Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

CCLLCT Đề Tài Khai thác nguồn tài nguyên nước theo mô hình bền vững; Thực trạng và giải pháp sử dụng tài nguyên nước ở tỉnh Đắk Nông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (178.28 KB, 24 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nước là một trong những tài nguyên đặc biệt quan trọng đối với mọi sự sống
trên hành tinh, là điều kiện tồn tại và phát triển của tự nhiên, kinh tế - xã hội. Tài
nguyên nước được tái tạo theo quy lụât thời gian và không gian. Quy luạt này có
chu kỳ rõ rệt là một năm và biến động theo nhiều năm. Ngoài quy luật tự nhiên
còn có tác động của con người. Cũng theo quy luật thời gian có những khác biệt
hoặc có khi trái ngược với quy luật tuần hoàn của nước và con người phải tìm các
biện pháp điều hoà, phân phối lại không những theo thời gian và không gian mà
còn theo đặc trưng phát triển của kinh tế, xã hội và nhân văn. Các nhà kinh tế đã
xác định nước là nguyên liêu không thể thiếu được trong tất cả các ngành sản xuất
vật chất, là một bộ phận cấu thành không thể thiếu của nền kinh tế quốc dân của
mỗi quốc gia.
Tài nguyên nước trên trái đất tồn tại dưới nhiều dạng khác nhau. Trong đó
nước ở các sông ngòi, ao hồ chiếm một vị trí đặc biệt. Mặc dù lượng nước trên
trái đất là khổng lồ, song lượng nước ngọt cho phép con người sử dụng chỉ chiếm
một phần rất nhỏ (Dưới 1/1000). Hơn thế nữa sự phân bố không đồng đều của
chúng theo không gian và thời gian càng khiến cho nước trở thành một nhân tố
giới hạn quá chặt chẽ đối với sự phát triển chung.
Tài nguyên nước của Việt Nam rất đa dạng và phong phú, bao gồm nước mặt,
nước dưới đất, nước biển thuộc chủ quyền của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Hiện nay, nhu cầu về nước (dùng cho ăn uống, sinh hoạt, cho sản suất nông
nghiệp, hoạt động công nghiệp, sản xuất điện, nuôi trồng thủy sản...) ngày càng
lớn, do tăng dân số, tốc độ đô thị hóa nhanh, kinh tế xã hội phát triển ... trong khi
đó tài nguyên nước toàn cầu nói chung và tài nguyên nước của Việt nam nói riêng
là có giới hạn, cần phải có các biện pháp hữu hiện trong quá trình khai thác và sử
dụng.
Đắk Nông là một tỉnh nằm ở nằm ở phía tây nam của Tây Nguyên, chịu tác
động của nhiều yếu tố: như lũ lụt, hạn hán... ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất, dân
sinh và sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh có nền kinh tế chủ yếu sản xuất nông
nghiệp mà chủ yếu là cây công nghiệp như Cà phê, Tiêu và các loại cây ăn quả


cần đến nước trong mùa khô.
Nhận thức được điều đó, trong nhiều năm qua, mặc dù chúng ta đã có nhiều
cố gắng trong việc khai thác, bảo vệ, sử dụng và quản lí tài nguyên nước phục vụ
cho công cuộc đổi mới và phát triển kinh tế xã hội của tỉnh; hiệu quả sử dụng còn
thấp, do quản lí còn lỏng lẻo, cơ chế còn nhiều bất cập, ý thức khác sử dụng nước
của người dân… từ đó đã phân tán làm cho nguồn nước bị suy giảm về chất
lượng, số lượng,. Nhiều nơi, nguồn nước bị ô nhiễm nghiêm trọng, ảnh hưởng
trực tiếp đến sản suất và sức khỏe của nhân dân, ảnh hưởng đến hệ sinh thái môi
trường.


Xuất phát từ thực tế trên, với vốn kiến thức đã được truyền thụ và thực tế
công tác tại địa phương nên, từ đó tôi quyết định chọn đề tài: “Khai thác nguồn
tài nguyên nước theo mô hình bền vững; Thực trạng và giải pháp sử dụng tài
nguyên nước ở tỉnh Đắk Nông” làm tiểu luân.
2. Mục đích và ý nghĩa của việc nghiên cứu
2.1. Mục đích
Trên cơ sở lý luận và thực tiễn nhất là khảo sát địa giới thực trạng tiểu luận
đề xuất những giải phá chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng
nguồn nước một cách bền vững.
2.2. Ý nghĩa
- Hệ thống lại chủ trương đường lối của Đảng, Nhà nước ta về quy hoạch,
quản lý và sử dụng nguồn tài nguyên nước.
- Đánh giá thực trạng nhằm nâng cao hiệu quả của việc quản lý và sử dụng
nguồn tài nguyên nước.
- Trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực quản lý và
sử dụng nguồn tại nguyên nước ở địa phương.
3. Đối tượng nghiên cứu: Tại tỉnh Đắk Nông từ năm 2004 – 2014; sau khi
tách ra từ Đăk Lắk.
4. Phương pháp nghiên cứu: Tiểu luận sử dụng phương pháp duy vật biện

chứng kết hợp với phương pháp phân tích tổng hợp, xử lý so sánh đối chứng số
liệu thong kê.
5. Kết cấu của đề tài
- Chương thứ nhất. Yêu cầu tất yếu phát triển bền vững tài nguyên nước.
- Chương thứ hai. Thực trạng quản lý, khai thác, sử dụng tài nguyên nước ở
tỉnh Đắk Nông.
- Chương thứ ba. Các giải pháp quản lý và phát triển bền vững tài nguyên
nước ở tỉnh Đắk Nông.
- Kết luận và kiến nghị.
Để thực hiện Tiểu luận này, ngoài sự nỗ lực của bản thân, tôi đã nhận được
sự hướng dẫn tận tình của các giảng viên Khoa Kinh tế, Học viện Chính trị khu
vực III; UBND tỉnh Đăk Nông, Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Tiểu
luận chắc chắn không tránh khỏi những mặt hạn chế, thiếu sót. Rất mong nhận
được sự đóng góp ý kiến chân thành của quý thầy cô giáo, độc giả, đồng nghiệp.
Tôi xin chân thành cảm ơn!


Chương 1
YÊU CẦU TẤT YẾU PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
TÀI NGUYÊN NƯỚC
1.1. Vai trò của tài nguyên nước
Tài nguyên nước là một dạng tài nguyên quan trọng để phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Tài nguyên nước liên quan hàng ngày đến các hoạt động
sống và hoạt động kinh tế của con người trong nhiều lĩnh vực, đáng kể nhất là
nông nghiệp, ngư nghiệp, lâm nghiệp và du lịch, công nghiệp và đô thị hoá. Là
một tài nguyên thiên nhiên vô cùng thiết yếu đối với cuộc sống nhân loại, là một
tài nguyên thiên nhiên hữu hạn và rất có giá trị về kinh tế như các tài nguyên
khoáng sản khác.
Nước là yếu tố cấu thành sự sống, chiếm tỉ lệ lớn trong thành phần các tế
bào; là thành phần không thể thiếu trong chuỗi thành phần thức ăn của động vật,
thực vật; ngoài ra nước đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của các nền

văn minh trên trái đất.
Nước là yếu tố quan trọng trong lịch sử phát triển xã hội loài người; đồng
thời gắn liền với sự gia tăng dân số, sự gia tăng nhu cầu về nước ngày càng đa
dạng, phức tạp. Thời kỳ trước kỷ nguyên cơ khí, nhu cầu nước của con người còn
rất nhỏ so với khả năng dồi dào của nguồn nước, bởi vì thời kỳ đó nước chỉ dùng
vào mục đích chính là ăn, uống, sinh hoạt, chăn nuôi gia súc và trồng cây... trên
những vùng địa lý dư thừa nước. Sự quan tâm của con người chủ yếu là hạn chế
các tác hại của nó như lũ lụt, hạn hán. Thời kỳ sau kỷ nguyên cơ khí đến nay, với
sự gia tăng bùng nổ dân số, mức độ đô thị hóa ngày càng cao, sự phát triển mạnh
mẽ của các ngành kinh tế, nhất là sự phát triển của các ngành công nghiệp, đặc
biệt là công nghiệp hóa các ngành kinh tế, nhu cầu về nước ngày càng lớn về số
lượng và chất lượng.
Nước ngày nay càng trở nên khan hiếm và đóng vai trò quan trọng trong
việc hình thành giá thành sản phẩm cuối cùng. Chính vì vậy nước cần được sử
dụng có hiệu quả và tiết kiệm. Sử dụng nước hợp lý tức là sử dụng nước phù hợp
với số lượng và chất lượng của tài nguyên nước. Tổ chức FAO cho rằng chỉ sử
dụng tối đa đến 30% lượng nước hiện có, nếu dùng quá sẽ dẫn đến làm cạn kiệt
nguồn nước, không bảo đảm yêu cầu tối thiểu về sinh hoạt của con người; Sử
dụng quá mức tài nguyên nước dưới đất sẽ dẫn đến lún sụt, rửa trôi mặt đất, giảm
thấp mực nước ngầm (cạn kiệt nước ngầm), tạo điều kiện cho nước mặn xâm
nhập.
Sử dụng nước đi đôi với việc bảo vệ tài nguyên nước khỏi bị cạn kiệt và ô
nhiễm. Bởi tài nguyên nước không phải là vô hạn, lại rất dễ bị nhiễm bẩn, dẫn đến
sẽ bị cạn kiệt một cách tuyệt đối về số lượng và tương đối về chất lượng. Muốn
quản lý và sử dụng tốt nguồn nước cần hiểu rõ chu trình tuần hoàn khép kín của
nước (từ bốc hơi, mưa, nước mặt, thấm, nước dưới đất,...) để lựa chọn các tác
động thích hợp vào từng khâu nhằm đạt mục tiêu tăng hiệu quả nguồn nước. Vì


