Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Chính sách an sinh xã hội của một số nước ASEAN và bài học kinh nghiệm đối với việt nam (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (855.07 KB, 27 trang )

VIN HN LM
KHOA HC X HI VIT NAM
HC VIN KHOA HC X HI

PHM TH HNG HOA

chính sách an sinh xã hội
của một số n-ớc asean và bài học
kinh nghiệm đối với việt nam

Chuyên ngành: kinh tế quốc tế
Mã số: 62.31.01.06

Hà Nội - 2017
CÔNG TRìNH ĐƯợC HOàN THàNH tại


häc viÖn khoa häc x· héi

Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS.TS. Trần Quang Lâm
2. TS. Trần Thị Nhung

Phản biện 1: GS.TS. Đỗ Đức Bình
Phản biện 2: PGS.TS. Đinh Văn Thành
Phản biện 3: PGS.TS. Bùi Tất Thắng

Luận án được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học viện
tại: Học viện Khoa học xã hội vào hồi ..…. giờ……phút, ngày ……
tháng …… năm 2017.


Có thế tìm hiểu luận án tại:
- Thư viện Học viện Khoa học xã hội
- Thư viện Quốc gia


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong cuộc sống nói chung và trong lao động nói riêng, con
người có mối quan hệ, tác động, qua lại với nhau và với thiên nhiên.
Những tác động đó không phải lúc nào cũng mang lại kết quả thuận
lợi mong muốn. Trái lại, có rất nhiều trường hợp đe dọa sự an toàn đời
sống con người, làm cho họ bị giảm hoặc mất khả năng lao động, do
đó làm ảnh hưởng đến thu nhập và các điều kiện sinh sống khác.
Những rủi ro có thể ảnh hưởng đến cá nhân, gia đình và cộng đồng
như ốm đau, tai nạn, mất việc làm, thiên tai, hỏa hỏa hoạn, dịch
bệnh,… Khi rủi ro xảy ra, mỗi cá nhân, mỗi gia đình cố gắng tìm mọi
cách khắc phục. Tuy nhiên, nhiều trường hợp rủi ro quá lớn vượt quá
khả năng khắc phục của cá nhân và gia đình, đòi hỏi phải có sự giúp
đỡ của cộng đồng, xã hội và nhà nước. Những giúp đỡ này nhằm góp
phần đảm bảo an toàn cuộc sống cho mỗi thành viên khi còn đang làm
việc cũng như khi tuổi già, ốm đau,… do nhiều nguyên nhân gây ra
được gọi là an sinh xã hội.
Thailand, Maylasia là hai trong 11 quốc gia khu vực ASEAN có
những đặc điểm khá riêng biệt, đặc biệt đã thực hiện nhiều chính sách
xã hội có hiệu quả trong việc giải quyết các vấn đề ASXH. Tại Việt
Nam, Nghị quyết số 15-NQ/TW ngày 01/6/2012 của Ban chấp hành
Trung ương Đảng về "Một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn
2012-2020" khẳng định đến năm 2020 cơ bản hình thành hệ thống
ASXH bao phủ toàn dân.
Để có cơ sở khoa học khuyến nghị các cơ quan có thẩm quyền

trong việc hoạch định và thực thi chính sách an sinh xã hội tại Việt
Nam, cần phải học hỏi kinh nghiệm của các nước khác (trong đó có
Thailand và Malaysia) để phân tích các điểm mạnh, điểm yếu và những
kết quả cụ thể đạt được của các quốc này, từ đó có những gợi ý chính
sách nhằm hoàn thiện chính sách an sinh xã hội đối với Việt Nam trong


thời gian tới. Với ý nghĩa đó, tác giả chọn đề tài "Chính sách an sinh
xã hội của một số nước ASEAN và bài học kinh nghiệm đối với Việt
Nam" làm đề tài cho luận án tiến sĩ kinh tế của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện với mục đích đánh giá những thành
công và hạn chế trong việc hoạch định và thực thi chính sách ASXH của
Thailand, Malaysia về BHXH, BHYT, BHTN dựa trên cơ sở lý thuyết và
phân tích thực trạng chính sách ASXH của hai quốc gia trên. Từ thực tiễn
của Việt Nam và vận dụng thành công của Thailand, Malaysia trong giải
quyết chính sách ASXH để khuyến nghị và hàm ý chính sách về hoạch
định và thực thi chính sách ASXH ở Việt Nam trong thời gian tới.
2.2. Nhiệm vụ của luận án
Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, luận án có các nhiệm vụ chính
sau:
+ Thứ nhất, xây dựng cơ sở lý luận ASXH và hoạch định, thực
hiện chính sách ASXH nói chung, từ đó nêu ra quan điểm của tác giả
về vấn đề này cũng như các nhân tố ảnh hưởng.
+ Thứ hai, phân tích nội dung cơ bản chính sách ASXH (BHXH,
BHYT, BHTN) của Thailand, Malaysia và vai trò của chính phủ các
nước trong việc hoạch định và thực hiện chính sách ASXH. Từ đó, rút
ra các bài học kinh nghiệm về hoạch định và thực thi chính sách
ASXH.

+ Thứ ba, phân tích nội dung cơ bản chính sách ASXH (BHXH,
BHYT, BHTN) hiện nay của Việt Nam, kết hợp với những thành công
trong hoạch định và thực thi chính sách ASXH của Thailand, Malaysia,
đề xuất các khuyến nghị và hàm ý chính sách nhằm hoàn thiện chính
sách ASXH ở Việt Nam trong giai đoạn tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu


Chính sách ASXH và hoạch định, thực thi chính sách ASXH
của Thailand, Malaysia và Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc
tế.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Luận án tập trung nghiên cứu chính sách trong
ASXH của Thailand, Malaysia xét trên phương diện hoạch định và thực
thi chính sách và có đề cập đến quá trình này tại Việt Nam.
- Về không gian: Luận án tập trung nghiên cứu chính sách
BHXH, BHYT, BHTN của Thailand, Malaysia để rút ra những thành
công trong việc hoạch định và thực thi chính sách ASXH mà Việt Nam
có thể học hỏi những kinh nghiệm trong hoàn thiện chính sách ASXH.
- Về thời gian: Luận án tập trung nghiên cứu các chính sách
ASXH của Thailand, Malaysia giai từ năm 2010 đến nay và đề xuất
giải pháp về chính sách ASXH cho Việt Nam đến năm 2025.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận, thực tiễn
- Cơ sở lý luận: Luận án được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận
của chủ nghĩa duy vật biện chứng, nền tảng khoa học của chuyên kinh
tế quốc tế, vận dụng các kiến thức liên ngành chính sách công, quản lý
công và quan điểm về chính sách ASXH của Liên hợp quốc, Tổ chức
Lao động quốc tế, Ngân hàng Thế giới và các quan điểm của Đảng và

Nhà nước ta về chính sách ASXH của Việt Nam trong thời kỳ hội nhập
quốc tế. Đồng thời, luận án có tham khảo kết quả nghiên cứu một số
công trình của các tác giả đi trước có liên quan đến đề tài.
- Cơ sở thực tiễn: Luận án căn cứ vào kết quả thực hiện chính
sách ASXH của Thailand, Malaysia và Việt Nam trong những năm qua
để tiếp cận và đánh giá chính sách ASXH như là một cơ chế phân phối
lại thu nhập xã hội nhằm điều hoà lợi ích, thu hẹp chênh lệch mức sống
giữa các tầng lớp dân cư, giảm bớt sự bần cùng, nghèo đói, cải thiện
điều kiện sống của mọi thành viên xã hội, đặc biệt là các đối tượng gặp
biến cố, rủi ro.


