Tải bản đầy đủ (.doc) (90 trang)

BÀI GIẢNG MÔN CHÍNH TRỊ HỆ CAO ĐẲNG NGHỀ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (480.05 KB, 90 trang )

Bài giảng Môn học Chính trị (Hệ cao đẳng Nghề)

BÀI MỞ ĐẦU
ĐỐI TƯỢNG, CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ MÔN HỌC CHÍNH TRỊ
1 - ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU, HỌC TẬP
Môn học Chính trị nghiên cứu những quy luật chung nhất của hoạt động chính trị, cơ
chế tác động, những phương thức sử dụng để hiện thực hóa những quy luật chung đó;
nghiên cứu hoạt động của các đảng phái và chính quyền, các tổ chức chính trị; các giai cấp
và các mối quan hệ về chính trị giữa các lực lượng đó của các chế độ xã hội.
Mục đích của môn học Chính trị là trang bị cho người học nhận thức cơ bản về chủ
nghĩa Mác – Lênin; tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; đường lối, chủ trương,
chính sách của ĐCS Việt Nam; về truyền thống quý báu của dân tộc và giai cấp công nhân
Việt Nam; góp phần bồi dưỡng nhận thức tư tưởng, giáo dục niềm tin vào sự lãnh đạo của
Đảng và định hướng trong quá trình học tập, rèn luyện cho người học.
2 - CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ CỦA MÔN HỌC CHÍNH TRỊ
- Chức năng nhận thức khoa học: giúp người học hiểu biết hệ thống tri thức về nền
tảng tư tưởng của Đảng và của cách mạng, nội dung hoạt động lãnh đạo, quản lý và xây
dựng của Đảng, Nhà nước ta.
- Chức năng giáo dục tư tưởng, tình cảm cách mạng: Môn học Chính trị có chức
năng giáo dục tư tưởng chính trị, tham gia vào việc giải quyết những nhiệm vụ hiện tại; giáo
dục niềm tin vào sự phát triển của cách mạng Việt Nam, có tác dụng quan trọng đối với việc
trau dồi thế giới quan, phương pháp luận khoa học, xây dựng niềm tin vào thắng lợi của
cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng. Từ đó có quyết tâm phấn đấu thực hiện
đường lối, chủ trương chính sách của Đảng.
Nhiệm vụ nghiên cứu là: các hoạt động xây dựng chế độ và hoạt động của hệ thống
chính trị ở nước ta; nghiên cứu nền tảng tư tưởng của Đảng và của cách mạng nước ta; cung
cấp những hiểu biết cơ bản về Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối
lãnh đạo của Đảng, những truyền thống quý báu của dân tộc và của giai cấp công nhân Việt
Nam.
Người học nghề sau khi học xong môn Chính trị cần đạt được:
- Về kiến thức: Nắm được nội dung cơ bản của Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ


Chí Minh, đường lối lãnh đạo của Đảng, những truyền thống quý báu của dân tộc và của
giai cấp công nhân Việt Nam và của Công đoàn Việt Nam.
- Về kỹ năng: Vận dụng kiến thức đã học để rèn luyện trở thành người lao động mới
có phẩm chất chính trị vững vàng, có đạo đức tốt và năng lực công tác, góp phần thực hiện
thắng lợi sự nghiệp CNH – HĐH đất nước.
- Về thái độ: Có tư tưởng, tình cảm tốt đẹp; có ý thức trách nhiệm thực hiện đường
lối của Đảng, pháp luật Nhà nước và hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
3 – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ Ý NGHĨA HỌC TẬP
- Phương pháp:
Phát huy tính chủ động của thầy và tính tích cực của trò. SV phải liên hệ với thực
tiễn, tự nghiên cứu, thảo luận, liên hệ thực tiễn, thảo luận tích cực, cung cấp cho nhau các tri
thức trong quá trình học tập.
Cần áp dụng các phương pháp giảng dạy và học tập tích cực để môn học không khô
khan mà thiết thực và có hiệu quả.
Có thể tổ chức cho sinh viên thảo luận, xem băng hình, phim tư liệu lịch sử, chuyên
đề thời sự hoặc tổ chức đi tham quan, nghiên cứu các điển hình sản xuất công nghiệp, các di
ThS. Lê Đức Thọ

Trang 1


Bài giảng Môn học Chính trị (Hệ cao đẳng Nghề)

tích văn hóa ở địa phương.
- Ý nghĩa học tập:
+ Môn Chính trị là một trong những nội dung quan trọng của đào tạo nghề nhằm thực
hiện mục tiêu nâng cao trình độ giác ngộ và giáo dục toàn diện, góp phần khắc phục những
sai lầm, khuyết điểm cho người lao động.
+ Nghiên cứu, học tập, nắm vững tri thức chính trị có ý nghĩa rất to lớn trong việc
giáo dục phẩm chất chính trị, lòng trung thành với lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân

lao động và dân tộc Việt Nam, tính kiên định cách mạng trước tình hình chính trị, phức tạp
ở trong nước và quốc tế, giáo dục đạo đức cách mạng.
+ Việc học tập chính trị có ý nghĩa to lớn trong việc giáo dục về truyền thống cách
mạng, về chủ nghĩa yêu nước và lòng tự hào đối với Đảng và đối với dân tộc Việt Nam; bồi
dưỡng ý chí chiến đấu cách mạng, có ý chí biết noi gương những người đi trước, học tập và
lao động thông minh, sáng tạo, có kỷ thuật, có kỷ luật và năng suất cao ...

ThS. Lê Đức Thọ

Trang 2


Bài giảng Môn học Chính trị (Hệ cao đẳng Nghề)

CHƯƠNG 1
NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN
Bài 1
KHÁI QUÁT VỀ SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CHỦ NGHĨA
MÁC – LÊNIN
1. KHÁI LƯỢC VỀ CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN
1.1. Chức năng thế giới quan và phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác – Lênin
a. Chủ nghĩa Mác – Lênin là gì?
Chủ nghĩa Mác - Lênin “là hệ thống quan điểm và học thuyết” khoa học của C. Mác,
Ph. Ăngghen và sự phát triển của V.I. Lênin; là sự kế thừa và phát triển những giá trị của
lịch sử tư tưởng nhân loại, trên cơ sở thực tiễn của thời đại; là khoa học về sự nghiệp giải
phóng giai cấp vô sản, giải phóng nhân dân lao động và giải phóng con người; là thế giới
quan và phương pháp luận phổ biến của nhận thức khoa học và thực tiễn cách mạng.
b. Chức năng thế giới quan và phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác – Lênin:
- Chức năng thế giới quan: Chủ nghĩa Mác - Lênin đem lại cho con người hệ thống các
quan điểm khoa học thống nhất về thế giới (bao hàm cả con người, xã hội loài người). Hệ

thống các quan điểm này đóng vai trò định hướng cho toàn bộ hoạt động sống, từng bước
hình thành và củng cố nhân sinh quan của con người.
- Chức năng phương pháp luận: Chủ nghĩa Mác - Lênin trang bị cho con người cơ sở
lý luận khoa học để tìm tòi, xây dụng và vận dụng các phương pháp trong hoạt động nhận
thức, thực tiễn nói riêng và trong toàn bộ cuộc sống nói chung.
1.2. Ba bộ phận cấu thành Chủ nghĩa Mác - Lênin
Chủ nghĩa Mác - Lênin là hệ thống tri thức phong phú về nhiều lĩnh vực, nhưng trong
đó có ba bộ phận lý luận quan trọng nhất là: triết học, kinh tế chính trị học và chủ nghĩa xã
hội khoa học:
- Triết học Mác - Lênin là bộ phận nghiên cứu những quy luật vận động, phát triển
chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy nhằm hình thành thế giới quan và phương pháp
luận chung nhất cho nhận thức khoa học và thực tiễn cách mạng.
- Kinh tế chính trị nghiên cứu những quy luật kinh tế của xã hội, đặc biệt là nghiên cứu
quy luật kinh tế của sự phát sinh, phát triển của chủ nghĩa tư bản và sự ra đời của phương
thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa.
- Chủ nghĩa xã hội khoa học nghiên cứu quy luật khách quan của quá trình cách mạng
xã hội chủ nghĩa, sự chuyển biến lịch sử từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội.
Ba bộ phận cấu thành chủ nghĩa Mác - Lênin có đối tượng nghiên cứu cụ thể khác
nhau nhưng đều nằm trong hệ thống lý luận khoa học thống nhất - Đó là khoa học về sự
nghiệp giải phóng giai cấp vô sản, giải phóng nhân dân lao động khỏi chế độ áp bức, bóc
lột, tiến tới giải phóng con người.
2. KHÁI QUÁT QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CHỦ NGHĨA
MÁC - LÊNIN
2.1. C. Mác và Ph. Ăngghen sáng lập và phát triển Chủ nghĩa Mác (1842 - 1895)
a. Các tiền đề hình thành
- Về kinh tế - xã hội.
+ Chủ nghĩa Mác ra đời trong những năm 40 của thế kỷ XIX ở Tây Âu. Đó cũng là
thời kỳ CNTB đã bước sang giai đoạn mới nhờ tác động của cách mạng công nghiệp. Cuộc
ThS. Lê Đức Thọ


Trang 3


Bài giảng Môn học Chính trị (Hệ cao đẳng Nghề)

cách mạng công nghiệp thế kỷ XVIII đánh dấu sự chuyển biến từ nền sản xuất thủ công
TBCN sang nền sản xuất đại công nghiệp TBCN.
+ Giai cấp vô sản từng bước trở thành một lực lượng chính trị độc lập
+ Nhu cầu cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản cần phải có lý luận dẫn đường
- Tiền đề về lý luận.
Chủ nghĩa Mác ra đời là kết quả kế thừa tinh hoa di sản lý luận của thời đại, trực tiếplà:
triết học Cổ điển Đức, Kinh tế chính trị học Anh và Chủ nghĩa xã hội - không tưởng phê
phán Pháp.
Các Mác và Ph. Ăngghen đã kế thừa trực tiếp:
+ Những nội dung hợp lí trong phép biện chứng duy tâm của Hêghen để xây dựng nên
phép biện chứng duy vật.
+ Quan điểm duy vật, vô thần về giới tự nhiên trong triết học Phơbách để góp phần
hình thành nên thế giới quan duy vật.
- Tiền đề khoa học tự nhiên.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng của Mác là kết quả của sự tổng kết những thành tựu tư
tưởng của nhân loại, được chứng minh và phát triển dựa trên những kết luận mới nhất của
khoa học tự nhiên, trong đó có 3 phát minh quan trọng nhất: Định luật bảo toàn và chuyển
hóa năng lượng, Thuyết tiến hóa của Darwin, Học thuyết tế bào. Những phát minh này đã
góp phần bác bỏ tư duy siêu hình và quan điểm thần học. Khẳng định tính khoa học của tư
duy biện chứng (thế giới vô cùng, vô tân, tự tồn tại, tự vận động, tự chuyển hoá). Đồng thời
nó tạo ra điều kiện tiền đề cho thế giới quan duy vật và phương pháp biện chứng ra đời.
- Tiền đề chủ quan.
Đó chính là thiên tài về trí tuệ và chính trị của Mác - Ăngghen. Lần đầu tiên trong lịch
sử, hai ông đã chỉ ra rằng: giai cấp vô sản là người giải phóng mình đồng thời giải phóng
cho toàn nhân loại. Đồng thời, đó còn là tình yêu thương những người lao động; sự thông

minh; lòng dũng cảm dám hy sinh vì người lao động; sự phấn đấu không mệt mỏi cho sự
nghiệp giải phóng người lao động.
b. Qúa trình C. Mác và Ph. Ăngghen sáng lập chủ nghĩa Mác (1842 - 1895)
- Thời gian từ 1842 về trước: Mác và Ăngghen là những thanh niên đầy nhiệt tình và
lòng nhân đạo, say mê nghiên cứu triết học, nhưng chưa thoát khỏi lập trường triết học duy
tâm và lập trường dân chủ cách mạng.
- C. Mác, Ph. Ăngghen và quá trình chuyển biến tư tưởng của các ông từ CNDT và dân
chủ cách mạng sang CNDV và cộng sản chủ nghĩa (1842 – 1844)
- Giai đoạn 1844 - 1848: Các Mác và Ph.Ăngghen đã kế thừa những tinh hoa của chủ
nghĩa duy vật và phép biện chứng để xây dựng nên phép biện chứng duy vật. Trong “Tuyên
ngôn đảng cộng sản” (Các Mác, Ph.Ăngghen, 1848) đã chỉ ra quy luật vận động của lịch sử,
thể hiện tư tưởng cơ bản về lý luận hình thái kinh tế xã hội, về giai cấp và đấu tranh giai
cấp. Với các quan điểm này, Các Mác và Ph.Ăngghen đã tạo tiền đề sáng lập ra chủ nghĩa
duy vật lịch sử.
- Giai đoạn Mác và Ăngghen bổ sung và phát triển chủ nghĩa Mác (1849 - 1895): Đây
là giai đoạn phát triển, hoàn thiện của chủ nghĩa Mác. Trong giai đoạn này cùng với các
hoạt động thực tiễn, trên cơ sở vận dụng chủ nghĩa duy vật lịch sử, Các Mác và Ph.Ăngghen
đã nghiên cứu một cách toàn diện phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Dựa trên việc
phát hiện ra phạm trù hàng hóa sức lao động, Các Mác đã tìm ra nguồn gốc của giá trị thặng
dư, chỉ ra bản chất bóc lột của CNTB. Lý luận giá trị thặng dư được Các Mác và
Ph.Ăngghen trình bày toàn diện, sâu sắc trong bộ “Tư bản”.
ThS. Lê Đức Thọ