vậy vừa phải lập kế hoạch sử dụng nước ở khu kinh tế hành chính, vừa phải lập kế

hoạch ở các lưu vực của các hệ thống song, suối, khênh rạch (ở các mặt lưu vực +
thượng nguồn + hạ lưu). Sự tác động vào một điểm sẽ có ảnh hưởng đến toàn hệ
thống (Công trình thượng lưu ảnh hưởng đến hạ lưu và ngược lại). Tính hệ thống
cũng thể hiện ở sự không tách rời giữa các khâu cấp nước, sử dụng nước và tiêu
thoát nước.
1.1.1. Nước dùng trong đời sống, sinh hoạt của nhân dân.
Vai trò quan trọng của nước đối với đời sống và sinh hoạt của nhân dân
được thể hiện trên một số mặt sau:
- Nước là một yếu tố không thể thay thế trong ăn, uống, sinh hoạt của con
người. Mặc dù mỗi người chỉ cần vài lít nước mỗi ngày để duy trì sự sống, để có thể
tránh khỏi các bệnh có liên quan đến nước, nhưng lượng nước cần thiết để bảo đảm
vệ sinh cá nhân, nâng cao mức sống con người ngày càng tăng lên và là một chỉ tiêu
của mức sống, biểu hiện mức độ văn minh của cuộc sống. Theo các nghiên cứu trong
mười năm của Singapore thì mỗi người cần 90 lít/ngày; Đức mỗi người cần 9,3
lít/ngày. Thông thường trời nóng từ 30 – 32 oC thì mỗi người cần uống 3 – 5 lít
nước mỗi ngày, nếu trời mát, người ít hoạt động thì mỗi ngày uống 2 – 2,5 lít
nước.
Trong nước còn chứa đựng nhiều chất có lợi cho cơ thể con nguời, với hàm
lượng vô cùng nhỏ như (các vi nguyên tố); nhưng các vi nguyên tố này có vai trò
quan trọng trong cuộc sống (nhất là Iốt và Fluor). Số lượng nước cần dùng để thải
các chất thải sinh hoạt của con người ngày càng tăng. Khi cuộc sống con người
ngày càng văn minh hơn, yêu cầu dùng nước càng nhiều hơn, nước thực sự là một
yếu tố của nền văn minh nhân loại. Trong tuyên bố YOKOHAMA về chất lượng
cuộc sống đô thị có nêu các tiêu chuẩn “Nước, năng lượng, thực phẩm, nhà ở,
sinh kế, an ninh trật tự, phục vụ y tế, giáo dục, cân bằng sinh thái, ô nhiễm môi
trường ...”; Trong đó nước là tiêu chuẩn được kể đầu tiên, và liên quan hầu hết các
tiêu chuẩn sau đó kể cả cân bằng sinh thái, chống ô nhiễm môi trường.
Để giải quyết vấn đề nước uống và sinh hoạt phải đi đôi với vấn đề tiêu
thoát nước sinh hoạt và tiết kiệm tiêu dùng nước. Cung cấp nước sinh hoạt, tiêu
thoát nước sinh hoạt nâng cao mức sống con người, không thể giải quyết đơn độc

mà phải đồng bộ với hàng loạt các biện pháp khác (Công trình, phi công trình,
hành chính, giáo dục v.v...)
Vì vậy để sử dụng nguồn nước sinh hoạt một cách phù hợp có thể tránh
được phần lớn bệnh tật và tăng cường sức khỏe cho con người. Nước sạch tự
nhiên là nguồn tài nguyên thiên nhiên quý giá. Mặc dù là nguồn tài nguyên có sẵn
nhờ sự ưu đãi của thiên nhiên, nhưng trữ lượng nước sạch trong thiên nhiên cũng
có giới hạn. Nếu con người không biết sử dụng tiết kiệm và bảo vệ nguồn tài
nguyên đó thì nó sẽ nhanh chóng bị suy thoái về trữ lượng và chất lượng, không
có đủ và không thể sử dụng được nữa.
Nước có vai trò rất quan trọng trong việc phục vụ các nhu cầu về nghỉ ngơi,
chữa bệnh, du lịch nhằm nâng cao đời sống nhân dân lao động và phát triển kinh


tế xã hội. Nguồn nước biển, nước khoáng, nước nóng phong phú, phân bố rãi rác
trong cả nước, tạo điều kiện thuận lợi cho việc dưỡng bệnh, nghỉ ngơi tại địa
phương và thu hút khách du lịch. Theo kết luận của cơ quan chuyên môn có thẩm
quyền, nước nóng và nước khoáng của nước ta có tác dụng rất lớn cho việc chữa
bệnh dưỡng bệnh.
Nước có vai trò quan trọng đối với đời sống kinh tế - xã hội của nước ta và
bất cứ nước nào trên thế giới. Có thể khẳng định rằng không có vàng, không có
kim cương chúng ta vẫn tồn tại, nhưng không có nước thì chúng ta không thể tồn
tại. Do đó chúng ta phải bảo vệ tài nguyên nước, tài nguyên quý giá của nhân loại
bằng nhiều biện pháp khác nhau. Giáo dục, thuyết phục, pháp luật, kinh tế tài
chính và quản lý để bảo vệ tài sản quý giá đó phục vụ cho nhu cầu lợi ích của con
người.
Nước luôn có 2 mặt, mặt lợi và mặt hại. Mặt trái của nước chính là những
tác hại do nước có thể gây ra; nước không được bảo vệ, xử lý hợp vệ sinh sẽ trở
thành nguồn truyền dẫn lây lan của bệnh dịch đối với con người, truyền dẫn nước
thải công nghiệp gây thiệt hại to lớn đối với sản xuất nông nghiệp, thủy sản.
Nhiều nước sinh ra lũ lụt, ít nước quá gây ra khô hạn, nhiễm mặn, sa mạc hóa.

Thừa nước và thiếu nước đều dẫn đến tình trạng ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng
đến sức khỏe của nhân dân, phá vỡ hệ sinh thái...
Ở nước ta từ năm 1990 trở lại đây đã chịu nhiều thiệt hại do lũ lụt gây ra,
năm 1990 mưa bão làm 356 người chết, 942 người bị thương, 173 ngôi nhà bị sập
và hư hỏng, 173.000 ha đất nông nghiệp, trồng cây bị ngập; riêng giao thông vận
tải và bưu điện phải chi 20 tỉ đồng để khắc phục hậu quả lũ lụt. Chỉ trong trận lũ
quét ngày 27-7-1991 ở Sơn La làm chết 21 người, 11 người mất tích, thiệt hại lên
đến 20-30 tỉ đồng (1). Năm 1996 lũ lớn xảy ra trên toàn quốc, từ vùng đồng bằng
Bắc bộ, miền Trung, đến đồng bằng sông Cửu Long, làm chết 1.128 người và
hàng trăm người mất tích, thiệt hại lên tới gần 8000 tỉ đồng (2). Xu thế thiệt hại
do thủy triều gây ra ngày càng tăng do sự biến động khí hậu toàn cầu, do suy
thoái môi trường, đặc biệt là nạn phá rừng trầm trọng, do sự phát triển mạnh mẽ
của dân sinh và kinh tế làm cho với cùng một mức độ về thiên tai nhưng thiệt hại
gây ra lớn hơn.
Hậu quả lũ lụt để lại làm ô nhiễm môi trường trầm trọng, làm nhiễm bẩn
các nguồn nước sạch phục vụ cho nhu cầu uống, sinh hoạt cho người, gia súc, có
nơi bị thiếu nước sạch, thiếu nước sinh hoạt trầm trọng kéo dài hay do khô hạn
điển hình như ở tỉnh Ninh Thuận thiếu nước từ tháng 1 – 3/2015 vừa qua là một
minh chứng.
Chính vì vậy trong công tác khai thác, sử dụng những mặt lợi của nước
đồng thời phải phòng chống những tác hại do nước gây ra. Điều quan trọng là
quản lý và điều hòa nguồn nước. Sử dụng nguồn nước sạch một cách hợp lý, như
sử dụng nguồn nước ngầm, hoặc có thể kết hợp nguồn nước mặt.
1.1.2. Nước đối với phát triển kinh tế


Nước ta là một nước nông nghiệp, có dân sống ở nông thôn chiếm khoảng
70% dân số. Tiềm năng đất nông nghiệp Việt Nam là 11 triệu ha, trong đó diện
tích trồng lúa 5,1 triệu ha, trồng hoa màu 1,2 triệu ha, trồng cây lưu niên 0,9 triệu
ha (tổng cộng 7,2 triệu ha). Trong số này có gần 2 triệu ha thường xuyên bị ngập

úng, khoảng 1,9 triệu ha đất bị chua phèn (tập trung chủ yếu ở đồng bằng sông
Cửu Long), khoảng 1,3 triệu ha đất bị khô hạn (tập trung chủ yếu ở các tỉnh Miền
Trung – Tây Nguyên. (2).
Nước đóng vai trò rất quan trọng trong sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là đối
với cây trồng. Ông cha ta đã đúc kết thành kinh nghiệm “ Nhất nước nhì phân tam
cần tứ giống” để nhấn mạnh vai trò hàng đầu của nước đối với sản xuất nông nghiệp.
Chủ nghĩa Mác- Lê Nin đã nhấn mạnh vai trò của nước, thủy lợi trong phát
triển nông nghiệp. Lê Nin viết: “Công cuộc thủy lợi là quan trọng, đặc biệt cho
việc khôi phục nông nghiệp và chăn nuôi”, và nhấn mạnh “Công việc thủy lợi là
cần thiết hơn cả, chính nó sẽ tái tạo đất nước, làm sống lại đất nước, chôn vùi quá
khứ, và cũng cố bước quá độ tiến lên CNXH” (3)
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu rõ ý nghĩa, tầm quan trọng của 2 yếu tố đất
và nước đối với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và môi trường sinh thái ở nước
ta. Người nói: “Việt Nam ta có hai tiếng Tổ quốc, ta gọi Tổ quốc là Đất nước, có
đất có nước thì mới thành Tổ quốc, có đất có nước thì dân giàu nước mạnh...
Nhiệm vụ của chúng ta là làm cho đất và nước điều hòa với nhau để nâng cao đời
sống nhân dân, xây dựng chủ nghĩa xã hội”(1).
- Nước đối với các hoạt động sản xuất công nghiệp: Việc sử dụng nước
cho công nghiệp như một yếu tố cấu thành của sản xuất và công nghiệp là một
ngành sử dụng nước với những yêu cầu về số lượng, đặc biệt là chất lượng. Đồng
thời quá trình sử dụng nước cho công nghiệp còn thải ra nhiều chất độc hại làm
xấu đi nguồn nước tự nhiên. Nhu cầu cấp nước cho công nghiệp ngày càng tăng,
đi đôi với sự phát triển công nghiệp là quá trình phát triển đô thị hóa.
Đối với nhiều ngành sản xuất, nước là tư liệu sản xuất không thể thay thế
như sản xuất: phát điện, giấy, vải, sợi, luyện kim, bia,... Lượng nước dùng trong
công nghiệp để sản xuất một số sản phẩm như sau:
Bảng 1: Tiêu chuẩn dùng nước định mức trong công nhiệp chủ chốt
T
Hạng mục
Tiêu chuẩn nước/đvị sp

