Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

“Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuôi “

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (109.16 KB, 12 trang )

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Đề tài: “Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuôi “
I. Đặt vấn đề :
1 Cơ sở lý luận
Như chúng ta đã biết Học để cùng chung sống là một trong những vấn đề then
chốt của giáo dục thế giới .Chính vì vậy mà vào đầu thập kỉ 90, các tổ chức Liên Hiệp
Quốc như WHO (Tổ chức y tế thế giới), UNICEF ( Quỹ cứu trợ nhi đồng Liên hiệp
quốc), UNESCO ( Tổ chức giáo dục , khoa học và văn hóa Liên hiệp quốc) đã chung
sức xây dựng chương trình giáo dục kỹ năng sống cho trẻ em. “ Bởi lẽ những thử
thách mà trẻ em và thanh niên đang phải đối mặt là rất nhiều và đòi hỏi cao hơn là
những kỹ năng đọc, viết, tính toán tốt nhất”.
Ở Việt nam, từ năm học 2008-2009, Bộ Giáo dục - Đào tạo đã phát động phong
trào thi đua “ Xây dựng trường học thân thiện - học sinh tích cực”, với yêu cầu tăng
cường sự tham gia một cách hứng thú của học sinh trong các hoạt động giáo dục
trong nhà trường và tại cộng đồng với thái độ tự giác, chủ động và ý thức sáng tạo.
Trong các mục tiêu của chương trình giáo dục mầm non (ban hành kèm theo thông tư
số 17/2009/TT- BGD&ĐT ngày 25 tháng 7 năm 2009) có mục tiêu giáo dục phát
triển tình cảm và kỹ năng xã hội. Để thực hiện mục tiêu trên, nội dung quan trọng cần
đưa vào giáo dục trẻ là dạy một số kỹ năng sống cho trẻ mầm non.
Về phía các bậc cha mẹ trẻ: cha mẹ trẻ em luôn quan tâm đến việc làm sao để
kích thích tính tích cực học tập của trẻ. Cha mẹ nào cũng muốn con mình được tham
gia và trải nghiệm vào các hoạt động vui chơi hay học tập tích cực để từ đó trẻ lĩnh
hội được các kinh nghiệm sống giúp trẻ mạnh dạn, tự tin và sẵn sàng ứng phó với các
tình huống trong cuộc sống. Đặc biệt, khi trẻ chuẩn bị vào lớp một, các bậc phụ
huynh lại luôn lo lắng liệu rằng con mình có đủ sức khỏe và khả năng để theo học
thật tốt cùng các bạn ở trường tiểu học hay không.
Đối với giáo viên mầm non: GV thường lo lắng đối với những trẻ có một số vấn
đề về hành vi và khả năng tập trung trong những năm tháng đầu tiên trẻ đến trường.
Đơn giản là vì những trẻ này thường không có khả năng chờ đến lượt, không biết chú
ý lắng nghe và làm việc theo nhóm, điều này làm cho trẻ không thể tập trung lĩnh hội
những điều cô giáo dạy. Vì vậy, giáo viên phải tốn rất nhiều thời gian vào đầu năm


học để giúp trẻ có được những KNS cơ bản ở trường mầm non giúp trẻ ổn định nề
nếp nhóm lớp và có các thói quen tốt trong sinh hoạt hàng ngày.
2. Cơ sở thực tiễn:
Đối với trẻ mầm non 5 tuổi: Đây là giai đoạn trẻ học, tiếp thu, lĩnh hội
những giá trị sống để phát triển nhân cách, đồng thời trẻ rất dễ bộc lộ cảm xúc, chưa
có nhiều kỹ năng ứng phó với căng thẳng và cảm xúc, vốn hiểu biết về thế giới xung
quanh còn nhiều hạn chế do đó nhiều trẻ còn thụ động, không biết ứng phó với các
tình huống nguy cấp, không biết tự bảo vệ mình trước nguy hiểm hoặc tìm kiếm sự
giúp đỡ từ người khác….Do đó, việc dạy KNS cho trẻ là rất cần thiết bởi KNS thúc
đẩy sự phát triển cá nhân trẻ, giúp trẻ có nhận thức đúng và hành vi ứng xử phù hợp
ngay từ độ tuổi mầm non.


Một tập thể trẻ có KNS tốt sẽ tạo nên môi trường sống ấm áp, hoà thuận, vui
vẻ và phát triển ở nhóm lớp. Vì vậy tôi chọn đề tài một số biện pháp giáo dục kỹ
năng sống cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuôi ở trường mầm non.
II. Giải quyết vấn đề.
1 . Thuận lợi :
Trường, lớp có không gian hoạt động an toàn cho trẻ, có đủ đồ dùng đồ chơi cần
thiết trong các hoạt động giáo dục.
Trẻ khoẻ mạnh và rất hào hứng , sôi nổi với các hoạt động do cô tổ chức, lĩnh hội
nhanh các kiến thức cô giáo truyền đạt.
Phụ huynh luôn quan tâm đến trẻ, tích cực tham gia vào các hoạt động của nhà
trường, của nhóm lớp.
Giáo viên có trình độ chuyên môn, được tập huấn về nội dung dạy kỹ năng sống
cho trẻ mầm non do Phòng giáo dục tổ chức và qua các buổi bồi dưỡng chuyên môn
tại trường, tích cực nghiên cứu tài liệu về giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non.
2. Khó khăn :
Trình độ nhận thức của trẻ không đồng đều do là lớp ghép 2 độ tuổi, do đó cùng
một thời gian và biện pháp dạy trẻ các nội dung KNS nhưng kết quả trên trẻ đạt chưa