Trang 4


Bài giảng Môn học Chính trị (Hệ cao đẳng Nghề)

Thực chất và ý nghĩa của cuộc cách mạng trong triết học do C. Mác và Ph.
Ăngghen thực hiện:

Thực chất cuộc cách mạng:
+ Khắc phục sự tách rời giữa thế giới quan duy vật và phương pháp biện chứng trong
triết học trước đó, tạo ra sự thống nhất hữu cơ giữa chủ nghĩa duy vật và phương pháp biện
chứng là chủ nghĩa duy vật biện chứng
+ Sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử, làm cho triết học của C. Mác và Ph. Ăngghen
trở nên triệt để
+ Khắc phục sự đối lập giữa triết học với hoạt động thực tiễn. Triết học của hai ông trở
thành công cụ nhận thức và cải tạo thế giới của nhân loại tiến bộ
+ Khắc phục sự đối lập giữa triết học và các khoa học cụ thể
- Ý nghĩa của cuộc cách mạng trong triết học do C. Mác và Ph. Ăngghen thực hiện:
+ Làm cho triết học thay đổi cả về vai trò, vị trí, chức năng trong hệ thống tri thức
khoa học
+ Làm cho chủ nghĩa xã hội không tưởng có cơ sở trở thành khoa học
+ Làm cho triết học Mác trở thành công cụ nhận thức và cải tạo thế giới của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động
c. Những đóng góp của Mác vào kho tàng lý luận của nhân loại
- Giá trị lý luận tiêu biểu nhất mà Chủ nghĩa Mác đã sáng tạo, cống hiến cho nhân loại
trước hết là về Triết học. Triết học Mác không chỉ giải thích mà còn vạch ra con đường,
những phương tiện cải tạo thế giới bằng con đường cách mạng. Mác viết: Triết học không
chỉ nhận thức mà còn phải cải tạo thế giới.
- Việc sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử mà cốt lõi là học thuyết hình thái kinh tế xã hội là một thành tựu vĩ đại của triết học Mác.
- Học thuyết giá trị thặng dư vạch ra quy luật vận động kinh tế cơ bản của CNTB, từ
đó thấy rõ bản chất của CNTB; vai trò địa vị lịch sử của CNTB trong sự phát triển của nhân
loại.
- Lý luận về sứ mệnh lịch sử của GCCN chỉ rõ giai cấp công nhân là người lãnh đạo
cuộc đấu tranh để xóa bỏ chế độ bóc lột và xây dựng thành công xã hội mới.
Ngoài sáng tạo ra học thuyết lý luận, Mác – Ăngghen đã tích cực hoạt động trong
phong trào của Giai cấp công nhân. Hai ông là lãnh tụ, người thầy vĩ đại của Giai cấp công
nhân quốc tế.
2.2. Giai đoạn Lênin phát triển Chủ nghĩa Mác (1895 - 1924)

a. Sự phát triển lý luận cách mạng
- Bối cảnh lịch sử mới và nhu cầu bảo vệ, phát triển chủ nghĩa Mác:
+ Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, CNTB đã bước sang một giai đoạn mới: CNTB
độc quyền, chủ nghĩa đế quốc, là giai đoạn cao của CNTB. Bản chất bóc lột và thống trị của
CNTB ngày càng được bộc lộ rõ nét, mâu thuẫn của CNTB trở nên gay gắt. Các nước tư
bản chia nhau thị trường thế giới và gây ra cuộc chiến tranh thế giới 1914-1918.
+ Tại các nước thuộc địa, cuộc đấu tranh chống CNĐQ tạo nên sự thống nhất giữa
cách mạng giải phóng dân tộc với cách mạng vô sản mà trung tâm là cách mạng Tháng
Mười Nga. Cách mạng vô sản đã trở thành nhiệm vụ trực tiếp.
+ Sau khi Ăngghen qua đời, các phần tử cơ hội trong Quốc tế II xuyên tạc CN Mác.
Tình hình đó đòi hỏi Lênin phải tiến hành đấu tranh bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác.
+ Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, trong khoa học tự nhiên, nhất là trong vật lý học, có
một loạt phát minh khoa học làm đảo lộn quan niệm siêu hình về vật chất và vận động, gây
ra cuộc khủng hoảng về thế giới quan trong vật lý học. Chủ nghĩa duy tâm lợi dụng tình
ThS. Lê Đức Thọ

Trang 5


Bài giảng Môn học Chính trị (Hệ cao đẳng Nghề)

trạng khủng hoảng này để tấn công và bác bỏ chủ nghĩa duy vật. Lênin phải tiến hành đấu
tranh chống chủ nghĩa duy tâm và bảo vệ và phát triển chủ nghĩa duy vật.
- Vai trò của V.I. Lênin:
+ Phê phán, khắc phục và chống lại những qua điểm sai lầm xuất hiện trong thời đại
đế quốc: chủ nghĩa xét lại chủ nghĩa Mác, chủ nghĩa duy tâm vật lý học, bệnh ấu trĩ tả
khuynh trong triết học, chủ nghĩa giáo điều ...
+ Hiện thực hóa lý luận chủ nghĩa Mác bằng sự thắng lợi của Cách mạng tháng 10
Nga, đánh dấu sự ra đời của chủ nghĩa xã hội hiện thực.
+ Bổ sung và hoàn chỉnh về mặt lý luận và thực tiễn những vấn đề lý luận về cách

mạng vô sản trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, lý luận về nhà nước chuyên chính vô sản,
chính sách kinh tế mới…
b. Chủ nghĩa xã hội từ lý luận trở thành hiện thực
Cách mạng tháng mười đã mở ra một thời đại mới - thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản
lên chủ nghĩa xã hội. Cách mạng tháng Mười đã đưa CNXH từ lý luận trở thành hiện thực;
đây được coi là thắng lợi đầu tiên của Chủ nghĩa Mác – Lênin trên thực tế. Sự xuất hiện và
lớn mạnh của hệ thống XHCN đã cổ vũ mạnh mẽ cao dân tộc bị áp bức trên thế giới, vùng
dậy để đấu tranh tự giải phóng mình.
Sau Cách mạng Tháng Mười năm 1917, nước Nga lâm vào nội chiến 1918 – 1920.
Trong thời kỳ này Lênin đã thực hiện Chính sách cộng sản thời chiến. Đó là Nhà nước
trưng thu lương thực thừa của nông dân sau khi giành lại cho họ mức ăn tối thiểu, đồng
thời xoá bỏ quan hệ hàng hoá – tiền tệ, thực hiện chế độ cung cấp hiện vật cho quân đội và
bộ máy nhà nước.
Sau khi nội chiến kết thuc, đề phù hợp với tình hình, V.I. Lênin đã đề ra chính sách
Kinh tế mới (NEP) ra đời. Nội dung cơ bản là bãi bỏ chế độ trưng thu lương thực thừa và
thay vào đó là chế độ thuế lương thực ... Nhờ đó mà trong một thời gian ngắn nền kinh tế
quốc dân đã được khôi phục và khối liên minh công nông đuợc củng cố.
Mô hình Chủ nghĩa xã hội đầu tiên trên thế giới:
Năm 1924, V.I.Lênin mất. Từ đó Liên Xô chuyển dần sang xây dựng CNXH theo mô
hình kế hoạch hóa tập trung. Mô hình đó có những đặc trưng cơ bản sau:
- Dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu dưới hai hình thức: toàn dân và
tập thể;
- Việc sản xuất cái gì, như thế nào, phân phối cho ai, giá cả như thế nào được quyết
định từ nhà nước và mang tính pháp lệnh;
- Phân phối mang tính chất bình quân và trực tiếp bằng hiện vật là chủ yếu, xem nhẹ
các quan hệ hàng hóa – tiền tệ;
- Nhà nước quản lý bằng mệnh lệnh hành chính là chủ yếu, xem nhẹ các biện pháp
kinh tế.
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, hệ thống XHCN ra đời bao gồm các nước Liên Xô,
Cộng hoà Dân chủ Đức, Bungari, Ba Lan, Hunggari, Rumani, Tiệp Khắc, Anbani, Mông

Cổ, Trung Quốc, Triều Tiên, Cu Ba, Việt Nam. Năm 1960, tại Mátcơva, Hội nghị 81 Đảng
cộng sản và công nhân của các nước trên thế giới đã tuyên bố và khẳng định: “Đặc điểm chủ
yếu của thời đại chúng ta là hệ thống XHCN đang trở thành nhân tố quyết định sự phát triển
của xã hội loài người”.
Những thành tựu của CNXH hiện thực
- Lần đầu tiên trong lịch sử loài người đã đưa nhân dân lao động từ những người nô lệ,
làm thuê, trở thành những người làm chủ đất nước. Đời sống vật chất, tinh thần của nhân
dân không ngừng được cải thiện. Trong chiến tranh thế giới thứ hai Liên Xô đã giữ vai trò
ThS. Lê Đức Thọ

Trang 6


Bài giảng Môn học Chính trị (Hệ cao đẳng Nghề)

quan trọng cứu loài người khỏi thảm họa phát xít.
- Về kinh tế các nước đã giành được nhiều thành tựu to lớn làm thay đổi bộ mặt của hệ
thống xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là Liên Xô đã từ một nước nông nghiệp trong một thời gian
ngắn đã trở thành một nước “siêu cường” của thế giới.
- Cơ sở vật chất kỹ thuật ngày càng lớn mạnh, hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa đã
trở thành chỗ dựa vững chắc cho phong trào đấu tranh vì hoà bình, tiến bộ trên thế giới, đẩy
lùi nguy cơ chiến tranh của những thế lực phản động.
3. CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN TỪ 1924 ĐẾN NAY
3.1. Vận dụng và phát triển lý luận xây dựng CNXH (1924 - 1991)
Từ năm 1924 đến nay, Chủ nghĩa Mác – Lênin là học thuyết lý luận với vai trò là nền
tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của các Đảng cộng sản trên thế giới trong đấu
tranh cách mạng và xây dựng CNXH.
Các hội nghị quốc tế và các cuộc gặp gỡ của lãnh tụ các Đảng cộng sản các nước đã
thường xuyên trao đổi kinh nghiệm vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác – Lênin vào xây
dựng CNXH và đấu tranh cách mạng trong điều kiện đặc thù của từng nước.