T
1 Nhà máy sản xuát xi măng
05 m3/ tấn
2 Khai thác quặng kim loại màu
130 m3/tấn
3 Cơ sở sản xuất cán thép
200 m3/tấn
4 Nhà máy đông lạnh, thuỷ hải sản
15 m3/tấn
5 Cơ sở sản xuất gạch ngói nung
1m3/ 1000viên
6 Nhà máy rượu
1,5m3/ 10lít
7 Nhà máy bia
2,0m3/ 10 lít
8 Nhà máy sản xuát phân bón
23m3/tấn
9 Nhà máy giấy
400-800m3/tấn


10 Nhà máy lọc dầu
11 Nhà máy nhiệt điện

30-40 m3/ tấn dầu thô
120 lit/ kw

Chất lượng nước dùng trong công nghiệp thực phẩm và công nghiệp dược
phẩm là cao nhất, thấp nhất là trong vận tải thủy. Tỷ lệ phần trăm dùng nước trong
công nghiệp so với tổng nhu cầu dùng nước càng ngày càng tăng khi công nghiệp

càng phát triển (nhất là công nghiệp hóa chất, giấy, nhiệt điện).
- Nước dùng để sản xuất điện: Điện là một nhu cầu rất quan trọng đối với
kinh tế-xã hội. Chỉ khi cung cấp đủ điện năng mới thực hiện được mục tiêu
“CNH-HĐH đất nước” do Đảng ta đề ra. Điện có thể được sản xuất bằng nhiều
nguồn khác nhau: Thủy điện, nhiệt điện, điện nguyên tử, điện sức gió, điện thủy
triều, địa nhiệt, v.v... Ở Việt Nam hiện nay, điện có 2 nguồn chính là thủy điện và
nhiệt điện (chạy bằng than đá, dầu, khí). Đối với những nước không có khả năng
thủy điện thì việc đầu tư sản xuất ra điện rất lớn. Chúng ta đã sử dụng nguồn nước
để tạo ra điện, giá thành sản xuất rẻ hơn nhiều so với các hình thức sản xuất hiện
tại (nhiệt điện, điện nguyên tử,v.v...). Nếu chúng ta sử dụng tổng hợp nguồn nước
và sử dụng tốt nguồn lợi tổng hợp vừa có thể đạt được mục đích làm hồ để phát
điện, tưới, nuôi cá, du lịch, vừa đưa lại nguồn lợi đa dạng mà giá thánh lại giảm.
- Nước dùng cho giao thông vận tải: Nước có vai trò rất quan trọng trong
giao thông vận tải thủy. Vận tải thủy thích hợp với loại hàng hóa nặng, cồng kềnh,
không đòi hỏi phải vận chuyển nhanh, cước phí hạ góp phần bổ sung đáng kể vào
vận tải đường sắt, đường bộ. Ở nhiều vùng nông thôn nước ta hiện nay cùng với
việc đào kênh tưới tiêu nước cho đồng ruộng, vân tải bằng thuyền, ca nô đã góp
phần đáng kể vào giải phóng đôi vai, sức lao động để vận chuyển phân bón, hàng
hóa, thóc lúa. Hệ thống sông, kênh ở miền Bắc, nhất là ở đồng bằng Nam bộ đã
góp phần giao lưu giữa các miền đất nước. Vì vậy biết khai thác triệt để giao
thông thủy sẽ đem lại lợi ích đáng kể góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội phát
triển, làm tăng nhịp độ tăng trưởng của thu nhập quốc dân lên khoảng 0.5%.
- Nước với sự phát triển của ngành thủy sản: Nước có vai trò quan trọng
đối với ngành thủy sản. Nước là môi trường sống của động vật thủy sản. Không
có nước ngành thủy sản không thể tồn tại. Tài nguyên nước ở nước ta đa dạng, có
chất lượng phù hợp với nhiều loại tôm cá. “Nguồn lợi thủy sản là tài nguyên sinh
vật vô cùng quý giá có khả năng tái tạo có giá trị kinh tế, có ý nghĩa quan trọng
đối với sự phát triển kinh tế và đời sống của nhân dân ta”(1).
Nguồn ngoại tệ do khai thác nuôi trồng thủy sản rất lớn. Vì vậy chúng ta
phải có chính sách để khai thác, bảo vệ, quản lý nguồn nước - Môi trường sống

của thủy sản, tạo điều kiện phát triển mạnh mẽ kinh tế thủy sản.
1.2. Phát triển bền vững tài nguyên nước
1.2.1. Phát triển bền vững
Phát triển bền vững là khái niêm mới ra đời trong vài thập kỷ gần đây về sự
phát triển đang thay thế dần cho khái niêm phát triển truyền thống. Khái niện này
đưa ra trong bối cảnh khi mâu thuẩn giữa môi trường càng trở nên sâu sắc, ở


nhiều nơi trên thế giới do con người đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế và khai
thác sử dụng tài nguyên tự nhiên mà không quan tâm đúng mức tới bảo vệ môi
trường.
Phát triển bền vững đòi hỏi các tài nguyên được sử dụng một cách hợp lý
và hiệu quả với những phương thức khôn khéo và thông minh để tài nguyên
không bị suy thoái, can kiệt và có thể sử dụng lâu dài, trong đó đặc biệt nhấn
mạnh phải coi trọng bảo vệ môi trường.
Trong kế hoạch quốc gia về môi trường và phát triển bền vững, Nhà nước
ta cũng nhấn mạnh định hướng chiến lược quyết tâm thực hiện phát triển bền
vững trong các kế hoạch dài hạn của quốc gia.
1.2.2. Phát triển bền vững tài nguyên nước
Đề cập đến vấn đề phát triển bền vững đặc biệt là phát triển bền vững tài
nguyên nước, một vấn đề còn rất mới ở nước ta đề tài muốn nêu lên những quan
điểm nhận thức tổng hợp về vấn đề này từ các nghiên cứu trong nước và thế giới
và một số ý kiến vận dụng trong điều kiện thực tế ở nước ta.
* Các nhận thức tiếp cận về phát triển bền vững tài nguyên nước
Các nhận thức sau đây cho chúng ta tiếp cận khái niệm phát triển bền vững
tài nguyên nước;
Nước là tài nguyên thiên nhiên hữu hạn và rất có giá trị kinh tế như các tài
nguyên khoáng sản khác. Điều này đã được khẳng định trong nguyên tắc thứ tư
của “ Lịch trình thế kỷ 21” nhấn mạnh về giá trị kinh tế của tài nguyên nước. Việc
thay đổi nhận thức về tài nguyên nước như trên là cốt lõi của những thay đổi để

tiến tới sử dụng nước một cách bền vững trong thế kỷ tới.
Phát triển bền vững đòi hỏi trong khai thác và sử dụng tài nguyên nước,
ngòai đảm bảo mục tiêu kinh tế còn phải đảm bảo mục tiêu phát triển xã hội và
sự vẹn toàn của môi trường. Đây là một thay đổi trong các mục tiêu sử dụng nước
theo quan điểm bền vững so với cách sử dụng nước truyền thống chỉ chú trọng lợi
ích kinh tế trước đây;
Cần thiết của sự bền vững phát triển tài nguyên nước hiểu một cách đầy đủ
là tổng hợp sự bền vững về kinh tế xã hội, sinh thái, kỹ thuật, thể chế chính sách
cũng như các hiểu biết tri thức về tài nguyên nước.Nhận thức này đưa ra các yêu
cầu cần phải đảm bảo để khai thác và sử dụng bền vững tài nguyên nước.
Để thực hiện phát triển bền vững tài nguyên nước, cần mạnh dạn thay đổi
tất cả những gì chưa phù hợp với yêu cầu phát triển bền vững. Phát triển bền vững
với việc xem xét thêm khía cạnh xã hội, sinh thái trong sử dụng nước không phù
hợp nữa nên phải mạnh dạn thay đổi.
Các nguyên tắc chủ yếu của phát triển bền vững
- Để thực hiện phát triển bền vững tài nguyên nước phải dựa trên những
nguyên tắc chủ yếu rút ra từ các quan điểm nhận thức về phát triển bền vững và
phát triển bền vững tài nguyên nước. Sau đây là những nguyên tắc chủ yếu của


phát triển bền vững tài nguyên nước được khái quát làm cơ sở nghien cứu vạn
dụng trong thực tế.
- Khai thác sử dụng bền vững tài nguyên nước cần phải gắn chặt với các
biện pháp quản lý và bảo vệ hệ thống sinh thái lưu vực để duy trì và bảo vệ khả
năng tái tạo của tài nguyên nước và đảm bảo sự hợp lý về môi trường. Thí dụ như
bảo vệ rừng, sử dụng trong giới hạn của ngưỡng môi trường... Đây là nguyên tắc
xuất phát từ nhận thức khai thác phải đi đôi với bảo vệ tài nguyên nước.
- Để phát triển bền vững tài nguyên nước, duy trì tài nguyên nước một cách
lâu dài cho các thế hệ mai sau sử dụng thì phải khai thác sử dụng nước phải hết
sức tiêt kiệm và phát huy giá trị kinh tế của tài nguyên nước.

