tồn tại của
nhiều doanh nghiệp trên thị trường. Hơn nữa, cạnh tranh chỉ thực sự trở thành động
lực thúc đẩy các doanh nghiệp kinh doanh tốt hơn nếu các doanh nghiệp thuộc về các

thành phần kinh tế khác nhau với những lợi ích và tính toán khác nhau.
- Cạnh tranh chỉ có thể tồn tại nếu như các chủ thể có quyền tự do hành xử trên thị
trường. Tự do khế ước, tự do lập hội và tự chịu trách nhiệm sẽ đảm bảo cho các doanh
nghiệp có thể chủ động tiến hành các cuộc tranh giành để tìm cơ hội phát triển trên
thương trường.
Thứ hai, về mặt hình thức, cạnh tranh là sự ganh đua, sự kình địch giữa các doanh
nghiệp. Nói cách khác, cạnh tranh suy cho cùng là phương thức giải quyết mâu thuẫn
về lợi ích tiềm năng giữa các nhà kinh doanh với vai trò quyết định của người tiêu
dùng.
Trong kinh doanh, lợi nhuận là động lực cho sự gia nhập thị trường, là thước đo sự
thành đạt và là mục đích hướng đến của các doanh nghiệp. Kết quả của cuộc cạnh
tranh trên thị trường làm cho người chiến thắng mở rộng được thị phần và tăng lợi
nhuận, làm cho kẻ thua cuộc chịu mất khách hàng và phải rời khỏi thị trường.
Thứ ba, mục đích của các doanh nghiệp tham gia cạnh tranh là cùng tranh giành
thị trường mua hoặc bán sản phẩm.
Trên thị trường, cạnh tranh chỉ xảy ra giữa các doanh nghiệp có chung lợi ích tiềm
năng về nguồn nguyên liệu đầu vào (cạnh tranh mua); hoặc về thị trường đầu ra của
sản phẩm (cạnh tranh bán) của quá trình sản xuất. Việc có cùng chung lợi ích để tranh
giành làm cho các doanh nghiệp trở thành là đối thủ của nhau. Việc họ có cùng một thị
trường liên quan làm cho họ có cùng mục đích và trở thành đối thủ cạnh tranh của


nhau.
Nói tóm lại, chỉ khi nào xác định được các doanh nghiệp cùng trên một thị trường
liên quan mới có thể kết luận được rằng các doanh nghiệp đó là đối thủ cạnh tranh của
nhau. Khi họ có chung khách hàng hoặc đối tác để tranh giành, có chung một nguồn
lợi ích để hướng đến mới có căn nguyên nảy sinh ra sự ganh đua giữa họ với nhau.
1.2.2. Phân loại cạnh tranh
Trong kinh tế học và trong khoa học pháp lý, các nhà khoa học có nhiều cách phân
loại cạnh tranh khác nhau để phục vụ cho nhiệm vụ nghiên cứu hoặc cho công tác xây

dựng chính sách cạnh tranh.
* Căn cứ vào vào vai trò điều tiết của Nhà nước
- Cạnh tranh tự do: Khái niệm cạnh tranh tự do được hiểu từ sự phân tích các chính
sách xây dựng và duy trì thị trường tự do, theo đó “thị trường tự do tồn tại khi không
có sự can thiệp của Chính phủ và tại đó các tác nhân cung cầu được phép hoạt động tự
do”. Do đó, lý thuyết về cạnh tranh tự do đưa ra mô hình cạnh tranh mà ở đó các chủ
thể tham gia cuộc tranh đua hoàn toàn chủ động và tự do ý chí trong việc xây dựng và
thực hiện các chiến lược, các kế hoạch kinh doanh của mình.
- Cạnh tranh có sự điều tiết của Nhà nước: là hình thức cạnh tranh mà ở đó Nhà
nước bằng các chính sách và công cụ pháp luật can thiệp vào đời sống thị trường để
điều tiết, hướng các quan hệ cạnh tranh vận động và phát triển trong một trật tự, đảm
bảo sự phát triển công bằng và lành mạnh.
* Căn cứ vào chủ thể tham gia thị trường:
- Cạnh tranh giữa người mua và người bán: Người bán muốn bán hàng hoá của
mình với giá cao nhất, còn người mua lại muốn mua với giá thấp nhất.
- Cạnh tranh giữa những người mua với nhau: Mức độ cạnh tranh phụ thuộc vào
quan hệ cùng cầu trên thị trường. Khi cung nhỏ hơn cầu thì cạnh tranh gay gắt, giá cả
hàng hoá và dịch vụ sẽ tăng lên và ngược lại.
- Cạnh tranh giữa những nguời bán với nhau: Là cuộc cạnh tranh nhằm giành giật
khách hàng và thị trường, kết quả là giá cả giảm xuống và có lợi cho người mua.
* Căn cứ theo phạm vi ngành kinh tế:
- Cạnh tranh trong nội bộ ngành: Là cuộc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong
cùng một ngành, cùng sản xuất ra một loại hàng hoá hoặc dịch vụ.
- Cạnh tranh giữa các ngành: Là cuộc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong các
ngành kinh tế với nhau nhằm thu được lợi nhuận cao nhất.
* Căn cứ vào tính chất cạnh tranh:
- Cạnh tranh hoàn hảo: là hình thức cạnh tranh mà ở đó người mua và người bán
đều không có khả năng tác động đến giá cả của sản phẩm trên thị trường. Trong hình
thái thị trường cạnh tranh hoàn hảo, giá cả của sản phẩm hoàn toàn do quan hệ cung
cầu, quy luật giá trị quyết định; không có sự tồn tại của bất cứ khả năng hay quyền lực

nào có thể chi phối các quan hệ trên thị trường.


