Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Giáo trình lý luận phương pháp giảng dạy sinh học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.68 MB, 91 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUẢNG BÌNH
KHOA NÔNG – LÂM – THỦY SẢN

GIÁO TRÌNH
(Lưu hành nội bộ)

LÝ LUẬN PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY SINH HỌC
(Dánh cho sinh viên ngành Sư phạm Sinh , hệ Đại học chính quy)

Tác giả: Lê Khắc Diễn

Năm 2016

1


PHẦN I: LÝ THUYẾT
ĐẠI CƯƠNG PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY SINH HỌC
Bài mở đầu
I. Đối tượng và nhiệm vụ của phương pháp dạy học Sinh học
Phương pháp giảng dạy sinh học là lý luận dạy học sinh học ở trường phổ thông.
Vì lí luận dạy học nghiên cứu các qui luật và các nguyên tắc dạy học chung cho tất cả
các bộ môn, cho nên phương pháp giảng dạy sinh học có thể coi là sự vận dụng lí luận
dạy học vào việc nghiên cứu nội dung, phương pháp và các hình thức tổ chức dạy và
học bộ môn Sinh học. Từ đó rút ra các quy luật về việc dạy cụ thể bộ môn Sinh học ở
trường phổ thông.
Đối tượng của phương pháp giảng dạy Sinh học là quá trình dạy học và giáo dục
bộ môn đó ở trường phổ thông. Vì vậy, các qui luật mà phương pháp giảng dạy sinh
học xác lập được là thuộc khoa học giáo dục, không phải của khoa Sinh học. Chẳng
hạn, qui luật về liên hệ giữa các khái niệm sinh học và kĩ năng thực hành trong quá
trình tiếp thu kiến thức của học sinh.


Nhiệm vụ của phương pháp giảng dạy Sinh học là nghiên cứu, xác định vị trí,
chức năng và nhiệm vụ của bộ môn sinh học ở trường phổ thông ; nghiên cứu, xác
định những phương pháp và hình thức tổ chức dạy và học bộ môn. Nói cách khác,
nhiệm vụ của phương pháp giảng dạy học Sinh học là nghiên cứu mối quan hệ có tính
chất quy luật giữa bộ môn Sinh học với hoạt động của thầy và trò. Trên cơ sớ đó
nghiên cứu cải tiến cách dạy và học ở trường phổ thông.
II. Sự liên hệ giữa phương pháp giảng dạy giữa sinh học với các khoa học
khác.
Phương pháp giảng dạy Sinh học là một bộ môn của khoa học giáo dục. Vì vậy,
nó liên quan mật thiết với nhiều khoa học khác : giáo dục học, tâm lí học, logic học,
chủ nghĩa duy vật biện chứng và khoa học Sinh học...
Giáo dục học và Tâm lý học là cơ sở lí luận của phương pháp giảng dạy Sinh
học. Nhờ các qui luật chung của lí luận dạy học mà phương pháp giảng dạy Sinh học
mới đề ra được các qui luật riêng của việc dạy bộ môn sinh học. Chẳng hạn, sự phụ
thuộc của các phương pháp vào nội dung các tài liệu giảng dạy. Ngược lại, các tài liệu
cụ thể từ các công trình nghiên cứu về phương pháp giảng dạy sinh học lại là những
bằng chứng cho lí luận dạy học chung. Phương pháp giảng dạy Sinh học còn liên hệ
mật thiết với Tâm lý học. Bộ môn này nghiên cứu nhiều vấn đề, một trong những vấn
dề có liên quan đến việc dạy học là con người tư duy như thế nào. Vì vậy, khi nghiên
cứu vấn đề dạy và học bộ môn sinh học không thể không dựa trên cơ sở phân tích các
trạng thái có liên quan đến hoạt động tư duy của học sinh mà còn nghiên cứu cả tâm lý
người học.
III. Tầm quan trọng của việc học phương pháp giảng dạy
Như đã nói ở trên, phương pháp giảng dạy sinh học là qui luật dạy học về bộ môn
sinh học ở trường phổ thông. Không được trang bị lí luận phương pháp giảng dạy,

2


người giáo viên sinh học khó có thề nâng cao được chất lượng giảng dạy bộ môn, thậm

chí còn có thể mắc sai lầm về sư phạm. Lí luận giúp người giáo viên tránh được sai
làm về phương pháp, làm ta hiểu rõ được mục đích dạy học và giáo dục, nhìn trước
được mọi bước đi của quá trình dạy học.
Nắm vững lí luận phương pháp giảng dạy, người giáo viên sinh học còn nắm được các phương tiện và phương pháp có hiệu quả và hợp lí nhất của việc giảng dạy, phát
huy được tác dụng tích cực của bộ môn mình trong mọi hoạt động của nhà trường và
xã hội, gắn nhà trường hơn nữa với đời sống và sản xuất ở địa phương, tạo điều kiện
cho việc vừa học tập vừa tham gia lao động sản xuất của học sinh.
Đối với học sinh các trường Sư phạm, việc học tập phương pháp giảng dạy sinh
học lại càng có ý nghĩa quan trọng. Nó không những nhằm vũ trang cho những người
giáo viên tương lai những tri thức cơ sở có tính chất hướng dẫn thực hành nghiệp vụ ở
trường phổ thông, mà còn góp phần vào việc bồi dưỡng tình cảm nghề nghiệp, nâng
cao lòng yêu thích học tập bộ môn, để từ đó truyền cho học sinh lòng yêu thích học và
nghiên cứu sinh học.
CÂU HỎI
1. Thế nào là phương pháp giảng dạy sinh học? Đối tượng của phương pháp
giảng dạy sinh học khác với đối tượng của các phân môn sinh học như thế nào?
2. Trình bày những nhiệm vụ chủ yếu của phương pháp giảng dạy sinh học ở
trường Trung học cơ sở.
3. Sự liên quan giữa phương pháp giảng dạy sinh học với các khoa học khác như
thế nào? Cho một số dẫn chứng về mối liên quan đó.
4. ý nghĩa và tầm quan trọng của việc học phương pháp giảng dạy sinh học?

3


Chương I
CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ, CHƯƠNG TRÌNH SINH HỌC Ở NHÀ
TRƯỜNG PHỔ THÔNG
I. Vị trí của bộ môn sinh học
Sinh học là một trong những bộ môn cơ sở của nhà trường phổ thông cấp cơ sở,

nó góp phần quan trọng vào việc thực hiện mục đích giáo dục của nhà trường, nhằm
đào tạo những người lao động mới. Hiện nay và trong một thời gian dài nữa, phần lớn
những người lao dộng mới này sẽ tham gia lao động sản xuất nông nghiệp. Do đó, các
bộ môn Sinh học trong nhà trường phổ thông có một vị trí rất quan trọng.
II. Chức năng của bộ môn sinh học
Chức năng của bộ môn sinh học ở trường phổ thông cấp cơ sở là làm cho học
sinh nắm một cách có hệ thống, tự giác và vững chắc những tri thức sinh học phổ
thông, cơ bản và hiện đại. Trên cơ sở đó mà tiến hành giáo dục thế giới quan Mác Lênin, nhân sinh quan cộng sản chủ nghĩa, những tư tưởng, tình cảm và đạo đức cách
mạng cho học sinh, phương pháp nhận thức và hành động khoa học, góp phần tích cực
vào việc thực hiện mục đích giáo dục trong nhà trường phổ thông. Chức năng cơ bản
nói trên được thực hiện thông qua các nhiệm vụ cụ thể của bộ môn sinh học ở trường
trung học cơ sở.
III. Nhiệm vụ của bộ môn sinh học
ở trường trung học cơ sở, bộ môn Sinh học có những nhiệm vụ cụ thể dưới đây :
1. Nhiệm vụ giảng dạy và giáo dục kỹ thuật tổng hợp.
a. Nhiệm vụ giảng dạy Sinh học
Khoa học sinh học là một khoa học rộng lớn. Nhà trường phổ thông không thể
nào vũ trang cho học sinh tất cả những hiểu biết về Sinh học. Do đó, những kiến thức
dạy trong nhà trường phổ thông phải là những kiến thức có lựa chọn, cần thiết làm cho
mọi học sinh nắm được những qui luật cơ bản của các sự kiện và hiện tượng của quá
trình tự nhiên, đồng thời phát triển tư duy độc lập, tư duy sáng tạo của học sinh. Chẳng
hạn, mỗi học sinh trong nhà trường phổ thông phải có những hiểu biết cơ bản về cấu
trúc tế bào, về cơ thể sống, về sự khác nhau giữa chất sống và chất không sống, về các
quá trình dinh dưỡng, hô hấp, trao đổi chất sinh trưởng, phát triển v.v... Còn những
kiến thức đi sâu vào những ngành khoa học chuyên môn thì không cần thiết phải dạy ở
trường phổ thông. Vì vậy, nhiệm vụ của nhà trường phổ thông là vũ trang cho học sinh
một hệ thống những kiến thức cơ bản, hiện đại về sinh học, gắn liền với thực tiễn Việt
Nam. Đó là những kiến thức nói lên được bản chất của các sự vật và hiện tượng sinh
học.
b. Nhiệm vụ giáo dục kỹ thuật tổng hợp

Việc thực hiện giáo dục kỹ thuật tổng hợp trong nội dung giảng dạy sinh học ở
trường phổ thông xuất phát từ nhiệm vụ cơ bản của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong bước đi ban đầu là đưa nền sản xuất nhỏ tiến lên nền sản xuất lớn xã hội
chủ nghĩa. Mục đích là chuẩn bị cho học sinh tham gia lao động sản xuất cho xã hội.

