Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

Tiểu luận thị trường hiệu quả và tâm lý hành vi của nhà đầu tư

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (154.8 KB, 24 trang )

LÝ LUẬN CHUNG VỀ TÀI CHÍNH HÀNH VI

I.

Thị trường hiệu quả và tâm lý hành vi của nhà đầu tư.
1. Thị trường hiệu quả: là một thị trường có thông tin được công bố đầy đủ và giá

chứng khoán phản ánh toàn bộ, nhanh chóng và theo lý do hợp lý tất cả thông tin
hiện có về chứng khoán đó. Người ta nói rằng trong thị trường này thì “không ai
có thể thắng nổi thị trường”.
Trong thị trường hiệu quả thì mỗi loại chứng khoán có 2 loại giá là giá hiện tại/giá thị
trường và giá trị thực. Giá thị trường là giá mà chứng khoán đang giao dịch. Giá trị thực
là giá trị mà nhà đầu tư nghĩ rằng đây là giá trị thực của chứng khoán dựa trên tính toán
logic và phân tích các chỉ số.
Có 3 mức độ hiệu quả của thị trường là thị trường kém hiệu quả, thị trường ít hiệu quả
và thị trường hiệu quả.
Thị trường kém hiệu quả có giá chứng khoán trong hiện tại, phản ảnh toàn bộ tình
hình thị trường trong hiện tại. Vì vậy, các giá và dữ liệu trong quá khứ không thể
dùng để tính ra giá tương lai vì cả 2 giá là độc lập với nhau. Trong thị trường này
thì nhà đầu tư không thể sử dụng phân tích kỹ thuật từ giá trong quá khứ để tính ra
giá tương lai nhằm kiếm lợi nhuận.
• Thị trường ít hiệu quả có giá chứng khoán phản ứng mạnh với thông tin được công
bố. Mức giá phản ánh thông tin đang có trên thị trường. Mức giá trong thị trường
này bao gồm giá quá khứ, tin trong quá khứ và thông tin bên lề của thị trường
được công bố. Trong thị trường này thì nhà đầu tư không thể dùng phân tích cơ
bản để tính giá tương lai nhằm kiếm lợi.
• Thị trường hiệu quả có giá chứng khoán phản ánh thông tin công bố và thông tin
nội bộ. Thị trường này bao gồm thông tin từ giá quá khứ, thông tin quá khứ, thông
tin được công bố và thông tin nội bộ. Trong thị trường này thì không nhóm nhà
đầu tư nào có thể độc quyền nắm được thông tin để tự định giá chứng khoán và
không ai, không nhóm nào có thể đạt được lợi nhuận bất thường hoặc lợi nhuận


cực lớn.


Thị trường có thể được đo lường tính hiệu quả thông qua các tiêu chí sau:
Số lượng người tham gia thị trường: nếu có nhiều nhà đầu tư, chuyên gia phân
tích, nhà đầu cơ, nhà cái, ngân hàng tham gia vào thị trường thì hiệu quả càng
tăng và ngược lại.
• Thông tin hiện hữu trên thị trường: nếu có nhiều loại thông tin được công bố trên
thị trường và công bố đúng giờ thì thị trường càng hiệu quả và ngược lại.


1


Khả năng tiếp cận thông tin: nếu khả năng tiếp cận thông tin của các người tham
gia càng cao thì thị trường càng hiệu quả và ngược lại.
• Trở ngại trong giao dịch: nếu có ít trở ngại trong việc giao dịch thì thị trường
càng hiệu quả và ngược lại. Trở ngại ở đây có thể là giấy tờ chứng minh, thủ tục
đăng ký, thời gian chờ đợi, chỉ cho mua một chiều, nhiều loại luật lệ, nhiều cấm
đoán, v.v
• Chi phí giao dịch và chi phí cho thông tin: nếu 2 chi phí này càng thấp thì thị
trường càng hiệu quả và ngược lại.


Trong thị trường hiệu quả có 2 chiến lược đầu tư tiêu biểu là đầu tư chủ động và đầu
tư bị động. Đầu tư chủ động là nhà đầu tư lựa chọn cổ phiếu phù hợp để đầu tư. Đầu tư bị
động là nhà đầu tư chỉ đầu tư vào các chỉ số như DJ30, SP500, NASDAQ. Thị trường
mua vô cổ phiếu nào thì họ mua theo cổ phiếu đó.
2.














Tâm lý nhà đầu tư: là một môn khoa học sử dụng tâm lý để đánh giá, dự đoán
tâm lý và hành vi của nhà đầu tư trên thị trường. Có rất nhiều loại hành vi và
tâm lý, dưới đây là những dạng tâm lý và hành vi tiêu biểu:
Tâm lý sợ lỗ: đây là dạng tâm lý rất phổ biến trong các nhà đầu tư. Khi nhà đầu tư
bị lỗ thì họ sẽ trở nên cực kỳ nhút nhát và sợ thua lỗ, nên họ sẽ rời khỏi thị trường.
Hoặc nhà đầu tư sợ bị lỗ, nghe thấy người khác bị lỗ nên đâm ra sợ hãi, không
muốn tham gia vào thị trường.
Tâm lý tự tin quá mức: đây là dạng tâm lý mà nhà đầu tư quá tin tưởng vào dự
đoán, tính toán của mình nên đầu tư quá mức, đầu tư không theo chiến lược,
không đầu tư theo danh mục rõ ràng.
Tâm lý thích nhìn theo đại diện: là dạng tâm lý mà nhà đầu tư thích nhìn theo, làm
theo các nhà đầu tư ưu tú trên thị trường như Warren Buffett, Paulson, Bill Gross
và nghĩ rằng các nhà đầu tư ưu tú này rất giỏi, nên đánh theo họ là thắng, là đúng
hướng.
Tâm lý ảo tưởng của kẻ cờ bạc: là dạng tâm lý mà chỉ cần một thông tin trong hiện
tại sẽ làm ảnh hưởng tới đánh giá, ước lượng của nhà đầu tư về xác suất của các sự
kiện diễn ra trong tương lai.
Suy nghĩ theo dạng kế toán: đây là dạng tâm lý mà nhà đầu tư tách riêng từng loại

tài sản để xem xét riêng lẻ, thay vì xem xét theo một danh mục đầu tư.
Tâm lý bảo thủ: đây là dạng tâm lý mà nhà đầu tư ít khi chịu thay đổi theo tình
hình và thay đổi rất chậm chạp.
Tâm lý ham thắng, sợ thua:đây là dạng tâm lý mà nhà đầu tư thích thắng nhưng lại
không muốn bị thua
2












Tầm nhìn thiển cận: đây là dạng tâm lý mà nhà đầu tư chỉ nhìn được một mặt, một
khía cạnh của sự việc mà không thể nhìn thấy bức tranh toàn cảnh về tình hình thị
trường.
Nhìn nhau mà làm: đây là dạng tâm lý mà nhà đầu tư bên ngoài nhìn vào các hành
động của các quản lý cấp cao của cty, nhà đầu tư nước ngoài để mua/bán cổ phiếu.
Tâm lý bầy đàn: đây là dạng tâm lý mà nhà đầu tư chạy theo các nhà đầu tư khác
để mua/bán một cách mù quáng mà không biết lý do rõ ràng, hợp lý.
Tâm lý ham gỡ thua: đây là dạng tâm lý hết sức phổ biến của nhà đầu tư, đặc biệt
là những nhà đầu tư đã, đang bị thua lỗ. Họ sẽ nóng máu gỡ thua bằng cách đặt
thêm tiền, nhảy vào những vụ đầu tư nguy hiểm.
Tâm lý theo lý thuyết người tù: đây là dạng tâm lý sợ hãi, e dè của nhà đầu tư đối
với các nhà đầu tư khác vì họ sợ các người kia sẽ vì lợi ích cá nhân mà làm hại lợi

ích của họ.
Tâm lý theo thuyết âm mưu: đây là dạng tâm lý mà nhà đầu tư sinh ra đa nghi, rồi
gán ghép các diễn biến của thị trường do các thế lực bí mật nào đó gây ra.

Tính hiệu quả của thị trường là khả năng và tốc độ mà tổng thể các thông tin trên thị
trường ảnh hưởng tới giá chứng khoán. Một thị trường được coi là hiệu quả khi nó đạt
hiệu quả về mặt thông tin, hay nói các khác, giá của các loại tài sản được giao dịch
như cổ phiếu,trái phiếu, bất động sản, phản ánh được tất cả các thông tin đã biết trên thị
trường. Do vậy, một thị trường hiệu quả sẽ không thiên vị ai, tức là nó không làm ai có
lợi hoặc chịu thiệt một cách bất hợp lý so với người khác, theo nghĩa nó phản ánh niềm
tin của tất cả các nhà đầu tư về triển vọng thị trường.
Giáo sư Eugene Fama của trường đại học Chicago đã có công phát triển khái
niệm "thị trường hiệu quả" như một khái niệm mang tính học thuật trong các nghiên cứu
của ông vào đầu thập niên 1960 cũng tại trường đại học này.
Giả thuyết thị trường hiệu quả được nêu lên rằng nhà đầu tư không thể nào vượt
mặt được thị trường bằng cách sử dụng mọi thông tin mà thị trường đã biết, trừ khi nhờ
may mắn. Thông tin hay tin tức trong một thị trường hiệu quả được định nghĩa là bất cứ
thông tin nào có thể gây ảnh hưởng đến giá cổ phiếu, mà thông tin này không thể nào biết
được trong hiện tại và chỉ xuất hiện ngẫu nhiên trong tương lai. Chính những thông tin
ngẫu nhiên này sẽ làm cho giá cổ phiếu trong tương lai biến động. Theo giả thuyết này,
những thị trường trong đó xuất hiện giao dịch nội gián (insider trading) không thể coi là
thị trường hiệu quả được.
Không tính các đối tượng tìm cách tối đa hoá lợi nhuận, thì giả thuyết về thị
trường hiệu quả đòi hỏi rằng mọi đối tượng phải có kì vọng, dự đoán hợp lý. Điều đó có
nghĩa là, cho dù không một ai đúng, thì tính bình quân ra thị trường vẫn đúng và bất cứ
khi nào có thông tin mới xuất hiện, các đối tượng sẽ tự động cập nhật lại dự đoán của
mình một cách thích hợp. Khi đối mặt với các thông tin mới, mỗi nhà đầu tư sẽ có cách
phản ứng khác nhau, tất cả những gì mà giả thuyết thị trường hiệu quả đòi hỏi chỉ là,
3