4.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu phân tích, tổng hợp: Thông qua
phương pháp nghiên cứu này, tác giả chi tiết các vấn đề nghiên cứu
của luận án. Qua đó, vận dụng lý luận làm sáng tỏ khung chính sách
ASXH, cũng như các bộ phận cấu thành, nhân tố ảnh hưởng đến chính
sách ASXH và vai trò của nó đối với sự phát triển kinh tế.
- Phương pháp thống kê mô tả: Phương pháp này được tác giả
sử dụng chủ yếu trong chương 3 và một phần của chương 4 để thu thập
các số liệu trong hoạch định và thực thi các chính sách ASHX của
Thailand, Malaysia, Việt Nam. Từ đó, tác giả đối chiếu các điều kiện
thực hiện các chính sách, kết quả thực hiện chính sách ASXH để rút ra
sự khác nhau giữa những số liệu thống kê.
- Phương pháp chuyên gia: Để có đánh giá của các nhà khoa học
về vấn đề nghiên cứu với mục đích tìm ra giải pháp tối ưu cho quá
trình nghiên cứu, đặc biệt là trong củng cố các luận cứ, nhận định, đề
xuất các giải pháp về chính sách ASXH của luận án.
- Luận án sử dụng số liệu thứ cấp từ các cuộc điều tra có quy mô
và tính đại diện khác nhau từ các tài liệu có liên quan. Do các vấn đề

có liên quan đến ASXH rất đa dạng và thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau
nên nguồn số liệu và thông tin được thu thập từ các cơ quan, tổ chức khác
nhau. Đây cũng là một hạn chế của đề tài trong trường hợp số liệu thống
kê giữa các nguồn không tương thích với nhau về định nghĩa, cách đo
lường.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
- Luận án đã luận giải rõ nội hàm về chính sách ASXH trên cơ
sở xuất phát từ bản chất và các hình thức biểu hiện (hệ thống các giải
pháp, công cụ được luật hóa), và khẳng định chính sách ASXH là phạm
trù kinh tế - xã hội tổng hợp không thể tách rời và luôn phải đặt trong
mối tương quan hài hoà.


- Luận án làm rõ việc hoạch định và thực thi chính sách ASXH có
ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế và chịu ảnh hưởng của các nhân tố:
chủ trương, đường lối, chính sách, nhận thức của người dân, thu nhập của
người lao động, thể chế tài chính, yếu tố kinh tế, văn hóa, xã hội.
- Luận án khẳng định Việt Nam có thể học hỏi kinh nghiệm của
Thailand trong việc cấp BHYT cho toàn dân, hệ thống chăm sóc lão
khoa dựa trên cộng đồng, hay chính sách quỹ tiết kiệm nhân viên EPF
của Malaysia. Qua đó, luận án đã khuyến nghị Việt Nam cần: (i) xây
dựng và hoàn thiện thể chế về ASXH theo chuẩn ILO; (ii) mở rộng độ
bao phủ của chính sách ASXH; (iii) xã hội hóa các hoạt động về ASXH
để đảm bảo tính bền vững; (iv) quản lý đầu tư chặt chẽ và tạo sự công
bằng; (v) hiện đại hóa hệ thống hành chính ASXH.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Về lý luận
Làm rõ được nội hàm của chính sách an sinh xã hội; đặc biệt
nghiên cứu đã xác định được vai trò và tác động của chính sách an sinh
xã hội đến sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia.

6.2. Về thực tiễn
Phân tích quan điểm, phương hướng và mục tiêu quốc gia về
phát triển an sinh xã hội, cũng như yêu cầu về hoàn thiện hệ thống
chính sách an sinh xã hội của Việt Nam (đặc biệt là sau ngày
31/12/2015 Việt Nam tham gia cộng đồng ASEAN) trên cơ sở những
kết quả đạt được và hạn chế. Từ đó luận án nêu ra một số khuyến nghị
và hàm ý chính sách nhằm hoàn thiện chính sách an sinh xã hội của
Việt Nam.
7. Kết cấu của luận án
Chương 1. Tổng quan nghiên cứu về chính sách an sinh xã hội.
Chương 2. Cơ sở lý luận về chính sách an sinh xã hội trong hội
nhập kinh tế quốc tế.
Chương 3. Thực trạng chính sách an sinh xã hội của Thailand
và Malaysia.


Chương 4. Vận dụng bài học của Thailand và Malaysia vào hoàn
thiện chính sách an sinh xã hội đối với Việt Nam.
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VỀ CHÍNH SÁCH
AN SINH XÃ HỘI
1.1. Tổng quan các nghiên cứu liên quan đến đề tài
1.1.1. Các nghiên cứu nước ngoài
1.1.1.1. Nghiên cứu ASXH tại khu vực Châu Á Thái Bình Dương và ASEAN
Năm 2007, Paguman Singh trong "Social Protection in Asean:
Issues and Challenges for Asean and Its Member Countries" đã nêu
bật được thách thức với đối các nước thành viên ASEAN trong bối
cảnh hội nhập ngày càng sâu rộng. Peter A.Kemp (2010) trong
"Socical Protection for a Post-Industrial World (International Studies
on Socical Security)" đã đánh giá chi tiết về chính sách ASXH trên thế
giới cũng như các chính sách thực thi hệ thống này. Mukul G. Asher