4


Việc thực hiện nhiệm vụ này sẽ góp phần làm cho học sinh hiểu biết trên lý
thuyết và thực hành các nguyên lí cơ bản của các quá trình sản xuất nông nghiệp và
quản lí kinh tế nông nghiệp. Vì vậy, trong quá trình giảng dạy sinh học người giáo
viên phải biết kết hợp giảng dạy và giáo dục với lao động sản xuất, coi lao động sản
xuất là hạt nhân của giáo dục kĩ thuật và là cơ sở cung cấp cho học sinh những kiến
thức về cuộc sống, về lao động sản xuất và quản lý kinh tế. Trong quá trình giảng dạy
giáo viên còn cần phải biết kết hợp khoa học tiên tiến với tri thức cổ truyền của dân
tộc và kinh nghiệm sáng tạo của nhân dân, truyền thụ cho học sinh những tri thức khoa
học gắn liền với thực tế đấu tranh chính trị, thực tế đời sống và sản xuất của xã hội
Việt nam, của địa phương nơi trường đóng. Có như vậy mới tạo điều kiện thuận lợi
cho học sinh vận dụng tốt những tri thức đã học vào việc giải quyết những nhiệm vụ
thực tế của đất nước, của địa phương và của bản thân (vấn đề bảo vệ và tăng cường
sức khỏe, tham gia lao động sản xuất có kỹ thuật để tạo ra của cải vật chất cho xã hội
v.v...).
Ví dụ : khi giảng dạy bộ môn Thực vật học, song song với việc vũ trang các kiến
thức cơ bản về thực vật, giáo viên cần cho học sinh nắm được những nguyên lý cơ bản
về các biện pháp bảo vệ và chăm sóc cây trồng. Thông qua công tác thực hành ở vườn
trường, những buổi lao động công ích với hợp tác xã... mà bồi dưỡng cho học sinh
những hiểu biết thông thường về cách quản lý hợp tác xã, những kĩ năng thực hành
nông nghiệp như : cách !àm đất, bón phân, chuẩn bị hạt và gieo hạt, ươm và chăm sóc
cây, giâm, chiết, ghép cây, cách phòng trừ cỏ dại vv...
Như vậy, giáo dục kỹ thuật tổng hợp không phải là giáo dục về một ngành sản
xuất nào đó mà là giáo dục được những nguyên lí chung, những nguyên lí tổng hợp về

các ngành sản xuất chủ yếu, trong đó có ngành sản xuất nông nghiệp.
Kinh nghiệm cho hay rằng, để thực hiện tốt tinh thần giáo dục kỹ thuật tổng hợp
trong việc giảng dạy sinh học, người giáo viên phải luôn luôn tự bồi dưỡng mình về
vốn hiểu biết thực tế, kể cả lí thuyết và kĩ năng thực hành. Mặt khác, giáo viên phải
cùng với nhà trường đặt quan hệ tốt với địa phương. Nhà trường có thể phổ biến khoa
học, hoặc tổ chức nghiên cứu sinh vật và kĩ thuật nông nghiệp cho địa phương, tham
gia lao động sản xuất trong hợp tác xã; ngược lại, địa phương giúp đỡ nhà trường hoàn
thành các nhiệm vụ trên để nâng cao vốn hiểu biết của thầy và trò.
2. Nhiệm vụ giáo dục tư tưởng, tình cảm và những phẩm chất đạo đức của con
người mới.
a. Bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng, chống quan niệm duy tâm siêu
hình về thiên nhiên.
Một trong những nhiệm vụ cơ bản của việc giáo dục tư tưởng trong giảng dạy
sinh học là bồi dưỡng cho học sinh thế giới quan duy vật biện chứng. Việc giáo dục
thế giới quan này phải được tiến hành trong suốt quá trình hoạt động nhận thức của
học sinh bằng cách thông qua các hình thức giảng dạy phong phú mà bồi dưỡng cho
họ, tránh thể hiện một cách thô sơ, vụng về qua nội dung bài giảng. Chẳng hạn, qua

5


đặc điểm cấu trúc của châu chấu, của ong mật..., giáo viên trình bày cho học sinh thấy
được cùng là những loài sâu bọ, nhưng do đời sống khác nhau nên chúng có những bộ
phận của cơ thể không giống nhau như cánh châu chấu to khỏe, chân ong có bàn chải,
giỏ đựng phấn hoa...
Thế giới quan được hình thành và được phát triển từ lớp dưới lên lớp trên trong
quá trình tiếp thu các kiến thức sinh học và trong quá trình phát triển tư duy lôgic của
học sinh. Vì vậy, việc xây dựng thế giới quan khoa học phải được bắt đầu từ đầu cấp.
Ngay trong quá trình học thực vật, các em đã phải được hướng dẫn để xây dựng
một nhận thức đúng đắn về thế giới bên ngoài. Muốn vậy, giáo viên cần bảo đảm tính

khoa học của các tri thức truyền thụ, tính rõ ràng, chặt chẽ, tính logic của các vấn đề,
tính qui luật của các hiện tượng nghiên cứu trong giảng dạy. Chẳng hạn, (qui luật
nhân - quả, quy luật lượng đổi - chất đổi...) để gây cho học sinh niềm tin trong sự nhìn
nhận thế giới bên ngoài. Từ đó, làm cơ sở để hình thành thế giới quan khoa học cho
học sinh.
Việc bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng cho học sinh, tức là việc xây
dựng cho họ những quan niệm đúng đắn về thế giới bên ngoài, được thể hiện trong bộ
môn sinh học ở những quan điểm sau đây :
- Cơ thể sống là một toàn bộ thống nhất. Sự thống nhất của cơ thể sống biểu
hiện ở chỗ, cơ thể sống tuy cấu tạo bởi nhiều mô và cơ quan khác nhau, nhưng giữa
các mô và cơ quan trong cơ thể có mối quan hệ tương hỗ; cùng nhau hoàn thành một
nhiệm vụ nhất định. Chẳng hạn cơ thể thực vật gồm có ba bộ phận dinh dưỡng, đó là :
rễ, thân, lá có nhiệm vụ khác nhau, nhưng chúng có quan hệ chặt chẽ với nhau thể hiện
thông những qua cấu tạo của mạch dẫn ở rễ, thân, lá là một hệ mạch có mối liên quan
với nhau rất mật thiết, mà còn qua hoạt động sinh lí như : sự hút nước và muối khoáng
ở rễ có liên hệ chặt chẽ với sự hô hấp và sự quang hợp ở lá...
- Cơ thể sống có liên quan khăng khít với điều kiện sống.
Theo quan điểm này thì giữa cơ thể sống với điều kiện sống của môi trường có
mối quan hệ chặt chẽ. Một khi điều kiện sống thay đổi đến mức độ nào đó thì có thể
làm thay đổi các tính chất và tính trạng của cơ thể sống. Như vậy, bằng cách thay đổi
điều kiện sống, con người có thể chủ động tác động vào cơ thể sống làm cho chúng
biến đổi theo ý muốn.
Trong quá trình giảng dạy, giáo viên còn phải giúp học sinh thấy được ảnh hưởng
của các điều kiện môi trường đối với các hoạt động sinh lí của cây, hoặc những đặc
điểm thích nghi của động vật với môi trường sống. Muốn vậy, cần phải trình bày mối
quan hệ của sinh vật với môi trường dưới ánh sáng của những quy luật sinh thái học.
- Sự phát triển của sinh vật.
Đời sống của sinh vật luôn luôn biến đổi, phát triển. Vì vậy, nghiên cứu các cơ
quan thực vật và động vật phải nghiên cứu sự phát triển của nó. Có nhiều giáo viên
thường không chú ý đến vấn đề này, cho nên làm cho học sinh khó tiếp thu kiến thức.


6


Chẳng hạn, nếu các em hiểu được sự phát triển của rễ cây non, các em không thể lầm
lẫn rễ cọc với rễ phụ...
Động vật cũng phải được nghiên cứu trong sự phát triển của nó. Chẳng hạn, sự
biến đổi theo mùa của động vật như sự sinh sản, sự trú đông, sự di cư của các loài cá,
chim, thú...
Học về những ngành, lớp chính của thực vật và động vật, học sinh cũng phải rút
ra được những khái niệm cơ bản về sự tiến hóa của giới hữu cơ, về quan điểm các sinh
vật đều có lịch sử phát triển. Hình thức giảng dạy thích hợp nhất để giúp học sinh nắm
được quan điểm này là so sánh, đối chiếu. Chẳng hạn, so sánh cơ quan tiêu hóa, tuần
hoàn, hô hấp, thần kinh của động vật từ cá đến động vật có vú, hoặc so sánh các lối
sinh sản của thực vật từ tảo đến cây hạt kín.
- Sự thống nhất giữa lí luận và thực tiễn.
Đây là một trong những vấn đề cơ bản của việc giáo dục thế giới quan duy vật
biện chứng cho học sinh. Vì vậy, trong quá trình giảng dạy cần phải làm cho học sinh
nắm được quan điểm này, không phải bằng cách gán ghép một cách tùy tiện những
kiến thức về khoa học nông nghiệp vào trong bài giảng sinh học, mà phải trên cơ sở
phân tích những ví dụ điển hình về mối liên hệ giữa khoa sinh học với thực tiễn trồng
trọt và chăn nuôi ở nước ta, ở địa phương. Có như vậy mới tạo cho học sinh khả năng
tập ứng dụng lí luận khoa học trong việc thực hiện các công tác thực hành. Vấn đề này
có liên quan đến việc giáo viên ra cho học sinh các bài tập thực hành làm ở nhà và
ngoài giờ. Những hình thức công tác thực hành trên không những có tác dụng hình
thành cho học sinh quan niệm về mối liên hệ giữa lí luận và thực tiễn mà còn về cách
nhận biết mối quan hệ ấy.
Trong quá trình bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng cho học sinh, chúng
ta còn phải tích cực đấu tranh chống những quan niệm duy tâm siêu hình về thiên
nhiên. Cần phải vạch cho học sinh thấy những biểu tượng duy tâm về sự bất biến của

các loài sinh vật, về quan niệm cho rằng mọi vật trong thiên nhiên được tạo nên và tồn
tại vì lợi ích con người. Giáo viên còn phải uốn nắn những sai lầm của học sinh về
những quan niệm ấy trong những bài làm và câu trả lời của học sinh. Rất nhiều học
sinh khi nêu mối quan hệ giữa cấu tạo và chức năng, giữa cơ thể và môi trường, thường rơi vào quan điểm mục đích luận. Chẳng hạn, nói rễ có lông hút để hút được nước
và muối khoáng, hoặc chim có cánh để bay... Nếu thay từ "để" bằng từ "thích nghi" sẽ
đúng với quan điểm duy vật hơn.
b. Giáo dục học sinh lòng yêu thiên nhiên, yêu đất nước, yêu chủ nghĩa xã hội,
yêu khoa học, bồi dưỡng tình cảm, thẩm mĩ lành mạnh.
Lòng yêu thiên nhiên là một tình cảm lớn lao và phức tạp trong đời sống tinh
thần và nhận thức của con người. Tình cảm đó rất phù hợp với lòng yêu đất nước. Vì
vậy, muốn giáo dục học sinh lòng yêu đất nước, thì trước hết phải làm cho học sinh có
một lòng yêu thực sự đối với thiên nhiên. Dạy cho các em không những biết thưởng
thức và sáng tạo cái đẹp trong thiên nhiên, mà còn biết bảo vệ, giữ gìn và sử dụng nó