phản ứng của các nhà đầu tư hoàn toàn ngẫu nhiên, để ảnh hưởng ròng của chúng(sau khi
đã bù trừ lẫn nhau) lên giá thị trường không bị nhà đầu tư khai thác để kiếm lợi nhuận
cao một cách bất thường, đặc biệt sau khi đã trừ chi phí giao dịch. Do đó, bất cứ ai cũng
có thể sai dự đoán sai về thị trường, nhưng do giá cổ phiếu bị ảnh hưởng bởi cả thị trường
nên giá của nó chính là giá thị trường kì vọng, hay nói cách khác, xét trên tổng thể, thì thị
trường luôn đúng.
Thị trường hiệu quả được phân ra 3 loại: thị trường hiệu quả dạng yếu, dạng trung
bình và dạng mạnh.
1. Thị trường hiệu quả dạng yếu: có thể kiếm được thu nhập thặng dư bằng cách

sử dụng các chiến lược đầu tư dựa trên nghiên cứu giá cổ phiếu trong giai đoạn
trước hoặc các số liệu tài chính khác. Trên lý thuyết, nhà đầu tư giỏi hoàn toàn
có thể tìm kiếm lợi nhuận bằng việc nghiên cứu các báo cáo tài chính, và các
thông tin liên quan khác.
2. Thị trường hiệu quả dạng trung bình: giá cổ phiếu điều chỉnh trong vòng một
thời gian rất nhỏ và mang tính chất công bằng trước những thông tin được công
bố rộng rãi trên thị trường.
3. Thị trường hiệu quả mạnh: giá cổ phiếu phản ánh tất cả những thông tin trên thị
trường và không ai có thể kiếm được lợi nhuận thặng dư trong dài hạn. Tuy
nhiên, cũng không có gì lạ khi trong một thị trường hiệu quả mạnh một số nhà
đầu tư vẫn kiếm được mức lợi nhuận cao hơn thị trường một cách thường
xuyên, vì với hàng ngàn quỹ đầu tư khắp toàn cầu thì việc ngẫu nhiên xuất hiện
một vài "ngôi sao" là chuyện bình thường.
Một thị trường phát triển lành mạnh đòi hỏi trước hết nó phải là một thị trường
hiệu quả. Tuy nhiên, trên thị trường chứng khoán có một nhân tố rất quan trọng, không
thể bỏ qua, đó là yếu tố tâm lý, nó khiến thị trường có thể hoạt động lệch lạc ngay cả khi
đó là một thị trường hiệu quả. Hiện tượng này được giải thích trong một lý thuyết khác,
lý thuyết " Hành vi trong tài chính".
3: Ba trụ cột tài chính hành vi

Ba trụ cột tài chính kỳ vọng là ko thể phá vỡ nổi
1) Trụ cột 1: Nhà đầu tư khôn ngoan ( rational Investors)

kỳ vọng là ko thể phá vỡ nổi
Rất khó để đưa ra 1 khái niệm đầy đủ nhất về nhà đầu tư khôn ngoan hay nhà đầu
tư duy lý. Nhưng ta có thể hiều nhà đầu tư khôn ngoan là nhà đầu tư đánh giá chính xác
giá trị cơ bản của chứng khoán và họ cũng phản ứng hay xử lý đúng đắn với tất cả thông
tin.

4


Bằng những thuật toán, những công cụ như mô hình CAPM, mô hình kinh doanh
chênh lêch giá( APT), mô hình danh mục đầu tư của Markowitz, để đánh giá giá trị cơ
bản của tài sản, đưa nó về giá trị cơ bản nếu có việc định giá sai xảy ra
Nhưng thực tế không phải ai cũng hoàn hảo như vậy, có những nhà đầu tư phản
ứng bất thường trên thị trường và lý thuyết thị trường hiệu quả giả thiết rằng họ phản ứng
không có tương quan hay mối liên hệ nào. Tuy nhiên, thị trường hiệu quả cũng nhận thấy
có 1 số các nhà đầu tư bất thường ( irrational investors) và hành động của họ được giả
thiết ở trụ cột 2
2) Trụ cột 2: các sai lệch không tương quan

Một vài nhà đầu tư có thể có các hành vi bất thường hay nhà giao dịch gây nhiễu
(noise traders), tuy nhiên nếu những hoạt động đầu tư này chỉ mang tính ngẫu nhiên, tự
phát và không tương quan với nhau, thì liền sau đó giao dịch của họ sẽ bị loại trừ bởi các
nhà đầu tư khôn ngoan, và kết quả hoạt động của họ không ảnh hưởng đến giá. Tính logic
đằng sau giả định này là hoạt động giao dịch cua nhà đầu tư có tương quan với những
người khác
Nếu hành vi của con người là ngẫu nhiên sẽ không có lo ngại về tính hiệu quả của thị
trường vì giao dịch của họ có thể bị loại trừ, sẽ không gây ảnh hưởng đáng kể nào đến

giá. Tuy nhiên chúng ta sẽ thấy, các nhà tâm lý học bằng thực nghiệm đã chỉ ra rằng các
nhà đầu tư bất thường với phán đoán sai thường có xu hướng chung, nghĩa là người ta
thường đi chệch khỏi sự kỳ vọng của mình theo cùng 1 phương thức tương tự nhau. Hay
hành vi bất thường của họ có tính tương quan nhau. Nó có thể đẩy giá xa hơn nữa so với
giá trị cơ bản, tuy nhiên, trong thị trường hiệu quả vẫn tồn tại trụ cột 3 có thể hòa giải
hoặc ngăn chặn điều này và đưa giá trở về giá trị cơ bản, giá trị thực ban đầu, đó là
nghiệp vu kinh doanh chênh lệch giá
3) Trụ cột 3: kinh doanh chênh lệch giá không bị giới hạn

Nếu các nhà đầu tư thường có các hành vi bất thường, các hoạt động này lại có tương
quan cao với nhau thì theo lý thuyết thị trường hiệu quả, các nhà đầu tư khôn ngoan nhìn
thấy được việc định giá sai này, họ sẽ dùng nghiệp vụ kinh doanh chênh lẹch giá, với giả
thiết không bị giới hạn kinh doanh chênh lệch giá, để điều chỉnh việc định giá sai và xóa
bỏ hành động bất thường của nhà đầu tư. Từ đó họ vừa tìm được lợi nhuận, vừa đưa giá
chứng khoán bị định giá sai về trạng thái giá trị thực ban đầu. Bằng cách mua chứng
khoán rẻ và bán chứng khoán mắc. kết quả là thị trường vẫn giữ nguyên tính hiệu quả.
Thị trường hiệu quả cho rằng việc kinh doanh chênh lệch giá nó sẽ không tón chi phí và
gánh chịu rủi ro:
5


Lý thuyết thị trường hiệu quả cho rằng bất kì sự định giá sai nào xảy ra trên thị trường
thì bằng 3 trụ cột trên của thị trường hiệu quả sẽ đưa về đúng giá trị thực của nó. Nhưng
nếu điều đó không xảy ra mà xảy ra đồng thời 3 điều kiện tài chính hành vi thì việc định
giá sai sẽ trở nên trầm trọng hơn, thậm chí gây khủng hoảng tài chính
-

Tồn tại hành vi không hợp lí
Hành vi bất hợp lí mang tính hệ thống
Giới hạn khả năng kinh doanh chênh lệch gia


Chính 3 điều này làm cho lý thuyết tài chính hành vi với nền tăng cơ bản là” thị
trường luôn luôn đúng”
Sự xuất hiện các hành vi không hợp lí :
Lý thuyết triển vọng: Nhà đầu tư có khuynh hướng xem khả năng bù đắp 1 khoản lỗ
quan trọng hơn khả năng kiếm được nhiều lợi nhuận hơn. Khi khoản đầu tư có khuynh
hướng mang lại lợi nhuận, họ thích nắm ngay khoản lợi nhuận hiện tại hơn là cố gắng
tiếp tục đầu tư để thu được nhiều lợi nhuận hơn trong tương lai. Nhưng ngược lại, khi
khoản đầu tư có nguy cơ thua lỗ thì họ lại cố gắng duy trì với hy vọng sẽ nhận lại được
khoản lời của họ trong tương lai. Nhà đầu tư đã mua cổ phiếu vì những thông tin có triển
vọng do thị trường cung cấp và sẽ nhanh chóng bán cổ phiếu đó khi giá tăng. Bởi vì họ
tin rằng giá cổ phiếu hiện đã phản ánh đầy đủ thông tin này. Khi cảm thấy đã đạt được lợi
nhuận mong muốn thì sẽ bán cổ phiếu đi để bán lời nhanh chóng mà không phân tích khả
năng tăng thêm lợi nhuận.
-

-

Định nghĩa hẹp (narow framing): cô lập một khái niệm hay phân tích một vấn đề
trong mọi khuôn khổ hạn hẹp, tách biết, và cố gắng đưa ra quyết định tối ưu cho
khuôn khổ hạn hẹp ấy, thay vì cho toàn cục. Phương pháp này có thể hữu ích trong
một số trường hợp giới hạn về nguồn lực, hay không đủ thời gian phân tích nhiều.
Tuy nhiên, nó cũng có thể đưa đến sai làm.
Tính toán bất hợp lý (Mental Accounting): Nhà đầu tư có xu hướng tách riêng các
quyết định mà đúng ra phải được kết hợp lại với nhau vào các tài khoản ảo trong
trí tưởng tượng của chúng ta và tối đa hóa lợi ích từng tài khoản. Và vì thế, họ đưa
ra quyết định nhìn tưởng là hợp lý, mà thật ra là sai lầm. Sử dụng tính toán bất hợp
lý và định nghĩa hẹp, chúng ta có thể giải thích nhiều hiện tượng như sự lựa chọn
nghịch với sở thích (preference reversals), sợ thua lỗ (loss aversion), và hiệu ứng
phân bổ tài khoản khá phổ biến, thể hiện cơ bản ở chỗ người ta sẵn sàng thực hiện

ngay những lệnh mang lại lời nhỏ, nhưng trì hoãn không thực hiện lệnh dùng lỗ
khi xuất hiện những khoản lỗ nhỏ.
6


-

Tự điều chỉnh (self-control): sự điều chỉnh làm giảm nhẹ tính toán bất hợp lý và
tâm lý chấp nhận hơn trong rủi ro thua lỗ.