(2010), trong "Social Security Reform Imperatives: The Southeast
Asian Case" đã tiếp cận khung chính sách ASXH của các nước khu
vực Đông Nam Á và so sánh các chính sách này với các nước Châu
Âu. David Coady (2012) trong công trình "The Economics of Public
Health Care Reform in Advanced and Emerging Economies" đề cập
đến mối quan hệ giữa các chính sách của quốc gia. Liên Hợp quốc
trong "Social services for human development" đã nhấn mạnh chính
phủ các nước trong khu vực Đông Nam Á hiện nay chịu nhiều áp lực
lớn về các chính sách ASXH.
1.1.1.2. Nghiên cứu ASXH của Thailand
Niwat Kanjanaphoomin (2004) trong "Pension Fund, Provident
Fund and Social Security System in Thailand" đã chỉ ra rằng hệ thống
hưu trí của Thailand đang phải đối mặt với một sự gia tăng liên tục.
Tangcharoensathien (2013) trong "Promoting universal financial
protection: How the Thai universal coverage scheme was designed to
ensure equity" đã chỉ ra rằng các chương trình ASXH của Thailand


chưa theo kịp với sự phát triển kinh tế. Srawooth Paitoonpong (2010)
trong "Social Protection in Thailand" đã đánh giá công tác bảo trợ xã
hội ở Thailand và đề xuất chính phủ cần phải cải cách mạnh mẽ để tạo
môi trường đóng và hưởng ASXH. Worawan Chandoevwit (2012)
trong "The Case Study of Unemployment Insurance Scheme in
Thailand" đã khẳng định người lao động Thailand hiểu biết rất ít về
bảo hiểm thất nghiệp. Peter Lloyd-Sherlock và Elisabeth SchröderButterfill (2012) trong công trình "Social security pension “reforms”
in Thailand and Indonesia: Unsustainable and unjust" đã khẳng định
rất khó để tìm ra nhiều mặt tích cực ở trong cải cách lương hưu ở
Thailand. Euamporn Phijaisanit & Gareth D. Myles (2014) trong "How
Fiscally Tolerable Is Thailand’s Social Security Pension Fund to Early
Retirement Decisions?" đã khẳng định quỹ hưu trí của Thailand cần

phải được điều chỉnh bởi các chính sách của chính phủ để đảm bảo về
tài chính. Payan Eumsilp (2015) trong nghiên cứu "Thai Social
Welfare (does it exist?) and Ageing Society (who it affects)" đã chính
phủ hiện nay đang thiên về công tác xã hội và các hoạt động của tổ
chức từ thiện, nên nó chưa đầy đủ về phúc lợi xã hội.
1.1.1.3. Nghiên cứu ASXH của Malaysia
Saidatulakmal Mohd (2009) trong "Social Protection in
Malaysia" đã đề xuất chính phủ cần kêu gọi sự hỗ trợ của gia đình
nhiều hơn để giảm bớt gánh nặng cho các chương trình ASXH.
Rooshida Merican Binti Abdul Rahim Merican (2010) trong
"Employees' Rights under the Malaysian Social Security
Organisation" đã khẳng định các chương trình ASXH chưa bao phủ
được ở khu vực lao động ở nông thôn, đặc biệt là lao động hợp đồng
không có tổ chức. Rohaizat, Hassan Monm, Davis (2012) trong
"Approaches And Future Direction of Social Security System:
Malaysian Perspective" đã khẳng định Malaysia phải nghiên cứu để có
thể cải cách về tài chính và cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khoẻ. Donald
S. Shepard, William Savedoff, Phua Kai Hong (2012) trong "Health


care reform initiatives in Malaysia" đã gợi ý những chính sách cho
Malaysia trong tương lai. Mohd Safri Saiman and Salmie Jemon
(2014) trong "Social Security: Case of Foreign Workers in Sabah
Malaysia" đã khẳng định không có đồng thuận trong xã hội trong chính
sách ASXH đối với lao động nước ngoài. Rossilah Jamil and Wong
Fong Wei (2015) trong "Leading Change In Social Security
Organization (SOCSO)" đã khẳng định Malaysia phải cần một có
chính sách ASXH phổ quát hơn. Robert Holzmann (2015) trong "OldAge Financial Protection in Malaysia: Challenges and Options" đã
khuyến nghị lựa chọn chính cho quỹ tiết kiệm nhân viên của Malaysia.
1.1.2. Các nghiên cứu trong nước

1.1.2.1. Nghiên cứu ASXH của Thailand và Malaysia
Năm 2007, BHXH Việt Nam nghiên cứu và công bố cuốn "Tài
liệu tham khảo kinh nghiệm thực hiện bảo hiểm xã hội của các nước
trong khu vực và trên thế giới". Bùi Duy Nam đã có nghiên cứu
"Thailand - quốc gia đầu tiên tại Đông Nam Á: Triển khai chính sách
BHTN bắt buộc trên phạm vi toàn quốc" năm 2013. Năm 2015,
PGS.TS Nguyễn Duy Dũng đã có nghiên cứu "Giải quyết an sinh xã
hội của Thailand, Malaixia, Philippin và bài học kinh nghiệm cho Việt
Nam". Đây là công trình nghiên cứu đầy đủ nhất về ASXH của
Thailand, Malaixia ở Việt Nam tại thời điểm này.
1.1.2.2. Nghiên cứu ASXH của Việt Nam
Nghiên cứu của PGS.TS Đỗ Minh Cương trong "Luận cứ khoa
học cho việc đổi mới và hoàn thiện các chính sách bảo đảm xã hội
trong điều kiện nền kinh tế thị trường ở Việt Nam". Nghiên cứu của
GS.TS Mai Ngọc Cường "Một số vấn đề cơ bản về chính sách ASXH
ở Việt Nam hiện nay" . Nghiên cứu của Nguyễn Hữu Dũng (2010)
trong "Hệ thống chính sách ASXH ở Việt Nam - Thực trạng và định
hướng phát triển". Năm 2013, Nguyễn Thị Lan Hương và cộng sự đã
có công trình nghiên cứu "Phát triển hệ thống an sinh xã hội ở Việt Nam
đến năm 2020" đã phân tích những tồn tại của chính sách ASXH và định


hướng cụ thể cho từng chính sách ASXH tại Việt Nam giai đoạn 20122020 .
1.2. Nhận xét các nghiên cứu đã thực hiện
1.2.1. Nghiên cứu về chính sách ASXH
(i) Đề cập và phân tích rõ cơ sở lý luận về ASXH và có quan
điểm chung ASXH đảm bảo sự phát triển bền vững cho xã hội; ổn định
chính trị và tăng trưởng kinh tế. (ii) Giúp tác giả có có cái nhìn toàn
diện về bản chất, cấu trúc, mô hình của ASXH, hướng nghiên cứu
ASXH đưới nhiều góc độ, khía cạnh khác nhau, tùy thuộc mục đích,