- Cạnh tranh không hoàn hảo: là hình thức cạnh tranh chiếm ưu thế trong các ngành
sản xuất mà ở đó các doanh nghiệp phân phối hoặc sản xuất có đủ sức mạnh và thế lực
để có thể chi phối giá cả các sản phẩm của mình trên thị trường. Theo Từ điển Kinh tế
học hiện đại, cạnh tranh không hoàn hảo ra đời do sự khuyết đi một trong những yếu tố
để tạo nên sự hoàn hảo của thị trường.
- Cạnh tranh độc quyền: là hình thức cạnh tranh tồn tại khi trên thị trường chỉ có
một doanh nghiệp duy nhất sản xuất hoặc tiêu thụ sản phẩm mà không có sự thay thế
từ các sản phẩm hoặc các chủ thể kinh doanh khác. Khi có vị trí độc quyền, thị trường
sẽ trao cho doanh nghiệp quyền lực của mình “khả năng tác động đến giá cả thị trường
của một loại hàng hoá, dịch vụ nhất định”, tức là giá cả của sản phẩm hoặc dịch vụ đó
trên thị trường sẽ do họ quyết định không phụ thuộc vào quan hệ cung cầu.
* Căn cứ vào thủ đoạn sử dụng trong cạnh tranh:
- Cạnh tranh lành mạnh: Theo cuốn Black’s Law Dictionary, cạnh tranh lành mạnh
được định nghĩa “là hình thức cạnh tranh công khai, công bằng và ngay thẳng giữa các
đối thủ cạnh tranh trong kinh doanh”.
- Cạnh tranh không lành mạnh: điều 10 Công ước Paris về bảo hộ quyền sở hữu
công nghiệp quy định “bất cứ hành vi cạnh tranh nào trái với các hoạt động thực tiễn,
không trung thực trong lĩnh vực công nghiệp và thương mại đều bị coi là hành vi cạnh
tranh không lành mạnh”.
1.2.3. Vai trò của cạnh tranh
Trong nền kinh tế thị trường, nếu quan hệ cung cầu là cốt vật chất, giá cả là diện
mạo thì cạnh tranh là linh hồn của thị trường. Nhờ có cạnh tranh, với sự thay đổi liên
tục về nhu cầu và với bản tính tham lam của con người mà nền kinh tế thị trường đã
đem lại những bước phát triển nhảy vọt mà loài người chưa từng có được trong các
hình thái kinh tế trước đó. Sự mong muốn không có điểm dừng đối với lợi nhuận của
nhà kinh doanh sẽ mau chóng trở thành động lực thúc đẩy họ sáng tạo không mệt mỏi,
làm cho cạnh tranh trở thành động lực của sự phát triển. Theo đó, cạnh tranh có những

vai trò cơ bản sau đây:
1.2.3.1. Cạnh tranh đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng
Trong môi trường cạnh tranh, người tiêu dùng có vị trí trung tâm, nhu cầu của họ
được đáp ứng một cách tốt nhất mà thị trường có thể cung ứng; bởi họ là người có
quyền bỏ phiếu bằng đồng tiền để quyết định ai được tồn tại và ai phải ra khỏi cuộc
chơi. Nói khác đi, cạnh tranh đảm bảo cho người tiêu dùng có được cái mà họ muốn,
nhà kinh doanh luôn tìm đến để đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng một cách tốt
nhất.
Với sự ganh đua của môi trường cạnh tranh, các doanh nghiệp luôn tìm mọi cách
hạ giá thành sản phẩm nhằm lôi kéo khách hàng về với mình. Sự tương tác giữa nhu
cầu của người tiêu dùng và khả năng đáp ứng của doanh nghiệp trong điều kiện cạnh
tranh đã làm cho giá cả hàng hoá và dịch vụ đạt được mức rẻ nhất có thể; các doanh


nghiệp có thể thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng trong khả năng chi tiêu của họ.
Với ý nghĩa đó, cạnh tranh loại bỏ mọi khả năng bóc lột người tiêu dùng từ phía nhà
kinh doanh.
Thị trường là nơi gặp gỡ giữa sở thích của người tiêu dùng và khả năng đáp ứng về
trình độ công nghệ của người sản xuất. Trong mối quan hệ đó, sở thích của người tiêu
dùng là động lực chủ yếu của yếu tố cầu; công nghệ sẽ quyết định về yếu tố cung của
thị trường. Thực tế đã cho thấy, mức độ thỏa mãn nhu cầu của người tiêu dùng phụ
thuộc vào khả năng tài chính, trình độ công nghệ của doanh nghiệp. Những gì mà
doanh nghiệp chưa thể đáp ứng sẽ là các đề xuất từ phía thị trường để doanh nghiệp
lên kế hoạch cho tương lai. Do đó, có thể nói nhu cầu và sở thích của người tiêu dùng
(đại diện cho thị trường) có vai trò định hướng cho hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp.
1.2.3.2. Cạnh tranh có vai trò điều phối các hoạt động kinh doanh trên thị trường
Như một quy luật sinh tồn của tự nhiên, cạnh tranh đảm bảo phân phối thu nhập và
các nguồn lực kinh tế tập trung vào tay những doanh nghiệp giỏi, có khả năng và bản
lĩnh trong kinh doanh. Sự tồn tại của cạnh tranh sẽ loại bỏ những khả năng lạm dụng