Sự trải nghiệm thuật toán (Heuristics) và xu hướng lệch lạc (Bias)
-

-

Sự trải nghiệm hay thuật toán : các kinh nghiệm, hay quy tắc học được thường
giúp chúng ra quyết định nhanh chóng và dễ dàng hơn nhiều. Nhưng trong một số
trường hợp, dựa dẫm quá nhiều vào các quy tắc đôi khi dẫn đến sai lầm, đặc biệt là
khi các điều kiện bên ngoài thay đổi, và đặc biệt là ngươi ta thường đề cao hiệu
quả của những qui tắc đơn giản, gần gũi và dễ nhớ, kiểu hiệu ứng. Lý thuyết này
giúp giải thích tại sao thị trường thỉnh thoảng hành xử một cách vô ý thức
Xu hướng lệch lạc:
 Lệch lạc do tình huống điển hình (Representativeness)
 Sự neo vào (Anchoring)
 E ngại sự mơ hồ

Tâm lý con người:
-

-


-

-

II.

Lý thuyết tiếc nuối (regret theory) : tâm lý con người là cảm thấy đau khổ, hối tiếc
vì làm sai, thậm chí là lỗi nhỏ. Họ cảm thấy rất hối hận về quyết định mà nó gây ra
kết quả xấu. Nếu ai đó mong rằng có thể tránh nỗi đau của sự hối hận, họ có thể
thay đổi hành vi của họ theo cách mà đôi khi là bất hợp lý
Tâm lý sợ mất mát (loss aversion) : sợ mất mát là ám ảnh lớn của con người, việc
thua lỗ sẽ gây hậu quả tâm lý nặng nề hơn niềm vui mang lại do thành công dù là
thua hoặc được cùng một món tiề.
Quá tự tin (overconfidence) và phản ứng thái quá hay bi quan (overreaction or
underreation): mọi người có khuynh hướng thổi phồng tài năng của mình và đánh
giá thấp khả năng xảy ra của một kết quả xấu có thể xảy ra mà họ không kiểm soát
được. Sự kết hợp giữa tự tin thái quá và tinh thần lạc quan làm cho người ta đánh
giá quá cao khả năng tri thức của họ, đánh giá thấp rủi ro và thổi phòng khả năng
của họ trong việc kiểm soát tình hình, mà nó dẫn đến việc giao dịch quá lớn và
bong bóng đầu cơ.
Tâm lý bảo thủ (convervatism): tâm lý bảo thủ ám chỉ một hiện tượng tâm lý mà ở
đó người ta ngờ vực bất kì thông tin mới và đưa ra quá nhiều đối trọng đển khả
năng xảy ra trước

TÀI CHÍNH HÀNH VI

 ĐỊNH NGHĨA
7



Đây là một lĩnh vực tài chính đưa ra các lý thuyết đựa trên các phân tích tâm lý để giải
thích những diễn biến bất thường trên thị trường chứng khoán. Tài chính hành vi thường
dựa trên giả định rằng cấu trúc thông tin và đặc tính của những người tham gia vào thị
trường chứng khoán đều bị ảnh hưởng một cách hệ thống bởi các quyết định đầu tư cá
nhân cũng như các tác động của thị trường.
Đã có rất nhiều nghiên cứu viện dẫn các hiện tượng đã xảy ra trong thị trường chứng
khoán đối lập với thuyết thị trường hiệu quả, không thể giải thích được một cách thoả
đáng theo mô hình này nhưng lại có thể lý giải dựa trên các lý thuyết tài chính hành vi.
Hãy cùng xét môt ví dụ: Giả sử cho một người lựa chọn giữa việc chắc chắn nhận được
50$ và tung đồng xu, nếu được thì anh ta sẽ có 100$, nếu không được thì anh ta sẽ chẳng
có gì. Một khả năng là người này lựa chọn bỏ túi 50$. Tuy nhiên anh ta cũng có thể thử
vận may với trò chơi sấp ngửa, xác suất là 50:50. Thông thường thì mọi người có xu
hướng tung đồng xu để kiếm thêm được 50$ mặc dù việc này có thể khiến anh ta mất
luôn cả 50$ mà lẽ ra anh ta lẽ ra đã có được một cách chắc chắn.
Hành vi trên cũng đúng với các nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán. Ví dụ các nhà
đầu tư vào chứng khoán của tập đoàn Nortel Networks, năm 2000 giá cổ phiếu của tập
đoàn này giảm từ 100$ xuống còn chưa đầy 2$. Và cho dù giá có giảm thế nào thì các
nhà đầu tư vẫn tin rằng giá sẽ sớm hồi phục, do đó họ vẫn tiếp tục nắm giữ cổ phiếu này.
Tài chính hành vi cũng khám phá ra rằng các nhà đầu tư có xu hướng đầu tư với giá trị
lớn mà chỉ dựa trên lượng thông tin ít ỏi từ một nguồn duy nhất. Thêm vào đó, niềm tin
của họ thật khó mà lay chuyển nổi. Vào cuối những năm 90, một niềm tin đeo đuổi các
nhà đầu tư đó là bất cứ sự sụt giá đột ngột nào trên thị trường cũng là một thời điểm tốt
để mua vào. Các nhà đầu tư thường quá tự tin vào phán quyết của mình và tin vào những
lời đồn thổi hơn là sự thật hiển hiện trước mắt mình.
Trên thực tế có rất ít các nhà đầu tư giá trị sử dụng các nguyên lý hành vi để tìm ra cổ
phiếu nào rẻ nhưng lại mang lại thu nhập thực sự cho họ. Lý thuyết tài chính hành vi hiện
vẫn nặng về học thuật hơn là khả năng ứng dụng để quản lý tiền tệ và đầu tư. Robert
Shiller, tác giả của cuốn sách"Irrational Exuberance", đã chỉ ra rằng thị trường trong cuối
thập kỉ 90 là một quả bóng khổng lồ, nhưng ông lại không thể tiên liệu được là khi nào

thì quả bóng đó sẽ nổ. Tương tự, các chuyên gia nghiên cứu hành vi ngày nay cũng
không thể dự báo khi nào thì thị trường sẽ xuống tới mức thấp nhất mà họ chỉ có thể mô
tả trạng thái hiện tại của thị trường là thế nào.
Lý thuyết tài chính hành vi không thể cung cấp một phương thức đầu tư kì diệu,
nhưng lại có thể giúp các nhà đầu tư cẩn trọng hơn đối với các hành vi đầu tư của mình,
từ đó có thể tránh được các sai lầm khiến họ trở nên nghèo hơn.
Các bằng chứng về “bong bóng” chứng khoán thế giới trong những năm 1990 là minh
chứng rõ ràng cho điều đó. Bất cứ ai từng trải qua thời kỳ bong bóng Internet và tiếp theo
đó là các cuộc khủng hoảng đều nhận ra lý thuyết thị trường hiệu quả không thể giải thích
được nguyên nhân gây nên tình trậng đó. Và trong những trường hợp như vậy, nghiên
cứu về tâm lý học lại hoàn toàn có thể giúp chúng ta hiểu được thị trường tài chính.
8


Những hành vi vô lý một cách hệ thống là cách giải thích hợp lý dễ chấp nhận đối với
những bất thường trên thị trường chứng khoán.

 TÀI CHÍNH HỌC HÀNH VI
Tài chính học hành vi là lĩnh vực nghiên cứu tài chính sử dụng các lý thuyết cơ bản dựa
trên tâm lý con người để giải thích những bất thường trên thị trường chứng khoán. Người
ta giả định trong tài chính học hành vi, cấu trúc thông tin và đặc điểm của nhà đầu tư
tham gia thị trường ảnh hưởng đến quyết định đầu tư của nhà đầu tư khác một cách hệ
thống cũng nhiều như sự tác động của thị trường. Một số miêu tả và giải thích của tài
chính học hành vi khá thú vị, mô phỏng hành vi thị trường bằng các cuộc thử nghiệm rất
đơn giản như sau:
Cho ai đó một lựa chọn hoặc là sẽ có chắc chắn 50.000 đồng hoặc là sẽ chơi trò đồng xu
xấp ngửa, nếu thắng sẽ nhận được 100.000 đồng, và ngược lại sẽ không nhận được gì cả.
Có vẻ như trò chơi này đầy may rủi , do đó người ta chọn việc bỏ túi chắc chắn 50.000
đồng. Ngược lại, nếu phải lựa chọn giữa việc mất chắc chắn 50.000 đồng hoặc cũng chơi
trò đồng xu xấp ngửa và mất 100.000 đồng hoặc không mất gì cả. Họ có thể sẽ chọn chơi