7


một cách hợp lí. Rồi trên cơ sở lòng yêu thiên nhiên nơi quê hương, hợp tác xã của
mình mà phát triển ở các em tình cảm gắn bó với quê hương, hợp tác xã, với đất nước.
Từ đó, các em sẽ có những hành động thiết thực: say mê nghiên cứu khoa học và thực
hành khoa học, sẵn sàng đem sức lực và trí tuệ của mình góp phần xây dựng quê hương, xây dựng hợp tác xã.
Như vậy, trong việc giáo dục lòng yêu thiên nhiên, yêu đất nước, yêu khoa học
thì những cuộc tham quan thiên nhiên, nghiên cứu sinh vật ở ngoài trời, tìm hiểu các
sinh vật ở địa phương, thôn xóm nơi các em sống có một tác dụng lớn.
Để giáo dục lòng yêu chế độ xã hội chủ nghĩa, giáo viên còn phải luôn luôn so
sánh thực tế địa phương trong hai chế độ cũ và mới, phân tích cho học sinh thấy được
tính chất ưu việt của chế độ ta. Những số liệu sưu tầm được ở địa phương là những
dẫn chứng hùng hồn cần phải được tận dụng.
c. Giáo dục lòng yêu lao động và những phẩm chất đạo đức con người mới.
Nhiệm vụ này có liên hệ mật thiết với các công tác thực hành và lao động có hệ

thống ở vườn trường, ngoài đồng ruộng hợp tác xã, thông qua các hoạt động đó, cần
làm cho học sinh biết thể hiện tinh thần và ý thức trách nhiệm trong lao động, yêu quý
lao động, hiểu được các phương pháp thực hành nông nghiệp, có được các kĩ năng lao
động cần thiết cho đời sống và sản xuất. Đồng thời qua đó rèn luyện cho các em những
đức tính tốt của con người lao động mới như:
- Tinh thần dựa vào sức mình là chính, khắc phục khó khăn, phấn đấu bền bỉ, cần
cù ; óc lạc quan, tin tưởng ; tính khiêm tốn, giản dị.
- Tinh thần kỉ luật tự giác, ý thức tập thể, tinh thần trách nhiệm trong công tác.
- Tập làm việc khoa học, có kế hoạch, có tổ chức.
d. Giáo dục học sinh có ý thức và thói quen giữ gìn vệ sinh, rèn luyện thân thể,
tăng cường sức khỏe để học tập, lao động và sẵn sàng tham gia chiến đấu bảo vệ tổ
quốc.
Nội dung các giáo trình sinh học chứa đựng nhiều tài liệu quý báu giúp giáo viên
có điều kiện thuận lợi để hoàn thành tốt nhiệm vụ này.
Ví dụ : Khi giảng dạy chương trình Sinh lí, giáo viên cần cho sinh hiểu được ảnh
hưởng của lao động, thể dục thể thao đối với sự hoạt động của mỗi cơ quan và của
toàn bộ cơ thể ; bước đầu cho các em nắm được cơ sở khoa học của các biện pháp vệ
sinh và hình thành tập quán giữ gìn vệ sinh như: vẫy nước trước khi quét nhà, thấm
ướt khăn khi lau bảng, không ăn quả xanh, không uống nước lã, chú ý thở sâu khi tập
thể dục, thực hiện đều đặn kế hoạch lao động, thể thao trong tuần.
3. Nhiệm vụ phát triển óc tìm tòi quan sát và tư duy lôgic của học sinh.
a. Phát triển óc tìm tòi quan sát của học sinh.
Đối tượng của sinh học là các hiện tượng, các sự kiện của quá trình tự nhiên
sống. Muốn nhận thức được chúng thì phải quan sát. Quan sát là một khâu bắt buộc
trong việc nhận thức thiên nhiên. Vì vậy, trong quá trình giảng dạy sinh học, giáo viên
phải chú ý đến việc tổ chức và hướng dẫn học sinh biết cách quan sát, biết tích lũy các

8



hình ảnh một cách đầy đủ theo yêu cầu của quan sát để rút ra những kết luận đúng đắn.
Từ đó, tiến tới xây dựng cho các em thói quen và kĩ năng quan sát đồng thời phát triển
óc tìm tòi quan sát của học sinh. Công tác này có liên hệ mật thiết với các phương
pháp giảng bài của giáo viên và công tác thực hành: các em tự lực nhận biết và xác
định các vật tự nhiên, quan sát các hiện tượng sinh học theo các bài tập thực hành ở
nhà hoặc bài tập ngoài giờ. Các công tác thực hành đó làm cho việc quan sát được
chính xác và có giá trị thực tiễn.
b. Phát huy tư duy, năng lực nhận thức của học sinh.
Trong quá trình giảng dạy sinh học, bất kì sử dụng phương pháp giảng dạy nào,
giáo viên cũng cần chú ý phát triển tư duy của học sinh, tức là phát triển óc suy nghĩ
đúng đắn, có căn cứ rõ ràng, phát triền năng lực phân tích, tổng hợp, so sánh; năng lực
trừu tượng hóa và khái quát hóa, năng lực suy luận theo hướng qui nạp hay suy diễn,
năng lực diễn đạt chính xác những vấn đề sinh học.
Dưới đây là những phẩm chất chủ yếu của tư duy cần được phát triền đối với học
sinh trung học cơ sở:
- Năng lực phân tích, tổng hợp, so sánh.
Phân tích, tồng hợp, so sánh là những quá trình tư duy của học sinh thường
xuyên tiến hành khi nghiên cứu bất kì sự vật, hiện tượng sinh học nào. Do đó, chúng
trở thành quá trình tư duy cơ bản nhất.
- Năng lực khái quát hóa và trừu tượng hóa.
Khái quát hóa và trừu tượng hóa là những quá trình tư duy của học sinh có liên
hệ mật thiết với sự hình thành và phát triển các khái niệm. Kiến thức thì bao gồm
những khái niệm. Vì vậy sự hình thành và phát triển bất kì khái niệm sinh học nào
cũng là kết quả của hai quá trình tư duy cơ bản trên.
- Năng lực suy luận theo hướng qui nạp hay suy diễn.
Suy luận theo hướng qui nạp là suy luận từ những trường hợp riêng đến nguyên
lý chung.
Ví dụ khi nghiên cứu chương" Động vật nguyên sinh ", qua nhiều con vật đại
diện riêng lẽ, học sinh biết rằng trùng cỏ, trùng biến hình, trùng roi... đều chuyển vận
và dinh dưỡng, cảm ứng và sinh sản. Từ đó, học sinh đi đến kết luận chung rằng mọi

động vật đơn bào đều có đủ tính chất của một động vật sống. Suy luận như vậy là suy
luận theo hướng qui nạp.
Suy luận theo hướng suy diễn là suy luận từ một nguyên lý chung đến một trường hợp riêng.
Ví dụ, qui luật tiến hóa thể hiện trong toàn bộ chương trình thực vật học và động
vật học. Khi học sinh đã hiểu qui luật đó thì có thể giải thích được tại sao động vật đa
bào lại bắt nguồn từ động vật đơn bào... Suy luận như thế là suy luận theo hướng suy
diễn.
- Năng lực diễn đạt chính xác những vấn đề sinh học.

9


Trong qua trình giảng dạy, khi phát triển tư duy chính xác ở học sinh, giáo viên
đồng thời cũng phát triển ngôn ngữ chính xác và rõ ràng ở học sinh. Như vậy, song
song với quá trình bồi dưỡng tư duy, ngôn ngữ của học sinh cũng được nâng cao dần.
Nhờ đó mà những ý nghĩ sinh học của các em cũng được biểu hiện trong cách diễn đạt
hoặc trình bày vấn đề một cách chính xác, rõ ràng.
Kết luận chung
Các nhiệm vụ cụ thể về giáo dục của bộ môn sinh học ở trường phổ thông cấp cơ
sở rất to lớn và phù hợp với mục đích nhà trường đào tạo những người lao động mới.
Thấm nhuần và thực hiện tốt nhiệm vụ đó là công việc của tất cả các giáo viên
giảng dạy bộ môn, muốn đem môn học của mình phục vụ tốt thế hệ trẻ, phục vụ đời
sống và sản xuất.
CÂU HỎI VÀ BÀI TẬP CHƯƠNG I
1. Vị trí của bộ môn sinh học ở trường phổ thông quan trọng như thế nào? Hãy
lấy dẫn chứng để chứng minh điều đó.
2. Chức năng của bộ môn sinh học ở trường trung học cơ sở là gì ?
3. Trình bày những nhiệm vụ của bộ môn sinh học ở trường trung học cơ sở.
Dẫn chứng bằng một số bài lấy ở sách giáo khoa phổ thống để minh họa (tùy Sinh viên
chọn). Nêu rõ bài đó giáo dục cho học sinh những nhiệm vụ cụ thể nào ? Nhiệm vụ

nào là chủ yếu nhất.