quyền lực thị trường để bóc lột đối thủ cạnh tranh và bóc lột khách hàng. Trong cuộc
cạnh tranh dường như có sự hiện diện của một bàn tay vô hình lấy đi mọi nguồn lực
kinh tế từ những doanh nghiệp kinh doanh kém hiệu quả để trao cho những người có
khả năng sử dụng một cách tốt hơn. Sự dịch chuyển như vậy đảm bảo cho các giá trị
kinh tế của thị trường được sử dụng một cách tối ưu.
1.2.3.3.
Cạnh tranh đảm bảo cho việc sử dụng các nguồn lực kinh tế một cách
hiệu quả nhất
Những nỗ lực giảm chi phí để từ đó giảm giá thành của hàng hoá, dịch vụ đã buộc
các doanh nghiệp phải tự đặt mình vào những điều kiện kinh doanh tiết kiệm bằng
cách sử dụng một cách hiệu quả nhất các nguồn lực mà họ có được. Mọi sự lãng phí
hoặc tính toán sai lầm trong sử dụng nguyên vật liệu đều có thể dẫn đến những thất bại
trong kinh doanh. Nhìn tổng thể một nền kinh tế, cạnh tranh là động lực cơ bản giảm
sự lãng phí trong kinh doanh, giúp cho mọi nguồn nguyên - nhiên - vật liệu được sử
dụng tối ưu.
1.2.3.4.
Cạnh tranh có tác dụng thúc đẩy việc ứng dụng các tiến bộ khoa học, kỹ
thuật trong kinh doanh
Nhu cầu tìm kiếm lợi nhuận đã thúc đẩy các doanh nghiệp không ngừng áp dụng
các tiến bộ khoa học, kỹ thuật tiên tiến nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm chi
phí sản xuất để đáp ứng ngày càng tốt hơn đòi hỏi của thị trường, mong giành phần
thắng về mình. Cứ như thế, cuộc chạy đua giữa các doanh nghiệp sẽ thúc đẩy sự phát
triển không ngừng của khoa học, kỹ thuật trong đời sống kinh tế - xã hội.
1.2.3.5.
Cạnh tranh kích thích sự sáng tạo, là nguồn gốc của sự đổi mới liên tục
trong đời sống kinh tế - xã hội


Nền tảng của quy luật cạnh tranh trên thị trường là quyền tự do trong kinh doanh
và sự độc lập trong sở hữu và hoạt động của doanh nghiệp. Trong sự tự do kinh doanh,

quyền được sáng tạo trong khuôn khổ tôn trọng lợi ích của chủ thể khác và của xã hội
luôn được đề cao như một kim chỉ nam của sự phát triển. Sự sáng tạo làm cho cạnh
tranh diễn ra liên tục theo chiều hướng gia tăng của quy mô và nhịp độ tăng trưởng của
nền kinh tế.
Sự sáng tạo không mệt mỏi của con người trong cuộc cạnh tranh nhằm đáp ứng
những nhu cầu luôn thay đổi qua nhiều thế hệ liên tiếp là cơ sở thúc đẩy sự phát triển
liên tục và đổi mới không ngừng. Sự đổi mới trong đời sống kinh tế được thể hiện
thông qua những thay đổi trong cơ cấu thị trường, hình thành những ngành nghề mới
đáp ứng những nhu cầu của đời sống hiện đại, sự phát triển liên tục của khoa học kỹ
thuật, là sự tiến bộ trong nhận thức của tư duy con người về các vấn đề liên quan đến
kinh tế - xã hội.
Với ý nghĩa là động lực thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế, cạnh tranh luôn là
đối tượng được coi trọng đặc biệt. Sau vài thế kỷ thăng trầm của kinh tế thị trường và
với sự chấm dứt của cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung, con người ngày càng nhận
thức đúng đắn hơn về bản chất và ý nghĩa của cạnh tranh đối với sự phát triển chung
của đời sống kinh tế. Do đó, đã có nhiều nỗ lực xây dựng và tìm kiếm những cơ chế
thích hợp để duy trì và bảo vệ cho cạnh tranh được diễn ra theo đúng chức năng của
nó.
1.2.4. Các yếu tố cấu thành sức cạnh tranh của sản phẩm
1.2.4.1. Chất lượng
Đây là chỉ tiêu cốt lõi, mang tính quyết định trong cạnh tranh. Trước tiên, chất
lượng sản phẩm ít nhất phải được xác nhận về chất lượng và quy trình công nghệ của
các cơ quan chuyên trách. Đây là nhân tố đầu tiên đảm bảo doanh nghiệp thực hiện các
tiêu chuẩn cơ bản, đủ tư cách sản xuất ra loại hàng hoá nào đó theo quy định của pháp
luật. Thứ hai đó là chất lượng được khẳng định trong tâm trí người mua hàng, là một
thứ tài sản vô hình vô cùng quý báu của doanh nghiệp như uy tín, tên tuổi sản phẩm.
1.2.4.2. Giá cả
Đây là chỉ tiêu cơ bản quan trọng hàng đầu tạo nên sức cạnh tranh cho sản phẩm.
Bởi thông qua giá mà doanh nghiệp có khả năng thu hút ngày càng nhiều hơn khách
hàng về phía mình, tất nhiên là trong mối tương quan với chất lượng sản phẩm mà

doanh nghiệp cung cấp cho khách hàng.
1.2.4.3. Kiểu dáng, mẫu mã
Kiểu dáng, mẫu mã ngày càng có vai trò quan trọng tạo nên sức cạnh tranh của sản
phẩm bởi lẽ đây là yếu tố đầu tiên thu hút sự chú ý của người tiêu dùng. Các doanh
nghiệp hiện nay rất chú trọng đến đa dạng hóa sản phẩm nhằm đáp ứng ngày càng tốt
hơn nhu cầu khách hàng.
1.2.5. Các chỉ tiêu đánh giá sức cạnh tranh sản phẩm của doanh nghiệp


1.2.5.1.