Trên cơ sở những nguyên lý lý luận phổ biến và cơ bản của Chủ nghĩa Mác – Lênin,
các Đảng cộng sản và công nhân từng nước vận dụng sáng tạo và cụ thể hóa những quy luật
chung và đặc thù, đề ra những nhiệm vụ cụ thể của cách mạng nước mình để bổ sung và làm
phong phú, phát triển lý luận mới. Đó là biểu hiện sáng tạo và sức sống mới về mặt thực
tiễn của Chủ nghĩa Mác – Lênin.
Qua hai mươi năm xây dựng CNXH (1921 - 1941), Liên Xô đã đạt được những thành
tựu hết sức to lớn. Nền kinh tế Liên Xô vững mạnh, trở thành một cường quốc trên thế giới.
Những thắng lợi đó làm cho Liên Xô thành một cường quốc, văn hóa, khoa học tiên tiến,
quốc phòng vững mạnh là trụ cột của các lực lượng cách mạng và thành trì của hòa bình thế
giới.
Từ sau Chiến tranh thế giới lần II, lý luận và kinh nghiệm xây dựng CNXH đã được
vận dụng ở tất cả các nước XHCN. Hệ thống XHCN trên thế giới phát triển mạnh. Tác động
mạnh mẽ của hệ thống XHCN và phong trào cách mạng thế giới góp phần vào thắng lợi của
phong trào giải phóng dân tộc ở Châu Á, Phi, Mỹ Latinh những năm 60 và cuộc kháng
chiến chống Mỹ cứu nước ở Việt Nam năm 1975.
Bắt đầu từ cuối những năm 60 của thế kỷ XX, Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa
Đông Âu đi vào thời kỳ khủng hoảng. Từ tháng 4 năm 1989 trở đi, sự đổ vỡ diễn ra liên tiếp
ở các nước Đông Âu. Chỉ trong vòng 2 năm, đến tháng 9 năm 1991, chế độ xã hội chủ nghĩa
ở Liên Xô và sáu nước Đông Âu đã bị sụp đổ hoàn toàn. Sự đổ vỡ cũng diễn ra ở Mông Cổ,
Anbani, Nam tư.
Nguyên nhân sâu xa là những sai lầm thuộc về mô hình phát triển của chủ nghĩa xã hội
Xôviết. Nguyên nhân chủ yếu và trực tiếp dẫn đến sự sụp đổ.
Một là, trong cải tổ Đảng Cộng sản Liên Xô đã mắc những sai lầm rất nghiêm trọng về
đường lối chính trị, tư tưởng và tổ chức. Đó là đường lối hữu khuynh, cơ hội và xét lại, thể
hiện trước hết ở những người lãnh đạo cao nhất.
Hai là, chủ nghĩa đế quốc đã can thiệp toàn diện, vừa tinh vi, vừa trắng trợn, thực hiện
được “diễn biến hòa bình” trong nội bộ Liên Xô và các nước Đông Âu.
3.2. Đổi mới xây dựng CNXH từ sau năm 1991
a. Tình hình đổi mới và bài học từ công cuộc đổi mới xây dựng CNXH
Sau khi Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu sụp đổ. CNXH thế giới không còn tồn

tại với tư cách một hệ thống. Các nước XHCN còn lại đã tiến hành đổi mới.
Ở Trung Quốc, sau một thời gian dài hiện đại hoá không ổn định, đã từng bước gây ra
ThS. Lê Đức Thọ

Trang 7


Bài giảng Môn học Chính trị (Hệ cao đẳng Nghề)

những hậu quả tiêu cực, làm chậm bước tiến của Trung Quốc mà sau này, khi tiến hành cải
cách và mở cửa, ĐCS Trung Quốc đã đánh giá lại với tinh thần phê phán. Cải cách và mở
cửa đã thu được thành tựu, đảm bảo cho CNXH tồn tại và phát triển.
Việt Nam, sau khi đất nước thống nhất, cả nước đi lên CNXH, những sai lầm chủ quan
duy ý chí, không tôn trọng quy luật khách quan, duy trì quá lâu mô hình và cơ chế cũ đã đưa
đến khủng hoảng kinh tế - xã hội, lạm phát nghiêm trọng. Để đưa nước ta thoát khỏi tình
trạng đó, Đảng và nhân dân ta tiến hành công cuộc đổi mới nhằm xây dựng CNXH một
cách có hiệu quả hơn. Thành công trong sự nghiệp cải cách và đổi mới đã khẳng định tính
uư việt và sức sống của CNXH, tính đúng đắn của đuờng lối đổi mới.
Trong số các nước Mỹ Latinh hiện nay, nhiều nước tuyên bố đi lên CNXH. Sự xuất
hiện của “chủ nghĩa xã hội Mỹ Latinh thế kỷ XXI” còn điểm này, điểm khác phải tiếp tục
nghiên cứu và theo dõi, nhưng rõ ràng những biểu hiện đó đã và đang thể hiện sự tác động
sâu xa và sức sống mãnh liệt của CNXH hiện thực đối với các dân tộc Mỹ Latinh, thể hiện
bước tiến mới của CNXH trên thế giới. Đó là một thực tế lịch sử chứng minh cho sức sống
và khả năng phát triển của CNXH, củng cố niềm tin vào lý tuởng cộng sản chủ nghĩa.
Bài học từ công cuộc đổi mới xây dựng CNXH:
- Về lý luận và hệ tư tưởng: phải thấm nhuần sâu sắc bản chất cách mạng và khoa học
của chủ nghĩa Mác - Lênin; vận dụng và phát triển sáng tạo lý luận Mác - Lênin phù hợp với
điều kiện, hoàn cảnh lịch sử của mỗi nước, với xu thế và yêu cầu của thời đại.
- Về xây dựng Đảng: phải làm cho Đảng cộng sản luôn luôn xứng đáng là một Đảng
cách mạng chân chính, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, có kinh nghiệm và

bản lĩnh, không phạm sai lầm về đường lối, không phân liệt về tư tưởng và tổ chức, gắn bó
với nhân dân, đoàn kết và kỷ luật, xứng đáng là Đảng cầm quyền.
- Xây dựng Nhà nước: Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự của
nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân;
- Về kinh tế - xã hội: xây dựng và phát triển văn hoá theo đúng quy luật khách quan,
chăm lo đến nhu cầu, lợi ích vật chất và tinh thần của con người.
- Về đoàn kết dân tộc: không ngừng chăm lo và phát triển mọi mặt cho khối đại đoàn
kết đó mà nòng cốt là liên minh công - nông - trí thức.
Nhìn chung, CNXH đang ở giai đoạn khó khăn, gay go chưa từng có. Cuộc đấu tranh
để bảo vệ và phát triển CNXH đang diễn ra quyết liệt. Nhưng CNXH nhất định sẽ vượt qua
được thử thách, tiếp tục tíên lên theo quy luật vận động và phát triển của lịch sử.
b. Nhu cầu nghiên cứu và học tập CN Mác – Lênin trong giai đoạn hiện nay
Ở các quốc gia xã hội chủ nghĩa nhu cầu học tập và nghiên cứu phát triển chủ nghĩa
Mác - Lênin vẫn là một nhu cầu cấp thiết trong quá trình xây dựng và phát triển xã hội chủ
nghĩa trong thời đại mới (nhằm xây dựng đường lối phát triển nền kinh tế-xã hội, xây dựng
và bồi dưỡng nhân sinh quan cách mạng, rèn luyện và tu dưỡng đạo đức của con người
trong tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa …)
Ở các nước tư bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân và các đảng cộng sản các nước vẫn
kiên trì việc học tập, nghiên cứu và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin như là một vũ khí lý
luận nhằm chống lại chủ nghĩa tư bản.
Trong những năm gần đây, ở một số quốc gia tư bản chủ nghĩa thuộc các nước đang
phát triển như Vênêzuêla, Bôlôvia,… việc học tập và nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin
đang trở thành một nhu cầu cần thiết trong việc xác định đường lối phát triển theo khuynh
hướng xã hội chủ nghĩa của mình.
Ở Việt Nam, Chủ nghĩa Mác – Lênin cùng với tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò là nền
tảng tư tưởng khoa học của toàn bộ quá trình cách mạng Việt Nam. Trong giai đoạn hiện
ThS. Lê Đức Thọ

Trang 8



Bài giảng Môn học Chính trị (Hệ cao đẳng Nghề)

nay, ĐCSVN tiếp tục khẳng định: “phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH trên
nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”; phải “vận dụng và phát triển
sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong hoạt động của Đảng. Thường
xuyên tổng kết thực tiễn, bổ sung, phát triển lý luận, giải quyết đúng đắn những vấn đề do
cuộc sống đặt ra”.

ThS. Lê Đức Thọ

Trang 9


Bài giảng Môn học Chính trị (Hệ cao đẳng Nghề)

Bài 2
NHỮNG NGUYÊN LÝ VÀ QUI LUẬT CƠ BẢN CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG
DUY VẬT
1. CHỦ NGHĨA DUY VẬT KHOA HỌC
1.1. Vấn đề cơ bản của triết học, chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm
a. Vấn đề cơ bản của triết học và ý nghĩa của nó
Theo Ăngghen: "Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, đặc biệt là triết học hiện đại, là
vấn đề quan hệ giữa tư duy với tồn tại"; bởi vì việc giải quyết vấn đề này là cơ sở và xuất
phát điểm để giải quyết các vấn đề khác của triết học. Đồng thời sẽ là tiêu chuẩn để xác định
lập trường thế giới quan của các triết gia và các học thuyết của họ.
Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt:
Mặt thứ nhất: Giữa vật chất và ý thức, cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào quyết
định cái nào?
Mặt thứ hai: ý thức con người có thể phản ánh trung thực thế giới khách quan hay

không? Nghĩa là con ngời có khả năng nhận thức hay không?
Đây là vấn đề cơ bản của triết học vì: Vì nó tồn tại xuyên suốt lịch sử triết học; khi
giải quyết nó mới có thể giải quyết được các vấn đề khác, đồng thời cách giải quyết nó chi
phối cách giải quyết các vấn đề còn lại.
Việc giải quyết vấn đề này là cơ sở để giải quyết các vấn đề triết học khác và là cơ sở
để phân chia các nhà triết học thành các trường phái, trào lưu triết học khác nhau. Trong lịch
sử tư tưởng triết học của nhân loại từ thời cổ đại đến nay đã có những lời giải đáp khác nhau
và đối lập nhau đối với hai câu hỏi đó. Đây là xuất phát điểm của sự khác biệt và đối lập
giữa các trường phái triết học lớn trong lịch sử.
b. Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm
- Chủ nghĩa duy vật (nhất nguyên duy vật) là một trong những trường phái triết học
lớn trong lịch sử, bao gồm trong đó toàn bộ các học thuyết triết học được xây dựng trên lập
trường duy vật trong việc giải quyết vấn đề cơ bản của triết học: cho rằng tồn tại (tự nhiên,
vật chất) có trước tư duy (tinh thần, ý thức), và quyết định ý thức.
Chủ nghĩa duy vật bao gồm: chủ nghĩa duy vật chất phác thời cổ đại, chủ nghĩa duy
vật siêu hình và chủ nghĩa duy vật biện chứng. Trong đó, chủ nghĩa duy vật biện chứng đã
cung cấp công cụ vĩ đại cho hoạt động nhận thức khoa học và thực tiễn cách mạng.
Đây là khuynh hướng triết học mà sự tồn tại, phát triển của nó có nguồn gốc từ sự
phát triển của khoa học và thực tiễn, đồng thời thường gắn với lợi ích của giai cấp và lực
lượng tiến bộ trong lịch sử, vừa định hướng cho các lực lượng xã hội tiến bộ trong hoạt
động trên nền tảng của những thành tựu ấy.
- Chủ nghĩa duy tâm (nhất nguyên duy tâm) là trào lưu triết học cho rằng tư duy, ý
thức có trước vật chất, sinh ra và quyết định vật chất. Chủ nghĩa duy tâm bao gồm:
+ Chủ nghĩa duy tâm chủ quan thừa nhận tính thứ nhất của ý thức con người. Trong
khi phủ nhận sự tồn tại khách quan của hiện thực, chủ nghĩa duy tâm chủ quan khẳng định
mọi sự vật, hiện tượng chỉ là phức hợp những cảm giác của cá nhân, của chủ thể.
+ Chủ nghĩa duy tâm khách quan cũng thừa nhận tính thứ nhất của ý thức nhưng theo
họ đấy là là thứ tinh thần khách quan có trước và tồn tại độc lập với con người. Thực thể
tinh thần khách quan này thường mang những tên gọi khác nhau như ý niệm, tinh thần tuyệt
đối, lý tính thế giới ...