10


Chương II
NGHIÊN CỨU CHƯƠNG TRÌNH SINH HỌC TRUNG HỌC CƠ SỞ
Thực tế giảng dạy cho thấy rằng muốn nâng cao nghiệp vụ của mình thì người
giáo viên phải nắm vững nội dung và cấu tạo của chương trình học. Nhiều giáo viên do
chưa nắm vững nội dung và cấu tạo của chương trình học, cũng như những phương
hướng và đặc điểm của chương trình học nên không nâng cao được chất lượng dạy
học. Trong công tác soạn giảng, có khi còn thiếu lý luận chặt chẽ về tính hệ thống của
kiến thức, chưa nắm được đầy đủ vị trí và yêu cầu của từng chương, mục trong chương trình học. Vì vậy, một số bài giảng có thể chưa sát đối tượng hoặc quá cao hoặc
quá thấp, mặt khác những kiến thức sinh học cung cấp cho học sinh còn rời rạc chưa
hệ thống (ví dụ dạy ngành động vật nào chỉ biết ngành động vật đó mà chưa làm cho
học sinh thấy được mối quan hệ họ hàng giữa ngành nọ với ngành kia, thậm chí còn
lẫn lộn giữa kiến thức sinh vật với kiến thức kĩ thuật nông nghiệp, giảng một bài sinh
vật chẳng khác gì một bài lý luận nông nghiệp... ).
Tinh thần của công tác thực hành trong chương trình cũng chưa được nhiều giáo
viên quan tâm đúng mức, ảnh hưởng không ít tới việc rèn luyện trí thông minh, phát
huy tư duy độc lập và sáng tạo của học sinh. Vì vậy, vấn đề nắm vững nội dung và cấu
tạo của chương trình học, những phương hướng và đặc điểm của chương trình học, vị
trí của từng chương mục trong trật tự sắp xếp các bài giảng của chương trình học sẽ
giúp chúng ta giảng dạy đúng hướng.
I. Nhìn chung cấu tạo chương trình Sinh học Trung học cơ sở
Chương trình sinh học trung học cơ sở gồm có 5 phần: thực vật, động vật, giải
phẫu sinh lí người, cơ sở di truyền học và sinh thái môi trường.
Phần thực vật được dạy ở lớp VI. Chương trình bắt đầu bằng việc nghiên cứu cấu
tạo và hoạt động sống của các cơ quan khác nhau của cây xanh có hoa, để nắm được
những đặc điểm cơ bản về cấu tạo và hoạt động sống, và sự phát triển cá thể của cơ thể

thực vật. Trên cơ sở đó học sinh hiểu được cơ sở khoa học của các biện pháp kĩ thuật
nông nghiệp. Vì vậy, những kiến thức thuộc kĩ thuật nông nghiệp sẽ được tách ra khỏi
chương trình sinh học và được dạy trong một chương trình riêng. Sau khi học sinh đã
có những kiến thức cơ bản nhất về cây xanh có hoa, các em bắt đầu tìm hiểu các nhóm
cây chính. Đó là phần sơ lược về phân loại thực vật.
Phần động vật có khác với chương trình thực vật học, chương trình động vật học
không bắt đầu bằng việc nghiên cứu cấu tạo và hoạt động sống của một cơ thể điển
hình chung mà đi ngay vào phần nghiên cứu cấu tạo và hoạt động sống của các nhóm
động vật quan trọng sắp xếp theo trình tự tiến hóa. Điều đó cũng dễ hiểu, với chương
trình này kế thừa ở chương trình thực vật học nhiều khái niệm quan trọng như khái
niệm cơ thể sống là một toàn bộ thống nhất và những biểu hiện sống cơ bản của nó,
khái niệm tế bào, mô, cơ quan, khái niệm tiến hóa, khái niệm về sự thích nghi của cơ
thể với môi trường...

11


Chương trình bắt đầu bằng những động vật nguyên sinh và kết thúc bằng những
động vật có xương sống. Trình tự sắp xếp đó là hoàn toàn phù hợp với lịch sử tiến hóa
của giới động vật. Tuy nhiên, sự sắp xếp này cũng gây cho giáo viên một số khó khăn
nhất định trong giảng dạy. Đó là vấn đề vừa mới bước vào chương trình, học sinh đã
phải tiếp xúc ngay với những đối tượng thấp nhất trong bậc thang tiến hoá của giới
động vật (các động vật nguyên sinh). Những đối tượng này vừa xa lạ, vừa khó sưu
tầm, khó quan sát đối với học sinh, mặc dầu các em đã có một sổ kĩ năng thực hành
của bộ môn thực vật học.Vì vậy, ngay từ những bài đầu của chương trình học, đòi hỏi
ở giáo viên nhiều công tác chuẩn bị quan trọng hơn là ở chương trình thực vật học, đặc
biệt là về mặt đồ đùng dạy học : gây nuôi vật sống, chuẩn bị mô hình, tranh vẽ...
Phần Giải phẫu - sinh lý, vệ sinh người với nội dung phát triển những kiến thức
của chương trình động vật học nhưng ở mức độ cao hơn và vào đối tượng con người.
Phần cơ sở Di truyền học cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản nhất về

hiện tượng di truyền, biến dị. Đó là những kiến thức cơ bản, được áp dụng vào thực
tiễn như chọn giống vật nuôi, cây trồng.
Phần Sinh thái và môi trường cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản nhất
về môi trường, mối quan hệ qua lại giữa sinh vật với sinh vật cũng như quan hệ giữa
cơ thể với môi trường.
Cách cấu tạo như vậy của chương trình học là hợp lí. ở đây lần đầu tiên học sinh
được làm quen với giới thực vật. Việc nghiên cứu và quan sát chúng trong thiên nhiên
và ngoài đồng ruộng dễ dàng và thuận lợi hơn là so với với các nghiên cứu giới động
vật, bởi vì giới thực vật nói chung là tĩnh. Vì vậy, học thực vật trước động vật trong
chương trình là hoàn toàn phù hợp với đặc điểm lứa tuổi của học sinh. Sau khi đã có
những kiến thức cần thiết cơ bản, học sinh được nghiên cứu đến đối tượng con người
và ứng dụng những kiến thức đã học vào thực tiễn.
II. Một số phương hướng và các đặc điểm của chương trình Sinh học trường
Trunh học cơ sở.
Xuất phát điểm của việc xây dựng các chương trình trong nhà trường phổ thông
nói chung và chương trình sinh học nói riêng là : Giáo dục phải phục vụ đường lối và
nhiệm vụ cách mạng của Đảng. Giáo dục phải kết hợp với lao động sản xuất và hoạt
động chính trị. Nội dung kiến thức sinh học trong chương trình phải phản ánh được thế
giới quan duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin và những nguyên lí của lí thuyết sinh học
hiện đại. Quán triệt những tinh thần trên, chương trình sinh học phổ thông được xây
dựng theo những phương hướng với các đặc điểm sau đây :
1. Những phương hướng chính của việc xây dựng chương trình sinh học trung
học cơ sở.
a. Chương trình phải đảm bảo cung cấp cho học sinh một hệ thống kiến thức và
kĩ năng phổ thông cơ bản, tương đối hoàn chỉnh và phù hợp với lứa tuổi về bộ môn
sinh học, nhằm cùng với bộ môn vệ sinh và kĩ thuật nông nghiệp chuẩn bị cho học
sinh có điều kiện sẵn sàng tham gia sản xuất nông nghiệp hoặc tiếp tục học lên. Vì

12



vậy, những kiến thức cơ bản nói trên chỉ là những kiến thức cơ bản về thực vật học và
động vật học, những kiến thức thuộc kĩ thuật nông nghiệp sẽ được tách ra khỏi chương
trình học.
Ví dụ, trong chương trình động vật, bỏ hẳn một mục nói về biện pháp phòng trừ
sâu bọ phá hoại nông nghiệp, hoặc các phương pháp phòng chữa bệnh đã có trong nội
dung sách giáo khoa. Trong mục nói về tằm và ong, cũng chỉ nêu những đặc điểm sinh
học chủ yếu của chúng tránh đi quá sâu vào những kiến thức có tính chất kĩ thuật như
chăn tằm, nuôi ong v.v...
b. Những kiến thức và kĩ năng cơ bản qui định trong chương trình phải phản ánh
được trình độ phát triển hiện đại của khoa học, nhằm xây dựng cho học sinh một thế
giới quan khoa học, một phương pháp nhận thức chính xác, một trình độ khoa học nhất
định phù hợp với sự phát triển của khoa học trên thế giới. Ví dụ những kiến thức về
thực vật học và động vật học tuy cung cấp cho học sinh ở mức tế bào và cơ thể, nhưng
phải được trình bày theo những lí thuyết và phương pháp nghiên cứu sinh học hiện đại.
c. Những kiến thức và kĩ năng cơ bản qui định trong chương trình còn phải phản
ánh được thực tế thiên nhiên sinh vật. ở nước ta là nước nhiệt đới gió mùa, có các loài
động vật, thực vật đa dạng phong phú. Phải làm cho các em thấy được hệ sinh vật của
đất nước vô cùng đa dạng, có khả năng vận dụng những kiến thức dã học vào phát
triển các loài động thực vật có giá trị kinh tế ở địa phương.
Ví dụ : Những sinh vật giới thiệu trong chương trình học phải là những sinh vật
phổ biến ở nước ta, ở từng địa phương. Vì chương trình hướng chủ yếu vào những
sinh vật ở miền đồng bằng, cho nên đối với những miền khác, khi nghiên cứu có thể
thay thế những sinh vật nêu trong chương trình bằng những sinh vật khác phổ biến hơn
ở địa phương.
Tóm lại, những phương hướng chính của việc xây dựng chương trình sinh học
phổ thông là nhằm giúp học sinh nắm được những qui luật khoa học phổ biến, đồng
thời hiểu rõ được hoàn cảnh thiên nhiên sinh vật ở nước ta để có những sáng tạo trong
hành động.
2. Những đặc điểm chính của chương trình Sinh học trung học cơ sở

a. Chương trình được cấu tạo theo đường thẳng, nội dung kiến thức được trình
bày không lặp đi lặp lại, nhưng giữa các phần vẫn có một sự quan hệ chặt chẽ và đảm
bảo tính chất hệ thống của nó.
Ví dụ trong phần thực vật, bao gồm các bài tế bào, hạt, rễ, lá, thân..., nội dung
kiến thức từng phần khác nhau, nhưng được trình bày theo một quan điểm thống nhất
biện chứng của một cơ thể thực vật bậc cao.
b. Chương trình được cấu tạo từ thấp đến cao, từ gần đến xa. Ví dụ các ngành,
lớp động vật hoặc thực vật được xếp theo thứ tự từ thấp đến cao như từ động vật
nguyên sinh đến động vật có dây sống, hoặc từ vi khuẩn đến hạt kín, và từ gần đến xa.
Mỗi ngành, lớp chọn những sinh vật điển hình ở nước ta làm đại diện (thủy tức, giun
đất, tôm đồng, châu chấu...) rồi mới đến các sinh vật nước ta không có (thú mỏ vịt...).