tương đương với nhau.
Một số trẻ nhút nhát nên không tự tin khi tham gia vào các hoạt động ,một số trẻ
lại quá hiếu động nên khi hoạt động chưa chú ý vào sự hướng dẫn của cô, kỹ năng
sống của trẻ còn nhiều hạn chế.
Sự quan tâm của gia đình dành cho các cháu là không đồng đều, 100% phụ huynh
là nông thôn . Một số phụ huynh đi làm ăn xa để các cháu ở nhà với các anh chị hoặc
ông bà đã già, thời gian phụ huynh quan tâm đến trẻ còn ít, không dành thời gian trò
chuyện để tìm hiểu tâm tư nguyện vọng của trẻ để giáo dục trẻ mà chỉ biết chiều theo
mọi đòi hỏi của trẻ, trẻ được đáp ứng quá đầy đủ về nhu cầu trẻ cần. Ví dụ: trẻ chỉ
cần đòi mua đồ dùng nào đó là được đáp ứng ngay mà không biết điều đó có phù hợp
với hoàn cảnh kinh tế của bố mẹ hay không, khi được món đồ chơi đó trẻ cũng không
biết cảm ơn bố mẹ….Đây cũng là một trong những nguyên nhân làm cho trẻ thiếu
KNS.
Mặc dù nhà trường đã hỗ trợ và đầu tư, tuy nhiên kinh phí trong việc tổ chức một số
các hoạt động ngoại khoá vào các ngày lễ, ngày tết nhằm dạy KNS cho trẻ còn hạn
chế và chưa thường xuyên.
3. Biện pháp thực hiện :
3.1. Nâng cao nhận thức về việc dạy trẻ kỹ năng sống cho giáo viên mầm non.
Trong những năm học trước, giáo viên chủ nhiệm các lớp thường tự tìm hiểu các
kiến thức, phương pháp giáo dục kỹ năng cho trẻ một cách riêng lẻ nên có một số
giáo viên chưa tích cực tự bồi dưỡng do đó hiểu chưa sâu về sự cần thiết phải dạy kỹ
năng sống cho trẻ, chưa biết cần phải có phương pháp nào để kết quả dạy là tốt nhất.
Do đó, đầu năm học tôi đề nghị với Ban giám hiệu nhà trường mua bổ xung 1 số
tài liệu có nội dung giáo dục KNS cho trẻ mầm non cho tất cả giáo viên( Vd: tài liệu “
Giáo dục giá trị sống và kỹ năng sống cho trẻ mầm non”….). Đồng thời, tôi đã tổ
chức thảo luận với giáo viên trong tổ,trong trường về thực trạng và giải pháp ở đơn vị
trong việc dạy trẻ các KNS cần thiết, qua đó giúp giáo viên hiểu được rằng chương


trình học thường cho trẻ tiếp xúc từ từ với các kiến thức trong suốt năm học, và thực

tế trẻ sẽ học tốt nhất khi có được cách tiếp cận một cách cân bằng, giáo viên biết cách
phát triển các kỹ năng nhận thức, cảm xúc và xã hội của trẻ. Vì thế, khi trẻ tiếp thu
được những kỹ năng giao tiếp xã hội và các hành vi ứng xử cơ bản trong nhóm bạn,
thì trẻ sẽ nhanh chóng sẵn sàng và có khả năng tập trung vào việc học một cách tốt
nhất.
3.2. Xác định những KNS cơ bản cần dạy trẻ
Việc xác định được các kỹ năng cơ bản phù hợp với lứa tuổi sẽ giúp giáo viên lựa
chọn đúng những nội dung trọng tâm để dạy trẻ ở lớp mình phụ trách.
Đối với tâm sinh lý trẻ em dưới sáu tuổi thì có nhiều kỹ năng quan trọng mà trẻ cần
phải biết trước khi tập trung vào học văn hoá. Thực tế kết quả của nhiều nghiên cứu
đều cho thấy các kỹ năng quan trọng nhất trẻ cần được giáo dục chính là những KNS
như:
- Nhóm kỹ năng tự tin: Nhận biết , thể hiện cảm xúc, suy nghĩ cá nhân với mọi người.
- Nhóm kỹ năng hợp tác: Kỹ năng tổ chức hoạt động, làm việc theo nhóm,kỹ năng ra
quyết định, giải quyết vấn đề.
- Nhóm kỹ năng nhận thức về bản thân: Kỹ năng tự bảo vệ trước những tình huống
nguy hiểm, nhận biết về giá trị bản thân.
- Nhóm kỹ năng giao tiếp và quan hệ xã hội: kỹ năng ứng xử phù hợp với người xung
quanh, kỹ năng hợp tác, kỹ năng nhận và hoàn thành nhiệm vụ, kỹ năng tuân thủ các
quy tắc xã hội, giao tiếp lịch sự và lễ phép, kỹ năng tự phục vụ.
- Nhóm kỹ năng học tập : Ý thức trách nhiệm, Kỹ năng thiết lập và thực hiện mục
tiêu.
Để xác định được những kỹ năng này tôi cần đọc, nghiên cứu tài liệu bồi dưỡng
thường xuyên cho giáo viên mầm non và các tài liệu khác về giáo dục kỹ năng sống
cho trẻ do các nhà xuất bản có uy tín phát hành.
3.3. Cụ thể hóa những biện pháp để giáo dục kỹ năng sống cho trẻ.
3.3.1. Hình thành kỹ năng tự tin:
- Theo Dale - một nhà văn, nhà thuyết trình nổi tiếng của Mỹ thì “Nếu bạn thật sự tin
tưởng chính mình, nhất định sẽ đạt được ước mơ, bạn có thể bước trên đường bằng
phẳng mà người khác cũng sẽ cần bạn hơn”. Vì vậy, một trong những kỹ năng đầu

tiên mà tôi cần chú tâm là phát triển sự tự tin, lòng tự trọng của trẻ. Nghĩa là giúp trẻ
cảm nhận được mình là ai, cả về cá nhân cũng như trong mối quan hệ với những
người khác,trẻ tự tin làm theo ý tưởng, tự tin bày tỏ cảm xúc của mình với người khác
mà không e ngại. KNS này giúp trẻ nhanh chóng thực hiện được mong muốn của
mình đồng thời có khả năng hòa nhập với cộng đồng.
- Những biện pháp tôi sử dụng để phát triển sự tự tin ở trẻ là:
+ Luôn tôn trọng, giúp trẻ xây dựng hình tượng tốt của chính mình: Từ đặc điểm sự
tự tin của trẻ bắt nguồn từ lòng tự tôn, một trẻ không có sự tự tôn thì không thể có sự
tự tin. Do đó , tôi luôn tôn trọng trẻ, cổ vũ và khích lệ những khả năng của trẻ mọi lúc
mọi nơi một cách kịp thời.
Ví dụ: khi trẻ xung phong lên hát trước cả lớp, tôi sẽ khen ngợi là trẻ rất giỏi, rất
mạnh dạn…để lần sau trẻ muốn và không e ngại khi biểu diễn trước đám đông…..