nhiệm vụ và chuyên môn, lĩnh vực nghiên cứu. (iii) Đưa ra những luận
cứ thuyết phục về chính sách ASXH và phân tích các nguyên nhân tác
động đến quá trình thực hiện, triển khai chính sách ASXH tại mỗi quốc
gia. (iv) Đã có những kiến giải, dự đoán, định hướng khác nhau về thực
thi chính sách ASXH.
Nhìn chung, các nghiên cứu đã cung cấp các thông tin tổng hợp
về ASXH. Đặc biệt, các nghiên cứu đã có đánh giá về chính sách
ASXH của Thailand, Malaysia và Việt Nam.
1.2.2. Nghiên cứu về chính sách BHXH, BHYT, BHTN
+ Tại Thailand: Chính sách BHXH đang phải đối mặt với một
sự gia tăng liên tục của lão hóa dân số buộc chính phủ xem xét việc cải
cách hệ thống hưu trí để mở động độ bao phủ cho người lao động.
+ Tại Malaysia: Các chương trình BHXH chỉ áp dụng cho các
ngành công nghiệp sử dụng một hoặc nhiều lao động và chỉ có mức
bao phủ trong các ngành có tổ chức ở khu vực thành thị, chưa bao phủ
được ở khu vực lao động ở nông thôn,...
+ Tại Việt Nam: Chính sách ASXH đang gặp phải một số thách
thức lớn như chính sách về BHXH có bất bình đẳng giữa các nhóm
tham gia đóng bảo hiểm, thiếu sự bền vững về tài chính,...
1.2.3. Nhận xét chung và khoảng trống nghiên cứu
- Chưa đầy đủ, chưa cập nhật, đòi hỏi có cách nhìn tổng quát
hơn và logic về chính sách ASXH của một số nước ASEAN.


- Còn giới hạn ở phạm vi không gian, đề xuất của các nghiên
cứu tại thời điểm hội nhập quốc tế của Việt Nam còn hạn chế.
- Các kiến nghị cho Việt Nam có phần nào không phù hợp với
điều kiện, xu thế phát triển.
- Còn những vấn đề đặt ra cần phải tiếp tục nghiên cứu, đó là:
+ Ít công trình đi sâu vào phân tích nội hàm của ASXH dưới

giác độ tác động đến phát triển kinh tế xã hội.
+ Cấu trúc của ASXH hiện vẫn còn chưa thống nhất, nhiều quan
điểm khác nhau thuộc trụ cột của chính sách ASXH.
+ Chưa đi vào làm rõ được các yếu tố như: nguồn nhân lực, tài
chính,... một cách khoa học nhằm đảm bảo thực hiện chính sách ASXH
tại mỗi quốc gia.
CHƯƠNG 2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH AN SINH XÃ
HỘI TRONG HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
2.1. Chính sách an sinh xã hội và các bộ phận cấu thành
2.1.1. Các khái niệm cơ bản
- Khái niệm về ASXH: Theo Tổ chức Lao động quốc tế (ILO):
An sinh xã hội là một sự bảo vệ mà xã hội cung cấp cho các thành viên
của mình thông qua một số biện pháp được áp dụng rộng rãi để đương
đầu với những khó khăn, các cú sốc về kinh tế và xã hội làm mất hoặc
suy giảm nghiêm trọng thu nhập do ốm đau, thai sản, thương tật do
lao động, mất sức lao động hoặc tử vong. Cung cấp chăm sóc y tế và
trợ cấp cho các gia đình nạn nhân có trẻ em. Theo GS.TS Phạm Xuân
Nam, ASXH được hiểu theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp.
- Khái niệm về chính sách ASXH: Chính sách ASXH được xem
là một hệ thống những quan điểm, chủ trương, phương hướng, biện
pháp của nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội khác được thể chế
hoá để giải quyết những vấn đề xã hội mà nhằm bảo đảm sự an toàn
và phát triển xã hội.


2.1.2. Các quan điểm khác nhau về chính sách an sinh xã hội
- Quan điểm của nước ngoài về chính sách an sinh xã hội:
+ Theo trường phái kinh tế, chính sách ASXH chủ yếu được tiếp
cận như là một cơ chế phân phối lại thu nhập xã hội.
+ Theo trường phái xã hội, chính sách ASXH chính là sự tương

trợ cộng đồng giữa các thành viên trong xã hội nhằm bảo vệ cuộc sống
của họ trước những rủi ro, biến cố.
- Quan điểm trong nước về chính sách an sinh xã hội: PGS.TS.
Đỗ Minh Cương lại có quan điểm: “Hệ thống chính sách ASXH là sự
bảo vệ của xã hội đối với các thành viên của mình,… ". Một số nhà
khoa học thuộc Viện nghiên cứu phát triển xã hội Việt Nam lại cho
rằng: “Hệ thống chính sách ASXH là sự hỗ trợ trực tiếp cho các gia
đình nghèo và dễ bị tổn thương, bảo hiểm xã hội và các hoạt động khác
nhằm giảm tính dễ bị tổn thương gây ra bởi những nguy cơ như thất
nghiệp, tuổi già và khuyết tật”.
- Đảng và Nhà nước quan niệm về chính sách ASXH thể hiện rõ
nhất tại Đại hội XI của Đảng: "... bảo đảm ASXH trở thành vấn đề
trung tâm trong chiến lược phát triển đất nước, bởi vì việc chăm lo,
không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân,… ".
- Quan điểm của tác giả về chính sách an sinh xã hội:
+ Về bản chất: ASXH và chính sách ASXH là phạm trù kinh tế
- xã hội tổng hợp, mang trong mình bản chất kinh tế và xã hội sâu sắc.
Về bản chất xã hội, có thể nhìn nhận chính sách ASXH là sự tập hợp
có tổ chức của các thành viên xã hội nhằm chống lại những rủi ro, bất
hạnh của mỗi cá nhân.
+ Về quan điểm: Chính sách ASXH là tổng hòa các giải pháp
kinh tế, chính trị, xã hội được thể chế hóa để loại trừ hoặc hạn chế,
khắc phục những khó khăn về kinh tế, xã hội gây ra bởi các rủi ro, biến
cố, bất hạnh nhằm đảm bảo thu nhập, sức khỏe và các điều kiện thiết
yếu cho các thành viên, góp phần bảo đảm an toàn và phát triển, ổn
định, bền vững của xã hội. Tại Việt Nam, trong điều kiện hiện nay có


thể đưa ra cách tiếp cận về chính sách ASXH ở phạm vi hẹp như:
“Chính sách ASXH là hệ thống các giải pháp kinh tế, chính trị, xã hội

được thể chế hóa nhằm bảo đảm thu nhập, sức khỏe và các điều kiện
sống thiết yếu của các thành viên trong lĩnh vực BHXH, BHYT, cứu
trợ xã hội, ưu đãi xã hội,…".
2.1.3. Các bộ phận cấu thành chính sách an sinh xã hội
- Các chính sách phòng ngừa rủi ro;
- Chính sách giảm thiểu rủi ro;
- Chính sách khắc phục rủi ro.
2.2. Các nhân tố ảnh hưởng tới hoạch định và thực thi chính sách ASXH
2.2.1. Hoạch định và thực thi chính sách an sinh xã hội
- Hoạch định chính sách ASXH được coi như là bước khởi đầu
trong chu trình chính sách.
- Chính sách ASXH là những quy định về ứng xử của nhà nước
nhằm giúp người dân ngăn ngừa rủi ro, giảm thiểu rủi ro và khắc phục
rủi ro trong cuộc sống.
- Tổ chức thực thi chính sách ASXH nếu không được tiến hành
tốt, dễ dẫn đến sự thiếu tin tưởng, thậm chí sự chống đối của nhân dân
đối với nhà nước.