- Tài nguyên nước phải được quản lý sử dụng theo phương thức tổng hợp,
gọi tắt là quản lý tổng hợp tài nguyên nước. Quản lý tổng hợp tài nguyên nước là
quản lý nhiều thành phần nguồn nước, nhiều yêu cầu sử dụng nước, quản lý cả
cung cấp và nhu cầu dùng nước, quản lý đi đôi với bảo vệ chất lượng nước ...
- Để phát triển bền vững tài nguyên nước phải động viên sự tham gia của
tất cả các thành phần có liên quan trong quản lý tài nguyên nước, bao gồm người
lập quy hoạch, người xây dựng chính sách tại tất cả các cấp và đặc biệt là những
người dùng nước. Đây là nguyên tắc được nêu trong “lịch trình của thế kỷ 21”,
trong đó nhấn mạnh vai trò của những người dùng nước trong quản lý và bảo vệ
tài nguyên nước, điều mà trong cách quản lý trước đây còn ít được chú trọng.
1.2.3. Những biểu hiện phát triển không bền vững tài nguyên nước
Sự can thiệp của con người ngày càng sâu vào tài nguyên nước và làm biến
đổi nó rất nhiều so với trạng thái ban đầu. Sự biến đổi đó có thể đưa lại mặt lợi và
gây ra những mặt hại.
* Phá rừng: Đây là hiện tượng phổ biến ở nhiều nước nhất là các nước
đang phát triển ở vùng nhiệt đới, nơi rừng được coi là lá phổi của hành tinh. Phá
rừng làm tăng lượng dòng chảy hàng năm và làm cho lũ lớn, hạn hán hơn; Phá
rừng làm tăng lượng đất bị xói mòn, rửa trôi, lở đất ở hai bên bờ song, suối, làm
lượng bùn cát tăng đáng kể gâp lũ, làm giảm nguồn nước ngầm và dòng chảy mùa
kiệt quệ.
* Ô nhiễm môi trường.
Đô thị hóa: Đô thị hóa làm thay đổi hẳn lớp phụ và mặt đệm hệ tiêu nước
tự nhiên, nhà cửa và mặt đuờng là các diện tích không thấm nước, cống rãnh
nhiều hơn và tiêu nước nhanh hơn tự nhiên, hồ ao bị lấp dần.v.v. Các công trình
khi đang xây dựng làm tăng mạnh lượng bùn cát trong sông. Nước bị nhiễm bẩn
là nước bị xấu đi về chất, không thể sử dụng được ở các mức độ khác nhau. Khi
vật chứa nước bị nhiễm bẩn thì từng bộ phận hay toàn thể vật chứa nước không
thể sử dụng cho các mục tiêu kinh tế - xã hội được nữa.
Gần đây lượng nước thải trong sinh hoạt, công nghiệp, nông nghiệp tăng
lên nhiều lần, nên nước trong vật chứa không thể tự làm sạch và trở nên quá bẩn

không sử dụng được nữa. 1m3 nước thải làm ô nhiễm 40 - 60 m 3 nước sạch, một


hàm lượng dầu nhỏ (0,2 - 0.4 mg/l) cũng làm cho nước có mùi dầu rất khó lọc hay
xử lý cho hết. Nước thải công nghiệp giấy hút hết oxy trong nước làm cho nước
đổi màu, có mùi khó chịu... Các chất gây bẩn có thể nổi lên mặt nước, hòa tan
trong nước, tích tụ lắng đọng ở đáy. Các tính chất vật lý (Độ trong suốt, màu, mùi,
vị) hóa nước (phản ứng, hỗn hợp, lượng chất hữu cơ, khoáng, chất độc hại...) bị
thay đổi lượng oxy hòa tan trong nước giảm, các vi khuẩn, vi trùng gây bệnh tăng
lên. Vì vậy nước bị nhiễm bẩn không thể dùng để uống, tắm rửa, hay dùng cho kỹ
thuật.
Sự nhiễm bẩn nước gây thiệt hại lớn cho kinh tế - xã hội: Cấp nước cho
sinh hoạt, công nghiệp phải đắt lên nhiều lần, giảm sản lượng cá, thậm chí còn
gây các loại bệnh hiểm nghèo như dịch tả, sán máu, viêm gan, ung thư... làm xấu
đi điều kiện nghỉ ngơi của nhân dân… Nếu lọc xử lý các chất thải này sẽ thu lại
được khối lượng lớn các chất có giá trị, làm sạch nước bị nhiễm bẩn.
* Nhiễm bẩn nước ở nông thôn: Nhiễm bẩn nước ở nông thôn có những
nguồn gốc:
- Dùng phân bón không được xử lý kỹ, dùng phân hóa học quá mức cần
thiết, dùng thuốc trừ sâu, đã làm nhiễm bẩn nguồn nước mặt, nhiễm bẩn mặt đất,
nhiễm bẩn nước dưới đất.
- Nhiễm bẩn tự nhiên do nước phèn, mặn, cát bùn.
- Các nguồn thải của dân cư, chăn nuôi, xói mòn, rửa trôi.
Nước bị nhiễm bẩn và thiếu nước sinh hoạt trong mùa khô là vấn đề vệ sinh
trầm trọng, ảnh hưởng đến sức khỏe, ảnh hưởng đến đời sống của dân cư nông
thôn, trẻ em bơi lội trong ngòi lạch cùng với trâu bò, tắm giặt trong ao tù, nước
đọng nên bệnh đau mắt hột khá phổ biến.
Như vậy nhiễm bẩn nước đang là vấn đề thời sự bức xúc ở nước ta hiện
nay. Đó là vấn đề sức khỏe của mọi người, là vấn đề tương lai của phát triển.
Nước có thể bị cạn kiệt vì dùng quá mức, nhưng cũng bị “kiệt” vì nước bị nhiễm

bẩn không còn nước sạch để dùng, môi trường sống không phù hợp với những
tiêu chuẩn tối thiểu của xã hội văn minh.
* Dùng nhiều chất hoá học trong canh tác nông nghiệp
Do nhu cầu tăng sản lượng nông nghiệp nên ngày càng dùng nhiều phân
hóa học, thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ và các chế phẩm hoá học trong sản xuất nông
nghiệp ngày càng tăng, do đó làm nhiễm bẩn nước mặt, nước ngầm. Hệ thống
canh tác không đúng cách sẽ làm tăng thêm xói mòn đất, tưới nước nhiều quá
mức cần thiết, tổn thất ở kênh mương dẫn nước, làm úng vùng đất xung quanh,
mực nước ngầm dâng cao.
* Nhu cầu dùng nước ngày càng tăng về số lượng
Dân số tăng Yếu tố dân số tăng tác động đến cả số lượng và chất lượng
nước. Nhu cầu cuộc sống của con người ngày càng tăng thì nhu cầu về nước càng
tăng, đồng thời những hoạt động của con người về cả hình thức sử dụng đã và


đang đe dọa tiến tới hủy hoại và gây nhiễm bẩn các tài nguyên thiên nhiên trong
đó có tài nguyên nước.
Kinh tế thị trường có nhiều ưu thế, hiệu quả. Tuy nhiên kinh tế thị trường
không tự khắc phục được tính tự phát và những khuyết tật của nó. Điển hình là tác
động tiêu cực đến môi trường, phá vỡ cân bằng sinh thái, hủy hoại những nguồn
tài nguyên khan hiếm của loài người. Một trong số các tài nguyên khan hiếm của
loài người là nước. Nó cần được nhìn nhận, đánh giá, bảo quản, tiết kiệm như một
tài sản hàng đầu của nhân loại với tính chiến lược cơ bản, lâu dài.
1.3. Quan điểm và chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển bền
vững tài nguyên nước
1.3.1 Thực trạng tài nguyên nước của Việt nam
Việt Nam là một nước có tài nguyên nước phong phú. Nếu lấy chỉ tiêu
khối lượng nước tính cho đầu người ta thấy như sau:
Bảng 2: Khối lượng nước/ người ở một số quốc gia
TT


Tên nước

Hệ số K ( 103
m3/người)

1

BraZil

59,5

2

Nga

17,5

3

3,79

4

Trung Quốc (kể cả
đảo)

5

Mỹ


11,4

6

Ấn Độ

2,88

7

Inđonesia

13,0

Việt Nam

13,8

Nguồn: Tạp chí Khoa học thủy lợi tháng 10/1996
Mạng lưới sông ngòi ở Việt Nam khá dày đặc, nếu tính các con sông có
chiều dài trên 10 km, thì có tổng số 2.500 con sông, với chiều dài trên 52.000 km
với mật độ 0,15 - 0,16 km/km2. Tổng lượng nước của sông suối ở nước ta là 667 x
109 m3/năm, lưu lượng bình quân/ năm là 27.500m3/s.
Vị trí địa lí của nước ta nằm ở trong vùng nhiệt đới gió mùa. Một trong
những yếu tố quan trọng có tác dụng rất lớn đến dòng chảy sông ngòi đó là bão.
Mỗi khi bão đổ bộ vào đất liền thường gây mưa to, gió lớn và gây lũ ở các sông,
nguyên nhân trực tiếp sinh ra dòng chảy. Lượng mưa trên toàn quốc giao động
trong khoảng từ 1.500 - 2.000 mm. Lượng mưa đó là lớn, nhưng phân bố không
đều theo không gian và thời gian.



Theo không gian: Địa hình trên lãnh thổ Việt Nam bị chia cắt mạnh nên sự
phân bố lượng mưa cũng bị địa hình chi phối, vùng mưa lớn đạt đến 3.000 - 3.500
mm/năm, còn vùng mưa nhỏ chỉ đạt dưới 1.000 mm/năm.
Theo thời gian: Mùa mưa toàn quốc bắt đầu phổ biến từ tháng 5 và kết thúc
vào tháng 11. Lượng mưa mùa mưa chiếm 75 - 85% lượng mưa cả năm. Mùa khô
lượng mưa và độ ẩm nhỏ hơn rất nhiều so với mùa mưa.
Cường độ mưa: Là yếu tố ảnh hưởng đến dòng chảy, cường độ mưa ở nước
ta thuộc vào loại lớn trên thế giới. Chính những đợt mưa có cường độ mưa lớn
kéo dài nhiều ngày làm nguyên nhân gây ra các trân lũ lớn làm úng, ngập nghiêm
trọng nhiều khu vực, làm tổn thất lớn về người và tài sản, gây ô nhiễm môi
trường. Đây cũng chính là yếu tố làm ảnh hưởng đến chất lượng nước.
Dòng chảy rắn: Là yếu tố vừa ảnh hưởng đến số lượng nước và chất lượng
nước. Hiện tượng của sự xâm thực nước mưa trên bề mặt các lưu vực là nguyên
nhân gây ra dòng chảy bùn cát và dòng chảy các chất hòa tan trong nước của sông
ngòi. Lượng phù sa trong các dòng nước có tác dụng tăng thêm độ màu mỡ cho
cây trồng, nhưng khi dòng chảy có cát, sạn lớn sẽ bồi lấp các sông suối làm cạn
dần lòng sông, phải tốn kém kinh phí cho việc nạo vét.
Trên thực tế tài nguyên nước đang thể hiện sự khan hiếm (suy giảm về số
lượng) do tiềm tàng, không phải mới suy giảm lý do như sau:
Chỉ có 40% nguồn nước tính toán ở trên được sản sinh ra trên lãnh thổ của
mình; còn lại phụ thuộc vào thượng lưu (ở ngoài Việt nam) đặc biệt là ở Trung
quốc. Nhiều con sông của Việt nam bắt nguồn từ Trung quốc. Hiện nay phía
Trung quốc đang xây dựng nhiều đập lớn ở thượng nguồn sông Đà, như đập
Long mạ cao 140m, đập Japudu cao 95m, đập Gelanta cao 113m khi đi vào vận
hành phát điện thì ngay cả thuỷ điện Sơn la, thuỷ điện Hoà bình cũng bị ảnh
hưởng chế độ vận hành của các hồ này.
Mặt khác nguồn nước phân bố không đều, thể hiện trong 847 tỷ m3, có tới
53% lưu lượng dòng chảy thuộc về đồng bằng sông Cửu long, còn lại 47% tổng