xấp ngửa. Sự may rủi trong việc tung đồng xu xấp ngửa trong cả hai trường hợp là tương
đương nhau, nhưng con người lại chọn cách tham gia trò chơi để tiết kiệm những khoản
lỗ, thậm chí là trò chơi này có thể sẽ mang đến một khoản lỗ lớn hơn. Điều này cho thấy
khuynh hướng con người coi khả năng bù đắp một khoản lỗ còn quan trọng hơn khả năng
kiếm được một lợi nhuận lớn hơn.
Trong kinh doanh, sự ưu tiên về việc tránh các khoản lỗ cũng đúng đối với các nhà đầu
tư. Hãy nghĩ đến điều này, khi giá trị cổ phiếu của Nortel Networks xuống giá thê thảm từ
hơn $100 một cổ phiếu vào đầu những năm 2000 xuống còn chưa đầy $2, bất chấp giá cổ
phiếu xuống như thế nào, nhà đầu tư vẫn tin rằng nó có thể sẽ lên trở lại và họ tiếp tục
nắm giữ cổ phiếu. Nhà đầu tư có khuynh hướng tin quá nhiều vào những giá trị dựa trên
phán đoán có được ngay sau những mẫu thông tin nhỏ hoặc từ các nguồn đơn lẻ, họ quá
tự tin vào các phán đoán của mình, thậm chí còn thích chộp ngay lấy thông tin rỉ tai hơn
là những thông tin công bố rõ ràng. Ví dụ như nhà đầu tư tin rằng những kỹ năng thuộc
tính có thể giúp họ may mắn hơn người dùng phân tích để lựa chọn một cổ phiếu tốt. Vì
sao lại như vậy? Điều này chỉ có thể lý giải bằng cảm xúc. Cảm xúc - một yếu tố vô cùng
quan trọng chi phối hành vi con người. Đừng bao giờ coi thường cảm xúc, nó có sức
mạnh to lớn đến không ngờ!.

 ĐÁM ĐÔNG VÀ CẢM XÚC
Thị trường chứng khoán được xem là một nhóm các nhà đầu tư không có tổ chức với
một mục đích chung duy nhất là nhằm nắm bắt xu hướng tương lai của thị trường để từ
đó có quyết định kinh doanh đúng đắn nhằm thu được lợi nhuận. Tuy nhiên, một điều
quan trọng cần phải nhận ra là nhóm đông đó được hình thành bởi nhiều nhà đầu tư cá
9


nhân khác nhau, mỗi nhà đầu tư lại thiên về các cảm xúc trái ngược nhau. Lạc quan có,
bi quan có, hy vọng có, lo lắng có – tất cả mọi cảm giác đều có thể tồn tại trong cùng một
nhà đầu tư tại các thời điểm khác nhau hoặc trong vài nhà đầu tư hoặc một nhóm nhà đầu
tư tại cùng một thời điểm. Và mục tiêu quan trọng nhất trong bất kỳ quyết định kinh

doanh nào là hiểu được ý nghĩa của sự dồn nén về cảm xúc nào, từ đó đánh giá được tâm
lý thị trường của nhóm đông để đưa ra những chiến lược đầu tư sáng suốt.
Có lẽ quyển sách nổi tiếng của Charles Mackay, Extraordinary Popular Delusions and
the Madness of Crowds (Tạm dịch: Những ảo giác cực kỳ phổ biến và sự mất trí của đám
đông), là được nhắc đến nhiều nhất trong những cuộc bàn luận về các hiện tượng của thị
trường chứng khoán, từ cơn sốt hoa tulip ở Hà Lan thế kỷ 17 cho đến những hiện tượng
“bong bóng” gần nhất. Cốt truyện khá tương tự nhau: một thị trường chứng khoán giá lên
(bull market) về một mặt hàng, đơn vị tiền tệ hoặc cổ phiếu nào đó khiến dân chúng thấy
xu hướng tăng giá là không thể ngừng. Với cách suy nghĩ lạc quan như vậy mọi người
mua “đối tượng” của cơn sốt vượt quá nhu cầu thật sự của mình. Cùng lúc đó, những
người cho vay thay phiên nhau đổ thêm dầu vào lửa. Đến khi nhà đầu tư nhận ra thị
trường không mạnh như họ đã kỳ vọng, sự sợ hãi tăng lên. Và chắc chắn cuối cùng khi sự
lo lắng chuyển thành cơn bán đổ bán tháo thì thị trường sụp đổ, tạo ra một vực xoáy nhấn
chìm thị trường sâu hơn cả trước khi có cơn sốt, và hậu quả là phải tốn nhiều năm trời thị
trường mới có thể phục hồi trở lại.
Do vậy trong các quyết định đầu tư thông minh thì cảm xúc chính là kẻ thù số một
của chúng ta. Cảm xúc khiến chúng ta hành động trái với những gì mà chúng ta nên làm.
Cảm xúc khiến chúng ta mua trong khi chúng ta nên bán, cảm xúc khiến chúng ta bán
trong khi chúng ta nên mua. Lời khuyên cho nhà đầu tư thành công là tốt nhất hãy học
cách hành động ngược lại với những gì cảm xúc bảo chúng ta làm hoặc ít nhất cũng nên
làm lơ với những cảm xúc đó.

 TÂM LÝ BẦY ĐÀN VÀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
Nói rất nhiều về hành vi, về cảm xúc cũng chỉ muốn đưa đến một cơ sở lý luận mới để
tiếp cận Thị trường chứng khoán Việt Nam, nhìn nhận lại “tâm lý bầy đàn” cũng như giúp
ích phần nào cho nhà đầu tư trong giai đoạn hiện nay.
Một chân lý hiển nhiên quen thuộc là vào bất kỳ thời điểm nào, các thị trường tài
chính luôn luôn bị chi phối bởi lòng tham và sự sợ hãi. Những thị trường mạnh nhất là
những thị trường nhộn nhịp bởi đồng thời có cả lòng tham lẫn sự sợ hãi. Nói rõ hơn, bất
cứ khi nào bạn bán cổ phiếu thì người mua nó cũng sẽ nghĩ khác về những triển vọng

tương lai của cổ phiếu đó. Bạn nghĩ nó sẽ giảm, người mua nghĩ nó sẽ lên. Hoặc bạn hoặc
người mua sẽ đúng nhưng chắc chắn chỉ thông qua sự tương tác của những thái độ khác
nhau như vậy thì thị trường mới nhộn nhịp đông kẻ mua- nhiều người bán. Sự sôi động
của Thị trường chứng khoán Việt Nam thời gian qua cũng đã phản ánh phần nào chân lý
ấy.
10


Thị trường chứng khoán Việt Nam trong năm 2006 có mức tăng trưởng cao nhất khu
vực Châu Á- Thái Bình Dương với 145% , thậm chí đứng trên Thị trường chứng khoán
Thượng Hải với mức tăng 130%. Và đầu năm 2007 vẫn đang tăng 46% - cao nhất trên thế
giới. Thị trường tăng mãnh liệt đã gây sốc cho không ít nhà đầu tư trong nước và các
chuyên gia chứng khoán kể cả những nhà quản lý thị trường. Kéo theo đó sự lo sợ nguy
cơ hình thành bong bóng trên thị trường chứng khoán đã là đề tài gây tranh cãi trên thị
trường.
Điều đáng nói ở đây, sự phát triển quá nóng của thị trường chứng khoán không chỉ
làm tốn giấy mực của báo chí trong nước mà còn thu hút mạnh mẽ sự quan tâm của các
báo giới nước ngoài. Thời gian trước và sau Tết, không ngày nào mà hai từ Việt Nam
không xuất hiện trên mặt báo cùng với tin tức về thị trường chứng khoán. Phòng thương
mại Mỹ tại Việt Nam (AMCHAM) đăng tải trên website của họ bài viết “thị trường
chứng khoán Việt Nam thăng hoa thiếu cơ sở”. Thời báo Tài Chính Anh (Financial
Times) dẫn lời các nhà quản lý tài chính nước ngoài cảnh báo thị trường chứng khoán
TP.HCM đang rơi vào tình trạng quá nóng và vượt quá giá trị thật. Thậm chí tuần báo
Wall Street Journal – tuần báo có uy tín vào hạng bậc nhất trên thế giới cũng có bài bình
luận về Thị trường chứng khoán Việt Nam với tựa "Saigon’Miss”. Đáng chú ý
là IMF cũng đã gửi bản khuyến cáo đến Chính phủ Việt Nam về sự bùng nổ của thị
trường chứng khoán.
Rất nhiều lý do được đưa ra để giải thích cho sự phát triển quá nóng của thị trường
chứng khoán Việt Nam. Nhà đầu tư trong nước đổ lỗi cho nhà đầu tư nước ngoài, nhà đầu
tư nước ngoài đổ lỗi cho sự "điên cuồng” của nhà đầu tư trong nước. Tuy nhiên quy

chung lại phần lớn đồng tình cho rằng nguyên nhân chính là do tâm lý đầu tư bầy đàn,
đầu tư theo phong trào của các nhà đầu tư trong nước- thiếu kiến thức cũng như không có
kỳ vọng riêng. Và chơi chứng khoán trong thời gian vừa qua đã được báo chí nói tới như
một thứ “mốt”, một “phong trào” lan truyền nhanh hơn bất cứ dịch bệnh nào, trên khắp
cả nước. Tờ báo này ví von: “người người chơi chứng khoán, nhà nhà chơi chứng
khoán”, tờ báo khác thì nói: “ăn chứng khoán, ngủ cũng chứng khoán”…
Không có gì phải chối cãi khi cho rằng hiệu ứng chứng khoán đã thực sự tác động tới
tất cả mọi người. Sáng đến cơ quan, mọi người hỏi nhau về chứng khoán, trưa ở hàng
cơm bụi cũng léo nhéo mấy tiếng: “chứng khoán”, rồi tối ngồi hàng nước, quán cà phê
hay bia hơi, cũng vẫn thấy ơi ới câu nói quen thuộc: “chứng khoán”.
Chứng khoán ”nóng” tới mức hệ thống máy chủ của thị trường chứng khoán bị “treo”,
kéo theo sàn chứng khoán của Trung tâm giao dịch chứng khoán TP.HCM phải ngừng
phiên giao dịch sáng 2/2/2007. Đây là lần thứ hai Trung tâm giao dịch chứng khoán
TP.HCM phải ngừng giao dịch vì các “lỗi kỹ thuật”.
Các nhà quản lý thậm chí đã phải nghĩ đến các biện pháp để hạ nhiệt thị trường.
11