2.2.2. Các nhân tố ảnh hưởng tới hoạch định chính sách an sinh xã
hội
- Nhận thức của người dân;
- Thể chế chính sách về an sinh xã hội;
- Thu nhập của người lao động;
- Thể chế tài chính;
- Tổ chức bộ máy.
2.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới thực thi chính sách an sinh xã hội
- Chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của nhà nước;
- Yếu tố kinh tế;
- Yếu tố văn hóa, xã hội và sự ủng hộ của người dân;
- Trình độ năng lực quản lý của bộ máy thực thi chính sách.



2.3. Mô hình hoạch định và thực thi chính sách an sinh xã hội của
một số nước trên thế giới
- Tại Đức, Áo và Pháp việc hoạch định, thực thi chính sách
ASXH được thể hiện bằng một tập hợp các quyết định của nhà nước
có liên quan với nhau như: Thiết lập chương trình nghị sự chính sách;
thiết lập các phương án chính sách khác nhau để giải quyết vấn đề;…
- Tại Thụy Điển, Đan Mạch với mô hình ASXH dựa vào nhà
nước phúc lợi bảo thủ và đặc trưng là nhà nước đóng vai trò chủ yếu
trong phân phối phúc lợi và phúc lợi phân phối không đồng đều giữa
các giai cấp, thành viên trong xã hội thì việc hoạch định và thực thi
chính sách ASXH dựa vào thị trường.
- Tại Anh, Ai Len quá trình hoạch định và thực thi chính sách
ASXH tại các quốc gia này dựa vào những nguyên tắc của chế độ
ASXH không mang tính phổ cập để bảo hộ cho toàn thể công dân mà
tập trung nhiều vào những người nghèo và người yếu thế trong xã hội.
2.4. Chính sách an sinh xã hội trong hội nhập kinh tế quốc tế
2.4.1. Vai trò của chính sách ASXH trong hội nhập kinh tế quốc tế
- Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững;
- Phát triển toàn diện con người;
- Xây dựng chế độ xã hội;
- Phát triển văn hóa.
2.4.2. Chính sách an sinh xã hội trong hội nhập kinh tế quốc tế
- Chính sách, pháp luật về tiền lương; năng suất lao động và
năng lực cạnh tranh.
- Áp dụng các tiêu chí khu vực và quốc tế làm thước đo đánh
giá (chuẩn nghèo, phạm vi bao phủ của các chương trình ASXH).
- Xây dựng chính sách đảm bảo trợ giúp xã hội cho các nhóm
đối tượng do tác động của hội nhập quốc tế.

- Thu hẹp khoảng cách giới, bảo vệ, chăm sóc trẻ em.


CHƯƠNG 3. THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH AN SINH XÃ HỘI
CỦA THAILAND VÀ MALAYSIA
3.1. Thực trạng chính sách an sinh xã hội của Thailand
3.1.1. Thực trạng việc hoạch định chính sách ASXH của Thailand
Năm 1956, Thailand đã ban hành Luật Lao động nhưng mức độ
bao phủ còn thấp. Năm 1958, chính phủ Thailand ban hành văn bản bổ
sung Luật Lao động 1956. Năm 1974, kế hoạch bảo hiểm đầu tiên được
thực hiện bằng việc ra đời Quỹ bồi thường lao động, trong đó có bảo hiểm
bắt buộc. Năm 1990, Đạo luật ASXH ra đời (B.E. 2533.1990). Ngoài
ra, để giúp chính phủ thực thi luật ASXH, ngày 03/9/1990 Văn phòng
ASXH trực thuộc Bộ Nội vụ được thành lập. Các công việc liên quan đến
ASXH đã được chuyển giao từ Bộ Phúc lợi công cộng, văn phòng của
Quỹ bồi thường, Sở Lao động về Văn phòng ASXH quản lý. Văn phòng
ASXH đã được chuyển giao cho Bộ Lao động và phúc lợi xã hội vào ngày
23/9/1993.
Năm 2015, Đạo luật ASXH được sửa đổi lần thứ 4 (2558 B.B.
2015) và có hiệu lực vào ngày 20/10/2015. Đạo luật ASXH 2015 cung
cấp nhiều trợ cấp linh hoạt hơn cho người lao động so với luật năm
1999, bao gồm trợ cấp thai sản, trợ cấp nuôi con và trợ cấp thất nghiệp.
3.1.2. Thực trạng thực thi các chính sách ASXH của Thailand
- Chính sách bảo hiểm xã hội:
Số người tham gia bảo hiểm đến 31/12/2016 của Thailand đạt
15,375 triệu người, chủ yếu là nữ giới (chiếm 56,27%). Nữ giới chiếm
nhiều hơn là do họ thường sợ rủi ro và luôn muốn có một cuộc sống
đảm bảo. Do đó, việc tham gia gia bảo hiểm là cách họ để phòng khi
gặp những tai nạn. Ở lứa tuổi từ 15-19, nữ giới tham gia ít hơn nam
giới, nhưng sau độ tuổi 30 thì nữ giới tham gia bảo hiểm nhiều hơn.

Độ tuổi tham gia bảo hiểm nhiều nhất và chủ yếu là 40-55 với 5.616
nghìn người (chiếm 64,9%).