Tốc độ tăng trưởng của sản phẩm
Tốc độ tăng trưởng của sản phẩm được đánh giá bằng sự gia tăng của doanh thu
từ sản phẩm đó. Đây là tiêu chí quan trọng, mang tính tuyệt đối dễ xác định nhất. Sản
phẩm có sức cạnh tranh cao là sản phẩm dễ dàng bán được trên thị trường, doanh thu
sẽ tăng và ngược lại. Tăng sản lượng và doanh thu phụ thuộc vào chất lượng, giá bán
và quá trình tổ chức tiêu thụ mặt hàng.
1.2.5.2.
Thị phần của sản phẩm
Thị phần của doanh nghiệp là một chỉ tiêu tổng hợp phản ánh năng lực chiếm lĩnh
thị trường của doanh nghiệp. Chỉ tiêu này càng lớn thì quy mô tiêu thụ càng lớn, và từ
đó có thể xác định vị trí tương đối của các doanh nghiệp trong ngành với nhau.
Thị phần là một chỉ tiêu hết sức quan trọng đối với bất cứ doanh nghiệp nào bởi lẽ
đây là kết quả của cả quá trình phấn đấu, quá trình cạnh tranh quyết liệt trên thương
trường. Các doanh nghiệp luôn cố gắng để tăng thị phần của mình trong ngành hay
trong một khu vực cụ thể. Và để đạt được điều đó các doanh nghiệp phải sử dụng tổng
hợp các biện pháp không chỉ trong khâu bán hàng mà từ khâu chuẩn bị sản xuất, sản
xuất cho đến khi sản phẩm được đưa đến tay người sử dụng và tiếp nhận ý kiến phản
hồi từ phía khách hàng.
Đối với mỗi doanh nghiệp hoạt động trong cơ chế thị trường, sản phẩm tốt chưa đủ

để khẳng định khả năng tồn tại và phát triển của mình mà còn phải biết tổ chức mạng
lướt bán hàng, đó là tập hợp các kênh đưa sản phẩm hàng hoá từ nơi sản xuất đến
người tiêu dùng sản phẩm ấy. Bên cạnh đó, để thúc đẩy quá trình bán hàng, doanh
nghiệp cần tiến hành một loạt các hoạt động hỗ trợ gồm tiếp thị, quảng cáo, hỗ trợ bán
hàng, tổ chức hội nghị khách hàng, tham gia các tổ chức liên kết kinh tế... Ngày nay,
nghệ thuật tiêu thụ sản phẩm đóng vai trò vô cùng quan trọng, thậm trí quyết định đến
sự sống còn của doanh nghiệp trên thị trường bởi vì nó tác động đến khả năng cạnh
tranh của doanh nghiệp trên các khía cạnh như: tăng khả năng tiêu thụ hàng hoá, cải
thiện vị trí hình ảnh của doanh nghiệp, mở rộng quan hệ với các đối tác trên thị
trường…
1.2.5.3. Mức độ hấp dẫn của sản phẩm về kiểu dáng, mẫu mã
Những mẫu sản phẩm đẹp, hài hoà, hợp thị hiếu sẽ có sức lôi cuốn, hấp dẫn người
tiêu dùng. Trong thời đại ngày nay, kiểu dáng - mẫu mã được coi là một công cụ sắc
bén trong cạnh tranh, góp phần làm tăng tốc độ lưu thông hàng hoá trên thị trường.
1.2.5.4. Chất lượng và giá bán sản phẩm
Chất lượng mang lại sự tin tưởng vào sản phẩm của khách hàng, khi lựa chọn để
sử dụng loại sản phẩm đó người mua nghĩ ngay đến sản phẩm của doanh nghiệp, ngay
cả khi giá sản phẩm có cao hơn thị trường. Nếu cùng một chủng loại sản phẩm giá như
nhau, chất lượng sản phẩm sẽ được đo bằng số lượng người mua lựa chọn loại sản
phẩm của doanh nghiệp, tức là thị phần của doanh nghiệp có được trên cùng một loại


-

-

-

sản phẩm. Chất lượng tạo sự tin cậy lâu dài của khách hàng vào sản phẩm mà doanh
nghiệp cung cấp, doanh nghiệp nào có uy tín hơn về chất lượng sẽ thắng thế trong