+Nói cho trẻ biết “con có thể làm được”: Tôi dùng lời động viên trẻ một cách chân
thành, không quá lời khen, nghĩ một đường nói một nẻo. Và trong mọi việc tôi luôn
nói “ con có thể làm được” để dần củng cố niềm tin vào bản thân cho trẻ.
Ví dụ:Trong giờ thể dục, một sốtrẻ sợ độ cao nên không dám trèo lên xuống thang,
tôi không ép buộc trẻ phải thực hiện hoạt động đó ngay lập tức mà sẽ khuyến khích
trẻ với lời động viên “ con có thể trèo được…”để trẻ tự tin thể hiện bản thân mình
trước các bạn.
+Bồi dưỡng tài năng đặc biệt cho trẻ : Tài năng đặc biệt cũng có thể làm tăng
thêm sự tự tin cho trẻ. Tôi căn cứ vào sở thích, niềm đam mê của trẻ để bồi đắp sở
trường đặc biệt của trẻ.
Ví dụ: trẻ có khả năng vẽ đẹp tôi sẽ tạo nhiều cơ hội ở lớp để trẻ được thể hiện
sở trường của mình như vẽ trong các góc, trang trí lớp cùng cô... Đồng thời trao đổi
với phụ huynh cho trẻ tham gia các lớp vẽ ngoại khóa để nâng cao tài năng cho trẻ….
+Cho phép trẻ mắc sai lầm: Một đứa trẻ nếu không phạm sai lầm sẽ không thể
trưởng thành. Cho nên, khi trẻ mắc sai lầm tôi luôn lưu tâm đến sai lầm đó để trao đổi
thân thiện, cởi mở với trẻ giúp trẻ hiểu rằng ai cũng có thể mắc sai lầm nhưng điều

quan trọng nhất là biết sửa chữa và không bao giờ mắc phải sai lầm đó nữa. Đồng
thời không phê bình hay chê bai trẻ quá thẳng thắn sẽ làm trẻ mất hứng thú và tự ti về
bản thân mình.
Ví dụ: khi trẻ tranh giành đồ chơi với bạn, tôi sẽ hỏi trẻ xem vì sao lại như vậy, tôi
bày ra các trò chơi với món đồ chơi đó để 2 trẻ cùng được chơi với nhau. Sau đó hỏi
2 trẻ xem chơi cùng nhau như vậy có vui hơn là tranh giành nhau không và giáo dục
trẻ lần sau nên chơi đoàn kết với bạn bè ...
+ Quy định hành vi : Đầu năm học tôi đề ra 1 số quy định phù hợp với lớp học
nhằm đạt được mục tiêu chăm sóc giáo dục trẻ, tạo thói quen nề nếp tốt cho trẻ. Yêu
cầu trẻ trong lớp thực hiện theo các nội quy đó để tạo tính chủ động và làm việc có kế
hoạch cho trẻ trong lớp
Ví dụ : Đến giờ thể dục sáng, tôi hỏi trẻ các con nhìn lên lịch xem hoạt động
đầu tiên trong ngày hôm nay là gì? Và cho trẻ cùng chuẩn bị hoạt động đó với cô...
+ Tổ chức một số hoạt động khác để phát triển sự tự tin của trẻ :
Tôi có thể trò chuyện với trẻ với những câu hỏi như tự tin là gì? Khi con tự tin
con cảm thấy như thế nào? Khi không tự tin con cảm thấy ra sao? Hoặc sử dụng
những câu hỏi gắn với thực tế của trẻ như “ con hãy kể những việc con muốn tự làm,
Con học cách làm này như thế nào? Hãy kể những việc con tự làm, Khi tự làm con
cảm thấy như thế nào?”. Qua hoạt động trò chuyện đó giúp trẻ hiểu rằng khi trẻ tự tin
là khi trẻ mạnh dạn nói , làm, thể hiện cảm xúc và suy nghĩ của mình với mọi người.
Nếu trẻ tự tin ở mình thì kết quả hoạt động của trẻ sẽ đạt tốt hơn.
Tạo cơ hội cho trẻ được trải nghiệm: để trẻ tự làm mọi việc cho bản thân mình
càng nhiều càng tốt( Vd: tự lấy đồ dùng học tập, hoặc dạy trẻ cách nhờ 1 người bạn
khác giúp đỡ mình 1 việc gì đó..)
3.3.2. Hình thành kỹ năng hợp tác:
- Ca dao tục ngữ Việt Nam có câu “ Một cây làm chẳng nên non
Ba cây chụm lại nên hòn núi cao”
Vì vậy việc giáo dục kỹ năng hợp tác cho trẻ mầm non là rất cần thiết. Bởi trẻ
mầm non còn nhỏ, có nhiều việc không thể tự làm được nếu không có người khác



giúp đỡ. Khi trẻ được bạn giúp đỡ và khi trẻ giúp đỡ được bạn trẻ sẽ nhanh chóng
hoàn thành nhiệm vụ của mình. Qua đó trẻ có niềm vui, có bạn bên cạnh để chia sẻ
công việc, giúp phát triển kỹ năng và tình cảm xã hội của trẻ.
- Để giáo dục kỹ năng hợp tác cho trẻ tôi luôn tạo cơ hội cho trẻ chơi và làm
việc theo nhóm với các trẻ khác trong tất cả các hoạt động.
Ví dụ: Cho trẻ thảo luận theo tổ để cùng nhau nhận xét về đặc điểm của 1 đối
tượng nào đó trong các hoạt động, tạo những cảm nhận giúp trẻ tôn trọng những
quyền lợi của trẻ khác qua việc chia sẻ, hướng dẫn trẻ cư xử lịch sự với bạn khác.
- Tổ chức 1 số hoạt động phát triển kỹ năng hợp tác như:
+ Thảo luận về sự hợp tác: Trò chuyện với trẻ có sử dụng câu hỏi như “Con
và bạn đã cùng nhau làm những việc gì?Trò chơi nào con thích hơn khi có bạn cùng
chơi? Tại sao con phải hợp tác với bạn, một mình con có làm được việc này không?
Điều gì con cảm thấy vui khi hợp tác?....Qua việc trò chuyện giúp trẻ hiểu hợp tác là
có nhiều người cùng thực hiện 1 việc gì đó, cùng vui thích khi làm việc.
+ Trò chơi “ đôi bạn hợp tác”: Cho trẻ tìm thêm 1 bạn để ghép đôi với nhau.
Các đôi ngồi quay mặt vào nhau, nắm lấy tay nhau, cùng ngồi xuống hoặc cùng đứng
lên mà không buông tay nhau ra.
+ Trò chơi “ Những chiếc tháp tập thể”: Yêu cầu trẻ ngồi xung quanh 1 cái bàn
và đưa cho trẻ những khối đồ chơi có hình dáng và kích thước khác nhau. Nhiệm cụ
của trẻ là xếp những khối đó thành 1 cái tháp càng cao càng tốt.
+ Trưng bày các hình ảnh sưu tập: có nội dung mọi người cùng chơi, làm việc
với nhau và cho trẻ thảo luận nội dung của các hình ảnh đó.
+ Cho trẻ tập đóng kịch: theo nội dung các câu chuyện trong chương trình
giáo dục mầm non: Đóng kịch “Nhổ củ cải”( có các cảnh mọi người hợp tác với
nhau để nhổ được củ cải)…Đóng kịch theo bài thơ “ gấu qua cầu”, theo truyện “đôi
bạn tốt”…
3.3.3. Hình thành kỹ năng tự nhận thức bản thân :
- Kỹ năng tự nhận thức là trẻ tự nhận diện về bản thân, phát triển quan niệm
tích cực về bản thân. Trẻ nhận thức sự khác nhau giữa các trẻ, nhận thức mỗi cá nhân