lượng chia cho 87% lãnh thổ còn lại. Trong khoảng 6-9 tháng mùa khô lưu lượng
dòng chảy chỉ đạt từ 14-40% cả năm.
Chất lượng nước đang là vấn đề nổi cộm ở Việt nam. Ô nhiểm Asen trong
nước ngầm (nước dùng chủ yếu cho sinh hoạt ở đô thị hiện nay) được phát hiện ở
vùng châu thổ sông Hồng đang gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khoẻ của
người dân. Với sự gia tăng phát triển của các ngành công nghiệp tại các địa
phương không tuân thủ nguyên tắc bảo vệ môi trường làm cho các nguồn nước bị
ô nhiễm nghiêm trọng.
Trong những năm qua, sự gia tăng dân số, dẫn đến khai thác về tài nguyên
nước, tài nguyên đất và rừng đã làm suy kiệt nguồn nước nhanh chóng; việc phát
triển đô thị, công nghiệp nhưng không có biện pháp xử lý, quản lý chặt chẽ các
chất thải lỏng, thải rắn theo tiêu chuẩn yêu cầu đã góp phần làm ô nhiễm nguồn
nước, cho nên suy thoái đã trở thành khá phổ biến.


1.3.2. Quan điểm của Đảng, Nhà nước về phát triển tài nguyên nước
Trước thực trạng báo động về tình hình suy thoái về tài nguyên nước Đảng
và Nhà nước đã thấy những vấn đề cấp bách cần tập trung chỉ đạo đã được thể
hiện trong nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X “Tăng cường quản lý tài
nguyên quốc gia, nhất là các tài nguyên đất, nước, khoáng sản và rừng”...
Đồng thời ngăn chặn các hành vi huỷ hoại và gây ô nhiễm môi trường, khắc
phục tình trạng xuống cấp môi trường ở các lưu vực sông, đô thị, làng nghề, khu
công nghiệp, nơi đông dân cư và có nhiều hoạt độnh kinh tế. Từng bước sử dụng
công nghệ sạch, năng lượng sạch.
Tích cực phục hồi môi trường và hệ sinh thái đã bị phá huỷ; Tiếp tục phủ
xanh đất trống, đồi núi trọc, bảo vệ đa dạng sinh học. Quan tâm đầu tư cho lĩnh
vực môi trường...
Hoàn chỉnh luật pháp, tăng cường quản lý Nhà nước về bảo vệ và cải thiên
môi trường tự nhiên.
Từng bước hiện đại hoá công tác nghiên cứu, dự báo khí tượng thuỷ văn; chủ

động phòng chống thiên tai, tìm kiếm cứu nạn.”
Chủ động “Mở rộng hợp tác quốc tế về bảo về môi trường và quản lý tài
thiên nhiên; chú trọng lĩnh vực quản lý, khai thác và sử dụng tài nguyên nước”.
Cần tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng; chính sách, pháp luật của
Nhà nước “về cường công tác quản lý nhà nước về tài nguyên nước”, xem đây là
vấn đề sống còn cho sự tồn tại và phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Qua đó
tập trung xây dựng nhiều chính sách mang tính chiến lược tầm quốc gia, các chính
sách về bảo vệ tài nguyên, bảo vệ môi trường nhằm phát triển bền vững tài
nguyên, khai thác sử dụng một cách có hiệu quả.
1.3.3. Những văn bản quy phạm pháp luật về quản lý tài nguyên nước
Luật tài nguyên nước (số 08/1998/QH10).
Nghị định số 179/1999/NĐ-CP của Chính phủ quy định việc thi hành Luật tài
nguyên nước.
Quyết định số 67/2000/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ thành lập Hội
đồng Quốc gia về tài nguyên nước.
Quyết định số 99/2001/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính pề tài nguyên nướcủ
về việc ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của hội đồng quốc gia về tài
nguyên nước.
Pháp lệnh khai thác và bảo vệ công trình thuỷ lợi số 32/2001/PL-UBTVQH.
Pháp lệnh phòng chống lụt bão ban hành ngày 20/3/1993.
Nghị định số 149/2004/NĐ-CP của Chính phủ quy định cấp phép sử dụng
nước.
Nghị định số 67/2003/NĐ-CP của Chính phủ quy định phí nước thải.


Nghị định số 154/2007/NĐ-CP của Chính phủ quy định bổ sung môt số điều
của Nghị định 143/2003/NĐ-CP ngày28/11/2003 của Chính phủ quy định chi tiết
thi hành một số điều của pháp lệnh Khai thác và bảo vệ công trình thuỷ
lợị(4/4/2001).
Quyết định số 18/2006/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến

lược Quốc gia về nguyên nước đến năm 2020...
Và nhiều văn bản liên quan khác.

Chương 2
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ KHAI THÁC, SỬ DỤNG
TÀI NGUYÊN NƯỚC Ở ĐẮK NÔNG
2.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế xã hội ở Đắk Nông
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên
Đắk Nông là một tỉnh ở Tây Nguyên; Tỉnh Đắk Nông được tái lập vào
ngày 01 tháng 01 năm 2004, theo Nghị quyết số 23/2003/QH11 ban hành ngày 26
tháng 11 năm 2003 của Quốc hội trên cơ sở chia tách tỉnh Đăk Lăk thành 2 tỉnh
mới là Đắk Nông và Đăk Lăk, nằm ở cửa ngõ phía tây nam của Tây Nguyên, nằm
trong vùng tọa độ từ 11°45 đến 12°50 vĩ độ bắc và từ 107°12 đến 108°07 kinh độ
đông[3]. Trung tâm tỉnh Đắk Nông nằm cách thành phố Buôn Ma Thuột khoảng
125 km theo đường quốc lộ 14, cách thành phố Hồ Chí Minh khoảng 250 km
về phía nam. Phía bắc và đông bắc của Đắc Nông giáp với địa phận tỉnh Đắk Lắk,
phía đông và đông Nam giáp tỉnh Lâm Đồng, phía nam giáp tỉnh Bình Phước[4],
phía tây giáp với Vương Quốc Campuchia với đường biên giới dài khoảng
120 km[5], qua hai cửa khẩu là cửa khẩu Đắk Per thuộc huyện Đắk Mil và
Bup'rang thuộc địa phận Tuy Đức. Đắk Nông có 1 thị xã và 7 huyện trực thuộc,
Trong đó, có 71 đơn vị hành chính cấp xã bao gồm 61 xã, 5 phường và 5 thị trấn.
Đắk Nông nằm trọn trên cao nguyên M’Nông, với độ cao trung bình từ 600
mét đến 700 mét so với mặt nước biển, cao nhất là ở Tà Đùng với độ cao lên đến
1.982 mét. Nhìn chung địa hình Đăk Nông chạy dài và thấp dần từ đông sang
tây. Địa hình đa dạng, phong phú và bị chia cắt mạnh, có sự xen kẽ giữa các núi
cao, với các cao nguyên rộng lớn, dốc thoải, lượn sóng, khá bằng phẳng xen kẽ
các dải đồng bằng thấp trũng; Khí hậu Kăk Nông chuyển tiếp giữa hai tiểu
vùng khí hậu Tây Nguyên và Đông nam bộ, chính vì vậy khí hậu ở đây mang đặc
điểm chung của khí hậu nhiệt đới gió mùa cận xích đạo, nhưng có sự nâng lên của



địa hình nên có đặc trưng của khí hậu cao nguyên nhiệt đới ẩm, vừa chịu ảnh
hưởng của gió mùa tây nam khô nóng.
Khí hậu phân hóa thành 2 mùa rõ rệt là mùa mưa và mùa khô. Mùa
mưa thường kéo dài từ tháng 4 đến hết tháng 11, tập trung trên 90% lượng mưa cả
năm, Lượng mưa trung bình năm 2.513 mm. Mùa khô từ tháng 12 đến hết tháng
3 năm sau, lượng mưa không đáng kể. Nhiệt độ trung bình năm 22-230C, nhiệt
độ cao nhất 350C, thấp nhất 140C. Với điều kiện thời tiết này rất phù hợp với phát
triển các cây trồng nhiệt đới lâu năm.
Đất đai Đăk Nông khá phong phú và đa dạng, được chia thành 5 nhóm đất
chính gồm Nhóm đất xám, Đất đỏ bazan, Còn lại là đất đen bồi tụ. Đất nông
nghiệp chiếm 47% tổng diện tích tự nhiên. Trong đó, đất trồng cây công
nghiệp lâu năm chiếm phần lớn diện tích[6][
- Về tài nguyên nước
Lượng mưa trung bình hàng năm là 2.513 mm, lượng mưa cao
nhất là 3.000mm. Độ ẩm không khí trung bình 84%. Vì vậy, nguồn nước mặt
do nguồn nước mưa cung cấp, tương đối dồi dào, thuận lợi cho sản xuất và sinh
hoạt dân cư trên địa bàn toàn tỉnh.
Do chịu ảnh hưởng của khí hậu cao nguyên, lại nằm ở phía Tây, cuối dãy
Trường Sơn nên vào mùa khô thường mưa ít, nắng nóng kéo dài làm khô hạn,
nhiều lúc thiếu nước gây ảnh hưởng không nhỏ tới sản xuất nông nghiệp và sinh
hoạt của dân cư nên tỉnh đã chủ động xây dựng nhiều hồ đập chứa nước mặt phục
vụ sinh hoạt và sản xuất nông, công nghiệp, thủy điện, vừa là tiềm năng để phát
triển du lịch như Hồ Tây, EaSnô, Ea T'Linh, Đắk Rông, Đak Đier, ĐăkR’tih,
Đồng Nai 3,4.v.v.
Nguồn nước ngầm, phân bố ở hầu khắp cao nguyên bazan và các địa bàn
trong tỉnh, có trữ lượng lớn ở độ sâu 40-90m. Đây là nguồn cung cấp nước bổ
sung cho sản xuất và sinh hoạt vào mùa khô, được sử dụng phổ biến cho sinh
hoạt, làm kinh tế vườn, kinh tế trang trại.
Hệ thống sông suối của Đắk Nông dày đặc và phân bố tương đối đều khắp.