13


c. Những kiến thức được giới thiệu trong chương trình quan trọng là phần sinh lí
mà không đi sâu vào cấu tạo của các cơ quan thực vật hoặc động vật. Những kiến thức
về mặt cấu tạo sẽ làm cơ sở để học sinh có thể hiểu rõ các chức năng sinh lí. Những
chức năng này được nghiên cứu chủ yếu dựa trên những biểu hiện bên ngoài, còn thực
chất hoạt động của những cơ quan thì chỉ giải thích tới một chừng mực mà học sinh ở
lứa tuổi đó có thể hiểu được, hoặc khi nghiên cứu cấu trúc và chức năng sinh lí của các
động vật tiêu biểu. Không nên đi sâu vào tất cả các hệ cơ quan, mà chỉ nên đi vào
những cơ quan có ý nghĩa chủ đạo đối với nhóm động vật đó.
d. Những kiến thức khoa học về thực vật và động vật trong chương trình được
liên hệ chặt chẽ với thực tiễn đời sống và sản xuất của con người. Vì vậy, tránh biến
bài sinh vật thành bài kĩ thuật nông nghiệp. Trái lại, không nên vin vào cớ bài sinh vật
chỉ cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản mà không gắn với thực tiễn, hướng
dẫn học sinh vận dụng những điều đã học để giải quyết những vấn đề của thực tiễn đời
sống, lao động sản xuất và chiến đấu.
Ví dụ : Học về giun ăn bám phải gắn liền với việc thực hiện các qui tắc về vệ

sinh ăn uống và tiêu diệt các bệnh về giun sán ở bản thân, gia đình và địa phương đồng
thời tuyên truyền vận động nhân dân nơi mình ở thực hiện nếp sống mới: ăn sạch,
uống sạch, giữ gìn vệ sinh hố xí, chuồng phân trâu bò...
III. Những yêu cầu chính của việc giảng dạy Sinh học ở trường Trung học
cơ sở
1. Chú trọng cung cấp cho học sinh những kiến thức phổ thông, cơ bản, chính
xác, có hệ thống, trên quan điểm hiện đại.
a. Thực vật học
Chương trình thực vật học trung học cơ sở bao gồm những kiến thức cơ bản về
đời sống, cấu tạo, hình thái, sinh lí và sinh thái thực vật (chủ yếu là cây hạt kín), sơ
lược về các nhóm thực vật về rừng, về sự phát triển của giới thực vật và về con người
cải tạo giới thực vật. Học sinh học về hạt, rễ. thân, lá, hoa quả, học sinh phải hiểu được
cấu tạo và chức năng sinh lí của mỗi bộ phận đó; học sinh còn có thể tự làm lại các thí
nghiệm để chứng minh những điều mình đã hiểu được.
Học sinh phải hiểu được mối quan hệ giữa các bộ phận của cây với môi trường
sống, mối tương quan giữa bộ phận lá với toàn bộ cơ thể. Quan sát cây trong tự nhiên
hoặc trong trồng trọt, học sinh có thể vận dụng được những điều đã học trong lao động
sản xuất hoặc giải thích các hiện tượng đã quan sát.
Khi học về các nhóm cây chính, học sinh phải hiểu được những đặc điểm chủ
yếu nhất của mỗi nhóm cây, phân biệt được nhóm này với nhóm khác. Qua đó học
sinh hình thành được những khái niệm về sự tiến hoá của giới thực vật.
Thấy được tác dụng kinh tế của mỗi nhóm cây đối với đời sống và sản xuất; tham
gia phát triển những cây có ích; tiêu diệt các loài thực vật có hại như : vi khuẩn và nấm
có hại...

14


Trong suốt quá trình giảng dạy phần thực vật học, giáo viên cần phải đặc biệt chú
ý đến việc hình thành cho học sinh những khái niệm sinh lí học về dinh dưỡng hô hấp,

sinh sản, phát triển... cũng như những khái niệm sinh học đại cương về cấu tạo bằng tế
bào của thực vật về trao đổi chất ở cây xanh, về mối quan hệ khăng khít của thực vật
với điều kiện sống, về cơ thể thực vật là một toàn bộ thống nhất, về sự thống nhất giữa
cấu tạo và chức năng các cơ quan thực vật, về sự thích nghi của cơ thể thực vật với
môi trường xung quanh, về sự phát triển lịch sử của giới thực vật. Những khái niệm
trên có tác dụng rất lớn trong việc xây dựng thế giới quan duy vật biện chứng cho học
sinh.
b. Động vật học
Học sinh được học đời sống, cấu tạo, hoạt động sinh lí và các khái niệm sơ bộ về
phân loại động vật.
Trong chương trình động vật học lớp VII. học sinh được học các ngành động vật
không xương sống : động vật nguyên sinh, ruột khoang, giun, thân mềm và chân đốt.
Dạy tới mỗi ngành, cần cho học sinh nắm được :
- Đặc điểm cấu tạo chung của ngành.
- Cấu tạo và hoạt động của một vài con vật quan trọng trong ngành.
- Tác dụng của các động vật thuộc ngành ấy đối với con người (sức khỏe, kinh
tế); cách phát triển các động vật có lợi và cách phòng trừ các động vật có hại...
- Tính đa dạng và tính thích nghi của động vật.
- Mối quan hệ giữa động vật với môi trường sống.
- Khái niệm chung về phân loại các ngành động vật.
ở lớp VII học sinh học về các lớp động vật có xương sống. ở đây, điều chủ yếu
cần nắm được là :
- Đặc điểm chung của mỗi lớp và đặc điểm riêng của mỗi nhóm động vật trong
mỗi lớp (cá, ếch, nhái, bò sát, chim, động vật có vú).
- Cấu tạo và hoạt động của những con vật đại diện.
- Sự tiến hoá của một số hệ cơ quan qua các lớp động vật.
- Nguồn gốc của mỗi lớp động vật.
- Khái niệm về phân loại các lớp và các bộ trong ngành, nhận biết và phân biệt
được chúng trong thiên nhiên.
- Sự phát triển của động vật trên mặt đất.

- Sự phát triển của giới động vật dưới tác động của con người.
Theo chương trình học hiện nay, các kiến thức động vật học (cũng như thực vật
học) ở cấp II không có dịp nhắc lại ở cấp III. Hơn nữa, chúng là cơ sở để tiếp thu
những kiến thức sinh học đại cương ở cấp III, đồng thời lại là những kiến thức giúp ích
rất nhiều cho học sinh học hết cấp II trở về nham gia lao động sản xuất nông nghiệp.
Do đó phải đặc biệt chú trọng tính phổ thông cơ bản, tính khoa học chính xác, tính
hiện đại trong nội dung giảng dạy.

15


- Có nắm được những kiến thức cơ bản về sinh học, học sinh mới có điều kiện
tìm hiểu, giải thích và cải tạo những hiện tượng thông thường trong chăn nuôi, trồng
trọt, biết giữ vệ sinh và tiếp thu kiến thức cơ sở kĩ thuật nông nghiệp, nhằm góp phần
phát triển sản xuất nông nghiệp.
c. Giải phẫu sinh lý người
Học sinh phải hiểu được các kiến thức chủ yếu nhất về cấu tạo và chức năng của
các cơ quan, hệ cơ quan của cơ thể con người. Những kiến thức được trình bày phải
đặt trong mối liên hệ giữa cấu trúc và chức năng. Ví dụ, khi học về vệ sinh tiêu hoá,
học sinh phải hiểu cơ quan tiêu hoá gồm có những bộ phận nào? dạ dày ở đâu? ruột có
hình dáng như thế nào? răng, dạ dày, ruột có chức năng gì đối với cơ thể?... Trên cơ sở
ấy mà tiến hành giáo dục học sinh những qui tắc của việc giữ gìn vệ sinh tiêu hóa.
Ví dụ : Học về bệnh truyền nhiễm và vệ sinh xã hội, học sinh không thể chỉ hiểu
các nhiệm vụ cần làm hoặc các biện pháp giữ vệ sinh, mà phải hiểu được cơ sở khoa
học của mỗi biện pháp ấy.
d. Cơ sở di truyền học
Trong các phần trước cửa chương trình Sinh học Trường Trung học cơ sở, khi
nghiên cứu về thực vật, động vật và con người đều đã đề cập tới quá trình sinh sản.
Sinh sản là một chức năng bảo tồn nòi giống của cơ thể, của loài nhưng qua đó đã giải
đáp được một cách rõ ràng các câu hỏi:

- Vì sao con cái sinh ra lại giống bố mẹ (về đại thể, về những đặc điểm chung)?
- Vì sao gà không thế đẻ ra vịt '?
- Vì sao con cái cùng bố mẹ sinh ra, mà không giống nhau hoàn toàn ? Và cũng
không hoàn toàn giống bố mẹ ?
- Vì sao có người giống bố nhiều hơn lại có người giống mẹ nhiều hơn ?
Chính chương trình "Cơ sở di truyền học và chọn giống" sẽ giúp ta giải đáp các
câu hỏi trên và nhiều vấn đề khác có liên quan đến đời sống và sản xuất. Chẳng hạn,
vấn đề "Làm thế nào đề có giống tốt, giống cao sản, giống chống chịu hạn, chống
bệnh?". Vấn dề các bệnh tật di truyền bẩm sinh (bệnh Đao, bệnh vô sinh...). Vấn đề
cấm kết hôn gần trong luật hôn nhân gia dình v.v.. Hơn nữa, cấp Trung học cơ sở
trong bậc Trung học sẽ là cấp học phổ cập và đa số học sinh sau khi tốt nghiệp Trung
học cơ sở sẽ vào đời, tham gia sản xuất, không thể không biết những kiến thức Di
truyền học - một lĩnh vực mũi nhọn của Sinh học, đang phát triền nhanh và có nhiều
ứng dụng trong thực tiễn sản xuất và đời sống.
e. Sinh thái và môi trường
Học sinh được tìm hiểu các khái niệm về môi trường và các nhân tố sinh thái,
bao gồm các nhân tố vô sinh và nhân tố hữu sinh, mối quan hệ qua lại giữa cơ thể với
môi trường. Từ đó, các em có cái nhìn đúng đắn về sinh giới, có thể hình thành các
biện pháp bảo vệ môi trường sống cho sinh vật và cho cả con người.
2. Tăng cường công tác thực hành.