cạnh tranh.
Cạnh tranh về giá bán cho thấy chi phí sản xuất của doanh nghiệp thấp hơn các đối
thủ. Điều này thể hiện các hoạt động tạo ra giá trị của doanh nghiệp có tính ưu việt hơn
các đối thủ cạnh tranh. Chi phí thấp cho phép doanh nghiệp có khả năng đương đầu
với những diễn biến bất lợi của có tác động đến giá cân bằng thị trường.
1.2.5.5. Tỷ suất lợi nhuận
Tỉ suất lợi nhuận là số lợi nhuận so với tổng doanh thu hoặc so với vốn đầu tư, vốn
chủ sở hữu...; chỉ tiêu này phản ánh 1 đồng doanh thu, 1 đồng vốn đầu tư, 1 đồng vốn
chủ sở hữu sẽ tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận.
Lợi nhuận ròng
Tỷ số lợi nhuận trên (hoặc lợi nhuận sau
doanh thu = 100% x
thuế)
Doanh thu
Tuy nhiên, tỷ số này phụ thuộc vào đặc điểm kinh doanh của từng ngành. Vì thế,
khi theo dõi tình hình sinh lợi của công ty, người ta so sánh tỷ số này của công ty với
tỷ số bình quân của toàn ngành mà công ty đó tham gia.
1.2.6. Các cấp độ và phương thức cạnh tranh chủ yếu
1.2.6.1. Các cấp độ cạnh tranh
Cạnh tranh trên thị trường có 4 cấp độ: cạnh tranh về hình thức sản phẩm, cạnh
tranh về loại sản phẩm, những loại sản phẩm có thể thay thế và cạnh tranh về ngân
sách.
Cạnh tranh về hình thức sản phẩm là cấp độ thấp nhất của cạnh tranh. Hình thức này
chủ yếu tập trung vào sản phẩm hiện tại của các doanh nghiệp mà không tập trung vào
cái có thể xảy ra trong tương lai. Các doanh nghiệp cạnh tranh với nhau về nhãn hiệu
nằm trong cùng một chủng loại sản phẩm và sẽ thoả mãn nhu cầu của cùng một đoạn
thị trường. Loại hình cạnh tranh này dựa trên thị hiếu của khách hàng.
Cấp độ thứ hai của cạnh tranh là cạnh tranh về loại sản phẩm. Loại hình này dựa trên
những sản phẩm và dịch vụ với những đặc điểm tương tự được xác định như là đặc
tính chứ không phải giá trị cao hay thấp. Loại hình cạnh tranh này rộng hơn so với

cạnh tranh về hình thức sản phẩm. Nhưng cạnh tranh về loại sản phẩm hay hình thức
sản phẩm vẫn thuộc quan điểm ngắn hạn.
Cấp độ thứ ba của cạnh tranh là tập trung vào những sản phẩm có thể thay thế, loại
hình này tập trung dài hạn hơn.
Cấp độ cạnh tranh cao hơn theo Kotler là cạnh tranh về ngân sách. Đây là quan điểm
rộng nhất về cạnh tranh vì nó cho rằng tất cả các sản phẩm hay dịch vụ cạnh tranh với
nhau đều nhằm vào túi tiền của người tiêu dùng. Loại cạnh tranh này bao gồm một
lượng lớn các nhà cạnh tranh nên gây khó khăn cho việc thực hiện về mặt chiến lược


của các doanh nghiệp. Khách hàng với một số tiền nhất định họ có thể tự do lựa chọn
sản phẩm tiêu dùng phù hợp với ngân sách của mình.
Trong kinh doanh tuỳ thuộc vào từng trường hợp cụ thể mà các doanh nghiệp lựa
chọn cấp độ cạnh tranh cho phù hợp với tình hình thực tế và chính sách cạnh tranh của
công ty.
1.2.5.2. Phương thức cạnh tranh chủ yếu
Cạnh tranh trên thị trường tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau. Cạnh tranh về
thị trường phân phối, cạnh tranh về khách hàng, cạnh tranh về nhân công, cạnh tranh
về nguyên vật liệu, cạnh tranh về công cụ marketing… Cạnh tranh xảy ra giữa các
doanh nghiệp trong cùng một ngành hoặc giữa các ngành với nhau, mỗi cấp độ khác
nhau thì có hình thức cạnh tranh khác nhau. Các doanh nghiệp khi tham gia kinh
doanh cần phải có nhận thức đúng về cạnh tranh và các cấp độ của cạnh tranh để từ đó
đề ra các chính sách cho sự phát triển của mình.
1.3.
NỘI DUNG VÀ NGUYÊN LÝ CỦA VIỆC NÂNG CAO SỨC CẠNH TRANH
SẢN PHẨM CỦA DOANH NGHIỆP
1.3.1. Sự cần thiết phải nâng cao sức cạnh tranh sản phẩm của doanh nghiệp
Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh là một vấn đề không thể tránh khỏi đối
với bất kỳ một doanh nghiệp nào. Cho dù doanh nghiệp đó đang tiến hành kinh doanh
ở bất kỳ lĩnh vực nào thì vấn đề cạnh tranh luôn song hành với sự tồn tại và phát triển

của doanh nghiệp đó. Với chiến lược cạnh tranh hiệu quả, doanh nghiệp sẽ định hướng
đúng đắn cho các hoạt động kinh doanh, vượt qua đối thủ, giành được thị phần, tạo
dựng được vị thế cạnh tranh lâu dài.
Trong thời kỳ nền kinh tế nước ta hoạt động theo cơ chế tập trung quan liêu bao
cấp, các doanh nghiệp không cần quan tâm đến vấn đề đầu ra hay đầu vào bởi tất cả do
Nhà nước quyết định. Ngày nay, khi chuyển sang nền kinh tế thị trường với nhiều
thành phần kinh tế tự do kinh doanh trong khuân khổ pháp luật, các doanh nghiệp phải
tự lo cho mình từ công tác chuẩn bị sản xuất, sản xuất và tiêu thụ. Doanh nghiệp nào
không giải quyết tốt các vấn đề nêu trên rất có thể dẫn đến thua lỗ hoặc phá sản. Để có
thể tồn tại và phát triển, các doanh nghiệp cần phải cạnh tranh với nhau, dành lợi thế
cạnh tranh so với các đối thủ.
Có thể nói, đối với nền kinh tế nói chung, một thị trường nuôi dưỡng được cạnh
tranh có nghĩa nền kinh tế đó đang trên đà phát triển. Nói một cách khác, cạnh tranh là
một động lực không thể thiếu cho sự đi lên của một nền kinh tế. Do đó nâng cao sức
cạnh tranh là một tất yếu khách quan.
1.3.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến sức cạnh tranh sản phẩm của doanh nghiệp
1.3.2.1.
Nhân tố thuộc môi trường vĩ mô
a. Môi trường kinh tế