có điểm riêng biệt cần được tôn trọng, phát triển những suy nghĩ tích cực về bản thân
trẻ. Kỹ năng tự nhận thức giúp trẻ hiểu đúng mình là ai? Trẻ yêu gì? Điểm mạnh và
sở thích của mình là gì để kết nối chúng vào những lĩnh vực liên quan và phát huy
chúng một cách tối đa. Trẻ nhận ra điểm yếu của mình cũng giúp trẻ dự đoán được
những khó khăn trong quá trình hoạt động từ đó tìm ra cách khắc phục khó khăn đó.
- Để hình thành kỹ năng tự nhận thức tôi đã thực hiện 1 số biện pháp sau:
+Trò chuyện giúp trẻ tìm hiểu về bản thân thông qua 1 số câu hỏi như: Con là
ai? Con thấy mình có những tính tốt đẹp nào? Con thích gì và không thích gì? Con có
mong muốn gì? Con sẽ làm gì để đạt được mong muốn đó?con có những điểm gì
khác với bạn?.....
+ Chấp nhận sự đa dạng của trẻ và giúp trẻ chấp nhận lẫn nhau: Tôi luôn tôn
trọng cá tính của từng cá nhân trẻ trong lớp, đồng thời có biện pháp giáo dục để hạn
chế điểm yếu, phát huy điểm mạnh của trẻ. Tôi nhận thấy rằng khi tôi tôn trọng tất cả
các trẻ thì trẻ trong lớp sẽ noi gương theo cô, biết tôn trọng các bạn lớp mình.
Ví dụ: Trong lớp có một cháu bị khuyết tật, trẻ trong lớp không chơi cùng với
bạn đó, tôi sẽ trò chuyện để các cháu thấy rằng bạn đó có rất nhiều điểm tốt như


ngoan, chăm đi học, bạn hát hay…các con cần quan tâm giúp đỡ và chia sẻ với bạn.
Đồng thời, bản thân tôi cũng luôn đối xử công bằng , yêu thương , tôn trọng trẻ đó để
trẻ trong lớp noi theo.
+ Đặt yêu cầu cao cho các trẻ và khích lệ trẻ hoạt động để đạt mục tiêu đó:
Tôi luôn đặt yêu cầu cao cho tất cả các trẻ trong lớp, Với sự hướng dẫn của tôi, từng
trẻ đã có khả năng tham gia hầu hết các hoạt động . Trong bất kì hoạt động nào tôi
cũng khuyến khích để kích thích tính tò mò khám phá của trẻ chứ không ép buộc mọi
trẻ phải tham gia. Tôi gợi ý để trẻ thử thách với chính mình. Thay vì cạnh tranh với
trẻ khác, tôi khuyến khích trẻ cạnh tranh với chính mình.
Ví dụ: Nhảy xa sử dụng thước dây, xếp hình bằng đồng hồ bấm giây…lần sau tốt
hơn lần trước…
+ Giúp trẻ đạt được thành công nhất định trong lớp học: Thành công là một

trong những yêu tố quan trọng tác động đến sự phát triển ý thức bản thân. Trẻ ở lứa
tuổi này cần trải qua thành công( theo khả năng của trẻ) để trẻ có cảm giác tự tin rằng
mình làm được những điều tốt. Thực tế , có một số trẻ sợ thất bại đến nỗi không dám
thử một hoạt động nào đó, lúc này tôi sẽ giúp trẻ đạt được thành công trong việc đó
từng bước một đồng thời khen ngợi khả năng đó để trẻ thêm tự tin vào mình. Trẻ sẽ
tự hào về thành công của mình nếu cô giáo cho trẻ thấy rằng cô tự hào về trẻ.
+ Tổ chức một số hoạt động, trò chơi phát triển kỹ năng tự nhận thức cho trẻ:
Ví dụ: Hoạt động “ soi gương”: Giúp trẻ tự quan sát, cảm nhận về hình dáng
của mình bằng cách cho trẻ tự ngắm mình trong gương với các động tác như làm
điệu, đội mũ, mặc quần áo…. . lúc đó tôi có thể hỏi trẻ: Con thấy ai trong gương,
người trong gương có dáng yêu không?
Hoạt động “Hái hoa dân chủ”:Trẻ chọn 1 bông hoa theo ý thích trong đó có
nội dung “ Hãy nói cho chúng tôi về….”( có thể là gia đình, đồ chơi bạn thích, món
ăn bạn thích…) và tôi sẽ đọc to câu hỏi đó cho cả lớp nghe, trẻ hái hoa sẽ nói về điều
đó theo hiểu biết của mình.
Hoạt động “ Tôi có thể vẽ”:Tôi tạo ra 1 tờ giấy lớn và dán lên tường. Tôi cổ
vũ trẻ vẽ hay dán bất cứ thứ gì trẻ có thể làm được vào đó để trẻ cả lớp tạo thành bức
tranh tổng hợp lớn. Với hoạt động này trẻ sẽ thấy được sự phát triển tiến bộ của bản
thân qua từng giai đoạn.
Hoạt động “ có điều gì trong một cái tên”: Trẻ nhỏ thường rất tự hào về cái tên
của mình, do đó tất cả hoạt động nào liên quan đến cái tên của trẻ đều làm trẻ hứng
thú. Hầu hết bố mẹ đặt tên cho con đều có 1 ý nghĩa, yêu cầu trẻ hỏi bố mẹ về điều
này, sau đó tôi phát cho mỗi trẻ 1 tờ giấy và bút màu để trẻ có thể vẽ lại điều đó vào
bức tranh và trang trí cho tranh của mình. Khi đã thực hiện xong có thể cho trẻ diễn tả
lại ý nghĩa của bức tranh mà trẻ đã vẽ.
3.3.4. Hình thành kỹ năng giao tiếp và quan hệ xã hội:
- Trẻ mầm non cần phải học rất nhiều trong những năm đầu đời : học cách làm
chủ ngôn ngữ, học cách nhận biết và đối phó với cảm xúc của mình cũng như của
người khác, học cách tin vào mình và can đảm để khám phá thế giới rộng lớn xung
quanh. Nếu trẻ không đạt được năng lực xã hội tối thiểu vào khoảng 6 tuổi thì trẻ có