16


Để hiểu sâu những điều đã học và để tăng thêm khả năng vận dụng kiến thức vào
thực tiễn sản xuất, cần tăng cường công tác thực hành bằng ba hình thức :
a. Trong giờ lên lớp, bài giảng phải được tiến hành trên cơ sở học sinh được trực
tiếp quan sát các đồ dùng dạy học (nhất là các mẫu vật tự nhiên) và các thí nghiệm đã
qui định trong chương trình học.
b. Trong giờ thực hành ở lớp, phải đảm bảo thực hiện tốt việc cung cấp tri thức

về thực hành nghiên cứu khoa học và bước đầu rèn luyện kĩ năng nghiên cứu khoa học
cho học sinh.
c. Trong thời gian ở nhà, học sinh phải làm đầy đủ những bài tập thực hành do
giáo viên giao cho, bao gồm bài tập ở nhà và bài tập ngoài giờ hoặc những bài tập thực
hành ở trong sách giáo khoa. Giáo viên phải có kế hoạch theo dõi kiểm tra, uốn nắn,
cho điểm những bài tập này, xem đó như là sự phản ánh đúng đắn nhất kết quả học tập
bộ môn của học sinh.
Yêu cầu chung của công tác thực hành dưới 3 hình thức nói trên là làm cho học
sinh có được những tri thức và kĩ năng nghiên cứu khoa học đơn giản.
3. Gắn bài học hơn nữa với thực tế đời sống, sản xuất và chiến đấu ở địa phương.
Trên cơ sở đảm bảo yêu cầu kiến thức của chương trình, bài giảng sinh học phải
vừa gần với thực tế sản xuất và đời sống ở địa phương, phải vừa đảm bảo kiến thức cơ
bản, hiện đại, có hệ thống. Ví dụ bài thực vật và động vật phải liên hệ tới thực tế sản
xuất hiện nay, phải nói đến các biện pháp kĩ thuật, các kinh nghiệm sản xuất có liên
quan tới các kiến thức cơ bản trong các bài, phải nói tới động vật và thực vật phổ biến
và quan trọng trong nước và ở địa phương.
Khi học về các nhóm thực vật, học sinh phải biết được trong địa phương mình có
những cây trồng hoặc rau màu nào thuộc nhóm thực vật nào, hoặc thuộc họ nào trong
ngành Hạt Kín. Học về mỗi động vật, học sinh phải biết được rằng động vật đó có
quan hệ gì đối với đời sống và nền kinh tế của địa phương.
Phải làm thế nào cho học sinh, sau mỗi bài, thấy rõ bài học này không những
cung cấp cho mình những kiến thức cơ bản có hệ thống, mở mang trí lực, mà còn giúp
mình vận dụng những kiến thức cơ bản tìm hiểu và giải quyết những vấn đề cụ thể
trong đời sống, sản xuất của địa phương và của gia đình. Do đó, các em càng tha thiết
yêu và thích học môn sinh học.
Kết luận chung
Chương trình của bộ môn là pháp lệnh của Nhà nước trong nhà trường. Giáo viên
có nhiệm vụ phải thực hiện nghiêm chỉnh những quy định của chương trình, tạo điều
kiện cho việc nâng cao chất lượng dạy của bộ môn mình phụ trách. Muốn vậy, việc
nghiên cứu chương trình học hằng năm là một vấn đề rất quan trọng và không thể bỏ

qua được. Khi nghiên cứu chương trình giáo viên phải nắm được cấu tạo và nội dung
của chương trình, yêu cầu và mức độ kiến thức qui định trong chương trình, tính hệ
thống, khoa học. hiện đại và chính xác của nó, mối quan hệ giữa chương trình sinh lí
học cấp II với chương trình khoa học thường thức ở cấp I . Ví dụ như các kiến thức về

17


nước, không khí và đất rất cần thiết đề hiểu các điều kiện sinh sống của cây và chu
trình vật chất trong tự nhiên, lúc giải thích vai trò thực vật trên trái đất và chương
trình sinh học ở cấp III. Từ đó xác định phương hướng giảng dạy và xây dựng kế
hoạch, chuẩn bị đồ dùng dạy học cho toàn năm học tránh bị động lúng túng khi thực
hiện.
CÂU HỎI VÀ BÀI TẬP CHƯƠNG II
1. Vì sao phải nghiên cứu chương trình trước khi giảng dạy ? Nêu những thuận
lợi và khó khăn khi giáo viên nắm được và không nắm được chương trình trong việc
giảng dạy sinh học ở trường Trung học cơ sở.
2. Chương trình sinh học trường Trung học cơ sở được xây dựng trên cơ sở
những phương hướng nào ? Nó mang những đặc điểm gì? Nêu những ví dụ minh họa.
3. Giảng dạy Sinh học ở trường Trung học cơ sở cần chú ý tới những yêu cầu gì?
Tại sao?
4. Anh (chị) hãy tìm hiểu chương trình sinh học hiện đang áp dụng ở trường
Trung học cơ sở, phân tích cấu tạo và nội dung của nó.
5. Dựa vào chương trình thực vật học lớp VI, anh (chị) hãy tìm hiểu chương "Lá
Phân tích vị trí, nhiệm vụ và yêu cầu của chương đó trong hệ thống chương trình thực
vật học nói chung.
6. Tóm tắt nội dung chính của chương trình sinh học của các lớp : Lớp 6,lớp 7,
lớp 8, lớp 9. Cho biết mối quan hệ giữa các nội dung đó.

18



Chương III
SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CÁC KHÁI NIỆM VÀ KỸ NĂNG
TRONG GIẢNG DẠY SINH HỌC Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ
I. Sự hình thành và phát triển các khái niệm
1. Tầm quan trọng của việc hình thành và phát triển khái niệm trong giảng dạy
sinh học.
Khái niệm: Như F. ăng-ghen đã nói, là những kết quả, trong đó được khái quát
hóa những dữ kiện của thực tế.
Khái niệm bao gồm toàn bộ những hiểu biết mà loài người đã tích lũy được, nó
phản ánh các thuộc tính chung và bản chất của các sự vật, hiện tượng đã được khái
quát hóa.
Khái niệm khoa học là các tri thức khái quát về những dấu hiệu và thuộc tính bản
chất, cùng những mối liên hệ và tương quan bản chất giữa các sự vật hay hiện tượng
của thực tế khách quan .
Khái niệm là hình thức tư duy của con người, và chính trong tư duy trừu tượng,
bản chất các sự vật, các hiện tượng của hiện thực khách quan được nhận thức đúng
nhất và sâu sắc nhất. Khái niệm có những nét đặc trưng cơ bản sau :
a. Nét đặc trưng thứ nhất của khái niệm, đó là đặc tính chung
Trong quá trình giảng dạy sinh học (cũng như các môn khoa học khác), ta dựa
vào những sự kiện đơn nhất, nghiên cứu sự nảy mầm của hạt lúa, hạt đậu, cấu tạo của
hoa bưởi, đời sống và cấu tạo của cá chép, của chim bồ câu v. v... tìm ra cái chung, cái
phổ biến, cái bản chất của chúng, trên cơ sở đó mà hình thành khái niệm khoa học (về
sự nảy mầm của hạt về cấu tạo của hoa ngành hạt kín, về sự tiến hóa các hệ cơ quan
trong cơ thể động vật có xương sống v.v...).
Đồng thời chính nhờ nắm được những cái phổ biến, cái chung, giúp cho việc
nhận thức cái đơn nhất, cái riêng, một cách sâu sắc toàn diện hơn.
b. Nét đặc trưng thú hai của khái niệm là tính bản chất của nó
Dựa vào những nét bản chất đó mà ta phân biệt được những vật thể và hiện tượng

thuộc loại này hay thuộc loại khác, ngay cả khi về hình thức chúng có nhiều điểm
giống nhau (chẳng hạn, ta phân biệt được thân ngầm và rễ, cây thông và cây phi lao
thuộc hai ngành thực vật khác nhau; lươn, chạch thuộc lớp cá chứ không phải bò sát,
còn cá voi thì lại thuộc lớp thú v.v...).
c. Nét đặc trưng thứ ba của khái niệm là tính phát triển biện chứng của nó. Con
người ngày càng khám phá ra nhiều điều bí mật của thế giới vật chất, càng hiểu rõ hơn
thế giới vật chất, những học thuyết khoa học ngày càng sát gần với chân lý khách
quan; do đó khái niệm khoa học cũng ngày càng hoàn thiện.
Mục đích của quá trình dạy học là cung cấp cho học sinh những kiến thức khoa
học, chính xác và có hệ thống, phát triển ở họ những năng lực nhận thức và thông qua
đó mà hình thành con người lao động mới. Tuy nhiên nhận thức được chân lý khách