Các sông chính chảy qua địa phận tỉnh gồm hai hệ thống sống chính là: Sông
Sêrêpôk do hai nhánh sông Krông Nô và Krông Na hợp lưu, do kiến tạo địa chất
phức tạp, lòng sông trở nên hẹp và dốc nên tạo ra các thác nước lớn hùng vĩ, vừa
có cảnh quan thiên nhiên đẹp, vừa có tiềm năng thủy điện như thác Trinh Nữ,
Dray H'Linh, Gia Long, Đray Sap. Thượng nguồn sông Đồng Nai gồm nhiều sông
suối Đăk Nông là thượng nguồn như Suối Đắk Rung, Đắk Nông, Đắk Búk So,
Đắk R'lấp, Đắk R'tíh …
Sông suối trên địa bàn tỉnh Đắk Nông có tiềm năng thủy điện dồi dào. Hệ
thống suối đầu nguồn của các sông Đồng Nai, Krông Nô, Sêrêpôk có thể xây
dựng nhiều công trình thủy điện lớn với tổng công suất khoảng 1500 MW như
thuỷ điện Buôn Kuôp 280 MW, Đức Xuyên 92 MW, Buôn TuaSrah 85 MW, Đắk


Tih 140 MW, Đồng Nai 3-180 MW, Đồng Nai 4 – 340MW, Đồng Nai 6&6A v.v.
đang từng bước được đầu tư xây dựng.
2.1.2. Về kinh tế - xã hội
Tính đến năm 2014, dân số toàn tỉnh Đắk Nông đạt gần 553.300 người, mật
độ dân số đạt 79 người/km². Trong đó dân số sống tại thành thị đạt gần 83.300
người, dân số sống tại nông thôn đạt 470.000 người. Dân số nam đạt 290.900
người, trong khi đó nữ đạt 262.400 người. Tỷ lệ tăng tự nhiên dân số phân theo
địa phương tăng 14,4 ‰.
Dân cư phân bố không đều trên địa bàn các huyện, nơi đông dân cư chủ yếu
tập trung ở các trung tâm xã, thị trấn huyện lỵ, ven các trục đường quốc lộ, tỉnh
lộ. Có những vùng dân cư thưa thớt như một số xã của huyện Đắk Glong, Tuy
Đức.
Dân số Đăk Nông là dân số trẻ, trong độ tuổi còn đi học khoảng 175.000
người, chiếm 31,6%; trong độ tuổi lao động có 345.000 người, chiếm 62%; độ
tuổi trên 60 chỉ có hơn 20.000 người.
2.1.3. Những thuận lợi và khó khăn cơ bản ảnh hưởng đến việc phát triển
kinh tế xã hội ở Đắk Nông

* Thuận lợi
Nằm ở cửa ngõ Nam Tây Nguyên, có Quốc lộ 14 chạy qua nối liền Tây
Nguyên với các trung tâm kinh tế lớn vùng miền Đông Nam bộ và Thành phố Hồ
Chí Minh; Quốc lộ 28 nối Đắk Nông với tỉnh Lâm Đồng và các tỉnh duyên hải
miền Trung; tỉnh có 02 cửa khẩu quốc gia là Bu Prăng, Đắk Peur được Nhà nước
quan tâm đầu tư, đã góp phần thuận lợi thúc đẩy giao thương hàng hóa với tỉnh
Mondulkiri (Vương quốc Campuchia). Là tỉnh có nhiều tiềm năng, lợi thế lớn như
khí hậu ôn hòa; mạng lưới thủy văn, hồ, đập phân bố tương đối đều khắp; với cơ
cấu thổ nhưỡng khá phong phú, đa dạng; có nhiều tài nguyên khoáng sản quý
hiếm, nhất là trữ lượng bô xít khoảng 5,4 tỷ tấn.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, Nghị quyết Đại
hội Đảng bộ tỉnh lần thứ X, nhiệm kỳ (2010 - 2015) đã xác định phương hướng,
mục tiêu tổng quát đó là: “ Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
Đảng bộ, hiệu lực, hiệu quả quản lý của chính quyền các cấp, sức mạnh tổng hợp
của cả hệ thống chính trị; phát huy sức mạnh đại đoàn kết các dân tộc; giữ vững
ổn định chính trị xã hội. Tập trung phát triển nguồn nhân lực, xây dựng hạ tầng
thiết yếu về kinh tế - xã hội và đô thị hạt nhân, thu hút đầu tư; tạo bước phát triển
đột phá về kinh tế trong công nghiệp khai khoáng và năng lượng, công nghiệp
chế biến và nông nghiệp kỹ thuật cao, dịch vụ và du lịch; giữ gìn và phát huy bản
sắc văn hoá phong phú, đa dạng của các dân tộc. Phấn đấu đến năm 2015 thoát
ra khỏi tỉnh nghèo và năm 2020 đưa kinh tế Đăk Nông đạt mức bình quân chung
của cả nước; tạo tiền đề cơ bản để phát triển toàn diện và bền vững theo hướng
công nghiệp hoá - hiện đại hoá”.


* Khó khăn:
Là một tỉnh mới được lập lại (2004) có điểm xuất phát thấp, kinh tế chậm
phát triển, sản xuất nông nghiệp là chủ yếu, đời sống người lao động còn quá thấp
và gặp nhiều khó khăn nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới.
Dân số tăng với mức độ cao, do di dân tự do từ các tỉnh phía Tây Bắc vào

làm ăn sinh sống, nguồn lao động tuy dồi dào nhưng chất lượng chưa cao, tỷ lệ
lao động kỹ thuật trong tổng số lao động thấp.
Là một tỉnh có tổng thu nhập thấp, hàng năm Trung ương phải cấp, nên việc
đầu tư cho phát triển tài nguyên nước còn gặp nhiều khó khăn.
2.2. Thực trạng tài nguyên nước và sử dụng tài nguyên nước ở tỉnh Đắk
Nông
2.2.1. Thực trạng tài nguyên nước của tỉnh Đắk Nông
Mặc dù có 2 lưu vực hệ thống sông chính (sông Srêpôk và sông Đồng Nai)
của Đăk Nông có tổng lượng dòng chảy năm đáp ứng được nhu cầu dùng nước
phục vụ phát triển kinh tế xã hội của toàn tỉnh, nhưng đang tồn tại nhiều vấn đề
gây mâu thuẫn ngày càng mạnh trong khai thác và sử dụng không bền vững
nguồn nước mặt, cụ thể như sau:
Việc khai thác và sử dụng nước trong đó nổi lên giữa phát điện, cấp nước
tưới và cấp nước sinh hoạt. Do thủy điện có nhiệm vụ phủ đỉnh trong biểu đồ phụ
tải, nên trong thời gian cao điểm các hồ thủy điện do Tập đoàn điện lực Việt Nam
trực tiếp quản lý sẽ phát điện tối đa, còn trong thời gian thấp điểm dường như
đóng hoàn toàn dẫn đến chế độ dòng chảy hạ lưu các sông có hồ thủy điện trên
dòng chính thay đổi hoàn toàn. Trong một ngày, hạ lưu thủy điện có những thời
gian có nước, nhưng có thời gian gần như cạn kiệt hoàn toàn. Các công trình thủy
lợi phía hạ lưu không thể hoạt động liên tục, chỉ có thể đảm bảo nguồn nước cho
một phần diện tích khu vực đầu kênh. Vùng cuối kênh nước chưa chảy đến lại
dừng vì vào thời điểm đó thủy điện ngưng phát điện.
Hiện nay việc khai thác, sử dụng tài nguyên nước vẫn theo hướng cung cấp
nước, theo yêu cầu phục vụ, chưa thực hiện quản lý nhu cầu sử dụng nước. Ở Đắk
Nông với nhu cầu dùng nước vào mùa khô rất lớn nên đã dẫn đến mâu thuẫn,
tranh chấp. Ngay trong khai thác và sử dụng nước cho yêu cầu nông nghiệp cũng
mâu thuẫn giữa cấp nước cho lúa, rau màu là cây trồng ngắn ngày với cây công
nghiệp có giá trị kinh tế, là cây dài ngày. Khi xảy ra hạn hán, thiếu nước chưa có
sự điều hành thống nhất dẫn đến những thiệt hại lớn cho cây trồng dài ngày có giá
trị kinh tế cao như cây cà phê, hồ tiêu.. nếu bị chết do hạn hán phải mất vài ba

năm mới có thể tái sản xuất, trong khi nếu hy sinh diện tích cây trồng ngắn ngày
có thể cứu được những diện tích cây dài ngày chỉ mất một vụ thu hoạch.
Việc khai thác, sử dụng tài nguyên nước mặt giữa thượng lưu và hạ lưu trên
một con sông thiếu sự phối hợp chặt chẽ, chưa xuất phát từ lợi ích và hiệu quả xã
hội, của toàn vùng mà chỉ xuất phát từ lợi ích của cá nhân, ngành mình, địa
phương mình. Trong khi những khu vực hạ lưu với những cây trồng có giá trị