Nhưng câu chuyện thị trường chứng khoán cũng không hề bớt sôi động khi mấy tuần
khi chỉ số VN-Index liên tiếp giảm. Rồi lại đảo chiều hồi phục ngoạn mục ngay sau đó.
Đúng là thật khó tiên liệu diễn biến trên thị trường chứng khoán. Mọi lý thuyết, mọi
mô hình của thị trường hiệu quả dường như vô nghĩa. Mặc dù nhà đầu tư được cảnh báo
chứng khoán đã vượt quá giá trị thật hơn 30% nhưng họ vẫn mua bán, thị trường vẫn
không ngừng sôi động. Thậm chí cung không đủ cầu. Vì sao vậy? Họ đã điên thật rồi ư?
Dễ thấy thị trường chứng khoán Việt Nam không vận hành theo bất cứ một quy luật
nào. Lý thuyết thị trường hiệu quả hoàn toàn thất bại. Có lẽ đã đến lúc dùng đến các lý
thuyết cơ bản dựa trên tâm lý con người để giải thích những bất thường trên thị trường
chứng khoán:
Bình thường một nhóm các nhà đầu tư cá nhân có thể rất bình tĩnh và sáng suốt, vậy
mà cũng có lúc họ lại bị áp đảo bởi những cảm xúc tiêu cực khi các nhà đầu tư khác hành

động theo một cách thức phổ biến nào đó. Hiểu một cách đơn giản nhất thì chính sự sợ
hãi bị “bỏ rơi” hay thất bại khi bạn bè, người thân, hàng xóm của họ có thể kiếm tiền một
cách nhanh chóng, đã đưa đến sức mạnh áp đảo của đám đông.
Cũng giống như nhìn thấy sự kiếm tiền quá dễ dàng trên thị trường chứng khoán Việt
Nam - cứ mua là thắng - từ những “đại gia” chứng khoán thì lời hàng chục tỷ đồng, thậm
chí bà nội trợ, anh nhân viên phải gom góp, vay mượn vài chục triệu đồng làm vốn nay
đã có bạc trăm triệu, thậm chí bạc tỷ đã thôi thúc người ta lao vào chơi chứng khoán. Một
nhà đầu tư đã phát biểu ”Ai bảo thị trường chứng khoán là canh bạc thì kệ họ nhưng chơi
thắng nhiều hơn thua thì chưa ai chịu dừng”. Chứng khoán vượt quá giá trị thật- biết chứnhưng họ vẫn mua. Họ chấp nhận mua với giá cao vì tin chắc rằng trên thị trường sẽ còn
có người chấp nhận mua lại nó với giá cao hơn nữa. Họ vẫn kiếm lợi được. Lòng tham
của con người khiến họ hành động. Còn nhìn thấy cơ hội kiếm lợi, họ còn nhảy vào. Thật
là thấm thía câu nói “Tiền khiến chúng ta phát điên!” (Money makes us crazy).
Sức nóng của thị trường chứng khoán còn “hút” cả anh nông dân, bà bán đậu phộng
đến ông xích lô… gom góp tiền dành dụm cả đời đổ vào chơi chứng khoán. Họ biết phân
tích cổ phiếu , biết dự đoán khả năng hoạt động sinh lời của công ty? Không hề! Họ chơi
theo tâm lý bầy đàn.Thậm chí có nhiều người còn mua bán theo cách hoàn toàn bắt chước
các nhà đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên điều này cũng chẳng có gì là khó hiểu cả. Khuynh
hướng (bản năng) bầy đàn giải thích tại sao con người lại thích bắt chước người khác.
Khi thị trường lên hoặc xuống, nhà đầu tư sợ rằng người khác sẽ có nhiều thông tin hơn.
Và hệ quả của điều này, nhà đầu tư cảm thấy có sự thôi thúc ghê gớm đối với việc làm
theo những gì người khác đang làm. Các nhà tâm lý học cũng đã đưa ra nghiên cứu cho
thấy hành vi đám đông thường có khuynh hướng hành động theo một số người chủ chốt
có khả năng tiên đoán thị trường. Trong trường hợp của Thị trường chứng khoán Việt
Nam, “sứ mệnh” đó được giao cho nhà đầu tư nước ngoài.
12


 ĐÃ ĐẾN LÚC CẦN MỘT CÁI NHÌN ĐẦY ĐỦ VỀ TÂM LÝ BẦY ĐÀN CỦA
NHÀ ĐẦU TƯ
Và hẳn nhiên là trong suy nghĩ của rất nhiều người, tâm lý bầy đàn là thứ gì đó rất

xấu, rất đáng khinh, nên loại bỏ nó càng sớm càng tốt. Do đó một câu hỏi được đặt ra là
làm sao để chấm dứt tâm lý bầy đàn trong các nhà đầu tư? Không có gì khó khăn - câu trả
lời là không thể. Nhà đầu tư sẽ tự điều chỉnh hành vi của mình theo thị trường, họ sẽ rút
ra bài học từ chính những thành công và thất bại của mình. Không thế có giải pháp nào
được đưa ra ở đây cả. Vì tâm lý bầy đàn (hay tâm lý đám đông) là một sự tồn tại khách
quan trong bất cứ một thị trường nào, không riêng gì thị trường tài chính. Các bằng
chứng xã hội mà các nhà tâm lý học đưa ra sau các cuộc khảo sát hoàn toàn chứng minh
được điều đó.
Hẳn nhiều người trong chúng ta đã được biết đến thí nghiệm dưới đây:
Cho một người đứng ở một góc phố và nhìn lên bầu trời trống không trong 60 giây.
Một số người đi đường đã dừng lại để xem người kia nhìn gì nhưng rồi đa số cũng bước
qua. Lần tiếp theo, các nhà tâm lý học cho năm người làm như vậy ở góc phố đó. Lần này
số người dừng lại để quan sát đông gấp 4 lần. Khi cho 15 người đứng ở góc phố đó, có
tới 45% số người qua đường dừng lại và khi tăng số người đứng ở góc phố thêm một lần
nữa, có tới hơn 80% người đi đường phải ngẩng đầu quan sát theo.
Vì sao lại như vậy? Vì người ta cho rằng nếu có nhiều người cùng nhìn lên bầu trời thì
chắc chắn rằng trên bầu trời phải có gì đó. Đó là lý do vì sao càng có đông người, đám
đông càng dễ bị ảnh hưởng: thêm một người là thêm một bằng chứng cho thấy có điều gì
đó quan trọng đang xảy ra. Họ tin tưởng rằng nếu có rất nhiều người cùng thực hiện một
việc gì đó thì việc đó nhất định đúng. Bằng chứng này cho thấy tất cả mọi người dường
như là nếu không biết điều gì đang diễn ra thì tốt hơn hết là nên bắt chước những gì
người khác đang làm. Tồn tại khách quan là như vậy.
Và lâu nay vẫn có quan niệm sai lầm cho rằng chỉ ở Việt Nam thì mới có tâm lý
bầy đàn trong đầu tư như thế. Sự thật thì tâm lý đám đông (tâm lý bầy đàn) xuất hiện ở
hầu hết các thị trường mới nổi thậm chí ngay cả ở các thị trường phát triển thì vẫn có
những giai đoạn tồn tại tâm lý đám đông. Nếu không, lịch sử kinh tế thế giới đã không
chứng kiến nhiều vụ nổ bong bóng và khoảng hoảng như khủng hoảng Hoa tulip – Hà
Lan (1634-1637), bong bóng South Sea -Anh ( 1711-1720), khủng hoảng Bất động sản
Florida- Mỹ (1920-1922), đại suy thoái thế giới 1929, khủng hoảng 1987, khủng hoảng
Châu Á 1997, khủng hoảng dotcom…

Các kết quả của các cuộc điều tra về tâm lý đầu tư trên thị trường chứng khoán ở
Mỹ và Nhật được Robert J. Shiller- đại học Yale, Fumiko Kon-Ya -Viện nghiên cứu
chứng khoán Nhật bản, Yoshiro Tsutsui- đại học Osaka tiến hành trong 10 năm, mỗi 6
13


tháng 1 lần bắt đầu từ năm 1989 cũng cho thấy sự ảnh hưởng của tâm lý đám đông đến
quyết định đầu tư.
Điển hình theo kết quả điều tra từ năm 1995 đến năm 1997, chỉ số DowJones tăng
gấp đôi từ 4069 lên 7917, gấp 3-4 lần mức tăng trung bình, ở thời điểm đó cứ 5 người Mỹ
thì có ít nhất 2 người chơi cổ phiếu. Điều tra 6 tháng đầu năm 1996, có đến 32.5% ( tỷ lệ
cao nhất kể từ năm 1989) nhà đầu tư cho biết dù họ biết trong tương lai sẽ rớt giá nhưng
họ vẫn tiếp tục mua cổ phiếu càng nhiều càng tốt vì tin rằng giá cao vẫn có thể duy trì
được một thời gian nữa. Tháng 10 năm 1997, chỉ số Dow rớt 554 điểm, nhiều nhà phân
tích cho biết ngoài nguyên nhân do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á,
nguyên nhân “tâm lý bầy đàn “ là rất đáng kể. Khi ấy, các nhà quản lý quỹ tương hỗ vô
cùng lo lắng dự đoán về những gì các nhà đầu tư khác sẽ hành động. Dám cược là những
người khác sẽ bán và vì cũng không muốn “ở lại phía sau”. Họ đã đua nhau bán cổ phiếu
ra, hậu quả là tạo nên một cơn sụt giảm nghiêm trọng. Bạn thấy không? Tâm lý bầy đàn
không chỉ có ở Việt Nam.
Chừng nào lòng tham và sự sợ hãi còn ngự trị trong con người thì chừng ấy còn
tồn tại tâm lý đám đông. Vấn đề là nhà đầu tư khôn ngoan phải biết hành xử ra sao trong
một thị trường như vậy: Sẽ đi theo đám đông hay độc lập quyết định tự tin vào các
nghiên cứu phân tích của mình sẽ đánh thắng thị trường?
Câu trả lời ở đây khá đơn giản: Nên đi theo đám đông khi ý kiến của nó phù hợp
với những phân tích của riêng bạn và nhanh chóng rời bỏ đám đông khi đám đông suy
nghĩ ngược với bạn. Trong cả hai trường hợp đều có những thách thức nhất định.
Tuy nhiên, bạn phải luôn nhớ rằng: đám đông không bao giờ sai. Khi đám đông
hành động ngược lại với những gì mà hệ thống phân tích của nhà đầu tư cho biết thì
quyết định đúng đắn nhất là rời bỏ đám đông đó. Nói cách khác, nhà đầu tư nên kiếm lợi