- Chính sách bảo hiểm y tế:
Thailand đã có nhiều cơ chế BHYT khác nhau, đến nay vẫn còn
duy trì 3 cơ chế, mỗi cơ chế có phương thức chi trả khác nhau (cơ chế
BHYT của BHXH do người lao động và người sử dụng lao động cùng
đóng phí bảo hiểm. Phương thức chi trả là theo định suất bao gồm cả
dịch vụ nội trú và ngoại trú. Cơ chế BHYT toàn dân được thực hiện
với tất cả người dân, các cơ chế bảo hiểm y tế khác chưa thực hiện với
tất cả người dân). Năm 2003, khi cơ chế BHYT toàn dân được thành
lập, số nhóm chẩn đoán lên 1200, và chi trả theo nhóm chẩn đoán
trường hợp bệnh được áp dụng đối với bệnh nhân nội trú nặng, có hệ
số chi trả theo trường hợp bệnh trên 4,0. Đến hết năm 2016 có 1920
nhóm chẩn đoán và đủ thông tin để tính ngân sách tổng thể.
- Chính sách bảo hiểm thất nghiệp:
Được thí điểm thực hiện từ năm 1998, nhưng phải đến 2004
Thailand chính thức trở thành quốc gia đầu tiên tại khu vực Đông Nam
Á triển khai chính sách BHTN bắt buộc trên phạm vi toàn quốc. Theo
quy định hiện nay quỹ BHTN của Thailand được hình thành dựa trên
sự đóng góp bắt buộc từ người lao động, chủ sử dụng lao động và hỗ
trợ của chính phủ. Mức đóng của người lao động bằng 0,5% tổng thu
nhập hàng tháng, chủ sử dụng lao động đóng 0,5% bằng lương tháng của
doanh nghiệp và chính phủ hỗ trợ 0,25% so với lương tháng của người
tham gia bảo hiểm thất nghiệp. Thu nhập tối đa một tháng làm căn cứ
đóng bảo hiểm thất nghiệp là 15.000 baht.
3.1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến chính sách ASXH của Thailand
- Yếu tố kinh tế;
- Yếu tố chính trị xã hội;

- Yếu tố dân số.
3.2. Thực trạng chính sách an sinh xã hội của Malaysia
3.2.1. Thực trạng việc hoạch định chính sách ASXH của Malaysia
Malaysia có chương trình ASXH sớm nhất từ những năm 1800
bằng việc thiết lập hệ thống hưu trí vào năm 1875 và việc đưa Quỹ dự


phòng thành phố Penang vào năm 1898 chủ yếu nhằm tạo thu nhập
hưu trí cho người lao động. Đến năm 1949, khi Bộ Lao động liên bang
thành lập một Quỹ bảo trợ nhân viên làm cơ sở tiết kiệm cho lao động
có thu nhập hàng tháng thấp hơn RM 400. Năm 1951, Quỹ dự phòng
nhân viên năm 1951 ra đời dưới dạng pháp lệnh, Luật Bồi thường cho
người lao động năm 1952 và Luật Làm việc năm 1955. Năm 1969,
Luật ASXH được thành lập theo đó tổ chức bảo hiểm xã hội (SOCSO)
được thành lập năm 1971, SOCSO được uỷ nhiệm quản lý và thi hành
đạo luật ASXH cho người lao động năm 1969 và các quy định chung
về ASXH của người lao động năm 1971.
Năm 2003, lần đầu tiên chính sách xã hội quốc gia đã được
thông qua để phát triển các chiến lược và phục vụ cho các nhu cầu của
xã hội và phúc lợi phát triển của cộng đồng. Chương trình ASXH được
định nghĩa rộng hơn bao gồm các chương trình hưu trí cho hai nhóm
công nhân chính là công chức và nhân viên khu vực tư nhân và trợ cấp
cho người lao động.
3.2.2. Thực trạng thực thi các chính sách ASXH của Malaysia
- Chính sách bảo hiểm xã hội:
Malaysia hiện đang tồn tại hệ thống BHXH đa chiều và được tổ
chức thực hiện bởi nhiều hai nhóm sau: Tổ chức BHXH (SOCSO);
quỹ tiết kiệm nhân viên (EPF). Hệ thống BHXH tập trung vào các đối
tượng: Bảo hiểm cho người lao động với số lượng người sử dụng lao
động và người lao động đăng ký với SOCSO đều gia tăng (người sử

dụng lao động tăng bình quân 5,57%; người lao động tăng 1,81%).
Quỹ tiết kiệm nhân viên (EPF) được hình thành lập vào ngày
01/10/1951, EPF là quỹ hưu trí đầu tiên dành cho người lao động bao
khu vực tư nhân trên thế giới. Quỹ này được tài trợ bởi khoản đóng
góp hàng tháng của các thành viên và người sử dụng lao động với mức
đóng góp theo quy định (hiện nay mức đóng góp vào EPF là 8% đối
với người lao động dưới 60 tuổi và 4% đối với người lao động trên 60
tuổi). Khi đến tuổi nghỉ hưu ở tuổi 55, người lao động vẫn có thể tiếp


tục đóng góp vào quỹ này với điều kiện là họ vẫn đang làm việc. Khoản
đóng góp vào quỹ này sẽ bị chấm dứt nếu thành viên rút tiền tiết kiệm
từ quỹ lần thứ hai sau lần rút vốn đầu tiên ở tuổi 55. Đến nay, các cá
nhân làm việc trên 55 tuổi phải tiếp tục đóng góp cho EPF cho đến khi
75 tuổi.
- Chính sách bảo hiểm y tế:
Malaysia hiện cung cấp 4 nhóm bảo hiểm y tế (bảo hiểm y tế cá
nhân, bảo hiểm y tế gia đình, bảo hiểm y tế nhóm và bảo hiểm y tế du
lịch). Bảo hiểm y tế cá nhân có hai dạng cơ bản (bao hiểm y tế khẩn
cấp và bảo hiểm sức khỏe toàn diện). Các dịch vụ y tế được miễn phí
cho toàn dân từ tuyến cơ sở đến tuyến 3 với mức đồng chi trả rất thấp
dao động trong khoảng 1,00 RM (tương đương 0,31 USD) cho khám
chữa bệnh ngoại trú đến 3,00 RM (tương đương 0,94 1 USD) cho một
ngày nằm viện. Malaysia chi 307,2USD/người cho y tế vào năm 2007
và 409,7 USD/người cho y tế năm 2016 với phương thức chi trả cho
bên cung ứng dịch vụ bằng cách phân bổ kinh phí hàng năm cho các
cơ sở khám chữa bệnh công. Mặc dù chi tiêu cho y tế khá cao nhưng
Malaysia vẫn gặp phải nhiều vấn đề như: Tỷ lệ chi trả viện phí của người
bệnh cao, chiếm 40,7% tổng chi tiêu cho y tế (chủ yếu là chi tiêu cho
các dịch vụ y tế tư nhân ở các cơ sở y tế tuyến 2 và 3); thời gian chờ đợi