Trong lịch sử triết học cũng có những nhà triết học xem vật chất và tinh thần là hai
ThS. Lê Đức Thọ

Trang 10


Bài giảng Môn học Chính trị (Hệ cao đẳng Nghề)

nguyên thể tồn tại độc lập, tạo thành hai nguồn gốc của thế giới; học thuyết triết học của họ
là nhị nguyên luận. Quan điểm này cho rằng: Vật chất và ý thức là 2 nguyên thể đầu tiên,
cùng song song tồn tại, không có cái nào có trước, không có cái nào có sau, không cái nào
quyết định cái nào. Yếu tố vật chất tạo nên thế giới vật chất và yếu tố tinh thần tạo nên yếu
tố tinh thần. Thực chất quan điểm nhị nguyên là một dạng của CNDT chủ quan, cho rằng ý
thức tồn tại không phụ thuộc vào vật chất. Mục đích là điều hoà cuộc đấu tranh giữa CNDV
và CNDT trong lịch sử triết học. Song cuối cùng, khi giải quyết các vấn đề xã hội, các nhà
nhị nguyên thường rơi vào lập trường duy tâm.
Lại có nhà triết học cho rằng vạn vật trong thế giới là do vô số nguyên thể độc lập tạo
nên; đó là đa nguyên luận trong triết học (phân biệt với thuyết đa nguyên chính trị). Song
đó chỉ là biểu hiện tính không triệt để về lập trường thế giới quan; rốt cuộc chúng thường sa
vào chủ nghĩa duy tâm.
Như vậy, trong lịch sử tuy những quan điểm triết học biểu hiện đa dạng nhưng suy cho
cùng, triết học chia thành hai trường phái chính: chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm.
Lịch sử triết học cũng là lịch sử đấu tranh của hai trường phái này.
Như vậy, quan điểm của chủ nghĩa duy vật là đúng đắn, khoa học. Nó đã đem lại cho
con người niềm tin vào sức mạnh của mình, trong việc nhận thức thế giới và cải tạo thế giới.
1.2. Vật chất và phương thức, hình thức tồn tại của nó
a. Định nghĩa vật chất
Phạm trù vật chất là phạm trù nền tảng của thế giới quan duy vật bởi vì thế giới quan
duy vật là thế giới quan được xác lập trên cơ sở thừa nhận bản chất của thế giới là vật chất.
Sự vững chắc của thế giới quan duy vật phụ thuộc vào lý giải như thế nào đối với phạm trù

vật chất.
Quan niệm về vật chất trong lịch sử triết học: Vật chất là một phạm trù cơ bản trong
triết học, vì thế mọi hệ thống triết học đều giải thích về nó. Chủ nghĩa duy vật khẳng định sự
tồn tại khách quan của vật chất, tuy nhiên căn cứ vào trình độ kinh nghiệm hiểu biết của
từng thời kỳ, từng giai đoạn mà có các quan điểm khác nhau về vật chất.
Trong thời cổ đại, quan niệm về vật mang tính trực quan cảm tính, thể hiện ở chỗ họ đã
đồng nhất vật chất với những vật thể cụ thể, coi đó là cơ sở đầu tiên của mọi tồn tại. Ở
Trung Quốc, các nhà triết học cho rằng, vật chất sinh ra là âm dương, ngũ hành; ở Ấn Độ,
vật chất sinh ra do tứ đại: Địa, Thuỷ, Hoả, Phong; ở Hi Lạp đồng nhất vật chất với những
dạng cụ thể. Tiếp nối truyền thống của thời kỳ cổ đại, các nhà triết học cận đại đồng nhất vật
chất với nguyên tử (hạt) và khối lượng (m).
Quan niệm của Ăngghen về vật chất: K.Marx và F.Engels cho rằng, vật chất là cái tồn
tại khách quan, độc lập với ý thức con người. Thế giới vật chất luôn luôn vận động, biến đổi
không ngừng, ở đâu có vật chất là có vận động và vận động không ngừng. Trong tác phẩm
“Biện chứng của tự nhiên”, Ăngghen cho rằng, vật chất là tổng số các vật thể mà từ đó
người ta rút ra khái niệm bằng con đường trừu tượng hoá.
Quan điểm của Lênin về vật chất:
Cuối thế kỷ XIX, đầu XX, khoa học tự nhiên phát triển mạnh mẽ, đặc biệt là vật lý
học. Trong vật lý học đã có nhiều phát minh làm đảo lộn quan niệm cũ về vật chất. Cụ thể
là: 1895, Rơnghen (Đức) phát hiện ra tia X; 1896, Beccơren (Pháp) phát hiện ra hiện tượng
phóng xạ; 1897, Tômxơn(Anh) phát hiện ra điện tử; 1901,Kauphman phát hiện ra hiện
tượng rất quan trọng là trong quá trình vận động, khối lượng của điện tử tăng khi vận tốc
của nó tăng; 1905 thuyết tương đối của Anhxtanh.
Lợi dụng những thành tựu của khoa học tự nhiên, các nhà triết học tư sản tấn công chủ
nghĩa Mác, cho rằng các dạng vật chất tiêu tan, tức vật chất mất đi vì thế cơ sở tồn tại của
ThS. Lê Đức Thọ

Trang 11



Bài giảng Môn học Chính trị (Hệ cao đẳng Nghề)

chủ nghĩa duy vật không còn nữa. Trong hoàn cảnh đó, Lênin xuất hiện, bằng việc khái quát
toàn bộ những thành tựu của triết học và khoa học tự nhiên về vật chất trong lịch sử, cùng
với thiên tài của mình, Lênin đã đưa ra định nghĩa kinh điển nhằm khắc phục tình trạng trên.
Phương pháp định nghĩa: Trong khoa học thông thường dùng phương pháp bình
thường, tức là phương pháp đem khái niệm được định nghĩa vào trong khái niệm rộng hơn
nó để tìm ra đặc trưng cơ bản. Ở đây, Lênin dùng phương pháp đặc biệt là đem vật chất đối
lập với ý thức để chỉ ra thuộc tính cơ bản phân biệt vật chất với ý thức (thực tại khách quan
đem lại cho con người trong cảm giác).
Trong tác phẩm “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán”, Lênin đã
định nghĩa vật chất như sau: “Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách
quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại,
chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”
Lưu ý: Vật chất được hiểu là một phạm trù triết học, phạm trù rộng và khái quát nhất,
không thể hiểu như các khái niệm vật chất thường dùng trong các lĩnh vực khoa học cụ thể
hoặc đời sống sinh hoạt hằng ngày. Thuật ngữ “cảm giác” được hiểu và đồng nghĩa với ý
thức.
“Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan ... và tồn tại
không lệ thuộc vào cảm giác”. Tất cả những gì tồn tại khách quan không phụ thuộc vào cảm
giác thì là vật chất. Lưu ý, có những cái tồn tại thực nhưng lại phụ thuộc vào ý muốn chủ
quan của con người như tư tưởng tiểu tư sản, tình yêu, lòng căm thù ...
“Vật chất…đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép
lại, chụp lại, phản ánh…”,. Thế giới vật chất là thế giới hiện thực sinh động, “thực tại khách
quan đem lại cho con người trong cảm giác”, nghĩa là vật chất là nguồn gốc sinh ra ý thức.
Vật chất không chỉ có trước, quyết định mà còn là cơ chế tác động hình thành nên ý thức
con người. vì vậy, con người hoàn toàn có khả năng nhận thức được thế giới.
Ý nghĩa của nó với việc phát triển thế giới quan duy vật:
- Đã giải quyết được cả hai mặt của vấn đề cơ bản của triết học theo lập trường của chủ
nghĩa duy vật biện chứng;

- Chống lại mọi quan điểm của chủ nghĩa duy tâm và thuyết bất khả tri. Khắc phục
được hạn chế của quan điểm duy vật siêu hình.
- Mở đường cho khoa học phát triển, nhất là những ngành nghiên cứu cấu trúc vi mô
về vật chất; góp phần khắc phục cuộc khủng hoảng vật lý học cuối XIX, đầu XX.
- Chỉ ra vật chất trong lĩnh vực xã hội đó là tồn tại xã hội.
- Đưa ra phương pháp định nghĩa đặc biệt.
b. Vận động là phương thức tồn tại của vật chất
Vận động, hiểu theo nghĩa chung nhất tức được hiểu là một phương thức tồn tại của
vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất, - thì bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi
quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy.
- Vận động là phương thức tồn tại của vật chất: Vật chất chỉ tồn tại trong vận động,
bằng cách vận động, nghĩa là thông qua vận động, vật chất biểu thị sự tồn tại của mình.
- Vận động của vật chất là vận động tự thân, do nguồn gốc bên trong nó quy định. Vận
động của vật chất không bao giờ bị mất đi chỉ chuyển từ hình thức này sang hình thức khác.
- Vận động bao gồm năm hình thức: cơ học, vật lí, hóa học, sinh học và vận động xã
hội. Trong đó vận động xã hội là hình thức vận đông cao nhất.
- Vận động gắn liền với đứng im, đứng im là vận động trong thăng bằng, trong sự ổn
định tương đối. Vận động là tuyệt đối, đứng im là tương đối bởi vì: Đứng im chỉ xảy ra
trong một hình thức vận động nhất định (vận động cơ giới), trong một thời gian xác định,
ThS. Lê Đức Thọ

Trang 12


Bài giảng Môn học Chính trị (Hệ cao đẳng Nghề)

trong một hệ quy chiếu cụ thể. Ngay trong trạng thái đứng im đó cũng có những nhân tố phá
vỡ sự đứng im
- Ý nghĩa:
+ Xác định quan điểm duy vật biện chứng; xem xét sự vật, hiện tượng trong trạng thái

vận động, biến đổi không ngừng. Đứng im chỉ là tạm thời, tương đối.
+ Hiểu vận động là cái vốn có của vật chất, không do ai tạo ra và không bao giờ mất bị
tiêu diệt. Chống lại các quan điểm duy tâm siêu hình.
+ Nắm vững các hình thức vận động của vật chất để hiểu tính đa dạng, phong phú của
vận động.
Sự vật có nhiều hình thức vận động nhưng bao giờ cũng được đặc trưng bởi một hình
thức vận động nhất định. Không thể qui hình thức vận động cao về hình thức vận động thấp
và ngược lại.
c. Không gian và thời gian là hình thức tồn tại của vật chất
CNDVBC cho rằng: không gian, thời gian thống nhất với nhau và với vật chất vận
động ; không gian và thời gian là thuộc tính cố hữu, là hình thức tồn tại của vật chất vận
động. Trong thế giới, không có không gian và thời gian bên ngoài vật chất vận động, và
cũng không có vật chất vận động bên ngoài không gian và thời gian.
Không gian là hình thức tồn tại của vật chất xét về mặt quảng tính (tính ba chiều: chiều
dài, chiều rộng và chiều cao) nhất định và tồn tại trong các mối tương quan nhất định (truớc
và sau, trên hay dưới, bên phải hay bên trái,…) với những dạng vật chất khác .
Thời gian là hình thức tồn tại của vật chất xét về mặt “trường tính” - thể hiện ở quá
trình biến đổi nhanh hay chậm, kế tiếp và chuyển hóa, biểu hiện trình tự xuất hiện, mất đi
của sự vật (quá khứ, hiện tại và tương lai).
Không gian và thời gian có tính khách quan, tính vĩnh cữu và tính vô tận. Tính vô tận
của vật chất quy định tính vô cùng, vô tận của không gian và thời gian.
Ý nghĩa phương pháp luận: Không gian, thời gian là vấn đề có ý nghĩa phương pháp
luận quan trọng, muốn nhận thức đúng đắn các sự vật, hiện tượng nhất thiết phải xem xét nó
trong không gian, thời gian nhất định, phải có quan điểm lịch sử cụ thể. Phải tính đến cả quá
khứ, hiện tại và tương lai nhưng hiện tại là cái cơ bản.
Tóm lại, các dạng cụ thể của vật chất tồn tại trong không gian, thời gian và thông qua
sự vận động mà biểu hiện sự tồn tại của mình.
d. Tính thống nhất vật chất của thế giới
Các quan điểm duy tâm giải thích sự thống nhất của thế giới ở một thực thể tinh thần
đầu tiên (Thượng đế) hoặc từ cảm giác của con người. Bản chất của thế giới là tinh thần,

nên thế giới thống nhất ở tính tinh thần. Hêghen cho đó là “”ý niệm tuyệt đối”; Đuy-ring
(nhà triết học Đức, cùng thời với Mác) cho thế giới thống nhất ở “tồn tại”.
Mác và Ăngghen đã phê phán và chỉ ra: nếu thế giới thống nhất ở “tồn tại” thì vẫn
chưa phân biệt được sự khác nhau giữa các sự vật và hiện tượng. Vẫn chưa phân biệt được
người duy vật với người duy tâm vì “Thượng đế”, “chúa” cũng tồn tại.
Triết học duy vật cổ đại: thế giới thống nhất là thống nhất ở một dạng vật thể cụ thể
nào đó, nhưng những vật thể cụ thể này không bao quát hết được sự phong phú, đa dạng của
thế giới, như vật chất biểu hiện dưới dạng “trường”, dạng “hạt” và dạng xã hội.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng chứng minh rằng, bản chất của thế giới là vật chất, thế
giới thống nhất ở tính vật chất. Theo đó:
- Chỉ có một thế giới duy nhất và thống nhất là thế giới vật chất. Thế giới vật chất tồn
tại khách quan, có trước và độc lập với ý thức con người. Trong thế giới không có gì khác
ThS. Lê Đức Thọ