19


quan thường phải trải qua nhiều giai đoạn. Trước hết người ta tri giác được sự vật hay
hiện tượng là nhờ cảm giác, trên cơ sở của những tri giác mà hình thành biểu tượng.
Khái niệm là những biểu tượng đã được khái quát hóa. Kiến thức chủ yếu bao
gồm những khái niệm. Vì vậy, sự hình thành và phát triển các khái niệm là động lực
căn bản của toàn bộ quá trình giảng dạy và giáo dục học sinh. Người giáo viên sinh
học trong quá trình giảng dạy cần cung cấp cho học sinh một hệ thống khái niệm phát
triển theo một trình tự lôgic chặt chẽ. Muốn vậy, trước hết giáo viên cần nắm vững nội
dung của các khái niệm cơ bản và sự phát triển của chúng, từ đó mà lựa chọn những
biện pháp và phương tiện giảng dạy thích hợp để hình thành và phát triển các khái
niệm theo một chương trình định sẵn.
2. Các khái niệm sinh học và sự phát triển của chúng.
a. Sự phát triển của các khái niệm
Sinh học với tính cách là một môn học, chúng bao gồm một hệ thống khái niệm
phát triển theo một trình tự lôgic và tương quan với nhau. Các khái niệm đó có thể là
đơn giản hay phức tạp, song mỗi khái niệm đều được phát triển và phức tạp hóa dần

qua các bài, các chương và thậm chí có thể từ giáo trình này sang giáo trình khác.
Ví dụ: khái niệm lá ở trong bài đầu của chương còn khá đơn giản, chỉ có một yếu
tố của kiến thức, học sinh mới chỉ nhận biết được cấu tạo bên ngoài của lá gồm một
bản mỏng màu lục gọi là phiến, cùng với cuống lá và những đường gân. Như vậy, khái
niệm lá ở đây chỉ bao gồm loại kiến thức về hình thái. Đến cuối chương thì khái niệm
lá trở nên phức tạp và toàn diện hơn. Học sinh hiểu biết những dạng lá khác nhau, cấu
tạo bên trong của lá, biết được các quá trình sinh lý xảy ra trong lá như sự tạo thành
chất hữu cơ, sự hô hấp của lá, sự thoát hơi nước và những đặc điểm thích nghi của lá ở
những cây khác nhau. Rõ ràng, khái niệm về lá đến đây đã bao gồm nhiều loại kiến
thức về hình thái, giải phẫu, sinh lý sinh thái.
Các khái niệm về hạt, rễ, thân, hoa v.v... cũng có một quá trình phát triển tương
tự.
Khái niệm về một cây toàn vẹn, cấu tạo và chức năng các cơ quan của nó, sự phát
triển mối liên hệ với các điều kiện sống, vị trí trong phân loại và trong tiến hóa còn
phức tạp hơn.
Trong quá trình giảng dạy, người giáo viên phải biết tất cả những con đường vận
động của khái niệm, những chỗ chồng chéo hay trùng lặp, theo dõi sự vận động của
chúng từng chương.
b. Các loại khái niệm.
Trong quá trình giảng dạy sinh học việc sắp xếp các khái niệm thành hệ thống,
phân loại các khái niệm và xác định khái niệm trung tâm có một tầm quan trọng đặc
biệt. Như chúng ta đã biết, có những khái niệm được hình thành và phát triển trong
phạm vi một chương hay một giáo trình. Song cũng có những khái niệm được phát
triển và phức tạp hóa dần từ giáo trình này qua giáo trình khác.

20


Ví dụ: khái niệm về "rễ" chẳng hạn, qua bài đầu học sinh mới chỉ hiểu thế nào là
rễ cái, rễ con, phân biệt rễ cọc với rễ chùm, tức là chỉ có được những khái niệm đơn

giản về hình đạng bên ngoài, ở những bài tiếp theo học sinh sẽ có thêm những hiểu
biết về cấu tạo các miền của rễ (miền chóp rễ, miền sinh trưởng v.v...), về chức năng
sinh lý của rễ như sự hút nước, sự hút muối khoáng. sự hô hấp của rễ tác dụng của cày
bừa, xới đất, chống úng v.v...
Sau khi học xong giáo trình Thực vật học, học sinh sẽ có được những khái niệm
về hình thái (của từng bộ phận của cây hoặc một cây toàn vẹn), về giải phẫu, về hô
hấp, về dinh dưỡng v.v.. .
Đồng thời qua giáo trình Động vật học, học sinh cũng sẽ được hình thành những
khái niệm về hình thái, giải phẫu, sinh lý của các hệ cơ quan như tuần hoàn, hô hấp,
tiêu hóa, thần kinh v.v...
Các khái niệm có tính chất cục bộ, thường chúng được hình thành và phát triển
trong phạm vi một giáo trình hay một chương, người ta gọi đó là những khái niệm
chuyên khoa.
Trên cơ sở của những khái niệm chuyên khoa được gộp lại khái quát hóa thành
những khái niệm phức tạp và tổng quát hơn người ta gọi đó là những khái niệm đại
cương.
Ví dụ : khái niệm về cấu tạo tế bào của cơ thể là khái niệm chuyên khoa, khái
niệm tiến hóa, thích nghi, trao đổi chất v.v... là khái niệm đại cương.
Chẳng hạn, khái niệm trao đổi chất ở cây xanh, chỉ có thể hình thành một cách
đầy đủ sau khi học sinh đã nắm vững các khái niệm khác như hô hấp, thoát hơi nước,
dinh dưỡng, sự tạo thành chất hữu cơ và sự chuyển vận chất dinh dưỡng trong cây.
Nói tóm lại, các khái niệm sinh học có thể chia ra làm
- Khái niệm chuyên khoa .
- Khái niệm đại cương.
Trong giáo trình vệ sinh, động vật học và thực vật học có những khái niệm
chuyên khoa sau đây (tương ứng với các bộ môn chuyên khoa về sinh học) :
- Khái niệm về hình thái
- Khái niệm về giải phẫu
- Khái niệm về sinh lý
- Khái niệm về sinh thái

- Khái niệm về phân loại
- Khái niệm về phát triển chủng loại
- Khái niệm về kỷ thuật trồng trọt và chăn nuôi
- Khái niệm về vệ sinh và y học
Các khái niệm sinh học đại cương thường là khái niệm về những qui luật sinh
học, do đó chúng có một tầm quan trọng đặc biệt trong quá trình giảng dạy để bồi
dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng, rèn luyện trí thông minh và phát huy khả
năng tư duy sáng tạo cho học mình. Vì vậy, trong quá trình giảng dạy cần đặc biệt lưu

21


ý đến sự phát triển của các khái niệm này. Chúng ta có thể dẫn ra những khái niệm
sinh học đại cương cơ bản sau đây :
- Cơ thể là một toàn bộ thống nhất.
- Sự liên quan giữa cấu tạo và chức năng của cơ quan
- Sự trao đối chất và năng lượng trong cơ thể.
- Mối quan hệ giữa cơ thể và điều kiện sống.
- Sự sinh sản.
- Sự phát triển của thế giới hữu sinh (tiến hóa).
- Sự phân loại các sinh vật.
Nhiệm vụ của giáo viên trong quá trình giảng dạy là phải hình thành và phát triển
các khái niệm một cách có kế hoạch cho học sinh. Cơ cấu phức tạp và đa dạng của
kiến thức sinh học thường gây khó khăn cho giáo viên trong việc lựa chọn các khái
niệm cơ bản. Tuy nhiên, điều chủ yếu là nhiều giáo viên sinh học hiện nay chưa quán
triệt được lý thuyết về sự phát triển các khái niệm, vì vậy chưa dày công nghiên cứu và
chú ý đúng mức vấn đề này. Mặt khác, không ít học sinh quan niệm rằng học môn sinh
học là "rất dễ" chỉ cần "học thuộc lòng", do đó dẫn tới tình trạng học sinh ghi nhớ kiến
thức một cách máy móc, chỉ nắm được những hiện tượng riêng lẽ, những dấu hiệu
không bản chất của sự vật một cách thiếu chính xác và không có hệ thống. Các kiến

thức thu nhận như vậy rõ ràng không thể giữ lại được lâu trong trí nhớ của học sinh, và
hoàn toàn thiếu cơ sở khoa học cho việc vận dụng tốt những kiến thức sinh học để giải
quyết những yêu cầu của thực tiễn.
Vì vậy người giáo viên phải dành nhiều sự cố gắng, đòi hỏi một tinh thần làm
việc nghiêm túc, một thái độ lao động cần cù, để thực hiện sự phát triển các khái niệm
một cách có hệ thống bằng các biện pháp và phương tiện khác nhau trong quá trình
giảng dạy.
3. Những biện pháp và phương tiện để hình thành và phát triển các khái niệm.
Muốn đảm bảo được sự hình thành và phát triển các khái niệm một cách chính
xác, vững chắc, trước hết người giáo viên phải nắm chắc yêu cầu của chương trình
học, nội dung kiến thức của sách giáo khoa, để xác định, đựợc đâu là những khái niệm
cơ bản, nhìn trước được bước đi của mỗi khái niệm qua từng bài, từng chương, từng
giáo trình. Việc đó sẽ giúp người giáo viên đảm bảo tính lôgic của việc trình bày các
kiến thức trong sách giáo khoa, phân biệt được các tài liệu chính và các sự kiện phụ,
lôi cuốn sự chú ý của học sinh vào việc phân tích và tổng hợp các sự kiện, xác định
nguyên nhân, kết quả cùng mối liên hệ giữa các hiện tượng, trên cơ sở đó tổng quát
hóa lại để hoàn chỉnh một khái niệm. Đặc biệt là các khái niệm sinh học đại cương, có
khi đòi hỏi một quá trình chuẩn bị lâu dài trong suốt cả năm học hoặc lâu hơn nữa.
Ví dụ : khái niệm "cơ thể là một toàn bộ thống nhất" chỉ được hoàn thiện sau khi
học sinh đã nắm vững cấu tạo và hoạt động sống của từng cơ quan riêng biệt và mối
liên hệ chặt chẽ giữa các hệ cơ quan với nhau trong một cơ thể sống.