để được sử dụng các dịch vụ phẫu thuật tại các bệnh viện công rất lâu
(ví dụ như phải chờ 23 tuần để được phẫu thuật chỉnh hình); tăng chi phí
y tế do chuyển dịch mô hình dịch tễ của bệnh tật trong bối cảnh hạn chế
về ngân sách; hay quy định không chặt chẽ đối với phí dịch vụ y tế tư
nhân.
- Chính sách bảo hiểm thất nghiệp:
Năm 2012, Malaysia mới có dự án BHTN nằm trong SOCSO
dưới sự hỗ trợ về khung pháp lý của ILO. Mục tiêu của dự án nhằm
tăng cường bảo vệ người lao động bằng cách thiết kế hệ thống
BHTN. Dự án sẽ được triển khai trong hai giai đoạn và sẽ cung cấp
trên ba khía cạnh: (1) nghiên cứu về BHTN và các biện pháp hỗ trợ


khác cho người lao động mất việc làm cũng như các dịch vụ việc
làm; (2) ban hành chính sách BHTN; (3) nghiên cứu tính khả thi chính
sách và ban hành kế hoạch thực hiện một hệ thống BHTN ở Malaysia.
Kế hoạch này đến nay chưa được triển khai, trợ cấp thất nghiệp vẫn
dựa trên thỏa thuận giữa người lao động và tổ chức sử dụng lao động.
3.2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến chính sách ASXH của Malaysia
- Yếu tố kinh tế;
- Yếu tố chính trị xã hội;
- Yếu tố dân số.
3.3. Nhận xét, đánh giá từ thực trạng chính sách ASXH tại
Thailand và Malaysia
3.3.1. Về hoạch định chính sách
- Thailand, Malaysia đều đã xây dựng những kênh giao tiếp
hiệu quả giữa các bên tham gia và sự phối hợp giữa các bộ trong việc
hoạch định chính sách ASXH. Kinh nghiệm của các nước này đã chỉ rõ
rằng Việt Nam đang bị tụt hậu quá xa so với họ trong việc hoạch định
chính sách ASXH.

- Thailand và Malaysia hiện vẫn chưa thể phá vỡ được “trần bao
cấp” sau vài thập kỷ phát triển đất nước.
3.3.2. Về thực thi chính sách
- Các chính sách của hai quốc gia là làm cho mọi người đều có cơ
hội bình đẳng trong chính sách ASXH, đặc biệt là các nhóm người yếu
thế.
- Chính sách ASXH của Thailand và Malaysia đều có sự điều
chỉnh mục tiêu cơ bản và các biện pháp thực hiện cho phù hợp với tình
hình trong nước và các xu hướng quốc tế.
- Đối với Thailand: Quá trình thực thi các chính sách ASXH
của Thailand đã được người dân hưởng ứng, đặc biệt là những người
sống ở nông thôn (chương trình OTOP của chính phủ).
- Đối với Malaysia: Việc thực thi chính sách ASXH của
Malaysia còn một số hạn chế như vấn đề dân tộc.


CHƯƠNG 4. VẬN DỤNG BÀI HỌC CỦA THAILAND VÀ
MALAYSIA VÀO HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH ASXH CỦA VIỆT
NAM
4.1. Khung pháp lý về ASXH của Việt Nam
Chính sách ASXH tại Việt Nam đã được thể chế hóa ngay từ
sau khi thành lập nước. Quá trình phát triển, năm 2012 Ban chấp hành
Trung ương Đảng khóa XI đã có Nghị quyết số 15-NQ/TW ngày
01/6/2012 và Chính phủ có Nghị quyết số 70/NQ-CP ngày 01/11/2012
ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết
số 15-NQ/TW về một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 20122020, trong đó đã xác định rõ quan điểm “Chính sách ASXH phải đa
dạng, toàn diện, có tính chia sẻ giữa nhà nước, xã hội với người dân".
4.2. Các bộ phận cấu thành chính sách ASXH ở Việt Nam
Tại Việt Nam, các bộ phận cấu thành chính sách ASXH gồm 5
chính sách nhằm thực hiện 3 chức năng chiến lược như vừa nêu trên

là: Phòng ngừa rủi ro, giảm thiểu rủi ro và khắc phục rủi ro là: (1) chính
sách BHXH; (2) chính sách BHYT; (3) chính sách BHTN; (4) chính
sách cứu trợ xã hội và (5) chính sách trợ giúp xã hội.
4.3. Quan điểm, mục tiêu về chính sách ASXH của Việt Nam hiện
nay
4.3.1. Các quan điểm cơ bản
- Phát triển chính sách ASXH phải đặt trong tổng thể chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội.
- Xây dựng và thực hiện chính sách ASXH đa tầng, linh hoạt và
có thể hỗ trợ lẫn nhau, đảm bảo quyền và nghĩa vụ cơ bản của người
dân.
- Phát triển chính sách ASXH có trọng tâm và là trách nhiệm
của cả hệ thống chính trị và của mọi người dân.


- Xây dựng chính sách ASXH với nội dung, cách tiếp cận và
chuẩn mực mang tính hội nhập quốc tế.
4.3.2. Các mục tiêu
- Xây dựng một hệ thống bảo hiểm hoàn chỉnh, đa dạng, theo
nguyên tắc đóng - hưởng, bao gồm BHXH bắt buộc, BHXH tự nguyện,
BHYT, BHTN và các loại hình bảo hiểm khác.
- Tách BHXH đối với khu vực hành chính sự nghiệp và khu vực
doanh nghiệp.
- Khuyến khích phát triển các hình thức bảo hiểm tự nguyện.
4.4. Thực trạng việc hoạch định và thực thi chính sách ASXH của
Việt Nam
4.4.1. Hoạch định và thực thi chính sách ASXH của Việt Nam
- Chính sách bảo hiểm xã hội:
Đến cuối năm 2016 đã đạt 13.065 nghìn người, tăng 23,7% so với
năm 2012. Trong đó, tham gia BHXH bắt buộc tăng 23,3%, đạt 12.862

nghìn người, bằng 23,63% lực lượng lao động. Số tham gia BHTN
nguyện tăng 52,6%, đạt 204 nghìn người bằng 0,37% lực lượng lao động
Các chỉ tiêu này thấp hơn nhiều so với mục tiêu Nghị quyết số 70/NQCP đề ra (mới chỉ đạt gần 73% mục tiêu đề ra cho năm 2015 và 45%
mục tiêu cho 2020). Số người hưởng chế độ BHXH hàng tháng từ năm
2012 đến nay tăng 52% từ 1.670,9 nghìn người năm 2012 lên 2.541,3
nghìn người năm 2016 (chiếm 26,8% người từ 55 tuổi trở lên đối với
nữ, từ 60 tuổi trở lên đối với nam)
- Chính sách bảo hiểm y tế:
Việt Nam triển khai chính sách BHYT từ năm 1992, sau hơn 20
năm thực hiện chính sách pháp luật về BHYT, Việt Nam đã đạt được
kết quả rất đáng khích lệ, từng bước tiếp cận mục tiêu BHYT toàn dân.
Chính sách BHYT hiện nay có 02 nhóm đối tượng tham gia (bắt buộc
và tự nguyện). Các đối tượng tham gia BHYT dần được bổ sung qua
các giai đoạn và đến năm 2014 toàn dân có trách nhiệm tham gia
BHYT. Hiện nay, tỷ lệ dân số tham gia BHYT đạt 82,1%, vượt mục