Trang 13


Bài giảng Môn học Chính trị (Hệ cao đẳng Nghề)

hơn ngoài vật chất đang vận động. Tinh thần chỉ có trong đầu óc con người và là thuộc tính
của một dạng vật chất có tổ chức cao. Không có bằng chứng về thế giới tinh thần tồn tại bên
ngoài thế giới vật chất (Thiên đường, địa ngục, niết bàn).
- Mọi bộ phận của thế giới vật chất đều có mối liên hệ thống nhất với nhau, biểu hiện ở
chỗ chúng đều là những dạng cụ thể của vật chất, là những kết cấu vật chất, hoặc có nguồn
gốc vật chất, do vật chất sinh ra và cùng chịu sự chi phối của những quy luật khách quan
phổ biến của thế giới vật chất.
- Thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn, vô hạn và vô tận, không được sinh ra và không bị
mất đi. Trong thế giới không có gì khác ngoài những quá trình vật chất đang biến đổi và
chuyển hóa lẫn nhau, là nguồn gốc, nguyên nhân và kết quả của nhau.
Ý thức tinh thần cũng chỉ là thuộc tính của bộ não người, do đó cũng bị chi phối bởi

quy luật của thế giới vật chất.
Ý nghĩa:
- Quan điểm về sự thống nhất của thế giới ở tính vật chất có vai trò hết sức to lớn trong
việc nhận thức thế giới và khám phá những bí mật của nó. Nó đòi hỏi phải xuất phát từ hiện
thực khách quan, lấy đó làm cơ sở, điều kiện cho hoạt động của mình.
- Những mục đích, chủ trương, kế hoạch và cả những biện pháp tổ chức thực hiện
không thể rút ra từ nguyện vọng chủ quan mà phải được xây dựng từ hiện thực khách quan
phản ánh những nhu cầu chín muồi và tất yếu của đời sống xã hội, mới có khả năng trở
thành hiện thực.
- Làm sáng tỏ thêm nguyên lý về mối liên hệ phổ biến, chỉ ra sai lầm của phương pháp
siêu hình về sự bất động, tĩnh tại của các sự vật, hiện tượng trong thế giới.
1.3. Nguồn gốc và bản chất của ý thức
a. Ý thức là gì?
Ý thức là một hiện tượng phức tạp vì thế có nhiều quan điểm khác nhau:
- CNDT xuất phát từ quan điểm cho rằng, ý thức là cái có trước nên họ khẳng định
rằng ý thức đã sản sinh ra vật chất và là nguồn gốc của mọi sự vật, hiện tượng trong thế
giới. Ví dụ, Beccoly, “sự vật là tổng hợp của cảm giác” ..., Hêghen cho rằng “ý niệm tuyệt
đối” là cái có trước “tiên thiên” ...
- CNDV siêu hình xuất phát từ tính chất máy móc, siêu hình nên họ khẳng định rằng, ý
thức là thuộc tính của mọi dạng vật chất. Jacob Moleschott (1822 - 1893), nhà triết học, sinh
lý học Đức, nói: “Não tiết ra tư tưởng cũng giống như gan tiết ra mật”. Như vậy, CNDV
siêu hình chưa chỉ ra được đặc trưng riêng biệt của ý thức.
- CNDVBC phê phán những sai lầm trên đây và khẳng định:
+ Ý thức là thuộc tính của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ não con người.
+ Ý thức là toàn bộ những hoạt động tinh thần của con người, bao gồm những tri thức,
kinh nghiệm, những trạng thái tình cảm, ước muốn, hy vọng, ý chí niềm tin… của con
người trong cuộc sống, phản ánh đời sống tin thần của mỗi cá nhân và được biểu thị bằng
ngôn ngữ và khái niệm.
+ Ý thức là sản phẩm của quá trình phát triển của tự nhiên và lịch sử - xã hội, là kết
quả của quá trình phản ánh thế giới hiện thực khách quan vào trong đầu óc của con người.

+ Ý thức là sự phản ánh sáng tạo hiện thực khách quan vào bộ não người.
+ Ý thức bao gồm nhiều yếu tố như tri thức, tình cảm, niềm tin, ý chí, tưởng tượng ...
Trong đó, tri thức là quan trọng nhất. Không có tri thức thì tình cảm, niềm tin chỉ là mù
quáng, ý chí chỉ là sự liều lĩnh. Tuy nhiên, nếu không có tình cảm, niềm tin, ý chí thì tri thức
không thể biến thành hành động được. Tri thức có nhiều loại như tri thức về tự nhiên, về xã
hội, về con người ... và có nhiều cấp độ khác nhau như tri thức kinh nghiệm, tri thức lý luận.
ThS. Lê Đức Thọ

Trang 14


Bài giảng Môn học Chính trị (Hệ cao đẳng Nghề)

Theo chiều dọc, đời sống tinh thần con người từ trong ra ngoài: vô thức, tiềm thức, ý
thức và tự ý thức.
b. Nguồn gốc của ý thức
Khác với các quan điểm duy tâm đi tìm nguồn gốc của ý thức từ một lực lượng siêu tự
nhiên (ý niệm, brahman, Thượng đế, Trời …), quan điểm duy tâm chủ quan coi ý thức là cái
vốn có của con người; quan điểm duy vật tầm thường, duy vật máy móc coi ý thức như là
sản phẩm trực tiếp của các quá trình sinh lý; quan điểm duy vật biện chứng về ý thức: ý thức
là kết quả của quá trình tiến hóa lâu dài của tự nhiên và xã hội.
● Nguồn gốc tự nhiên: Ý thức là năng lục và hoạt động phản ánh của não người. Não
người cùng năng lực phản ánh của não người là kết quả của quá trình tiến hoá lâu dài của tự
nhiên.
Phản ánh là thuộc tính chung của mọi dạng vật chất. Đó là năng lực giữ lại và tái hiện
lại ở hệ thống vật chất này những đặc điểm của hệ thống vật chất khác khi hai hệ thống vật
chất đó tác động lẫn nhau.
Bộ não của động vật chỉ đạt đến trình độ phản xạ, bản năng, tâm lý động vật. Bộ não
người có trăm tỷ tế bào thần kinh, là khí quan vật chất của sự phản ánh ý thức. Não người
có khả năng phản ánh thế giới bằng tư duy trừu tượng (bằng khái niệm, phán đoán, suy

luận).
Phản ánh chưa phải là ý thức. Các dạng vật chất đều có thuộc tính chung là phản ánh.
Cùng với sự phát triển của thế giới vật chất, thuộc tính phản ánh của chúng cũng phát triển
từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp (phản ánh vật lý, phản ánh sinh vật với các hình
thức như kích thích, cảm ứng; phản ánh tâm lý động vật; phản ánh ý thức của con người).
Phản ánh ý thức của con người là hình thức phản ánh cao nhất.
Ý thức là hình thức phản ánh cao nhất, chỉ có ở não người. Bời vì, ý thức gắn liền với
một trình độ tổ chức cao của bộ não. Não động vật còn ở trình độ thấp chỉ có bản năng, tâm
lý động vật. Não người, một cấu trúc vật chất đạt đến trình độ tổ chức cao mới có khả năng
thực hiện những thao tác nhất định của tư duy trừu tượng, như phân tích và tổng hợp, trừu
tượng khoá, khái quát hoá.
Ý thức là phạm trù triết học dùng để chỉ một thuộc tính của dạng vật chất có tổ chức
cao của bộ não người; là sự phản ánh thế giới khách quan vào bộ óc người. Bộ não người là
cơ quan phản ánh thế giới xung quanh cùng sự tác động của thế giới vật chất vào bộ não
người là nguồn gốc tự nhiên của ý thức.
● Nguồn gốc xã hội:
Ý thức không thể tồn tại ngoài não người; tuy nhiên, ý thức không phải do não sinh ra.
Não chỉ là cơ quan thực hiện chức năng phản ánh. Để có ý thức phải có não người và thế
giới khách quan. Ngoài ra còn phải có những điều kiện xã hội nữa: lao động, ngôn ngữ,
quan hệ giao tiếp.
- Vai trò của lao động (Lao động làm cho con người có tri thức):
+ Biến vượn thành người (hoàn thiện bộ óc, giác quan, chức năng)
+ Tác động, biến đổi tự nhiên làm cho các đối tượng tự nhiên bộc lộ ra những thuộc
tính và những mối liên hệ bên trong và được phản ánh vào óc người.
+ Trong lao động con người phải suy nghĩ, tính toán đề ra mục đích, tìm kiếm phương
pháp và phương tiện thực hiện mục đích, đúc rút kinh nghiệm thành công và thất bại. Đó
chính là phương pháp phát triển của ý thức.
+ Lao động tạo ra quan hệ xã hội, quan hệ giáo tiếp. Trong lao động, con người phải có
quan hệ hợp tác, trao đổi (lao động, sản phẩm lao động). Quan hệ sản xuất là cơ sở của tất
cả các quan hệ khác.

ThS. Lê Đức Thọ

Trang 15


Bài giảng Môn học Chính trị (Hệ cao đẳng Nghề)

+ Lao động tạo ra ngôn ngữ. Do nhu cầu trao đổi hoạt động, con người cần phải nói
với nhau, cần phải sử dụng những khái niệm ngôn ngữ để biểu đạt sự vật, hiện tượng liên
quan đến lao động nên ngôn ngữ ra đời và phát triển.
- Vai trò của ngôn ngữ: Ngôn ngữ xuất hiện nhằm giải quyết nhu cầu trao đổi thông
tin, diễn đạt tư tưởng, suy nghĩ; lưu trữ tri thức cho con người trong quá trình lao động
mang tính xã hội của họ.
Lao động và ngôn ngữ là hai nguồn gốc xã hội quyết định trực tiếp đến sự hình thành
và phát triển của ý thức. Chính lao động đóng vai trò quyết định trong việc chuyển biến
vượn thành người; giúp bộ não phát triển, làm nảy sinh ngôn ngữ. Trên cơ sở đó thúc đẩy tư
duy trừu tượng phát triển. Như vậy, nguồn gốc trực tiếp và quan trọng nhất quyết định sự ra
đời và phát triển của ý thức là lao động và đồng thời với lao động là ngôn ngữ.
c. Bản chất của ý thức
- Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc con người một cách
năng động và sáng tạo trên cơ sở hoạt động thực tiễn, không phải là sự sao chép đơn giản,
máy móc. Điều này phân biệt hình thức phản ánh ý thức với các hình thức phản ánh sự vật,
như bản năng, tâm lý động vật.
Tính sáng tạo của phản ánh ý thức được thể hiện:
+ Ý thức có khả năng từ phản ánh hiện tượng đi đến sự hiểu biết về bản chất của đối
tượng, từ những hiện tượng ngẫy nhiên tìm ra cái tất nhiên, qui luật của đối tượng, tạo ra
những giả thuyết, học thuyết khoa học. Tuy nhiên, tính sáng tạo của ý thức có mặt trái của
nó là có khả năng phản ánh xuyên tạc, hư ảo hiện thực, tạo ra những ảo tưởng, huyền thoại.
Sự phát triển của ý thức là quá trình con người khắc phục ảo tưởng, thay thế huyền thoại
bằng tri thức khoa học.