22


Khái niệm "về trao đổi chất " cũng vậy, nó chỉ trở thành một kiến thức chính xác
sau khi học sinh đã có ý thức đầy đủ về các khái niệm : dinh dưỡng, hô hấp, thoát hơi
nước, sự tạo thành chất hữu cơ, sự vận chuyển chất dinh dưỡng v.v... Trong phạm vi
giáo trình sinh học ở nhà trường Trung học cở sở, khái niệm trao đổi chất được hình
thành ngay từ khi nghiên cứu từng cơ quan của cơ thể thực vật, tiếp đó đến các tài liệu

về các nhóm thực vặt chính, và cuối cùng trong giáo trình động vật học qua các đại
diện của các ngành động vật không xương sống hoặc đại diện của các lớp động vật có
xương sống.
Trong việc hình thành và phát triển các khái niệm cho học sinh, đòi hỏi người
giáo viên phải biết lựa chọn những phương pháp và hình thức giảng dạy thích hợp, để
trong giờ giảng phát huy được khả năng tư duy độc lập sáng tạo của học sinh.
Bởi vì sự phát triển các khái niệm không thể tách rời sự phát triển tư duy của lọc
sinh và sự ham muốn của các em về lao động tri óc. Vì vậy, từ lời nói nghệ thuật làm
cho các em chú ý và tự đặt câu hỏi: "Cái gì thế"? (phản ứng này phát huy óc tò mò
khoa học của học sinh), đến việc đặt ra những câu hỏi có tính chất so sánh, phân tích,
tổng hợp mới có tác dụng bồi dưỡng khả năng tư duy cho học sinh, đồng thời giúp cho
việc hình thành các khái niệm một cách chính xác vững chắc.
Ví dụ :
+ Có thể đặt ra những câu hỏi đòi hỏi khi trả lời phải phân tích, rút ra từng phần
trong kiến thức toàn bộ :
- Cây gồm có những cơ quan nào ?
- Phần nào của bộ não được đặc biệt phát triển ở động vật có vú ?
+ Loại câu hỏi trên cũng cần, song phải đặc biệt chú trọng tới các câu hỏi mở
rộng kiến thức, đòi hỏi phải so sánh tổng hợp :
- So sánh hệ tuần hoàn của cá và ếch nhái.
- Những đặc điểm nào chứng tỏ bò sát thích nghi với môi trường sống trên cạn ?
- Cấu tạo của lá phù hợp với chức năng quang hợp được thể hiện ở những điểm
nào ?
+ Các câu hỏi để hình thành và phát triển khái niệm có thể bao gồm sự tìm biết
các đối tượng tự nhiên, tháo lắp các sơ đồ trên bảng từ các hình vẽ hay tập mẫu cây.
Một điều cần chú ý là: Các khái niệm sinh học chỉ có thể đúng đắn trong điều
kiện quan niệm rõ ràng và chính xác về sự vật hay hiện tượng dựa trên sự quan sát trực
tiếp, vì rằng quan sát trực tiếp và nghiên cứu đối tượng là đặc trưng của quá trình
giảng dạy sinh học.
Những mẫu vật tự nhiên có tầm quan trọng đặc biệt trong bước đầu hình thành

các khái niệm, sau đó là việc sử dụng các loại trực quan hình tượng khác như : sơ đồ,
hình vẽ, mô hình, phim ảnh v.v...
Vấn đề làm bài tập, ôn tập, kiểm tra kiến thức nhắc lại một cách có kế hoạch các
kiến thức cũ, khi liên hệ với kiến thức mới đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong việc
củng cố, phát triển các khái niệm.

23


Bài tập có thể ra với nhiều dạng khác nhau : lý thuyết, thực hành, thuộc bài tập ở
nhà hay bài tập ngoài giờ, tiến hành trong phòng thí nghiệm hoặc ở vườn trường, góc
sinh giới v.v... ở đây cần đặc biệt lưu ý đến việc xây dựng các sơ đồ và những bài tập
dưới dạng thành lập các bảng.
Ví dụ : Cuối chương trình thực vật lớp, học sinh có thể vẽ sơ đồ các cơ quan và
sự dinh dưỡng của cây xanh.
Trong quá trình giảng dạy, người giáo viên cần có một kế hoạch ôn tập hoàn
chỉnh cho mỗi môn học, biết sắp xếp các khái niệm thành hệ thống và xác định khái
niệm trọng tâm để học sinh nắm vững những kiến thức cũ, rút ra những điểm cần thiết
có liên quan đến việc tiếp thu kiến thức mới, đó là các dấu hiệu đã có trong những bài
trước, chương trước, có khi cả trong các giáo trình từ những năm trước.
Ví dụ : Giảng dạy chương "Rễ ".
Khi nói về cấu tạo của rễ, sự phân chia của các tế bào tại miền sinh trưởng, sự hô
hấp của rễ..., không thể thiếu được việc cho học sinh nắm lại các kiến thức về cấu tạo
tế bào, sự hô hấp và điều kiện nảy mầm của hạt.
Khi nghiên cứu về các nhóm cây chính ở chương trình thực vật, mới nhìn chúng
ta thấy một khoảng cách khá xa trong sự liên hệ với những hiểu biết mà học sinh thu
lượm được trong giáo trình thực vật đã học từ trước. Thực ra hoàn toàn không phải như vậy, chẳng hạn khi dạy về vi khuẩn, nấm (với sự sinh sản bằng bào tử và lối sống dị
dưỡng), tảo, rêu v.v... không thể không nắm lại các kiến thức về cấu tạo tế bào thực
vật, cấu tạo hạt, sự dinh dưỡng của cây xanh (dinh dưỡng khoáng, dinh dưỡng khí), sự
hô hấp, điều kiện sống của cây, cây là một cơ thể toàn vẹn v.v...

Trong giáo trình động vật cũng vậy, sự ôn tập thường xuyên được thể hiện trong
việc so sánh với các động vật đã học từ trước về hình dạng bên ngoài, hoặc cấu tạo
trong của các hệ cơ quan : cơ, xương, tuần hoàn; thần kinh, hô hấp, tiêu hóa, bài tiết
v.v..., về sự sinh sản và những đặc điểm thích nghi.
Những khái niệm về sự phức tạp hóa của các hệ cơ quan, sự tiến hóa trong giới
động vật, mối quan hệ biện chứng giữa cơ thể và môi trường v.v... trên cơ sở đó mà
được cũng cố và phát triền.
Sau cùng, việc xây dựng mối quan hệ gĩưa các môn học khi giáo viên trình bày
tài liệu, khi học sinh trao đổi và trả lời, cũng đóng vai trò quan trọng trong sự hình
thành và phát triển các khái niệm.
Ví dụ : Khi nghiên cứu cấu tạo của đất rừng và đời sống thực vật trong rừng, các
loài tảo biển hay những đảo san hô v.v... nên liên hệ với những kiến thức mà học sinh
được cung cấp trong giáo trình địa lý. Từ việc xây dựng và lắp ráp các sơ đồ mô hình
sinh vật bởi việc đo đạc, tính toán chính xác về diện tích lá, chiều dài hệ rễ, khối lượng
của vật v.v... trong các thí nghiệm ở vườn trường hay góc sinh giới... có liên quan mật
thiết với các kiến thức và thói quen tương ứng ở các bộ môn vật lý và toán học. Ngay
cả đến những hiện tượng thực tế về sinh học được nhân dân đúc kết thành các câu ca
dao tục ngữ, nếu giáo viên chú ý tận dụng khai thác, cũng có tác dụng làm cho bài

24


giảng thêm sinh động và góp phần vào việc hình thành và phát triền các khái niệm sinh
học cho học sinh. Đó là chưa kể đến những bộ môn gần gũi với sinh học như hóa học,
kỹ thuật nông nghiệp v.v... Điều đáng chú ý ở đây là việc xây dựng mối liên hệ giữa
các tri thức trong các bộ môn khác nhau không phải chỉ do giáo viên làm, mà còn làm
cho học sinh có ý thức tự giác, chủ động, làm quen dần trong tất cả các hình thức hoạt
động học tập.
Như vậy ta có thề nói, trong quá trình dạy học với mục đích cung cấp cho học
sinh một hệ thống kiến thức hoàn hảo nhất định, được thể hiện trong một hệ thống các

khái niệm.
Các bài tập, nhất là các bài tập thực hành có liên hệ với quan sát và thí nghiệm
đóng vai trò quan trọng giúp học sinh nắm chắc các khái niệm. Học sinh chỉ nắm vững
các khái niệm, chừng nào họ có thể vận dụng chúng một cách thành thạo trong việc
giải quyết các yêu cầu thực tế.
Vì vậy, việc phát triển các khái niệm liên hệ chặt chẽ với việc thu nhận và phát
triển các kỹ năng thực hành.
II. Sự hình thành và phát triển các kỹ năng
Bên cạnh những khái niệm cơ bản, nội dung chương trình học còn qui định
những kỹ năng, kỹ xảo mà giáo viên phải có trách nhiệm hình thành và phát triển cho
học sinh trong quá trình giảng dạy.
Các kỹ năng liên hệ với các kiến thức sinh học, có thể xếp thành từng nhóm tương ứng với các phân môn của sinh học như kỹ năng về hình thái học, giải phẫu học,
phân loại học, sinh thái học v.v...
Sự phát triển các kỹ năng cũng phải tiến hành dần dần, từ thấp đến cao, từ đơn
giản đến phức tạp.
Ví dụ : Ngay từ những bài học đầu của giáo trình thực vật học sinh phải tập xác
định các cơ quan khác nhau của cây. Sau đó tập phân biệt hạt, cây mầm và rễ các cây
hai lá mầm và một lá mầm, rồi đến tập xác định các dạng lá, các dạng thân (nhất là các
dạng thân ngầm). Sau nữa tập nhận biết các bộ phận của hoa, phân biệt các kiểu cụm
hoa, xác định các loại quả v.v... từ những kỹ năng nhận biết từng bộ phận của cây
chuyển sang kỹ năng phân biệt toàn bộ cây, học sinh tập phân biệt từng cây tiêu biểu
của các ngành. Tập nhận biết một số cây chính trong những bộ, họ quan trọng của
ngành thực vật hạt kín. ở đây chúng ta thấy rõ sự chuyển tiếp từ những kỹ năng về
hình thái sang những kỹ năng về phân loại. Trong thực tế, các khái niệm về kỹ năng
thường chuyển từ cái này sang cái khác, chẳng hạn khái niệm và kỹ năng về hình thái
và sinh lý thành khái niệm và kỹ năng về kỹ thuật nông nghiệp.
So sánh, phân biệt, xác định các vật các hiện tượng cũng gặp trong giáo trình
động vật học. Ví dụ : thông qua các bài tập, các buổi tham quan hoặc nghiên cứu thiên
nhiên..., cho học sinh thu lượm và xác định các loài động vật tiêu biểu cho các lớp của
ngành chân đốt, một số đại diện cho các bộ, họ chính của lớp cá v.v...


25


×