Thực trạng nền kinh tế và xu hướng trong tương lai có ảnh hưởng đến sự thành
công của doanh nghiệp. Các nhân tố kinh tế này tác động đến khả năng cạnh tranh của
sản phẩm theo các hướng:
- Tốc độ tăng trưởng cao làm cho thu nhập của dân cư tăng, khả năng thanh toán của
họ tăng dẫn tới sức mua (cầu) các loại hàng hoá và dịch vụ tăng lên. Doanh nghiệp nào
nắm bắt được điều này và có khả năng đáp ứng được nhu cầu khách hàng thì doanh
nghiệp đó sẽ thành công và tạo nên sức cạnh tranh cao cho sản phẩm của mình.
- Tỷ giá hối đoái và giá trị của đồng tiền trong nước có tác động nhanh chóng và sâu
sắc đối với từng quốc gia nói chung và từng doanh nghiệp nói riêng nhất là trong điều

kiện nền kinh tế mở. Nếu đồng nội tệ tăng giá thì sản phẩm sản xuất trong nước sẽ
giảm sức cạnh tranh ở thị trường nước ngoài. Ngược lại, khi đồng nội tệ giảm giá, khả
năng cạnh tranh của sản phẩm sẽ tăng cả trên thị trường trong nước và trên thị trường
nước ngoài, vì khi đó giá bán của các doanh nghiệp giảm hơn so với các đối thủ cạnh
tranh.
- Lãi suất cho vay của các ngân hàng cũng ảnh hưởng rất lớn đến khả năng cạnh tranh
nhất là đối với các doanh nghiệp thiếu vốn phải vay ngân hàng. Khi lãi lãi suất cho vay
của ngân hàng cao, chi phí của các doanh nghiệp tăng lên do đó làm tăng giá thành sản
phẩm, làm sức cạnh tranh của nó giảm đi.
b. Môi trường công nghệ
Thế kỷ XX là thế kỷ của khoa học và công nghệ do đó sự phân tích và phán đoán
sự biến đổi của khoa học công nghệ là rất quan trọng và cấp bách hơn lúc nào hết.
Trình độ khoa học công nghệ có ý nghĩa quyết định đến hai yếu tố cơ bản nhất tạo nên
khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường, đó là chất lượng và giá bán. Đối với
những nước chậm và đang phát triển, giá và chất lượng có ý nghĩa ngang nhau trong
cạnh tranh. Tuy nhiên, thế giới hiện nay đã chuyển từ cạnh tranh về giá sang cạnh
tranh về chất lượng, cạnh tranh giữa các sản phẩm và dịch vụ có hàm lượng khoa học
công nghệ cao.
c. Môi trường văn hóa - xã hội
Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy
sự phát triển kinh tế - xã hội. Mỗi sản phẩm hình thành bao giờ cũng mang giá trị văn
hóa của quốc gia hay doanh nghiệp sản xuất ra nó. Doanh nghiệp cần phải phân tích
các yếu tố văn hóa, xã hội nhằm nhận biết các cơ hội và nguy cơ có thể xảy ra. Mỗi sự
thay đổi của các lực lượng văn hóa có thể tạo ra một ngành kinh doanh mới nhưng
cũng có thể xóa đi một ngành kinh doanh.
d. Môi trường chính trị - luật pháp
Một thể chế chính trị, pháp luật rõ ràng, rộng mở và ổn định sẽ là cơ sở đảm bảo
sự thuận lợi, bình đẳng cho các doanh nghiệp tham gia cạnh tranh và cạnh tranh có
hiệu quả.



Hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phải thực hiện đầy đủ và tuân
thủ pháp luật hiện hành theo từng yêu cầu cụ thể của từng ngành sản xuất kinh doanh.
Doanh nghiệp cần nắm rõ sự thay đổi của pháp luật hiện hành để có sự điều chỉnh hợp
lý.
1.3.2.2.
Môi trường ngành
Michael Porter, nhà hoạch định chiến lược và cạnh tranh hàng đầu thế giới hiện
nay, đã cung cấp một khung lý thuyết để phân tích cạnh tranh, theo đó một ngành kinh
doanh chịu ảnh hưởng bởi năm lực lượng cơ bản và được gọi là mô hình năm lực
lượng cạnh tranh. Theo Porter, các điều kiện cạnh tranh trong một ngành phụ thuộc
vào nhiều yếu tố khác nhau. Trong số các yếu tố này, ngoài các doanh nghiệp cạnh
tranh với nhau trong nội bộ ngành, còn các nhân tố khác như khách hàng, hệ thống
cung cấp, các sản phẩm thay thế hay các đối thủ cạnh tranh tiềm năng. Các nhà quản
trị chiến lược mong muốn phát triển lợi thế nhằm vượt trên các đối thủ cạnh tranh có
thể sử dụng công cụ này để phân tích các đặc tính và phạm vi của ngành ở đó hoạt
động kinh doanh của mình đang được diễn ra hoặc sẽ nhắm tới.