+ Ý thức con người có khả năng tư duy lôgíc, từ những tri thức đã có tạo ra tri thức
mới, có khả năng phản ánh được quá khứ, có khả năng phản ánh vượt trước, dự báo được sự
phát triển trong tương lai.
+ Ý thức con người có khả năng mô hình hoá đối tượng trong đầu óc của mình (dưới
dạng hình ảnh cảm tính và lý tính), biến đổi mô hình, tạo ra mô hình mới của sự vật để từ đó
biến đổi sự vật trong hoạt động thực tiễn.
- Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan có nghĩa là: ý thức là hình ảnh
về thế giới khách quan, hình ảnh ấy bị thế giới khách quan qui định cả về nội dung, cả về
hình thức biểu hiện nhưng nó không còn y nguyên như thế giới khách quan mà đã cải biến
thông qua lăng kính chủ quan (tâm tư, tình cảm, nguyện vọng, kinh nghiệm, tri thức, nhu
cầu ...) của con người.
- Ý thức là một hiện tượng xã hội và mang bản chất xã hội.
+ Ý thức không phải là một hiện tượng tự nhiên, bản năng sinh vật. Con vật khi sinh ra
đã có những bản năng nhất định. Qúa trình phát triển của động vật là phát triển, rèn luyện
những bản năng đã có sẵn.
+ Ý thức chỉ được hình thành trong môi trường xã hội thông qua quá trình nhận thức,
quá trình học tập và hoạt động thực tiễn, quan hệ giao tiếp của cá nhân và cộng đồng xã hội.
1.4. Quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức
Hoạt động nhận thức và thực tiễn của con người là sự thống nhất giữa những nhân tố
vật chất và nhân tố ý thức.
+ Nhân tố vật chất gồm: những điều kiện khách quan, quy luật khách quan, không phụ
thuộc ý thức.
+ Nhân tố ý thức gồm: tri thức, kinh nghiệm, tình cảm, niềm tin, ý chí.
a. Vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức
ThS. Lê Đức Thọ

Trang 16


Bài giảng Môn học Chính trị (Hệ cao đẳng Nghề)


- Vật chất có trước, ý thức có sau. Vật chất tồn tại khách quan, độc lập với ý thức, là nguồn
gốc của ý thức. Não người là cơ quan phản ánh để hình thành ý thức, không có não người không
thể có ý thức.
- Ý thức tồn tại phụ thuộc vào hoạt động thần kinh của bộ não trong quá trình phản ánh thế
khách quan.
Thế giới khách quan quyết định nguồn gốc, nội dung của ý thức.
b. Ý thức có vai trò rất to lớn trong sự tác động trở lại vật chất
- Ý thức có tính năng động, sáng tạo, cho nên thông qua hoạt động thực tiễn của con
người có thể tác động trở lại vật chất bằng cách thúc đẩy hoặc kìm hãm ở một mức độ nào
đó các điều kiện vật chất, góp phần cải biến thế giới khách quan.
- Sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất dù đến đâu chăng nữa vẫn phụ thuộc
vào các điều kiện vật chất. Cho nên xét đến cùng, vật chất luôn quyết định ý thức.
c. Ý nghĩa phương pháp luận của việc nắm vững quan hệ giữa vật chất và ý thức
- Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn phải tôn trọng quy luật khách quan, xuất phát
từ thực tế khách quan, hành động tuân theo quy luật khách quan.
- Phải thấy được vai trò tích cực của ý thức, tinh thần để sử dụng có hiệu quả các điều
kiện vật chất hiện có.
- Tránh không rơi vào “chủ nghĩa khách quan” – tuyệt đối hoá điều kiện vật chất.
Chống lại bệnh chủ quan duy ý chí, tuyệt đối hoá vai trò của ý thức.
2. NHỮNG NGUYÊN LÝ VÀ QUY LUẬT CƠ BẢN CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY
VẬT
2.1. Phép biện chứng và phép biện chứng duy vật
a. Phép biện chứng
Biện chứng là khái niệm dùng để chỉ thuộc tính vốn có của sự vật, hiện tượng trong tự
nhiên, xã hội và tư duy. Thuộc tính đó là: tất cả sự vật, hiện tượng đều nằm trong sự liên hệ,
chuyển hoá lẫn nhau, trong sự vận động, phát triển không ngừng theo những quy luật nhất
định. Biện chứng bao gồm biện chứng khách quan và biện chứng chủ quan. Biện chứng
khách quan là biện chứng của tự nhiên và xã hội không phụ thuộc vào ý thức, còn biện
chứng chủ quan là biện chứng của tư duy, là phản ánh của biện chứng khách quan.

Phép biện chứng là khoa học nghiên cứu những quy luật chung nhất của mọi sự vận
động và phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy con người. Phép biện chứng là lý luận, là
khoa học nghiên cứu cả biện chứng khách quan và biện chứng chủ quan. Mục đích của phép
biện chứng là đảm bảo cho tư duy con người phản ánh đúng đắn biện chứng khách quan.
b. Các hình thức cơ bản của phép biện chứng
+ Phép biện chứng cổ đại mang tính ngây thơ, chất phác (đơn giản, hồn nhiên, trong
sáng vì khoa học chưa phát triển, kinh nghiệm còn hạn chế), đại biểu là Hêraclit. Không giải
thích được nguyên nhân vận động và phát triển của thế giới vật chất. Mô tả sự vận động một
cách máy móc, xem sự vận động là một quá trình ngẫu nhiên.
+ Phép biện chứng duy tâm trong triết học cổ điển Đức do Hêghen sáng lập. Hêghen
là người xây dựng phép biện chứng tương đối hoàn chỉnh với một hệ thống khái niệm, phạm
trù, quy luật. Tuy nhiên, phép biện chứng Hêghen là phép biện chứng duy tâm, ngược đầu,
vì ông xuất phát từ quan niệm cho rằng biện chứng của ý niệm sinh ra biện chứng của sự
vật, chứ không phải ngược lại.
+ Phép biện chứng duy vật do Mác và Ăngghen sáng lập vào những năm 40 của thế kỷ
XIX, trên cơ sở kế thừa có phê phán hạt nhân hợp lý trong phép biện chứng Hêghen, sau đó
Lênin phát triển trong điều kiện, hoàn cành mới và chúng ta kế thừa. Đây là hình thức cao
ThS. Lê Đức Thọ

Trang 17


Bài giảng Môn học Chính trị (Hệ cao đẳng Nghề)

nhất của phép biện chứng. Nó dựa trên những thành tựu mới nhất của khoa học tự nhiên và
là hình thức cao nhất của tư duy khoa học hiện đại.
b. Phép biện chứng duy vật
Đặc trưng cơ bản của phép biện chứng duy vật:
- Thứ nhất, thế giới được xem như một chỉnh thể thống nhất và duy nhất, trong đó các
sự vật phụ thuộc và chế ước lẫn nhau, tất cả chúng đều liên hệ và tác động lẫn nhau.

- Thứ hai, thế giới luôn trong trạng thái vận động, biến đổi và phát triển không ngừng.
Tất cả chúng đều trong dòng chảy vận động và biến hóa.
- Thứ ba, phát triển của các sự vật trong thế giới là quá trình vận động tiến lên (từ thấp
đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn) theo đường "xoáy
ốc". Trong đó nguồn gốc, động lực của sự phát triển là thống nhất và đấu tranh của các mặt
đối lập; phương thức và trạng thái của sự phát triển là sự thay đổi về lượng dẫn đến sự thay
đổi về chất và ngược lại; khuyng hướng phát triển là tiến lên qua nhiều lần phủ định theo
đường "xoáy ốc".
- Thứ tư, phép biện chứng duy vật mácxít còn thể hiện thông qua những cặp phạm trù
cơ bản như: cái riêng - cái chung, nguyên nhân - kết quả, bản chất - hiện tượng,...
- Thứ năm, phép biện chứng duy vật mácxít đồng thời là nhận thức luận, là lôgic học học thuyết về tính biện chứng của các khái niệm, phạm trù, quy luật và của các hình thái tư
duy.
Nội dung cơ bản của phép biện chứng duy vật bao gồm hai nguyên lý cơ bản, ba quy
luật cơ bản và sáu cặp phạm trù cơ bản.
Giá trị khoa học và thực tiễn của phép biện chứng duy vật: Khắc phục được những hạn
chế vốn có của phép biện chứng tự phát thời cổ đại cũng như những sai lầm của phép biện
chứng duy tâm khách quan cổ điển Đức, làm cho phép biện chứng duy vật trở thành một
khoa học; Trở thành công cụ để con người nhận thức và cải tạo thực tiễn.
2.2. Hai nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật
a. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
- Định nghĩa:
+ Liên hệ là khái niệm chỉ sự phụ thuộc lẫn nhau, sự ảnh hưởng, sự tương tác và
chuyển hoá lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt của một sự vật, của một
hiện tượng trong thế giới.
+ Liên hệ phổ biến là khái niệm nói lên rằng mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới (cả
tự nhiên, xã hội và tư duy) dù đa dạng, phong phú,nhưng đều nằm trong mối liên hệ với các
sự vật, hiện tượng khác.
+ Cơ sở của mối liên hệ phổ biến là tính thống nhất vật chất của thế giới.
- Các tính chất của mối liên hệ phổ biến:
+ Tính khách quan – nghĩa là không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người.

Mọi mối liên hệ đều là vốn có của sự vật, hiện tượng.
+ Tính phổ biến - nghĩa là mối liên hệ tồn tại cả trong tự nhiên, xã hội và tư duy, có
mọi nơi mọi lúc.
+ Tính đa dạng: sự vật khác nhau, hiện tượng khác nhau, không gian khác nhau, thời
gian khác nhau thì các mối liên hệ thể hiện khác nhau. Chẳng hạn mối liên hệ bên trong –
bên ngoài, tất yếu – ngẫu nhiên, trực tiếp – gián tiếp, chủ yếu – thứ yếu …
c. Ý nghĩa phương pháp luận
- Đây là cơ sở lí luận của quan điểm toàn diện trong hoạt động nhận thức và thực tiễn
- Quan điểm này yêu cầu, phải xem xét tất cả các mặt, các mối liên hệ và các khâu
trung gian của sự vật; đồng thời phải nắm được và đánh giá đúng vị trí, vai trò của từng mặt,
ThS. Lê Đức Thọ

Trang 18


Bài giảng Môn học Chính trị (Hệ cao đẳng Nghề)

từng mối liên hệ trong quá trình hình thành, vận động, phát triển và diệt vong của sự vật
- Để cải tạo sự vật trên thực tế phải sử dụng đồng bộ nhiều giải pháp.
- Phải biết phân loại đúng các mối liên hệ, trên cơ sở đó nhận thức đúng và giải quyết
thúc đẩy sự vật tiến lên.
b. Nguyên lý về sự phát triển
- Định nghĩa:
+ Sự phát triển là một phạm trù triết học dùng để chỉ quá trình vận động tiến lên từ
thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn của sự vật.
+ Khái niệm “phát triển” và khái niệm “vận động” có sự khác nhau. Vận động là mọi
biến đổi nói chung, chưa nói lên khuynh hướng cụ thể: đi lên hay đi xuống, tiến bộ hay lạc
hậu. Còn phát triển là sự vận động theo khuynh hướng đi lên.
- Tính chất của sự phát triển:
+ Tính khách quan, nghĩa là phát triển của sự vật là tự thân, nguồn gốc của sự phát

triển nằm ngay trong bản thân sự vật, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người
+ Tính phổ biến: phát triển diễn ra trong tự nhiên, xã hội và tư duy của con người. Mọi
sự vật đều nằm trong những quá trình phát triển, chịu sự chi phối của các quá trình phát
triển.
+ Tính đa dạng: Tuỳ thuộc vào hình thức tồn tại cụ thể của các dạng vật chất mà phát
triển diễn ra cụ thế khác nhau.
- Ý nghĩa phương pháp luận:
+ Từ nguyên lý này rút ra quan điểm phát triển và quan điểm lịch sử - cụ thể trong
nhận thức sự vật.
+ Quan điểm phát triển yêu cầu: khi xem xét sự vật, hiện tượng phải nhận thức sự vật
trong sự vận động, phát triển; phải nhìn thấy khuynh hướng phát triển trong tương lai của
chúng; cái cũ, cái lạc hậu sẽ mất đi; cái mới, cái tiến bộ sẽ ra đời thay thế cái cũ, cái lạc hậu.
+ Quan điểm lịch sử - cụ thể yêu cầu: phải xem xét sự vật, hiện tượng trong quá trình
vận động phát triển; nó ra đời trong hoàn cảnh như thế nào? Trải qua những giai đoạn phát
triển như thế nào? Mỗi giai đoạn có tính tất yếu và đặc điểm như thế nào? Bởi vì có xem xét
trong quá trình lịch sử - cụ thể như vậy, chúng ta mới phát hiện ra cái lôgic phát triển khách
quan của sự vật.
2.3. Những quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật
a. Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập
Đây là một trong 3 quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật duy vật. Nó nói lên
nguồn gốc, động lực của sự phát triển. Quy luật này là hạt nhân của phép biện chứng.
Mặt đối lập là những mặt có thuộc tính, khuynh hướng vận động trái ngược nhau, bài
trừ, gạt bỏ, chống đối lẫn nhau, nhưng tồn tại gắn bó với nhau trong một thể thống nhất hợp
thành một mâu thuẫn
Mặt đối lập biện chứng là phạm trù triết học chỉ những mặt có thuộc tính, khuynh
hướng vận động trái ngược nhau, bài trừ, gạt bỏ, chống đối lẫn nhau, nhưng tồn tại gắn bó
với nhau trong một thể thống nhất. Ví dụ: Đồng hóa và dị hóa...
Mâu thuẫn biện chứng là sự liên hệ tác động qua lại lẫn nhau của hai mặt đối lập biện
chứng.
Thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập:

- Sự thống nhất giữa các mặt đối lập được hiểu theo ba nghĩa:
. Sự nương tựa vào nhau, làm điều kiện, tiền đề tồn tại cho nhau của các mặt đối lập.
. Giữa các mặt đối lập có những mặt đồng nhất, giống nhau, tương đồng nhau.
ThS. Lê Đức Thọ

Trang 19


Bài giảng Môn học Chính trị (Hệ cao đẳng Nghề)

. Giữa hai mặt đối lập có trạng thái cân bằng, tác động ngang nhau. Lý luận về sự
thống nhất của các mặt đối lập là hạt nhân của phép biện chứng.
- Đấu tranh của các mặt đối lập là sự tác động lẫn nhau, bài trừ gạt bỏ, phủ định,
chống đối lẫn nhau của các mặt đối lập.
Đấu tranh của các mặt đối lập là tuyệt đối. Thống nhất của các mặt đối lập là tương đối.
Sự đấu tranh của các mặt đối lập có quá trình phát triển từ thấp đến cao. Lúc đầu chỉ là sự khác
nhau của các mặt. Về sau sự khác nhau biến thành sự đối lập. Sự đấu tranh của các mặt đối lập từ
chỗ chưa gay gắt đến chỗ gay gắt hơn.
- Sự giải quyết mâu thuẫn: Trong quá trình đấu tranh của các mặt đối lập, mâu thuẫn thường
xuyên được giải quyết, nhưng đó chỉ là sự giải quyết cục bộ; mâu thuẫn được giải quyết nhưng
được tái tạo trên cơ sở mới.
Cho đến khi mâu thuẫn phát triển đến trình độ chín muồi thì nó mới có thể được giải quyết
triệt để hoàn toàn. Sự giải quyết mâu thuẫn không chỉ phụ thuộc vào bản chất và trình độ chín
muồi của mâu thuẫn, mà còn phụ thuộc vào những điều kiện cụ thể nhất định của sự tồn tại của
nó.
Vai trò của mâu thuẫn trong quá trình vận động, phát triển của sự vật. Mâu thuẫn là nguồn
gốc, động lực của sự vận động, phát triển.
- Đấu tranh của các mặt đối lập là nguồn gốc, động lực của sự phát triển. Nó phá vở
thể thống nhất cũ, xác lập thể thống nhất mới với những mặt đối lập mới - sự vật phát triển.
Sự liên tục vận động và biến đổi đó diễn ra cả trong tự nhiên và xã hội.