hoặc nhận ra các khoản lỗ và đứng ngoài đợi cho đến khi thị trường có dấu hiệu khả quan
trở lại. Thà từ bỏ một khoản lời tiềm năng còn hơn là mất một khoản vốn trước mắt.
Nhưng thật sự thì cái cảm giác mà bạn đang bỏ lỡ một cơ hội kiếm tiền mười mươi là một
tâm lý vô cùng khó chịu! Một nghịch lý trong kinh doanh vẫn thường xảy ra: Bản năng tự
nhiên của con người và mong muốn được hòa nhập với đám đông lại là những tình huống
đưa các nhà đầu tư tài chính đến bờ vực phá sản.
Hãy nhớ đừng bao giờ chống lại sức mạnh của đám đông, nhưng phải nhận thức
được các quyết định đầu tư cá nhân của bạn ảnh hưởng đến sức mạnh của đám đông xung
quanh bạn như thế nào?
Đôi điều góp nhặt hi vọng đã làm rõ được phần nào nguyên nhân sự phát triển
không theo quy luật của Thị trường chứng khoán Việt Nam. Đồng thời hi vọng phần nào
mang lại cho người đọc cái nhìn đúng hơn về tâm lý bầy đàn của nhà đầu tư.
14


II.

VẬN DỤNG THỰC TẾ
1. Tâm lý đám đông

Khái niệm tâm lý đám đông:
Tâm lý đám đông là hiện tượng tinh thần chung của nhiều cá nhân, phát sinh do sự
tương tác tâm lý giữa các thành viên trong đám đông hay cộng đồng; hoặc bởi tâm
lý nào đó nổi trội, có sức ảnh hưởng. Tức là ý thức cá nhân biến mất và có sự xoay
chuyển tình cảm, suy nghĩ của các cá nhân về cùng một hướng. Một tâm hồn
chung được hình thành, nó dĩ nhiên có thể biến đổi, nhưng hoàn toàn là một thể
loại xác định, điều này không phải lúc nào cũng đòi hỏi sự có mặt đồng thời của
nhiều thành viên tại một địa điểm duy nhất.
-


Hiệu ứng đàn bầy hay hiệu ứng đám đông là thuật ngữ dùng để chỉ cách mà con
người bị ảnh hưởng bởi những người xung quanh trong việc lựa chọn những hành
vi, xu hướng, và cách thức ra quyết định. Đó là một hiệu ứng tâm lí mang tính dây
chuyền. Theo đó cách hành xử của đám đông sẽ có tác động đến tâm lí của người
ngoại cuộc. Thông thường hệ quả của nó là người chịu tác động của hiệu ứng này
sẽ hành xử giống như những gì đang xảy ở hiệu ứng hoặc chí ít cũng có khuynh
hướng hành động như vậy. Cứ như vậy, số lượng người tham gia vào hiệu ứng
càng nhiều và kết quả của hiệu ứng càng lớn hơn.

-

Đặc điểm của đám đông:

-

Quy luật về sự đồng nhất tâm hồn đám đông: cho dù những thành viên riêng biệt
tạo nên đám đông khác nhau kiểu gì, cho dù lối sống, việc làm, tính cách, học thức
của họ giống nhau hoặc khác nhau ra sao, chỉ cần qua sự trở thành đám đông, tất
cả họ sẽ cùng có một kiểu tâm hồn tập thể, điều này làm cho họ cảm nhận, suy
nghĩ, hành động theo kiểu hoàn toàn khác hẳn khi họ chỉlà những cá thể riêng biệt
cảm nhận, suy nghĩ và hành động.
15


-

Theo một nghiên cứu của Đại học Leeds (Anh), con người khi ở trong đám đông
có hành vi không khác biệt mấy so với đàn cừu hay chim di trú. Các nhà khoa học
đã thực hiện một loạt thử nghiệm đặc biệt nhằm tìm hiểu về hành vi đám đông. Họ
khẳng định rằng 95% số người trong đám đông có khuynh hướng hành động theo

một nhóm thiểu số chỉ chiếm khoảng 5% mà không hề suy nghĩ. Để đi đến kết
luận này, các nhà nghiên cứu đã cho những người tham gia thử nghiệm đi lại vô
định trong một gian phòng rộng. Một số người trong nhóm được dặn dò trước đã
di chuyển một cách dứt khoát hơn. Cuối cùng, tất cả mọi người tự nhiên đã đi theo
những người này tuy không được phép liên lạc với nhau. Đa số những người được
hỏi đều cho biết họ không hề ý thức rằng mình đã bị chỉ huy. Các thử nghiệm khác
đã được thực hiện ở nhiều nhóm khác nhau và chứng minh rằng đám đông càng
nhiều người thì càng dễ gây ảnh hưởng. Từ một nhóm 200 người, chỉ cần 5% số
người được thông tin trước là có thể chỉ huy cả nhóm.

-

2. Ví dụ hiệu ứng đám đông và thị trường tài chính Việt Nam

-

Ví dụ 1. Thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam trong năm 2006 có mức tăng
trưởng cao nhất khu vực Châu Á- Thái Bình Dương với 145% , thậm chí đứng trên
TTCK Thượng Hải với mức tăng 130%. Và đầu năm 2007 thị trường này vẫn đang
tăng tới 46% - cao nhất trên thế giới. Thị trường tăng mãnh liệt đã gây sốc cho
không ít nhà đầu tư trong nước và các chuyên gia chứng khoán kể cả những nhà
quản lý thị trường. Kéo theo đó sự lo sợ nguy cơ hình thành bong bóng trên TTCK
đã là đề tài gây tranh cãi. Chứng khoán đã “nóng” tới mức hệ thống máy chủ của
thị trường chứng khoán bị “treo”, kéo theo sàn chứng khoán của Trung tâm giao
dịch chứng khoán TP.HCM phải ngừng phiên giao dịch sáng 2/2/2007. Đây là lần
thứ hai Trung tâm giao dịch chứng khoán TP.HCM phải ngừng giao dịch vì các
“lỗi kỹ thuật”. Jonathan Pincus – Kinh tế gia trưởng của Liên hiệp quốc tại Hà Nội
đã phát biểu rằng “Thật điên rồ, tất cả những ồn ào ở Hà Nội đều xoay quanh
chuyện chứng khoán. Tôi không biết liệu có ai hiểu cái gì là giá trị của những công
ty, song họ vẫn đang mua bán những tờ giấy”. Cùng lúc, sự bùng nổ một cách khó

16


hiểu của thị trường chứng khoán cũng khiến trong tâm lý đám đông xuất hiện sự
cả tin một cách kỳ lạ trước mọi thông tin và kể cả tin đồn. Cứ mua là thắng – đó là
một đặc tính của tâm lý các nhà đầu tư nhỏ lẻ trong thời buổi hoàng kim của thị
trường chứng khoán. Một vài cuộc điều tra bỏ túi đã cho thấy phần đông các bà
tiểu thương, người về hưu, sinh viên chẳng hề biết nhiều về số doanh nghiệp lên
sàn, thậm chí có người “lên sàn” với hành trang duy nhất là “con mã chứng
khoán”.
-

Ví dụ 2. Khoảng giai đoạn năm 2008, BĐS phất lên như một thị trường tiềm năng
mới nổi. Không ít nhà đầu tư trở thành tỷ phú trong một thời gian ngắn. Nhiều
người còn nguồn tiền nhàn rỗi đã chọn BĐS như một kênh trú ẩn an toàn của đồng
vốn. Và dễ thấy, ma lực hấp dẫn của BĐS giống như thời kỳ đầu của vàng hay
chứng khoán. Vì vậy khi giá đất tăng, người ta lao vào mua vì cho rằng giá sẽ còn
tăng nữa. Chính vì tâm lý này mà đất tại một số khu vực bỗng chốc nóng tới mức
chóng mặt với mức giá tăng 100 – 200%, và người ta lại đổ xô đi mua găm hàng
chờ lên giá. Hậu quả thì như chúng ta đã biết. Thị trường đến nay ảm đạm đến
mức một số đơn vị nhà đất đã phải kỳ vọng cả vào tầng lớp công chức vốn có mức
thu nhập mà theo tính toán trước đây thì tiết kiệm tiền lương trong khoảng 60 năm
không ăn tiêu gì cả mới đủ tiền để mua nhà chung cư giá rẻ.