kinh tế cao, hiệu quả lớn, đang bị đe dọa hạn hán, thiếu nước, cây trồng có nguy
cơ bị chết thì những vùng thượng lưu người dân vẫn khai thác và sử dụng nước
lãng phí, không tiết kiệm.
Các hoạt động khai thác, sử dụng nước mang tính cục bộ, thiếu kiểm soát:
Khoảng 47,5% diện tích nông nghiệp do người dân chủ động làm các đập nhỏ ở
thượng lưu để lấy nước tưới. Việc xây dựng này đã ảnh hưởng tới khả năng điều
tiết dòng chảy làm suy giảm đáng kể dòng chảy các tháng mùa khô ở khu vực hạ
lưu.
Do điều kiện biến đổi khí hậu, nên vùng thượng lưu của sông Srêpôk và sông
Đồng Nai đã xuất hiện những thời điểm cạn kiệt nguồn nước tự nhiên vào mùa
khô, gây ra tình trạng thiếu nước tại khu vực trung và hạ lưu. Điều này có thể làm
biển đổi lượng dòng chảy trên các sông gây ra những hậu quả tiêu cực như: Giảm
lượng phù sa bồi lắp cho các khu vực phía hạ lưu làm cho đất canh tác vùng hạ
lưu ngày càng thoái hoá. Mặt khác, hiệu ứng nước gây xói lở nghiêm trọng ở bờ
sông và hạ lưu các đập.
Hầu hết quy hoạch các công trình hồ chứa đều lấy hết dòng chảy trên sông
mà chưa tính tới yếu tố duy trì lưu lượng dòng chảy cần thiết đảm bảo sự sống
còn của hệ sinh thái nước và duy trì dòng chảy môi trường ở khu vực hạ lưu.
* Trong khai thác và sử dụng nước dưới đất
Mặc dù những vùng đất Bazan được đánh giá là có tiềm năng khá về nước
dưới đất nhưng nước dưới dưới đất ở tỉnh Đắk Nông đang ngày càng suy giảm và
cạn kiệt do nhiều nguyên nhân: (i) Tài nguyên rừng Tây Nguyên suy giảm nhanh

do việc khai thác chưa hợp lý, diện tích rừng nguyên sinh, rừng phòng hộ ngày
càng thu hẹp nên mất dần khả năng bổ sung và phục hồi tầng nước ngầm toàn
vùng; (ii) Khai thác sử dụng cho mục đích phát triển trồng trọt đặc biệt là phục vụ
tưới cho cây công nghiệp (cây cà phê, hồ tiêu, rau hoa...); (iii) Tăng dân số và di
dân tự do.
Hiện lượng nước ngầm tiêu thụ mỗi ngày trên địa bàn tỉnh Đắk Nông lên đến
trên 6,5 triệu m3 (riêng Thị xã Gia Nghĩa chiếm trên 21% nước sử dụng mỗi ngày)
con số này tăng 65,7% so với năm 2004, có đến 80% nguồn nước được khai thác
sử dụng mỗi ngày là nguồn nước ngầm.
Như vậy, việc khai thác và sử dụng nước ngầm ở khu vực Đắk Nông đã và
đang phát sinh mâu thuẫn ngày càng gay gắt giữa sử dụng nước ngầm cho mục
đích sinh hoạt và tưới. Tình hình khai thác và sử dụng thiếu kiểm soát đã ảnh
hưởng đến hoạt động của nhiều nhà máy cấp nước trên địa bàn, ảnh hưởng đến
cuộc sống người dân. Trong khi nguồn nước ngầm với chất lượng khá tốt phải
được ưu tiên cho những mục đích sử dụng đòi hỏi chất lượng nguồn nước cao.
2.2.2. Nguyên nhân gây ra việc khai thác và sử dụng nguồn nước ở tỉnh
Đắk Nông
2.2.2.1. Tốc độ phát triển kinh tế khá nóng


Trong những năm qua Đắk Nông có tốc độ tăng dân số, phát triển kinh tế khá
cao. Diện tích canh tác ngoài quy hoạch không kiểm soát nổi. Nhất là diện tích
trồng cây công nghiệp dài ngày đã phát triển vượt xa so với quy hoạch được
duyệt.
Với tốc độ phát triển kinh tế nóng, nhất là nhu cầu tưới đối với cây công
nghiệp như cây cà phê rất lớn (người dân đang tưới 500 - 600 lít nước cho một
gốc cà phê mỗi lần). Vì vậy, mùa tưới người dân đã tự phát khai thác đến cạn kiệt
nguồn nước mặt và nước ngầm (như khoan giếng).
Các hồ thuỷ điện trong khu vực Đăk Nông, nhất là các công trình do tư nhân
đầu tư chỉ nhằm tối đa mục tiêu lợi nhuận từ phát điện và không tính tới hiệu quả

sử dụng tổng hợp nguồn nước đối với các nhu cầu khác. Trong khi các công trình
thủy lợi phát triển không kịp, tài nguyên nước có giới hạn dẫn đến tranh chấp
nguồn nước nhất là những năm mưa ít.
2.2.2.2. Phần lớn là công trình vừa và nhỏ, khả năng điều tiết hạn nước
còn nhiều hạn chế
Do điều kiện địa hình, thủy thế, nguồn nước và điều kiện kinh tế nên phần
lớn công trình thủy lợi đã xây dựng ở Đắk Nông là công trình vừa và nhỏ, tưới từ
vài ha đến vài trăm ha và sử dụng chủ yếu dòng chảy cơ bản do đó hiệu quả tưới
bấp bênh, thiếu chủ động nguồn nước. Việc kiên cố hoá kênh mương trên toàn
vùng chỉ đạt khoảng 25%, đây là tồn tại rất cần khắc phục sớm.
Những hồ chứa có quy mô nhỏ dưới 3 triệu m3, trong đợt hạn hán đầu năm
2013 hầu hết nằm dưới mực nước chết (MNC) hoặc đã khô kiệt nước. Các công
trình có quy mô vừa và lớn do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đầu tư,
mực nước hồ giảm so với trung bình nhiều năm từ 0,5m÷2m.
Những công trình Nhà nước và nhân dân cùng làm được phân cấp cho địa
phương quản, do khả năng quản lý chưa cao nên nhiều công trình bị xuống cấp
nghiêm trọng, không có khả năng cân đối nguồn vốn để nâng cấp sửa chữa. Hệ
thống công trình thuỷ lợi xây dựng đã lâu, không đồng bộ, kênh mương bị bồi lấp,
nhiều trạm bơm đã hết hạn sử dụng thiếu thiết bị thay thế.
Các công trình lớn đã xây dựng trên dòng chính chủ yếu là phát điện. Do quy
hoạch phát triển thuỷ điện thiếu phối hợp, gắn kết giữa các ngành cùng khai thác
trên một lưu vực sông nên hiệu quả tổng hợp của công trình thuỷ điện hạn chế,
thậm chí gây tranh chấp, xung đột giữa các ngành sử dụng nước, giữa thượng lưu
và hạ lưu ảnh hưởng đến sản xuất, đời sống và môi trường.
2.2.2.3. Sử dụng nước chưa tiết kiệm
Công tác quản lý và phân phối, sử dụng nước còn lãng phí, tổn thất nhiều do
hệ thống kênh mương chưa đồng bộ, hệ thống công trình nội đồng còn thiếu. Khi
thiết kế thường tính hệ số lợi dụng kênh mương h=0,65÷0,70 nhưng thực tế chỉ
đạt từ 0,50÷0,55.
Đắk Nông có diện tích trồng cây công nghiệp rất lớn như cà phê, tiêu nhưng

kỹ thuật tưới vẫn chủ yếu là tưới tràn nên khả năng kiểm soát, khống chế độ ẩm


gần như chưa thực hiện được. Theo đánh giá trong năm 2011, mới có 5% diện tích
cà phê được tưới bằng công nghệ hiện đại, tiết kiệm nước. Trong khi tưới tràn tiêu
tốn khoảng 650 lít/gốc/lần tưới thì tưới nhỏ giọt chỉ cần 130-150 lít/gốc/lần tưới
giảm từ 4,3 đến 5 lần.
2.2.2.4. Việc khoanh vùng tiêu chưa tốt
Việc tiêu nước và chống lũ ở Đăk Nông còn nhiều hạn chế. Ở các vùng đã có
đê chỉ chống lũ tiểu mãn, còn lũ chính vụ cho lũ tràn qua, các đê không có đường
tràn chủ động, nên khi nước tràn qua đê dễ bị phá hỏng, nhiều kênh tiêu bị bồi
lắng, nhiều cống tiêu bị hỏng. Hầu như các vùng tiêu mới chỉ chú ý tới tiêu cho
cây lúa ở vụ hè thu, tính toán hệ số tiêu mặt ruộng còn thấp, khi công trình đi vào
phục vụ thường không đáp ứng được nhu cầu cần tiêu.
2.2.2.5. Quản lý nhà nước về tài nguyên nước phân tán và chưa phù hợp
Quản lý tài nguyên nước bao gồm quản lý số lượng, chất lượng nước; quản
lý khai thác các mặt lợi, phòng chống và hạn chế các mặt hại của nước; phát triển,
khai thác và bảo vệ nguồn nước ... có quan hệ hữu cơ, tương hỗ nhau. Khi giải
quyết khắc phục mặt hại của nước đã mặc nhiên tăng thêm mặt lợi của nước hoặc
ngược lại.
Hiện nay, chức năng và nhiệm vụ quản lý tài nguyên nước đang được phân
chia cho nhiều cơ quan. Bộ Tài nguyên và Môi trường chịu trách nhiệm quản lý
nhà nước về tài nguyên nước, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn quản lý
nhà nước về công trình thủy lợi, cấp nước nông thôn, chịu trách nhiệm phòng
chống lũ lụt, úng ngập, hạn hán, sạt lở bờ sông, bờ biển; Bộ Công thương quản lý
nhà nước về thủy điện; Bộ Xây dựng quản lý về cấp nước đô thị, công nghiệp…
Như vậy, tổ chức, chức năng nhiệm vụ trong quản lý ngành nước hiện nay không
phù hợp với đặc điểm tài nguyên nước. Cơ quan đơn vị được giao nhiệm vụ quản
lý không nắm các công cụ quản lý đã dẫn đến chồng chéo và nhiều hoạt động
không kiểm soát được. Hiệp hội nước toàn cầu đã nhận định: ‘‘Thế giới đang

khủng hoảng nước, không phải do có quá ít nước không đảm bảo được nhu cầu
của chúng ta mà là cuộc khủng hoảng quản trị ngành nước.
2.2.3. Nguyên nhân của hạn chế
Cho đến nay,việc khai thác tài nguyên nước đã được đẩy mạnh nhằm cung
cấp nước cho dân sinh, cho cây trồng, cho khai khoáng và các ngành công nghiệp
khác, phát triển thuỷ điện, vận tải thuỷ, nuôi trồng và đánh bắt thuỷ sản, phục vụ
du lịch, giải trí. Nhưng hiện nay, trước hết các văn bản mang tính luật pháp về
quản lý tài nguyên nước đã ban hành, phần lớn đã lỗi thời, do không có khả năng
điều chỉnh các đối tượng trong tình hình phát triển hiện nay về kinh tế xã hội. Mặt
khác, hệ thống pháp luật về các tài nguyên của đất nước đang được bổ sung sửa
đổi và hoàn thiện. Luật và pháp lệnh đã được ban hành bao gồm: luật đất đai, luật
thuế sử dụng đất nông nghiệp, luật bảo vệ và phát triển rừng, pháp lệnh bảo vệ và
phát triển nguồn lợi thuỷ sản, luật dầu khí, pháp lệnh về khai thác và bảo vệ công
trình thuỷ lợi, pháp lệnh về đê điều và pháp lệnh phòng chống lũ lụt, hạn hán ....