- Khi hai mặt đối lập tác động lẫn nhau, cả hai mặt đối lập đều biến đổi, mâu thuẫn biến đổi
và được giải quyết thì mâu thuẫn cũ mất đi làm cho sự vật không còn là nó. Sự vật mới ra đời,
mâu thuẫn mới lại xuất hiện. Cứ như vậy sự vật vận động, phát triển.
Như vậy, mâu thuẫn và việc giải quyết mâu thuẫn chính là nguồn gốc và động lực của
sự vận động và phát triển.
Một số loại mâu thuẫn:
- Mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài:
+ Mâu thuẫn bên trong là sự tác động qua lại giữa các mặt, các khuynh hướng đối lập
nhau của cùng một sự vật.
+ Mâu thuẫn bên ngoài là sự tác động qua lại giữa các mặt, các khuynh hướng đối lập
nhau của các sự vật khác nhau. Sự phân chia mâu thuẫn bên trong và bên ngoài chỉ mang
tính tương đối. Mâu thuẫn bên trong đóng vai trò quyết định đối với sự vận động phát triển
của sự vật. Mâu thuẫn bên ngoài đóng vai trò quan trọng nhưng chỉ phát huy tác dụng thông
qua mâu thuẫn bên trong.
- Mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản:
+ Mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn qui định bản chất của sự vật và tồn tại trong suốt quá
trình tồn tại của sự vật.
+ Mâu thuẫn không cơ bản là mâu thuẫn đặc trưng cho một phương diện nào đó của sự
vật và qui định sự vận động, phát triển của phương diện đó của sự vật.
- Mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn không chủ yếu:
+ Mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn nổi lên hàng đầu ở một giai đoạn phát triển nhất
định của sự vật, hiện tượng; giữ vai trò quyết định sự vận động, phát triển của sự vật, hiện
tượng trong giai đoạn đó.
+ Mâu thuẫn không chủ yếu là mâu thuẫn mà việc giải quyết nó không quyết định việc
giải quyết các mâu thuẫn khác ở giai đoạn đó của sự vật.
- Mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng:
ThS. Lê Đức Thọ

Trang 20



Bài giảng Môn học Chính trị (Hệ cao đẳng Nghề)

+ Mâu thuẫn đối kháng là mâu thuẫn giữa những giai cấp, tập đoàn người, những
nhóm xã hội có lợi ích cơ bản đối lập nhay không thể điều hoà. Đó là mâu thuẫn giữa giai
cấp bị bóc lột với giai cấp bóc lột; giữa các dân tộc bị áp bức với chủ nghĩa đế quốc.
+ Mâu thuẫn không đối kháng là là mâu thuẫn giữa những lực lượng, khuynh hướng xã
hội có đối lập về lợi ích nhưng đó không phải là lợi ích căn bản, mà chỉ là lợi ích cục bộ,
tạm thời. Ví dụ: mâu thuẫn giữa công nhân và nông dân về những lợi ích tạm thời nào đó.
Ý nghĩa phương pháp luận:
Thấy được động lực phát triển của sự vật không phải ở ngoài sự vật mà là những mâu
thuẫn trong bản thân sự vật.
Mâu thuẫn là khách quan, phổ biến nên nhận thức mâu thuẫn là cần thiết và phải khách
quan.
Mâu thuẫn chỉ được giải quyết khi có đủ điều kiện chín muồi cho nên không được giải
quyết nóng vội khi chưa có điều kiện chín muồi, nhưng cũng không được để việc giải quyết
mâu thuẫn diễn ra tự phát.
Trong hoạt động thực tiễn, khi xem xét một vấn đề hay một quá trình nào đó của thế
giới phải đặt nó trong những quan hệ và tình huống đối lập nhau.
b. Quy luật những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất và ngược lại
(gọi tắt là quy luật lượng chất)
Quy lụât này nói lên cách thức của sự phát triển.
Chất là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật,
hiện tượng, là sự thống nhất hữu cơ các thuộc tính làm cho nó là nó chứ không phải là cái
khác.
Chất là khái niệm triết học, là khái niệm rộng nhất, không đồng nhất với khái niệm
chất của các ngành khoa học cụ thể. Như vậy, khái niệm chất trong triết học khác với khái
niệm chất thông thường.
Chất cũng có nhiều cấp độ: chất toàn bộ, chất bộ phận.
Chất xuất phát từ cấu trúc bên trong của sự vật và biểu hiện ra thông qua các thuộc

tính của sự vật.
Chất biểu hiện thông qua tổng hợp các thuộc tính, trong đó có thuộc tính cơ bản và
thuộc tính không cơ bản. Để phân biệt chất, người ta thường căn cứ vào một số thuộc tính
cơ bản của sự vật.
Sự phân biệt giữa thuộc tính cơ bản và thuộc tính không cơ bản chỉ có tính tương đối
tuỳ theo mối quan hệ của sự vật. Sự phân biệt chất dựa trên một số thuộc tính cơ bản chỉ là
bước đầu; đối với những sự vật phức tạp thì cần phải phân tích cụ thể, tỉ mỉ căn cứ vào cấu
trúc bên trong của sự vật thì mới có được một sự đánh giá thật sự chính xác.
Chất của sự vật là khách quan, tương đối ổn định, được biểu hiện thông qua các
thuộc tính và tùy thuộc vào các quan hệ cụ thể. Sự phân biệt giữa chất và thuộc tính chỉ
mang tính tương đối.
Lượng là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật,
biểu thị số lượng, quy mô (to nhỏ, nhiều ít ...), cường độ (màu sắc đậm nhạt, âm thanh to
nhỏ, ánh sáng tỏ mờ ...), trình độ (trình độ học vấn, trình độ chuyên môn của một người,
trình độ phát triển của một quốc gia ...), tốc độ, nhịp điệu (nhanh chậm ...) của sự vận động
và phát triển của sự vật cũng như các thuộc tính của sự vật.
Lượng có thể đo được bằng con số. Tuy nhiên, sự vật phức tạp thì thông số về lượng
của nó cũng phức tạp; do đó để nhận thức được lượng của nó, phải sử dụng nhiều con số
thống kê và phải thông qua sự phán đoán, đánh giá của tư duy. Ví dụ: lòng tốt, tình yêu...
ThS. Lê Đức Thọ

Trang 21


Bài giảng Môn học Chính trị (Hệ cao đẳng Nghề)

Chât và lượng là hai mặt thống nhất với nhau trong mỗi sự vật, hiện tượng. Chất và
lượng là hai mặt gắn bó, không tách rời nhau. Chất nào có lượng đó, lượng nào có chất đó.
Chất và lượng có sự phù hợp với nhau. Sự phù hợp này diễn ra trong một phạm vi, giới hạn
nhất định gọi là “độ”.

Lượng đổi dẫn tới chất đổi:
+ Chất và lượng là hai mặt thống nhất hữu cơ với nhau, chúng thay đổi trong quan hệ
chặt chẽ với nhau. Lượng thay đổi trước chất, nhưng không phải mọi sự thay đổi của lượng
đều ngay lập tức làm thay đổi căn bản chất của nó.
+ Sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi về chất chỉ trong giới hạn nhất định. Vượt
quá giới hạn đó sẽ làm cho sự vật không còn là nó, chất cũ mất đi, chất mới ra đời.
+ Giới hạn mà trong đó, sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi về chất được gọi là
độ (là phạm trù triết học dùng để chỉ sự thống nhất giữa lượng và chất, là giới hạn trong đó
sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi căn bản về chất của sự vật).
+ Những điểm giới hạn mà khi sự thay đổi về lượng đạt tới đó sẽ làm cho sự thay đổi
về chất của vật diễn ra được gọi là điểm nút.
+ Sự thay đổi về chất do những thay đổi về lượng trước đó gây ra gọi là bước nhảy.
- Khi chất mới ra đời nó sẽ tác động trở lại đối với sự biến đổi của lượng trong quá
trình phát triển của sự vật (làm thay đổi quy mô, nhịp điệu, tốc độ ... phát triển của sự vật).
Các hình thức của bước nhảy:
+ Bước nhảy đột biến (chất của sự vật biến đổi một cách nhanh chóng ở tất cả các bộ
phận cơ bản, cấu thành sự vật)
+ Bước nhảy dần dần (là quá trình thay đổi về chất diễn ra bằng con đường tích lũy
dần dần những nhân tố của chất mới và mất đi dần dần những nhân tố của chất cũ)
+ Bước nhảy toàn bộ là bước nhảy làm thay đổi về chất tất cả các mặt, các bộ phận,
các yếu tố cấu thành sự vật.
+ Bước nhảy cục bộ là bước nhảy làm thay đổi một số mặt, một số bộ phận, yếu tố cấu
thành sự vật.
+ Trong lĩnh vực xã hội, thay đổi về lượng được gọi là “tiến hóa”, thay đổi về chất
được gọi là “cách mạng”.
* Ý nghĩa phương pháp luận:
- Muốn có thay đổi về chất phải tích luỹ về lượng, không được nóng vội chủ quan.
- Khi tích luỹ đủ về lượng cần thực hiện bước nhảy, tránh bảo thủ, trì trệ, ngại khó.
- Phân biệt và vận dụng sáng tạo bước nhảy.
- Để sự vật còn là nó phải nhận thức được độ của nó và không để cho lượng thay đổi

vượt quá giới hạn độ.
c. Quy luật phủ định của phủ định
Sự phủ định là tất yếu đối với mọi sự vận động và phát triển – đó là sự bài trừ, bác bỏ
sự vật nhất định nào đó. Nói cách khác, phủ định là một quá trình vận động trong đó sự vật,
hiện tượng này được thay thế bởi sự vật, hiện tượng khác (đây là sự biến đổi nói chung).
Có hai loại phủ định: siêu hình và biện chứng.
Phủ định siêu hình là sự phủ định sạch trơn, sự phủ định không tạo tiền đề cho sự
phát triển tiếp theo, lực lượng phủ định ở bên ngoài sự vật.
Phủ định biện chứng là quá trình tự phủ định, tự phát triển, là mắt khâu trên con
đường dẫn tới sự ra đời của cái mới, cái tiến bộ hơn so với cái tự phủ định.
+ Đặc điểm của phủ định biện chứng
Tính khách quan: là sự tự thân phủ định, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của
con người.
ThS. Lê Đức Thọ

Trang 22


Bài giảng Môn học Chính trị (Hệ cao đẳng Nghề)

Tính kế thừa: cái mới phủ định cái cũ không loại bỏ hoàn toàn cái cũ mà kế thừa
những yếu tố tích cực của cái cũ để từ đó phát triển lên.
Phủ định của phủ định. Hình thức xoáy ốc của sự phát triển.
- Phủ định của phủ định là khái niệm nói lên rằng, sự vận động, phát triển của sự vật
thông qua hai lần phủ định biện chứng, dường như quay lại cái cũ nhưng trên cơ sở cao hơn.
- Phủ định lần thứ nhất chuyển cái xuất phát thành cái đối lập mình; phủ định lần thứ
hai chuyển cái trung gian thành cái đối lập với nó, sự vật dường như lặp lại cái xuất phát
nhưng trên cơ sở mới cao hơn.
- Sự phủ định của phủ định là giai đoạn kết thúc một chu kỳ phát triển, đồng thời lại là
điểm xuất phát của một chu kỳ phát triển tiếp theo, tạo ra đường xoáy ốc của sự phát triển.