-

Rõ ràng, hiệu ứng đám đông đang có một tầm tác động quan trọng lên những biến
động không ngừng trên thị trường tài chính Việt Nam. Như một nhận xét của Phó
thủ tướng Hoàng Trung Hải tại Diễn đàn kinh doanh với Việt Nam 5/6/2008, “các
yếu tố lạm phát và nhập siêu cùng gia tăng, tính thanh khoản của hệ thống ngân

hàng, xu hướng tâm lý đám đông là những khó khăn mà VN đang phải đối mặt”.

a)

3. Hiện tượng bong bóng kinh tế
Khái niệm: Hiện tượng bong bóng kinh tế là hiện tượng chỉ tình trạng thị trường
trong đó giá hàng hóa hoặc tài sản giao dịch tăng đột biến đến một mức giá vô lý
hoặc mức giá không bền vững. (Nguồn Wikipedia)
b)
Ví dụ những vụ bong bóng kinh tế điển hình
17


Hội chứng cuồng hoa tulip
Hoa tulip luôn được nhắc tới như một biểu tượng của tình yêu. Thế nhưng, vào



thế kỷ 17 tại đất nước Hà Lan, loài hoa này lại hiện diện cho “sự tàn vong” của
những nhà đầu tư quá tham vọng. Hà Lan lâm vào cảnh “ba chìm bảy nổi” không
lâu sau khi hoa tulip trở thành cơn sốt ở thị trường châu Âu vào khoảng giữa thế
kỷ 16. Lúc đó, tulip tượng trưng cho địa vị và quyền lực, chỉ dành riêng cho giới
quý tộc và những kẻ lắm tiền yêu hoa. Khi lượng cầu vượt quá cung, các nhà buôn
đã khởi đầu canh bạc của mình để mua bằng được giống hoa hiếm này. Thợ nề,
mục sư hay luật sư… đều nằm trong số đám đông đổ mạnh dòng vốn vào thị
trường củ hoa.Những khu chợ bán hoa mọc lên như nấm, trong đó củ hoa được
giao dịch theo cách thức giống với thị trường chứng khoán Phố Wall ngày nay.
Trong cơn đầu cơ tích trữ cuồng loạn, một củ hoa tulip bỗng trở thành vật quy đổi
ngang bằng với mọi thứ, từ một cỗ xe kéo, một đôi ngựa, hàng chục tấn lúa mạch
tới hàng trăm kg pho mát. Sức mạnh của “cổ phiếu” củ hoa tulip không hề suy

giảm cho tới tháng 2/1637, khi thị trường “hốt bạc” này bỗng nhiên đổ sập xuống,
do các tay chơi lớn quyết định bán tháo. Giá củ hoa rơi thẳng đứng chỉ còn 1% giá
trị, đã khiến các nhà buôn hoảng loạn chạy đua để xả sạch kho dự trữ.
“Nhà buôn giàu có bị hạ cấp gần như thành kẻ ăn mày. Nhiều người trong
hàng ngũ quý tộc chứng kiến cơ đồ của mình bị phá hủy mà không thể cứu vãn”,
nhà báo người Scotland Charles Mackay, viết trong cuốn sách của ông về thời kỳ
này. Chính phủ Hà Lan đã lập ra một hội đồng chịu trách nhiệm dọn sạch đống đổ
nát mà “cơn cuồng loạn” tulip gây ra. Tuy nhiên, nền kinh tế nước này vẫn chìm

-

trong khủng hoảng tới nhiều năm sau đó.

Bong bóng South Sea
“Bong bóng” là thuật ngữ chính xác để miêu tả về vụ bùng nổ tài chính của Công
ty cổ phần South Sea ở Anh hồi thế kỷ 18. Công ty này hoạt động theo hình thức
đối tác công tư, được thành lập năm 1711, với mục đích giảm bớt gánh nặng nợ
chiến tranh khoảng 50 triệu bảng Anh của quốc gia, tương đương với 100% GDP
lúc đó. South Sea là công ty thương mại Anh duy nhất được hoạt động tại vùng
biển Nam Mỹ, song chỉ thu được số lợi nhuận ít ỏi do phía Tây Ban Nha cũng
18


chiếm giữ một thị trường lớn tại khu vực này. Mặc dù không thành công trong
kinh doanh, nhưng Southu Sea lại thuyết phục được chính phủ Anh chấp thuận
việc chuyển đổi một phần món nợ quốc gia thành cổ phần của công ty.
Tới năm 1720, tin đồn rộ lên rằng công ty này được “nâng đỡ” và sắp nhận
được hợp đồng chuyển hóa nốt phần nợ quốc gia khổng lồ còn lại. Chớp lấy thời
cơ, South Sea liền phát hành một số cổ phiếu ra thị trường, đồng thời cho phép
người mua thanh toán làm nhiều đợt. Bởi vậy người dân từ mọi tầng lớp xã hội đã

hùa nhau cùng tham gia kiếm lời. Từ tháng 1/1720 đến tháng 6/1720, giá trị mỗi
đầu cổ phiếu của South Sea đã nhảy bước ngoạn mục từ 128 bảng lên gần 1.000
bảng. Nhưng chỉ một tháng sau, quả bong bóng bị thổi phồng quá sức bỗng bục
vỡ, khi chính những lãnh đạo công ty cũng nhận thấy sự yếu kém và giá trị không
thực của lá cổ phiếu. Giá cổ phiếu rớt xuống sàn, kéo theo một trận bán tháo điên
loạn. Tới thời điểm cuối năm, hàng ngàn người mất trắng tài sản vì South Sea. Kết
quả điều tra của chính phủ Anh sau đó đã phát hiện, một số chính trị gia và lãnh
đạo của công ty có hành vi tham nhũng, nhận hối lộ. Khi mọi việc vỡ lở thì các

-

nhà đầu tư chỉ còn trong tay những tờ giấy vô giá trị.

Bong bóng Mississippi
Năm 1716, nước Pháp rơi vào tình trạng cạn kiệt nguồn tiền kim loại quý và ngập
trong đống nợ. Để giải quyết khủng hoảng, hoàng gia Pháp đã nhờ tới chuyên gia
kinh tế người Scotland có tên John Law, người được mệnh danh là một phù thủy
tài chính. John Law đã gợi ý nước này sử dụng đồng tiền giấy để vực dậy nền kinh
tế. Với sự trợ giúp của hoàng gia, Law đã lập ra một ngân hàng, đồng thời phát
hành tiền giấy. Một năm sau đó, Law lập ra Công ty Mississippi rồi trở thành công
ty thương mại hoạt động độc quyền tại vùng lãnh thổ Louisiana của Pháp (nay
thuộc Mỹ). Công ty Mississippi bắt đầu bán cổ phần đổi lấy trái phiếu chính phủ
và tiền giấy. Sự việc này đã nhanh chóng gây một cơn sốt trong lòng công chúng.
Trong vòng chưa đầy 1 năm, giá trị mỗi lá phiếu đã tăng kinh khủng, từ 500 livre
tới 18.000 livre (đơn vị tiền tệ của Pháp lưu hành khoảng năm 781–1794). Thoạt
đầu kế hoạch tài chính của Law đã tác động tích cực đến nền kinh tế và giúp nhiều
nhà đầu cơ trở nên giàu có. Tuy nhiên, Công ty Mississippi này chưa bao giờ kinh
19



doanh thành công trên đất Louisiana. Ngoài ra, ngân hàng của ông còn in quá
nhiều tiền giấy để đáp ứng nhu cầu mua cổ phiếu của giới đầu tư, dẫn đến tình
trạng lạm phát tăng vọt.
Năm 1720, toàn bộ hệ thống tài chính này đã sụp đổ, sau khi xảy ra tình
trạng các nhà đầu tư nghi ngờ đòi đổi tiền giấy. Trong khi đó, thực tế số đồng xu
vàng mà nhà nước hiện có lại rất ít ỏi, không đủ để quy trả cho một bộ phận người
dân. Ngay lập tức, một luồng sóng bán tháo đã diễn ra trong hoảng loạn, kéo theo
sự lao dốc của cổ phiếu Công ty Mississippi. Hàng ngàn triệu phú mới nổi biến
thành kẻ bần cùng chỉ sau một đêm. “Kẻ lập công” Law sau khi “bại trận” đã bị
trục xuất khỏi nước Pháp.

Quả bom nhà đất Florida
Bang Florida của Mỹ nổi tiếng là vùng đất của sự sôi động. Năm 1920, dân số
ở khu vực này khoảng 968.000 người nhưng chỉ 5 năm sau đó, con số này đã tăng
lên trên 1.263.000 người. Điều gì đã dẫn đến sự gia tăng này?
Vào thời điểm gọi là “Tiếng gầm của thập niên 20”, nền kinh tế Mỹ sau Chiến
tranh thế giới thứ nhất đang trên đà phát triển hưng thịnh. Người công nhân lành
nghề được trả lương hậu hĩnh, đời sống ổn định, nên họ bắt đầu nghĩ đến việc mua
nhà để sinh sống. Rất đông người quyết định đến vùng “thiên đường nhiệt đới”
này để tìm mua nhà giá rẻ. Thị trường nhà đất tại đây đã diễn ra rất sôi nổi.
Khoảng giữa những năm 1920, giá nhà thường vụt tăng gấp đôi chỉ sau vài
tháng. Cơn sốt mua nhà giá thấp bán giá cao đã khiến nhiều người đầu cơ tiếp tục
mạnh tay rót vốn, mặc dù họ thậm chí chưa bao giờ đặt chân tới Florida. Không ít
trường hợp kẻ đầu tư không có đủ tiền mua nhà, mới chỉ đặt cọc một phần tiền đã
kịp thời sang tay cho người khác để kiếm lời. Tình trạng mua đi bán lại có phần
mù quáng đã tạo điều kiện cho những kẻ lừa đảo kiếm chác bằng các miếng đất ảo
hoặc có vị trí xấu.
Giá nhà bị thổi phồng kéo theo nạn lạm phát đã khiến cuộc sống ở Florida trở
nên khó thở. Báo chí Mỹ bắt đầu viết về thực trạng người dân có xu hướng rời bỏ
vùng đất này, bên cạnh một thực tế là tuyến đường sắt chở vật liệu xây dựng tới

đây đã quá tải và ngừng hoạt động. Điều này đã khiến các khách mua trở nên thận
20


trọng hơn. Một loạt các vụ thiên tai sau đó đã tước mất danh hiệu “vùng đất thiên
đường” của Florida, hàng ngàn héc ta đất đắt đỏ không có người mua, các nhà đầu
cơ bất động sản bỗng rơi vào cảnh thua lỗ, phá sản.