Sơ đồ 1.1: Mô hình năm lực lượng cạnh tranh
Theo Michael Porter, cường độ cạnh tranh trên thị trường trong một ngành sản
xuất bất kỳ chịu tác động của 5 lực lượng cạnh tranh sau:
a. Các đối thủ cạnh tranh trong ngành
Trong mô hình kinh tế truyền thống, sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong
nội bộ ngành sẽ làm cho lợi nhuận cận biên ngày càng giảm dần, tức giá bán chỉ đủ bù
đắp các chi phí sản xuất kinh doanh. Nhưng thực tiễn, cạnh tranh không bao giờ là
hoàn hảo và các doanh nghiệp không phải sẽ trở thành những nhà gia quyết định giá
một cách thụ động và đơn giản. Trái lại các doanh nghiệp sẽ phải cố xây dựng và khai


b.


c.

d.

e.

thác một hay một số lợi thế so với đối thủ cạnh tranh. Cường độ cạnh tranh giữa các
doanh nghiệp là khác nhau giữa các ngành kinh doanh và các nhà phân tích và hoạch
định chiến lược cần phải quan tâm đến các sự khác biệt này.
Để theo đuổi các lợi thế vượt trội hơn so với đối thủ cạnh tranh, một doanh nghiệp
có thể lựa chọn một hay một số phương thức tranh sau: thay đổi giá, tăng cường khác
biệt hóa sản phẩm, sử dụng một cách sáng tạo các kênh phân phối, khai thác các mối
quan hệ với các nhà cung cấp…
Sản phẩm thay thế
Trong mô hình của Porter, các sản phẩm thay thế muốn nói đến các sản phẩm từ
các ngành khác. Đối với các nhà kinh tế học, nguy cơ của sự thay thế xuất hiện khi nhu
cầu về một sản phẩm bị tác động bởi những thay đổi về giá của sản phẩm thay thế. Độ
co giãn giá của một sản phẩm bị tác động bởi sản phẩm thay thế; sự thay thế càng đơn
giản thì nhu cầu càng trở lên co giãn vì khách hàng có nhiều sự lựa chọn hơn.
Sản phẩm thay thế phụ thuộc vào khả năng tăng giá của doanh nghiệp trong một
ngành. Sự cạnh tranh gây ra bởi nguy cơ thay thế là do các sản phẩm thuộc các ngành
khác. Trong khi nguy cơ của sản phẩm thay thế thường tác động vào ngành kinh doanh
thông qua cạnh tranh giá cả, tuy nhiên có thể có nguy cơ thay thế từ các nguồn khác.
Khách hàng
Quyền lực của khách hàng là khả năng tác động của khách hàng trong một ngành
sản xuất. Thông thường khi khách hàng có lợi thế trong đàm phán hay được gọi là
khách hàng có quuyền lực lớn, quan hệ giữa nhà cung cấp và khách hàng trong một
ngành sản xuất gần với trạng thái thị trường là các nhà kinh tế học gọi là độc quyền
mua - đó là trường hợp mà trên thị trường có rất nhiều người bán và chỉ có một hay

một số rất ít người mua. Trong điều kiện thị trường như vậy thì người mua thường có
vai trò quyết định trong việc xác định giá cả.
Nhà cung cấp
Ngành sản xuất đỏi hỏi phải có nguyên nhiên vật liệu, lao động và các yếu tố đầu
vào khác. Các yêu cầu này dẫn đến các quan hệ giữa người mua - nhà cung cấp giữa
ngành sản xuất (với tư cách là tập hợp các nhà sản xuất trong một ngành) và người bán
(là những đơn vị cung cấp các yếu tố đầu vào). Nhà cung cấp, nếu có lợi thế về quyền
lực trong đàm phán có thể có những tác động quan trong vào ngành sản xuất, như việc
ép giá nguyên nhiên vật liệu.
Các đối thủ tiềm năng
Về lý thuyết, bất cứ doanh nghiệp nào cũng đều có cơ hội và có khả năng gia nhập
hay rút lui khỏi một ngành kinh doanh, và nếu sự gia nhập hay rút lui là tự do thì lợi
nhuận thường chỉ đạt ở mức rất thấp. Tuy nhiên trong thực tiễn, các ngành kinh doanh
có những đặc điểm mang tính đặc trưng có khả năng bảo vệ mức lợi nhuận thỏa đáng
cho các doanh nghiệp trong ngành do có thể ngăn cản hay hạn chế sự cạnh tranh từ


việc gia nhập mới vào thị trường. Các đặc tính này được gọi là rào cản gia nhập.
Rào cản gia nhập là những đặc điểm duy nhất của ngành nó xác định tính chất
riêng biệt của ngành. Các rào cản sẽ hạn chế tỷ lệ gia nhập ngành của các doanh
nghiệp mới và như vậy có thể giữ được mức lợi nhuận cao hơn cho các doanh nghiệp
đang tồn tại và hoạt động trong ngành.
1.3.2.3. Môi trường bên trong doanh nghiệp
 Cơ sở vật chất - kỹ thuật
Cơ sở vật chất - kỹ thuật là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến sức cạnh tranh của
sản phẩm. Khi doanh nghiệp đầu tư thiết bị công nghệ sử dụng ít nhân lực, thời gian
tạo ra sản phẩm ngắn, tiêu hao năng lượng và nguyên liệu thấp, năng suất cao, tính linh
hoạt cao, chất lượng sản phẩm tốt, ít gây ô nhiễm môi trường… sẽ giúp doanh nghiệp
tăng năng suất lao động, giảm giá thành, nâng cao chất lượng sản phẩm, do đó làm
cho năng lực cạnh tranh của sản phẩm tăng.