Mỗi đường mới của đường xoáy ốc thể hiện một trình độ cao hơn của sự phát triển. Sự tiếp
nối nhau của các vòng xoáy ốc thể hiện tính vô tận của sự phát triển.
- Số lần phủ định đối với mỗi chu kỳ của từng sự vật, hiện tượng cụ thể là khác nhau.
Thông thường một sự vật, hiện tượng phải trải qua ít nhất hai lần phủ định mới kết thúc một
chu kỳ phát triển, tuy nhiên đối với những sự vật phức tạp số lần phủ định có thể nhiều hơn.
- Vận động, phát triển đi lên là xu hướng chung của thế giới, nhưng không diễn ra theo
đường thẳng mà theo đường “xoáy ốc” quanh co, phúc tạp, do cái mới ra đời, còn non nớt
chưa đủ khả năng thắng cái cũ và bị cái cũ tác động trở lại gây khó khăn, cản trở nên tạm
thời thụt lùi.
Ý nghĩa phương pháp luận
- Cho ta cơ sở để hiểu sự ra đời của cái mới, mối liên hệ giữa cái cũ và cái mới.
- Chống thái độ phủ định sạch trơn.
- Phải biết sàng lọc những gì tích cực của cái cũ.
- Chống thái hư vô chủ nghĩa đồng thời chống bảo thủ khư khư ôm lấy những gì đã lỗi
thời lạc hậu, không chịu đổi mới.
- Phải hiểu phát triển không phải là đường thẳng.
3. NHẬN THỨC VÀ HOẠT ĐỘNG THỰC TIỄN
3.1. Bản chất của nhận thức
a. Các quan điểm về nhận thức của một số trào lưu triết học trước Mác
- Thuyết bất khả tri phủ nhận khả năng nhận thức thế giới của con người; cho rằng con
người chỉ nhận thức được hiện tượng, không nhận thức được bản chất của sự vật.
- Chủ nghĩa duy tâm khách quan: Platon: nhận thức là sự hồi tưởng về thế giới ý niệm
có trước thế giới vật chất. Hêghen: nhận thức là sự tự nhận thức của ý niệm tuyệt đối có
trước thế giới tự nhiên. Tôn giáo: Nhận thức nhờ sự mặc khải (revelation: sự tiết lộ) của
Thượng đế.
- Chủ nghĩa duy tâm chủ quan: (Beccli, Hium). Nhận thức chỉ là sự phản ánh những
trạng thái chủ quan bên trong con người (cảm giác, tâm lý, xúc cảm ...) của chủ thể. Nhận
thức chỉ là sự phức hợp những cảm giác của con người. Còn chủ nghĩa duy tâm khách quan
lại coi nhận thức là sự “hồi tưởng lại” của linh hồn bất tử về “thế giới các ý niệm”.
- Chủ nghĩa duy vật trước Mác: Nhận thức là sự phản ánh hiện thực khách quan.

Nhận thức bắt nguồn từ cảm giác. Nhận thức đi từ nhận thức cảm tính đến nhận thức lý tính
(tư duy). Tuy nhiên, họ coi nhận thức chỉ là sự sao chép đơn giản, máy móc; không thấy tính
sáng tạo của phản ánh. Cho rằng nhận thức chỉ một lần là đạt được chân lý; không thấy nhận
thức là quá trình biện chứng. Không thấy vai trò của hoạt động thực tiễn đối với nhận thức.
Tóm lại, tất cả các trào lưu triết học trước Mác đều quan niệm sai lầm hoặc phiến diện
về nhận thức, những vấn đề về lý luận nhận thức chưa được giải quyết một cách khoa học,
đặc biệt là chưa thấy được đầy đủ vai trò của thực tiễn đối với nhận thức.
ThS. Lê Đức Thọ

Trang 23


Bài giảng Môn học Chính trị (Hệ cao đẳng Nghề)

b. Quan điểm duy vật biện chứng về nhận thức
Bản chất của nhận thức
- Nhận thức là sự phản ánh thế giới hiện thực khách quan vào trong bộ não người. Đó
là sự phản ánh năng động, sáng tạo, dựa trên hoạt động tích cực của chủ thể trong mối quan
hệ với khách thể.
- Khẳng định khả năng nhận thức thế giới của con người.
- Nhận thức là quá trình biện chứng, có vận động biến đổi, phát triển, đi từ chưa biết
đến biết, từ biết ít đến biết nhiều hơn nhưng không có giới hạn cuối cùng.
- Nhận thức phải dựa trên cơ sở thực tiễn, lấy thực tiễn làm mục đích nhận thức, tiêu
chuẩn kiểm tra chân lý.
Chủ thể và khách thể nhận thức
- Con người là chủ thể nhận thức (có thể là một cá nhân, một giai cấp, một dân tộc, cả
loài người) với những điều kiện lịch sử cụ thể.
- Khách thể nhận thức trả lời cho câu hỏi cái gì được nhận thức. Khách thể nhận thức
là một bộ phận, một lĩnh vực của hiện thực khách quan, nằm trong miền hoạt động nhận
thức và trở thành đối tượng nhận thức của chủ thể nhận thức. Do đó, khách thể nhận thức có

thể là thế giới vật chất, hoặc tư duy, tình cảm, tâm lý ... Như vậy, khách thể nhận thức luôn
thay đổi cùng với sự phát triển của nhận thức và thực tiễn của con người.
3.2. Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức
a. Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức
- Định nghĩa
+ Các nhà triết học trước Mác và ngoài Mác đều chưa trả lời đuợc thực tiễn một cách
thực sự đúng đắn, khoa học.
+ Theo quan điểm duy vật biện chứng, thực tiễn là những hoạt động vật chất có mục
đích mang tính lịch sử - xã hội của con người nhằm cải tạo tự nhiên, xã hội và cải tạo chính
bản thân con người.
- Đặc trưng của thực tiễn:
+ Là hoạt động vật chất cảm tính. Đó là hoạt động mà con người phải dùng công cụ vật
chất, lực lượng vật chất tác động vào đối tượng vật chất để làm thay đổi chúng. Ví dụ: cày
ruộng, đào đất, xây nhà…
+ Có tính lịch sử - xã hội. Nghĩa là hoạt động thực tiễn là hoạt động của con người,
diễn ra trong xã hội với sự tham gia của đông đảo người và trải qua những giai đoạn lịch sử
nhất định.
+ Có tính mục đích – nhằm trực tiếp cải tạo tự nhiên và xã hội phục vụ con người.
- Các hình thức cơ bản của thực tiễn:
+ Hoạt động sản xuất vật chất: Đây là hình thức cơ bản của hoạt động thực tiễn, có vai
trò quyết định và là cơ sở cho các hoạt động khác của thực tiễn.
+ Hoạt động làm biến đổi các quan hệ xã hội: Đây là hình thức cao nhất của hoạt động
thực tiễn. Bao gồm những hoạt động của con người trong các lĩnh vực chính trị - xã hội.
+ Quan sát và thực nghiệm khoa học là một hình thức đặc biệt của hoạt động thực tiễn.
b. Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức
- Thực tiễn là cơ sở của nhận thức:
+ Chỉ thông qua hoạt động thực tiễn, các sự vật, hiện tượng mới bộc lộ những thuộc
tính vốn có của nó, nhờ vậy chúng ta mới nhận thức được sự vật hiện tượng. Mọi tri thức
của con người đều bắt nguồn từ thực tiễn.
+ Tri thức của thế hệ này có được phần lớn là do kế thừa từ thế hệ trước nhưng suy cho

cùng mọi tri thức của thế hệ trước được hình thành nên đều dựa vào thực tiễn.
ThS. Lê Đức Thọ

Trang 24


Bài giảng Môn học Chính trị (Hệ cao đẳng Nghề)

- Thực tiễn là động lực của nhận thức:
+ Thông qua hoạt động thực tiễn đặt ra nhu cầu nhờ đó thúc đẩy nhận thức của con
người, hình thành hệ thống các ngành khoa học, kể cả các ngành khoa học xã hội nhân văn.
Mặt khác, thông qua hoạt động thực tiễn các giác quan của con người, đặc biệt là bộ não
hình thành và ngày càng hoàn thiện, nhờ đó mới mở rộng khả năng nhận thức của con
người.
+ Cùng với quá trình hoạt động thực tiễn con người đã tạo ra được những phương tiện,
công cụ nhận thức tăng cường nhằm mở rộng khả năng nhận thức cho con người. Do đó,
các giác quan của con người được “nối dài” ra.
- Thực tiễn là mục đích của quá trình nhận thức:
+ Nhận thức của con người bị chi phối bởi nhu cầu sống, nhu cầu tồn tại. Ngay từ thủa
mông muội, để sống con người phải tìm hiểu thế giới xung quanh.
+ Những tri thức, kết quả nhận thức chỉ có ý nghĩa đích thực khi được vận dụng vào
thực tiễn phục vụ con người.
- Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý: Vì nhận thức của con người có thể đúng, có thể sai, có
thể chân thật hay giả dối. Vì vậy, muốn đo được tính chất và độ đáng tin cậy của nhận thức đòi hỏi
con người phải quay về với thực tiễn, lấy thực tiễn làm tiêu chuẩn của chân lý.
Phải hiểu thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý một cách biện chứng, nghĩa là nó vừa có tính
tuyệt đối, vừa có tính tương đối :
+ Tính tuyệt đối thể hiện ở chỗ, thực tiễn ở những giai đoạn lịch sử cụ thể là tiêu chuẩn khách
quan duy nhất có thể khẳng định chân lý, bác bỏ sai lầm.
+ Tính tương đối thể hiện ở chỗ, bản thân thực tiễn luôn vận động, biến đổi phát triển. Cho

nên, khi thực tiễn thay đổi thì nhận thức cũng phải thay đổi theo cho phù hợp. Nghĩa là những tri
thức đã đạt được trước đây hiện nay vẫn phải được kiểm nghiệm thông qua thực tiễn.
Ý nghĩa phương pháp luận: Khi nhận thức sự vật, hiện tượng phải gắn nó với nhu cầu thực
tiễn, lấy thực tiễn để kiểm tra chân lý. Vì thực tiễn luôn luôn thay đổi nên nhận thức cũng phải
luôn thay đổi theo. Trong quá trình học tập và rèn luyện phải luôn gắn liền lý luận với thực tiễn,
học luôn đi đôi với hành.
3.3. Con đường biện chứng của quá trình nhận thức
Theo Lênin, từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến
thực tiễn là con đường biện chứng của quá trình nhận thức.
a. Trực quan sinh động (nhận thức cảm tính)
Trực quan sinh động hay nhận thức cảm tính là giai đoạn đầu tiên của quá trình nhận
thức được biểu hiện dưới ba hình thức: cảm giác, tri giác và biểu tượng.
Con người có năm cơ quan cảm giác, mỗi cảm giác giúp ta nhận biết một thuộc tính
nào đó của sự vật, hiện tượng. Khi tiếp xúc với sự vật, với những cảm giác khác nhau chúng
ta cảm nhận nhiều thuộc tính của nó. Sự tổng hợp nhiều thuộc tính khác nhau của sự vật do
những cảm giác đem lại được gọi là tri giác.
So với cảm giác, tri giác đem lại cho chúng ta tri thức về sự vật đầy đủ hơn, và hoàn
chỉnh hơn. Trên cơ sở cảm giác và tri giác trong óc con người xuất hiện một hình thức cao
hơn, đó là biểu tượng. Biểu tượng là hình ảnh được tái hiện, được hình dung lại với những
thuộc tính nổi bật của sự vật.
Giai đoạn nhận thức cảm tính đem lại cho ta những hiểu biết còn dừng lại ở cái bề
ngoài, cái hiện tượng, cái đơn nhất mà ở đó chưa thể khám phá được những thuộc tính bản
chất, những quy luật vận động của sự vật, hiện tượng. Nhận thức chỉ khám phá được những
thông tin sâu sắc đó trong giai đoạn kế tiếp là tư duy trừu tượng.
b. Tư duy trừu tượng (nhận thức lý tính)
ThS. Lê Đức Thọ

Trang 25



×