thể gặp khó khăn trong suốt cuộc sống sau này
- Phát triển kỹ năng này là một nhiệm vụ phức tạp đối với trẻ. Yêu cầu trẻ biết
ứng xử theo quy tắc xã hội, biết tạo các mối quan hệ cũng như tương tác với cảm giác


thoải mái với những người khác đồng thời biết điều chỉnh hành vi phù hợp với hoàn
cảnh. Để giáo dục tốt cho trẻ nội dung này tôi thực hiện 1 số biện pháp sau:
+ Dạy trẻ học cách kiểm soát xung đột và điều chỉnh hành vi của mình:
Tôi làm cầu nối giúp trẻ biểu lộ cảm xúc của mình và biết lắng nghe ý kiến
của người khác. Nếu trẻ bất hòa với bạn khác tôi thường chỉ cho trẻ thấy trẻ chưa
đúng ở điểm nào, điểm nào cần khắc phục và điểm tốt nào cần phát huy. Cho trẻ thấy
những mối bất hòa thường dẫn đến những cảm xúc tiêu cực như tức giận, sợ hãi, còn
nếu chơi đoàn kết với bạn sẽ tạo nên nhưng tình cảm tốt đẹp và tinh thần thoải mái,
vui vẻ…
Ví dụ: Có 2 trẻ đánh nhau, điều đầu tiên cần làm là hỏi hai trẻ lý do vì sao lại
như vậy để từng trẻ có cơ hội thể hiện suy nghĩ bằng lời nói về sự việc đó. Sau đó
giải thích cho trẻ hiểu bạn nào đúng, bạn nào chưa đúng. Giáo dục trẻ lần sau chơi
đoàn kết với bạn hơn.
+ Dạy trẻ cách giải quyết vấn đề: Mỗi tình huống khó khăn mà trẻ gặp phải sẽ
có tác dụng giúp trẻ lĩnh hội được kinh nghiệm sống thông qua việc tìm cách giải
quyết vấn đề đó. Cho nên với mỗi tình huống xảy ra hàng ngày tôi đều tận dụng cho
trẻ quan sát và gợi ý để trẻ tìm ra cách giải quyết một cách nhanh chóng và hiệu quả
nhất.
Ví dụ: khi trẻ làm lăn đồ dùng vào gậm tủ mà tay không với tới được, tôi gợi
ý để trẻ biết dùng gậy để lấy đồ dùng đó ra…
+Tạo cơ hội cho trẻ tham gia vào các mối quan hệ với trẻ khác: Nếu trẻ tương
tác với nhau một cách phù hợp, qua đó trẻ sẽ học được các quy tắc ứng xử trong xã
hội. Vì vậy, tôi thường xuyên tổ chức các hoạt động tập thể cho trẻ trong lớp như tổ
chức sinh nhật, biểu diễn văn nghệ tổng hợp cuối chủ đề, hoạt động góc…để các trẻ
được làm việc theo nhóm với nhau.

Trong quá trình hoạt động luôn khuyến khích
trẻ giao tiếp thỏa thuận với bạn cùng chơi,biểu lộ mong muốn một cách thích hợp,
biết giúp đỡ bạn trong khi chơi.
+ Tổ chức 1 số trò chơi :
Giúp trẻ biết lắng nghe người khác nói. Ví dụ: Hoạt động“ điện thoại bạn bè”: Cho
2 trẻ chơi gọi điện cho bạn ( 2 bạn ở gần nhau). Theo dõi quá trình trò chuyện của trẻ.
Sau đó hỏi trẻ : Hai người cùng nói 1 lúc thì có nghe rõ điều gì không? Khi nào con
nghe thấy tiếng bạn? Con cảm thấy thế nào khi nghe được, khi không nghe được?
Giúp trẻ biết quan tâm và chia sẻ với người khác. Ví dụ: Hoạt động“ chúc bạn
chóng khỏe”: Nếu trong lớp có 1 trẻ bị ốm không đến lớp được, Tôi sẽ tổ chức cho
trẻ cả lớp làm 1 tấm thiệp để gửi lời thăm hỏi và chúc bạn nhanh khỏe rồi gửi tới bạn
bị ốm…
3.3.5. Hình thành kỹ năng học tập:
Mặc dù những kiến thức mà trẻ học ở trường mầm non chỉ là sơ đẳng nhưng
có vai trò rất quan trọng, là nền tảng vững chắc cho việc học văn hóa ở trường phổ
thông sau này. Với trẻ ở lớp tôi, trong mỗi hoạt động tôi đều xác định cụ thể mục tiêu,
hướng dẫn cụ thể nội dung, gợi ý cách thực hiện và cho trẻ trao đổi cách thực hiện
với các bạn để trẻ tìm ra cách thực hiện của riêng mình, đồng thời tôi cũng khuyến
khích và tuyên dương kịp thời sự sáng tạo của trẻ, giúp đỡ những trẻ thực hiện kém,
động viên trẻ cố gắng hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao với tâm trạng thoải mái và
hứng thú nhất.