 Nguồn lực tài chính
Vốn là một nguồn lực liên quan trực tiếp tới năng lực cạnh tranh của sản phẩm
cũng như doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có nghiệp có nguồn tài chính dồi dào, luôn
đảm bảo huy động được vốn trong những điều kiện cần thiết, có nguồn vốn huy động
hợp lý, có kế hoạch sử dụng vốn hiệu quả... sẽ có điều kiện trang bị công nghệ hiện
đại, đào tạo nâng cao trình độ cán bộ và nhân viên, phát triển hoạt động R&D... từ đó
góp phần nâng cao sức cạnh tranh cho sản phẩm.
 Nguồn nhân lực
Nhân lực là một nguồn lực rất quan trọng vì nó đảm bảo nguồn sáng tạo trong mọi
tổ chức. Trình độ nguồn nhân lực thể hiện ở trình độ quản lý của các cấp lãnh đạo,
trình độ chuyên môn của cán bộ công nhân viên, trình độ tư tưởng văn hoá của mọi
thành viên trong doanh nghiệp. Trình độ nguồn nhân lực chất lượng sẽ tạo ra các sản
phẩm có hàm lượng chất xám cao, thể hiện trong kết cấu kỹ thuật của sản phẩm, mẫu
mã, chất lượng... và từ đó sức cạnh tranh của sản phẩm sẽ ngày càng tăng.
Bên cạnh các chỉ tiêu trên, sức cạnh tranh sản phẩm của doanh nghiệp còn chịu
ảnh hưởng của các yếu tố: năng suất sản xuất kinh doanh; uy tín, thương hiệu của
doanh nghiệp…
1.3.3. Nội dung chính sách nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm
1.3.3.1. Chính sách sản phẩm
Chính sách sản phẩm là những chiến lược, kế hoạch, định hướng về sản phẩm của
công ty, về tất cả những gì công ty có thể đưa ra thị trường để tạo ra sự chú ý của
người tiêu dùng nhằm thỏa mãn nhu cầu mua sắm, sử dụng hay mong muốn nào đó.
Chính sách sản phẩm có vị trí đặc biệt quan trọng, là cơ sở giúp công ty xác định
phương hướng đầu tư, thiết kế sản phẩm sao cho phù hợp với thị hiếu khách hàng, hạn


chế rủi ro, cũng như chỉ đạo các chiến lược kinh doanh khác nhau liên quan đến sản
phẩm.
 Đa dạng hóa sản phẩm
Khi sản phẩm truyền thống của doanh nghiệp bị ế ẩm vì nhu cầu thị trường giảm

hoặc do cạnh tranh tăng thì doanh nghiệp phải có hướng đa dạng hoá các hoạt động
hoặc thị trường mới. Chiến lược đa dạng hoá có các hình thức sau:
Chiến lược đa dạng hoá đồng tâm: Đây là chiến lược tăng doanh số và lợi nhuận
bằng cách phát triển sản phẩm mới phù hợp với công nghệ hiện tại hoặc công nghệ
mới để cung cấp cho thị trường mới. Sản phẩm mới trong chiến lược đa dạng hoá đồng
tâm là những sản phẩm mới hay đã có mặt trên thị trường nhưng công ty chưa tham
gia sản xuất kinh doanh. Nếu thực hiện chiến lược, những sản phẩm này có thể bán
trên cùng kênh phân phối với sản phẩm hiện tại của doanh nghiệp.
Chiến lược đa dạng hoá hàng ngang: Là chiến lược tăng doanh số và lợi nhuận
bằng cách phát triển sản phẩm mới theo công nghệ mới để đáp ứng bổ sung nhu cầu
của thị trường hiện tại. Những sản phẩm mới này có thể là sản phẩm mới hoàn toàn
hoặc đã có trên thị trường nhưng công ty chưa tham gia sản xuất và chúng có thể chào
bán trên cùng kênh phân phối với các sản phẩm hiện tại, nhằm đáp ứng các nhu cầu có
liên quan với nhu cầu hiện tại của khách hàng trên các phân khúc thị trường mục tiêu.
Chiến lược đa dạng hoá hỗn hợp: Đây là chiến lược tăng doanh số và lợi nhuận
bằng cách sản xuất sản phẩm mới theo công nghệ mới để cung cấp cho thị trường mới.
Những sản phẩm mới trong chiến lược này có thể không liên quan gì với công nghệ
ngành hàng sản xuất hiện tại của doanh nghiệp và chúng được chào bán trên kênh phân
phối riêng biệt, khác với kênh phân phối các sản phẩm hiện tại.
 Nâng cao chất lượng sản phẩm
Để sản phẩm của mình có thể thu hút được khách hàng trong điều kiện cạnh tranh
ngày càng gay gắt như hiện nay thì việc quan tâm đến chất lượng là một chiến lược
đúng đắn. Nâng cao chất lượng sản phẩm là sự thay đổi chất liệu sản phẩm hoặc thay
đổi công nghệ chế tạo đảm bảo lợi ích và tính an toàn trong quá trình tiêu dùng và sau
khi tiêu dùng. Hay nói cách khác, nâng cao chất lượng sản phẩm là việc cải tiến sản
phẩm có nhiều chủng loại mẫu mã, bền hơn và tốt hơn. Điều này làm cho khách hàng
cảm nhận lợi ích mà họ thu dường như ngày càng tăng lên khi duy trì tiêu dùng sản
phẩm của doanh nghiệp.
 Cải tiến kiểu dáng, mẫu mã sản phẩm
Khi đời sống người dân ngày càng được nâng cao, thị trường cũng theo đó mà phát

triển nhanh chóng. Không chỉ dừng lại ở việc mua sắm sản phẩm, người tiêu dùng
luôn có nhu cầu được sử dụng những mặt hàng mẫu mã đẹp và hiện đại hơn. Nắm bắt
được tâm lý đó, các doanh nghiệp ngày càng chú trọng nhiều hơn đến cải tiến kiểu
dáng, mẫu mã giúp khách hàng có nhiều lựa chọn hơn. Trong điều kiện sự khác biệt về


×