tiêu Nghị quyết. Hàng năm ngân sách bố trí khoảng 9.000 tỷ đồng để
mua thẻ bảo hiểm y tế cho trên 14 triệu đối tượng người nghèo, người
dân tộc thiểu số và nhân dân sống ở vùng đặc biệt khó khăn, hải đảo
và hỗ trợ một phần chi phí mua thẻ BHYT cho các đối tượng khác/
- Chính sách bảo hiểm thất nghiệp:
Việt Nam triển khai BHTN từ ngày 01/01/1999 gồm trợ cấp thất
nghiệp, hỗ trợ học nghề, hỗ trợ tìm việc làm. Việc đóng BHTN được
chia theo tỷ lệ người lao động đóng 1% tiền lương, tiền công/tháng;
người sử dụng lao động đóng 1% quỹ tiền lương, tiền công/tháng của
những người tham gia BHTN và Nhà nước hỗ trợ 1% quỹ tiền lương,
tiền công đóng BHTN của những người lao động tham gia BHTN và
mỗi năm chuyển một lần.
4.4.2. Những đạt được và hạn chế trong việc hoạch định chính sách

ASXH của Việt Nam
- Những đạt được trong việc hoạch định chính sách ASXH của
Việt Nam: Ngày càng đồng bộ và hoàn thiện với diện bao phủ được
mở rộng và đang mạng lại nhiều tác động tích cực đối với sự phát triển
và ổn định kinh tế - xã hội như: (i) góp phần đảm bảo an toàn, ổn định
cho toàn bộ nền kinh tế - xã hội,… (ii) giúp những người lao động trụ
vững trước những biến động khiến thu nhập bị suy giảm. (iii) góp phần
tạo công bằng xã hội. (iv) tăng thêm mối quan hệ gắn bó giữa người
lao động, người sử dụng lao động và nhà nước.
Chính sách ASXH ở Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu nổi
bật, được quốc tế ghi nhận và đánh giá cao: Năm 2010, tỷ lệ hộ nghèo
của cả nước là 14,2%. Các năm sau đó, tỷ lệ này đều giảm dần: năm
2011 giảm còn 11,76%; năm 2012 giảm còn 9,6%; năm 2013 giảm còn
7,8%; năm 2014 giảm còn 5,97%, năm 2015 giảm còn 5% (năm 2017,
phấn đấu giảm tỷ lệ hộ nghèo cả nước bình quân từ 1,3% đến
1,5%/năm theo chuẩn nghèo quốc gia giai đoạn 2016-2020. Riêng các
huyện, xã nghèo phấn đấu giảm tỷ lệ hộ nghèo là 4%/năm; hộ nghèo
là dân tộc thiểu số giảm từ 3% đến 4%/năm - Quyết định số 442/QĐ-


TTg ngày 11/4/2017 của Thủ tướng Chính phủ). Chỉ số phát triển con
người (HDI) đang tăng từ khoảng 0,7% trước năm 2000 lên khoảng
0,96% năm 2015 và đứng thứ 121/187 quốc gia và lãnh thổ về HDI.
Năm 2015, Việt Nam đã hoàn thành 8/8 mục tiêu phát triển thiên niên
kỷ do Liên hợp quốc đề ra cho các nước đang phát triển
- Những hạn chế trong việc hoạch định chính sách ASXH của
Việt Nam: Hiện tượng già hóa dân số cũng đặt ra nhiều khó khăn; mức
hưởng lợi từ tăng trưởng kinh tế giữa các nhóm dân cư còn nhiều bất
cập; mức đóng, mức hưởng BHXH chưa hợp lý, chưa đảm bảo đời
sống cho các nhóm đối tượng thụ hưởng; mức độ bền vững về tài

chính, tính liên kết giữa các chế độ, chính sách ASXH còn nhiều bất
cập.
4.5. Bài học của Thailand và Malaysia - Gợi ý hoàn thiện chính
sách ASXH của Việt Nam
Mặc dù chính sách ASXH của Thailand, Malaysia còn nhiều vấn
đề phải giải quyết, song những kết quả mà hai quốc gia này đạt được
trong ASXH cho thấy các nước này đã hết sức nỗ lực để thực hiện các
mục tiêu đề ra. Khó khăn lớn nhất đối với các quốc gia này là sự thiếu
hụt các nguồn lực, trong khi nhu cầu về ASXH ngày một tăng lên. Mặc
khác, những biến động như khủng hoảng kinh tế, bất ổn chính trị, thiên
tai,… là những nhân tố tác động tiêu cực đến việc thực hiện chính sách
ASXH. Từ thực tiễn phát triển ASXH của Thailand, Malaysia cho
phép chúng ta rút ra nhiều kinh nghiệm có thể tham khảo cho Việt Nam
hiện nay và trong thời gian tới. Cụ thể là:
- Xây dựng và hoàn thiện các quy định về an sinh xã hội;
- Mở rộng độ bao phủ của chính sách an sinh xã hội;
- Xã hội hóa các hoạt động về ASXH để đảm bảo tính bền vững;
- Tăng cường vai trò của các tổ chức xã hội trong nước và sự trợ
giúp của các tổ chức quốc tế;
- Đảm bảo tính bền vững tài chính;
- Tăng cường năng lực quản lý đầu tư và tạo sự công bằng;


- Hiện đại hóa hệ thống hành chính ASXH.
Tóm lại: Việc áp dụng chế độ ASXH ở các quốc gia khác nhau
thường cũng rất khác nhau về nội dung thực hiện tùy thuộc vào nhu
cầu bức bách của riêng từng nơi trong việc đảm bảo cuộc sống của
người lao động, ngoài ra, còn tùy thuộc vào khả năng tài chính và khả
năng quản lý có thể đáp ứng. Có nước quan tâm thực hiện các chế độ
đảm bảo cho các rủi ro dễ xảy ra trước mắt như chế độ trợ cấp ốm đau,

tai nạn lao động, thai sản, các nước khác lại quan tâm đến các chế độ
đảm bảo cho tuổi già, tuổi hưu trí, cho cái chết. Tuy nhiên, xu hướng
chung là theo lộ trình phát triển kinh tế - xã hội, chính sách ASXH sẽ
mở rộng dần về số lượng và nội dung thực hiện của từng chế độ. Điều
này cho thấy đây là lĩnh vực vô cùng quan trọng và phức tạp, song
không thể không giải quyết. Mặt khác, khi nhu cầu cuộc sống tăng lên
đòi hỏi phải nâng cao sự hỗ trợ của nhà nước đối với ASXH và điều
quan trọng là phải huy động sự tham gia của toàn xã hội. Những kinh
nghiệm của Thailand và Malaysia sẽ là những bài học có giá trị và gợi
ý tốt cho Việt Nam hiện nay và trong thời gian tới.


×