Ví dụ: Trong hoạt động tạo hình vẽ ngôi nhà (theo đề tài ). Tôi cho trẻ quan sát
và nhận xét 1 số tranh vẽ ngôi nhà đã chuẩn bị trước để gợi ý cách vẽ cho trẻ. Trong
quá trình trẻ thực hiện tôi bao quát để kịp thời tuyên dương những trẻ có sáng tạo như
biết vẽ thêm các chi tiết trang trí cho bức tranh, đồng thời giúp đỡ những trẻ chưa biết
cách thực hiện hoàn thành sản phẩm của mình.
Kết quả là đa số trẻ lớp tôi đã có ý thức trách nhiệm, có kỹ năng thiết lập và
thực hiện mục tiêu trong tất cả các hoạt động, nhất là trong các hoạt động học có chủ

đích.
3.5. Giúp trẻ phát triển các KNS qua việc tổ chức các hoạt động tập thể vui
tươi, lành mạnh trong nhà trường.
Nội dung phong trào“ Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”,
trong đó có nội dung: Nhà trường cần tổ chức các hoạt động văn nghệ, thể thao một
cách thiết thực, khuyến khích sự tham gia chủ động, tự giác của học sinh. Tổ chức
các trò chơi dân gian và các hoạt động vui chơi giải trí tích cực khác phù hợp với lứa
tuổi của học sinh.
Căn cứ vào nội dung trên, tôi đã xây dựng kế hoạch và thực hiện nhiều hoạt
động một cách thiết thực, khuyến khích sự tham gia chủ động, tự giác của trẻ. Cụ thể
như sau:
* Tham mưu với Ban giám hiệu nhà trường tổ chức cho giáo viên thi làm đồ
chơi dân gian; sáng tác bài hát, điệu múa thể loại dân ca cho trẻ ở lứa tuổi mầm non.
* Tổ chức các hội thi, các hoạt động văn nghệ, vui chơi giải trí tích cực khác
phù hợp với lứa tuổi của trẻ mầm non. Huy động và tạo điều kiện để có sự tham gia
hoạt động đa dạng và phong phú của cha mẹ trẻ em, các tổ chức, lực lượng xã hội, cá
nhân trong việc giáo dục văn hóa, truyền thống, giáo dục lòng yêu nước cho trẻ. ( Ví
dụ:tăng cường cho trẻ chơi các trò chơi dân gian trong giờ hoạt động ngoài trời vào
các ngày thứ tư, sáu; riêng chiều thứ hai hàng tuần, trẻ được xem các kịch bản rối qua
các câu chuyện cổ tích, giao lưu hỏi đáp giữa các trẻ về nội dung các câu chuyện)
Cụ thể tôi đã tổ chức thực hiện các hoạt động nổi bật như sau:
- Tổ chức cho học sinh lớp 5-6 tuổi thi góc chơi “khám phá khoa học” theo chủ
đề bản thân, tôi lên tiết thực hành giúp trẻ trải nghiệm bằng các giác quan, những trải
nghiệm trong đời sống hàng ngày của trẻ .
- Tổ chức cho trẻ đến thăm nhà bạn trong chủ đề gia đình theo từng tổ, từng
nhóm trẻ. Hoạt động trên nhằm phối hợp với các bậc cha mẹ để có thể giúp trẻ phát
triển kỹ năng cảm xúc và xã hội bằng cách tạo ra các mối liên kết bạn bè tại gia đình.
- Tổ chức cho trẻ tham quan các công trình công cộng ( như trạm y tế, nhà
tưởng niệm Bác Hồ…) nhằm rèn luyện kỹ năng giao tiếp, giáo dục lòng yêu quê
hương đất nước con người.

- Tổ chức ngày hội “ Bánh chưng, bánh giày” lồng ghép giáo dục qua câu
chuyện lịch sử “Sự tích bánh chưng, bánh giày”. Hoạt động vui chơi giải trí này còn
dành thời gian cho học sinh thực hành chuyên đề “Bé tập làm nội trợ”qua hội thi gói
bánh chưng ngày tết.
- Tổ chức hội diễn văn nghệ mừng xuân cho trẻ tại các góc chơi với chủ đề “
Bé hát dân ca” thi “Trang phục dân gian”, tổ chức các gian hàng ẩm thực mùa xuân,
trò chơi dân gian, thi giải câu đố hay….


- Tổ chức cho trẻ tham quan, vui chơi các trò chơi dân gian trong dịp đầu xuân
như: Đập heo, lò cò, cướp cờ tại sân vận động hoặc nhà văn hoá xã, giúp trẻ có dịp
đến tham quan tìm hiểu nét văn hóa đặc trưng ở địa phương.
- Tổ chức hoạt động nghệ thuật cho trẻ qua hội thi “ Vẽ những điều mơ ước
cho mẹ”, tổ chức hoạt động phát triển tư duy qua một số hội thi có sự tham gia trực
tiếp của cha mẹ để cùng chơi với trẻ qua đó rèn luyện tính kiên nhẫn, kỹ năng hợp tác
với cha mẹ, ông bà để chiến thắng yêu cầu thử thách của luật chơi, phát triển kỹ năng
giao tiếp, kỹ năng sống tự tin, phát triển tình cảm, nhận thức ở trẻ.
3.5. Tạo môi trường thuận lợi để dạy trẻ KNS
Môi trường giáo dục có ảnh hưởng rất lớn đến kết quả giáo dục trẻ. Có môi
trường trong lớp và môi trường ngoài lớp học. Môi trường trong lớp như các góc hoạt
động, đồ dùng học tập… có tác dụng giúp trẻ lĩnh hội kiến thức và một số kỹ năng.
Môi trường ngoài lớp như góc thiên nhiên, vườn cây…giúp trẻ phát triển tình cảm xã
hội. Để có môi trường dạy kỹ năng sống tốt cho trẻ tôi thực hiện như sau:
* Tôi đã thực hiện kế hoạch giáo dục, kế hoạch đánh giá trẻ nhằm ghi chép
hàng ngày từng chi tiết về sự tiến bộ của trẻ, các mối quan hệ với cô, với bạn, ghi
chép những kỹ năng trẻ đạt được trong mỗi ngày làm căn cứ, thước đo để đánh giá
cuối mỗi độ tuổi, cuối giai đoạn phát triển của trẻ. Cũng từ biện pháp này, tôi có dữ
liệu, sản phẩm để đánh giá trẻ, đồng thời có cơ sở để thay đổi, bổ sung các biện pháp
giáo dục từng trẻ vì mỗi trẻ rất khác nhau và giúp trẻ sớm hình thành các kỹ năng
sống.