Hỗn loạn cổ phiếu đường sắt
Những năm 1840, sự ra đời của hệ thống đường sắt hiện đại đã thổi bùng lên
cuộc cách mạng công nghệ ở Anh. Chỉ trong vài năm ngắn ngủi đã có hàng trăm
dự án đường ray được Quốc hội Anh phê chuẩn, với tổng chiều dài hơn 15.000
km. Dự án sau luôn tham vọng và hoành tráng hơn dự án trước nó. Theo học giả
Andrew Odlyzko, lượng tiền mà chính phủ đầu tư cho việc xây dựng đường sắt có
lúc còn nhiều gấp đôi số tiền chi vào quân đội. Nhờ vậy mà cổ phiếu đường sắt trở
thành một hạng mục thu hút các nhà kinh doanh đầu cơ ồ ạt. Bất chấp niềm tin
tưởng của giới đầu tư, ngành công nghiệp đường sắt lại thể hiện không ổn định.
Sau đỉnh điểm vào năm 1845, giá cổ phiếu đường sắt phải trải qua nhiều năm lao
dốc đau đớn. Tính đến năm 1850, các khoản đầu tư bốc hơi 50% giá trị. Hàng
ngàn người như ngồi trong chảo lửa, trong đó có nữ tiểu thuyết gia nổi tiếng
Charlotte Bronte, khi những lá phiếu của cô tụt giá từ 120 bảng xuống còn xấp xỉ
20 bảng. “Rất, rất nhiều người bị hệ thống đường sắt kỳ lạ này cướp đi miếng ăn
hàng ngày”, bà viết.

Phố Wall sụp đổ
Trong thời kỳ vàng son thập niên 1920, chứng khoán Mỹ bùng nổ như chưa
từng diễn ra trước đây. Vô số người dân thường Mỹ dùng những khoản vay dài
hạn đầu tư vào chứng khoán, với giấc mộng giàu có và họ đã được đền bù bằng lợi
nhuận tăng lên gấp bốn lần trong khoảng thời gian 1920-1929. Người đầu tư
chứng khoán tự tin thực hiện các giao dịch ký quỹ, bằng cách mượn tiền của nhà

môi giới, trong khi các ngân hàng bắt đầu đầu cơ tiền của khách hàng mà không
tuân thủ quy định. Tới cuối năm 1929, giá chứng khoán tăng với tốc độ không
tưởng. Các bộ phận khác của nền kinh tế không theo kịp tốc độ leo thang của thị
trường chứng khoán, đã làm dấy lên những đồn đại về khả năng xảy ra một sự đổ
vỡ. Thấy vậy, rất nhiều nhà kinh tế uy tín hàng đầu nước Mỹ đã trấn an người đầu
tư, bằng lời cam kết rằng “thị trường có xu hướng tăng giá”. Sự lạc quan cuối cùng
21


cũng biến mất vào ngày 24/10/1929, được biết tới như “Ngày thứ Năm đen tối”.
Các chỉ số chứng khoán ngày hôm đó đã “cắm đầu lao thẳng”. Các nhà đầu tư đã
thực hiện 13 triệu giao dịch bán tháo hoặc chuyển đổi trong cơn hoảng loạn, khiến
bảng điểm ở các sàn chứng khoán Phố Wall không thể đăng tải kịp các hoạt động
giao dịch.
Sự đổ vỡ kinh hoàng tiếp tục xảy ra vào “Ngày thứ ba đen tối”, khi thị trường
ghi nhận đà tụt dốc nhanh hơn trước. Hàng tỷ USD đã bốc hơi khỏi nền kinh tế,
khởi đầu một quá trình tài chính hỗn loạn, với việc 4.000 ngân hàng đổ vỡ vào
năm 1933. Sự rối ren này đã dẫn tới cuộc Đại suy thoái chấn động lịch sử, gây hậu
quả nặng nề cho nước Mỹ và lan rộng ra châu Âu trong suốt một thập kỷ. Nhà
nghiên cứu Boris Borisov ước tính, số nạn nhân của cuộc khủng hoảng tài chính
tại Mỹ là hơn 7 triệu người.
3: Đầu tư và đầu cơ
1.1 Khái niệm đầu tư

Hoạt động đầu tư ta có thể hiểu là quá trình sử dụng các nguồn lực về tài chính,
l
ao động, tài nguyên thiên nhiên và các tài sản vật chất khác nhằm trực tiếp
hoặc gián tiếp tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng các cơ sở vật chất kỹ
thuật của nền kinh tế nói chung.
Có thể phát biểu khái niệm về đầu tư như sau: Đầu tư là hoạt động sử dụng các

nguồn lực tài chính, nguồn lực vật chất, nguồn lực lao động và trí tuệ để sản xuất
kinh doanh trong một thời gian tương đối dài nhằm thu về lợi nhuận và lợi ích
kinh tế xã hội.
Từ cách hiểu và khái niệm về đầu tư như nêu trên. Ta có thể rút ra đầu tư
có các đặc điểm như sau:
Thứ nhất, để tiến hành đầu tư trước tiên phải có vốn. Vốn có thể bằng tiền,
bằng các loại tài sản khác như máy móc thiết bị, nhà xưởng, công trình xây dựng
khác, giá trị quyền sở hữu công nghiệp, bí quyết kỹ thuật, quy trình công nghệ,
dịch vụ kỹ thuật, giá trị quyền sử dụng đất, mặt nước, mặt biển, các nguồn tài
nguyên khác. Vốn có thể là nguồn vốn Nhà nước, vốn tư nhân, vốn góp, vốn cổ
phần, vốn vay dài hạn, trung hạn, ngắn hạn.
Thứ hai, thời gian của quá trình đầu tư là tương đối dài, thường từ 2 năm
trở lên, có thể đến 50 năm, nhưng tối đa cũng không quá 70 năm. Những hoạt
22


động ngắn hạn sẽ không được gọi là đầu tư. Thời hạn đầu tư được ghi rõ trong
quyết định đầu tư hoặc Giấy phép đầu tư và còn được coi là đời sống của dự án.
Thứ ba, lợi ích do đầu tư mang lại được biểu hiện trên hai mặt: lợi ích tài
chính (biểu hiện qua lợi nhuận) và lợi ích kinh tế xã hội (biểu hiện qua chỉ tiêu
kinh tế xã hội). Lợi ích kinh tế xã hội thường được gọi tắt là lợi ích kinh tế. Lợi ích
tài chính ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của chủ đầu tư, còn lợi ích kinh tế ảnh
hưởng đến quyền lợi của xã hội, của cộng đồng.

Khái niệm đầu cơ, phân biệt đầu cơ và đầu tư
Đầu cơ về cơ bản là hoạt động mua đi rồi bán lại để hưởng chênh lệch về giá. So
sánh với đầu tư, đầu cơ cũng là hoạt động cần sử dụng đến nguồn vốn và đích đến
cuối cùng cũng là mục đích sinh lợi. Tuy nhiên hoạt động đầu cơ diễn ra trong thời
gian tương đối ngắn, nhà đầu cơ do chỉ quan tâm đến mục đích kiếm lời nên ngay
khi giá cả thị trường có sự biến động, họ sẽ tiến hành bán ra để hưởng sự chênh

lệch về giá. Như vậy, giá trị tạo ra cho xã hội của hoạt động đầu cơ là không có, sự
biến động về giá cả thị trường có thể xuất phát chính từ sự “ém” hàng của nhà đầu
cơ. Do đó, có ý kiến cho rằng hoạt động đầu cơ chỉ mang lại lợi nhuận cho nhà
đầu cơ mà không đem lại lợi ích kinh tế xã hội, đây cũng là sự khác nhau cơ bản
giữa hoạt động đầu tư và đầu cơ.
Để phân biệt giữa đầu tư và đầu cơ, ta có thể dựa vào sự khác nhau giữa những
đặc điểm của hai hoạt động này.
Đặc điểm
Về thời gian

Đầu tư
Thời gian đầu tư là dài hạn,
thường từ 2 năm trở lên và có thể
kéo dài đến 70 năm .

Về nguồn lực

Đầu cơ
Thời gian đầu cơ tương đối ngắn,
chỉ từ lúc mua hàng hóa đến khi
giá cả biến động có lợi cho nhà đầu
cơ.
Đầu cơ chỉ sử dụng đến vốn để tích
trữ hàng hóa.

Hoạt động đầu tư sử dụng các
nguồn lực tài chính, nguồn lực
vật chất, nguồn lực lao động và
trí tuệ để sản xuất kinh doanh.
Về lợi ích

Lợi ích do đầu tư mang lại là lợi
Hoạt động đầu cơ chỉ mang lại lợi
nhuận cho nhà đầu tư và lợi ích
nhuận cho nhà đầu cơ.
cho nền kinh tế đến từ hoạt động
sản xuất kinh doanh.
Ví dụ: Trong lĩnh vực chứng khoán, mua bán cổ phiếu:
23


- Nhà đầu cơ mua vào các cổ phiếu dự định sẽ lên giá và sau đó tiến hành bán lại
với mức giá cao hơn nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận. Ngay từ đầu điều họ
quan tâm là cổ phiếu nào sẽ lên giá, mức chênh lệch sẽ là cao hay thấp?
- Trong khi đó nhà đầu tư khi tham gia mua bán cổ phiếu thì vấn đề đáng quan tâm
hàng đầu là khả năng kinh doanh của doanh nghiệp, mức chia cổ tức, trong nhiều
trường hợp là nhắm đến việc nắm quyền sở hữu ngày càng nhiều trong một doanh
nghiệp làm ăn có lãi để tham gia điều hành sản xuất, kinh doanh nhằm thu lại lợi
nhuận. Ý định mua đi bán lại ngay từ đầu là rất hời hợt thậm chí là không có.

24



×