* Nhiều bậc cha mẹ rất e ngại khi tham gia vào quá trình giáo dục trẻ, hơn nữa
phần lớn cha mẹ thừơng lúng túng khi lựa chọn hình thức thực hiện. Tôi đã trang bị
các bảng thông tin dành cho phụ huynh, dán các nội dung cần phối hợp với phụ
huynh vào đó để các bậc cha mẹ có thể đọc, quan sát theo dõi dễ dàng giúp nhà
trường tuyên truyền đến cha mẹ của trẻ những kết quả giáo dục ở con mình, tạo điều
kiện cho giáo viên trao đổi hai chiều với các bậc cha mẹ những vấn đề có liên quan
đến trẻ, các thông tin của lớp, thông tin sức khỏe, ngược lại các bậc cha mẹ có thể ghi
chép những yêu cầu, đề nghị, thông tin cần trao đổi với giáo viên.
*. Nhằm tạo môi trường giúp giáo viên và các bậc cha mẹ tăng cường đọc sách
cho con trẻ. Tại lớp, tôi đã trang trí, sắp xếp góc thư viện và văn học, để nơi dễ hoạt
động với nhiều tên gọi khác nhau theo chủ đề : “Thư viện trường mầm non”; “tủ sách
gia đình”; “dinh dưỡng trẻ thơ”; “những con vật đáng yêu”; “hoa trái bốn mùa”; thiết
kế phân chia nhiều ngăn để sách, truyện nhiều kích cỡ, vừa tầm với của trẻ. Vận động
cha mẹ thừơng xuyên tặng sách cho góc thư viện của trẻ tại trường, tại lớp và ngay ở
gia đình.
*. Tham mưu với ban giám hiệu trang trí sân trường bằng các khẩu hiệu nhắc
nhở giáo viên, người lớn phải gương mẫu như: “Yêu thương, tôn trọng trẻ, giữ lời
hứa với trẻ”; “Mỗi cô giáo là tấm gương sáng về đạo đức, tự học, sáng tạo” bằng
chính hình ảnh giáo viên và học sinh của trường, đặc biệt chú ý đưa hình ảnh đẹp của
các trẻ hiếu động, cá biệt để từ đó giúp trẻ tự điều chỉnh hành vi, giúp trẻ thể hiện bản
thân và luôn biết giữ gìn, là điều kiện để khen ngợi sự cố gắng của trẻ.
3.6. Ứng dụng công nghệ thông tin trong giáo dục KNS cho trẻ:
Để việc giáo dục KNS gây hứng thú và đạt hiệu quả hơn cho trẻ tôi đã tìm và
sử dụng các hình ảnh trong quá trình giáo dục cho trẻ qua sát, (Vd: hình ảnh một bạn


cõng bạn bị khuyết tật đi học…để trẻ biết giúp đỡ người khác.), sử dụng những bài
học có hình ảnh ngộ nghĩnh về các hành vi, các kỹ năng cơ bản cần dạy trẻ, các câu
truyện, đoạn phim có nội dung giáo dục các kỹ năng sống cho trẻ xem và trò chuyện
với trẻ về nội dung các câu truyện đó.

3.7. Tuyên truyền, phối hợp với cha mẹ để thực hiện dạy trẻ các KNS.
Trước hết, cha mẹ và người lớn phải gương mẫu, yêu thương, tôn trọng, đối xử
công bằng với trẻ và đảm bảo an toàn cho trẻ.Ví dụ: Hướng dẫn và nhắc nhở trẻ đội
mũ bảo hiểm khi đi trên xe máy mỗi buổi đến trường, khi tham gia giao thông.
Tạo điều kiện tốt nhất cho trẻ vui chơi, tạo các tình huống mở để trẻ khám phá và giải
quyết.
Ví dụ: Có thể giới thiệu với trẻ về một số hiện tượng tự nhiên qua tranh
ảnh, bài hát, hoạt động vui chơi hay các tình huống thực gặp trong ngày( trời mưa,
cầu vồng…Từ đó giáo dục trẻ biết cách tránh mưa…)
Tạo mối liên kết với bạn bè cho trẻ khi ở gia đình: Có thể thấy, trẻ thường dễ
dàng kết bạn khi chơi theo đôi bạn trong môi trường của riêng chúng hơn là chơi
trong một nhóm bạn tại trường. Nhiều giáo viên thấy rằng, một số trẻ có khó khăn
trong việc kết bạn hoặc chia sẻ với bạn theo nhóm lớn, lại có thể hình thành mối liên
kết thân thiết với bạn mới trong môi trường gia đình của trẻ. Cha mẹ có thể giúp trẻ
phát triển kỹ năng cảm xúc và xã hội bằng cách tạo ra các mối liên kết bạn bè tại gia
đình. Cha mẹ hãy hỏi trẻ muốn mời ai về nhà chơi? Mối quan hệ này được trẻ duy trì
khi đến trường, khi có được mối liên kết với một trẻ nào đó trong lớp, các mối quan
hệ khác sẽ hình thành tiếp theo một cách dễ dàng hơn.
Liên tục đọc sách, trò chuyện, kể chuyện cho trẻ nghe : Người lớn nên đọc
sách cho trẻ nghe trong mọi tình huống như những giờ hoạt động góc ở một nhóm
nhỏ, hoặc đọc truyện cho trẻ nghe trong giờ trưa đối với những trẻ khó ngủ. Tăng
cường kể cho trẻ nghe các câu chuyện cổ tích qua đó rèn luyện đạo đức cho trẻ, giúp
trẻ hoàn thiện mình, biết đọc sách, dạy trẻ yêu thương bạn bè, yêu thương con người.
Tạo hứng thú cho trẻ nhỏ qua các truyện bằng tranh tùy theo lứa tuổi, gợi mở tính tò
mò, ham học hỏi, phát triển khả năng thấu hiểu ở trẻ. Ví dụ: Khi kể chuyện “ Ba cô
gái” tôi đặt những câu hỏi gợi mở như: Nếu là con khi hay tin mẹ bị ốm, con sẽ làm
gì? gợi mở tính tò mò thay đổi đoạn kết của truyện có hậu hơn, đặt tên khác cho câu
chuyện v,v….Trong gia đình, cha mẹ luôn phiên cùng anh chị lớn đọc sách cho trẻ
nghe, hoặc thống nhất giờ đọc sách của gia đình, vào giờ đó các thành viên trong gia
đình đều đọc sách, báo hoặc đọc một thứ gì đó của mình.

Khuyến khích trẻ nói lên sở thích, quan điểm của trẻ: Nói chuyện với các
thành viên trong lớp, trong gia đình về cảm giác và về những lựa chọn của mình, cố
gắng không chỉ trích các quyết định của trẻ. Việc này sẽ hình thành kỹ năng tự kiểm
soát bản thân, rèn luyện tính tự tin cho trẻ khi tham gia các hoạt động xã hội và các
buổi thảo luận sau này.
Ví dụ: Như trẻ thích vẽ, ngoài việc cho trẻ học năng khiếu vẽ thì tôi, cha mẹ có
thể cho trẻ thêm bút màu, giấy vẽ và hãy chỉ cho trẻ cách lưu giữ các bức tranh để tạo
thành một bộ sưu tập tranh vẽ của chính trẻ hoặc triển lãm tranh của trẻ ở góc nhỏ
trong nhà.
Cần dạy trẻ những nghi thức văn hóa trong ăn uống: Dạy trẻ biết cách sử
dụng các đồ dùng ăn uống. Việc này được thực hiện trong giờ học, giờ sinh hoạt hàng
ngày của trẻ tại lớp và trong bữa cơm gia đình. Cụ thể: Trẻ được làm quen với những


đồ dùng, vật dụng khác nhau, (bộ đồ bếp, bộ đồ ăn, bộ đồ uống). Sự sạch sẽ, gọn
gàng, một thói quen nề nếp, sự sắp đặt ngăn nắp, ngay ngắn những bộ đồ dùng, vật
dụng, thái độ, ăn uống từ tốn, không vội vã, không khí cởi mở, thoải mái và đầm ấm,
những cuộc trao đổi nhẹ nhàng, dễ chịu… tất cả những yếu tố trên sẽ giúp trẻ có thói
quen tốt để hình thành kỷ năng tự phục vụ và ý nghĩa hơn là kỹ năng sống tự lập sau
này.
III. Kết quả
1. Đối với trẻ:
- Trẻ biết kiểm soát cảm xúc, thể hiện tình yêu thương, đồng cảm với mọi
người xung quanh.
- Giáo dục kỹ năng sống giúp trẻ mạnh dạn, tự tin, tôn trọng người khác, có khả năng
giao tiếp tốt với mọi người.
- Giúp trẻ ham hiểu biết, sáng tạo, có những kỹ năng thích ứng với hoạt động
học tập ở lớp một như : sẵn sàng hòa nhập, vượt qua khó khăn để hoàn thành nhiệm
vụ…
2. Đối với cha mẹ trẻ:

Nhiều phụ huynh đã tích cực phối hợp với giáo viên trong việc ôn luyện, củng cố
cho trẻ, tích cực hưởng ứng ủng hộ nguyện vật liệu cho lớp
3. Đối với giáo viên:
- Giáo viên phải thực sự tâm huyết với nghề, say sưa học hỏi, tìm tòi, nghiên
cứu tài liệu để nắm chắc mục đích yêu cầu, nội dung nhiệm vụ của bộ môn.
- Chuẩn bị chu đáo giáo trình giảng dạy trước khi lên lớp.
- Có tâm thế tốt trước khi lên lớp để tạo giờ học vui vẻ, thoải mái, xử lý tình
huống kịp thời.
- Tạo đồ dùng phù hợp, hấp dẫn và sử dụng linh hoạt, hợp lý tạo bất ngờ, hứng
thú cho trẻ.
- Lựa chọn, ứng dụng các trò chơi hay, phù hợp, hấp dẫn vào tiết học tạo hứng
thú, phát huy trí thông minh cho trẻ.
- Cô giáo sử dụng ngôn ngữ sư phạm mẫu mực, phát âm, sử dụng từ ngữ chuẩn.
- Tạo môi trường chữ viết phong phú, đa dạng để kích thích trẻ làm quen với chữ
cái say mê.
- Bám vào nội dung yêu cầu dạy trẻ đúng trọng tâm của bài dạy ,tích hợp các
môn học khác vào tiết học một cách hợp lý nhằm đem lại kết quả cao, ngôn ngữ diễn
đạt của cô ngắn gọn cụ thể ,cô phát âm mẫu chính xác rõ ràng, lời giới thiệu bài
- Tôi thường xuyên gần gũi ,quan tâm đến trẻ nhút nhát ,đặc biệt trong giờ học
tôi hay khen trẻ trước cả lớp mặc dù cháu làm chưa đúng lắm, động viên khích lệ trẻ
khi trẻ gặp khó khăn trong học tập. Đầu tiên tôi cho trẻ những câu hỏi dễ, sau đó mức
độ khó tăng dần,cho trẻ được nói nhiều hơn.
IV. Bài học kinh nghiệm


- Cần quan tâm gần gũi trẻ khuyến khích để trẻ chủ động phát huy tính độc lập
trong bộ môn và tập luyện bồi dưỡng thêm cho trẻ.
- Cho trẻ ôn luyện mọi nơi, cho trẻ.
- Cần làm tốt công tác phối hợp với phụ huynh và Ban giám hiệu nhà trường
hỗ trợ cơ sở vật chất.

- Không ngừng bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ để học hỏi, trao dồi kinh
nghiệm với các bạn đồng nghiệp để đưa ra những hình thức tổ chức mới, sáng tạo áp
dụng trong công tác chăm sóc và giảng dạy được tốt.
V. Tài liệu tham khảo
Sử dụng sách chương trình mầm non mới.
Trên đây là một số biện pháp hữu ích nhằm giúp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ
mẫu giáo 5 - 6 tuôi ở trường mầm non. Tôi rất mong được sự ủng hộ của các đồng
nghiệp và của các cấp lãnh đạo.
Tôi xin chân thành cảm ơn !

HỘI ĐỒNG THẨM ĐỊNH

Người viết
Nguyễn
Hồng Ân



×