nhằm đồng bộ hoá hệ thống pháp luật, luật về nước không thể chậm trễ trong xây
dựng và ban hành.
Chưa có một cơ quan chức năng nhà nước để quản lý thống nhất về chất và
số lượng quá trình khai thác sử dụng tổng hợp và bảo vệ nguồn nước.
Sự phối hợp các ngành, các địa phương trong việc khai thác tổng hợp các
dòng sông, các nguồn nước ngầm để phát triển nguồn ngước cho nhiều mục đích
khác nhau còn chưa được chặt chẽ. Việc bảo vệ và quản lý các nguồn nước để sử
dụng hợp lý và tiết kiệm chưa được thực hiện đầy đủ đã dẫn tới việc dùng nước có
nơi có lúc còn sai sót và lãng phí. Tình trạng khai thác sử dụng nguồn nước còn
lộn xộn, phân tán, lãng phí, chồng chéo gây ô nhiễm nguồn nước đôi khi rất
nghiêm trọng, tác động xấu đến sức khoẻ của nhân dân và làm thiệt hại cho cơ sở
sản xuất. ...
Việc ngăn ngừa ô nhiễm nguồn nước do sử dụng phân bón, thuốc trừ sâu,
diệt cỏ dại trong nông nghiệp còn chưa được chú ý. Nguồn nước về mùa khô hạn

có lưu lượng nhỏ, ít có khả năng pha loãng nước thải và không có khả năng đẩy
mặn. Trong khi đó hầu hết các nước thải công nghiệp và dân sinh đều không qua
xử lý nên nồng độ chất độc hại ngay cả khi hoà tan vào sông ngòi vẫn còn rất lớn,
gây ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ của con người và sinh vật.
Nhận thức chưa đầy đủ về tầm quan trọng của tài nguyên nước, ý thức trách
nhiệm của công dân và hiểu về lợi ích lâu dài đối với chính mỗi người như một tài
sản vô giá được thừa hưởng cần phải bảo vệ với một thái độ không khoan
nhượng.
Trong tương lai dân số ngày càng tăng, kinh tế ngày càng phát triển, nhu cầu
nước ngày một lớn, việc tranh chấp trong sử dụng nước sẽ xảy ra ngày càng nhiều
giữa các hộ dùng nước ở thượng lưu và hạ lưu các sông suối. Nạn ô nhiễm nước
nếu không ngăn chặn ngay từ đầu sẽ càng trầm trọng, ảnh hưởng xấu đến đời sống
nhân dân và phát triển kinh tế-xã hội.
Công tác tuyên truyền giáo dục nhân dân, ý thức bảo vệ môi trường, bảo vệ
tài nguyên nước còn ít.
Sự mất cân đối nguồn nước giữa mùa khô và mùa lũ gây ảnh hưởng ô nhiễm
về nguồn nước.
Độ che phủ các rừng hiện còn thấp, vì vậy ảnh hưởng đến việc xói mòn đất,
làm tăng dòng chảy rắn, lượng bùn cát về các sông suối và cạn kiệt nguồn nước
trong mùa hè.
Tất cả những vấn đề đặt ra trên đây đang đòi hỏi phải có thay đổi căn bản từ
nhận thức đến phương hướng, biện pháp để bảo vệ, quản lý, sử dụng một cách
hiệu quả nhất nguồn tài nguyên nước. Điều đó có tác động mạnh mẽ tới quá trình
phát triển kinh tế- xã hội không chỉ ở phạm vi địa bàn tỉnh, thành mà còn đối với
cả nước.

Chương 3
CÁC GIẢI PHÁP QUẢN LÝ VÀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG



TÀI NGUYÊN NƯỚC Ở ĐẮK NÔNG
3.1. Đề xuất các giải pháp quản lý và phát triển bền vững tài nguyê nước ở
tỉnh Đắk Nông
3.1.1. Sử dụng tổng hợp nguồn nước phục vụ phát triển kinh tế xã hội
Để sử dụng tổng hợp nguồn nước trên lưu vực các sông,suối cần xây dựng đủ
3 loại công trình: lớn, vừa và nhỏ bằng các loại công trình: Hồ, đập, trạm bơm với
khoảng 191 công trình, trong đó nâng cấp 42 hồ chứa và xây dựng 48 công trình
mới gồm 148 hồ, 32 đập dâng, 04 trạm bơm. Đồng thời trên dòng chính và dòng
nhánh lớn cần xây dựng các công trình thuỷ điện vừa và lớn để phát điện, giảm lũ
và tăng cường lưu lượng kiệt cho hạ du.
Hiện nay Đăk Nông không chỉ cấp nước tưới cho lúa mà phải cấp nước tưới
cho hoa màu, cây công nghiệp, đặc biệt tưới cây cà phê, hồ tiêu và cấp nước cho
dân sinh. Do đó, hàng năm còn phải khai thác bằng các công trình tạm và khai
thác nước ngầm, đảm bảo tưới cho cây công nghiệp dài ngày như cà phê, tiêu với
tổng diện tích được tưới lên tới trên dưới 43 ngàn ha mỗi năm.
Tăng cường, cấp nước cho dân bằng nhiều hình thức như giếng đào, giếng
khoan và cấp nước tập trung, cấp nước cho các khu công nghiệp đô thị bằng các
hệ thống cấp nước tập trung sử dụng nước từ hồ chứa hoặc lấy nước trực tiếp từ
sông lên.
3.1.2. Phát triển bền vững, sử dụng đi đôi với bảo vệ nguồn nước
Khai thác lợi dụng tổng hợp, hợp lý nguồn nước, thống nhất theo lưu vực
sông và hệ thống công trình thủy lợi, không chia cắt theo địa giới hành chính.
Sử dụng đi đôi với bảo vệ, chống suy thoái, cạn kiệt nguồn nước, tái tạo
nguồn nước bằng biện pháp công trình và phi công trình. Chú ý đến bảo vệ môi
trường, đặc biệt môi trường trong hệ thống công trình thủy lợi.
Cần lập hành lang bảo vệ nước, gồm hồ chứa thủy điện, thủy lợi; hồ tự nhiên,
nhân tạo ở các đô thị, khu dân cư; hồ, ao lớn có chức năng điều hòa; sông, suối,
kênh, rạch là nguồn cấp nước, trục tiêu nước… Tại các địa phương, UBND huyện
sẽ chịu trách nhiệm cắm mốc chỉ giới và quản lý hành lang bảo vệ nguồn nước,
đồng thời quản lý chặt chẽ việc xả thải vào nguồn nước.

3.1.3. Sử dụng tiết kiệm nước
Nước phải được xem xét là một hàng hoá vì có đủ cả hai thuộc tính của hàng
hoá là giá trị và giá trị sử dụng, nhưng là hàng hoá đặc biệt. Giá trị kinh tế đầy đủ
bao gồm: giá cung cấp tính đủ cho việc quản lý nguồn nước, chi phí vận hành và
bảo dưỡng, giá đầu tư cơ bản, chi phí cơ hội và yếu tố kinh tế khác (ngoại lai) nảy
sinh do sự thay đổi các hoạt động kinh tế của những ngành chịu ảnh hưởng gián
tiếp. Chỉ trên cơ sở nhận thức như vậy nước mới được sử dụng tiết kiệm.
3.1.4. Tham gia của cộng đồng


Thực hiện theo phương châm nhà nước và nhân dân cùng làm, sử dụng hiệu
quả nguồn lực của nhà nước, đồng thời huy động mọi nguồn lực của cộng đồng,
của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước.
Trồng và bảo vệ rừng đầu nguồn: Nâng tỷ lệ che phủ rừng lên 57% vào năm
2017, khoảng 59% vào năm 2020.
Tuyên truyền giáo dục mọi người dân sử dụng nước tiết kiệm nước; Tăng
cường và nâng cao trình độ quản lý và khai thác.
3.1.5. Củng cố tổ chức quản lý ngành nước
Căn cứ vào đặc điểm của tài nguyên nước và các công cụ quản lý để sắp xếp
bộ máy quản lý nhà nước theo hướng tập trung chức năng, nhiệm vụ về quản lý
ngành nước trong một cơ quan quản lý nhà nước.
Các nội dung quản lý tài nguyên nước bao gồm quản lý số lượng, chất lượng
nước; quản lý khai thác các mặt lợi, phòng chống và hạn chế các mặt hại của
nước; phát triển, khai thác và bảo vệ nguồn nước ... sẽ là sai lầm nếu phân chia
nhiều cơ quan để quản lý từng nội dung của tài nguyên nước. Điều này sẽ xảy ra
có những việc nhiều cơ quan cùng làm dẫn đến chồng chéo và nhiều việc lại bỏ
sót.

KẾT LUẬN
Trong chiến lược phát triển Tài nguyên nước, Đắk Nông được đánh giá là

một trong những tỉnh mất cấn đối nhất trong quan hệ cung - cầu về nước đặc biệt
trong những tháng mùa khô. Quản lý tổng hợp tài nguyên nước, sử dụng nước tiết
kiệm, hiệu quả, phòng chống hạn hán, lũ lụt và giảm thiểu thiệt hại do hạn hán, lũ


lụt gây ra là một nhiệm vụ vừa cấp bách vừa lâu dài đối với Tây Nguyên. Nếu
không quyết liệt thực hiện đồng bộ các giải pháp công trình và phi công trình,
trong đó đặc biệt là công tác quản trị ngành nước để thống nhất quản lý theo
nguyên tắc công trình phục vụ đa mục tiêu, lấy lưu vực sông làm đơn vị, quản lý
ngành nước, tập trung về một đầu mối thì những mâu thuẫn, xung đột trong khai
thác và sử dụng nước ở Tây Nguyên sẽ ngày càng phức tạp. Trong điều kiện biến
đổi khí hậu toàn cầu với xu thế cực đoan của thời tiết, khí hậu tình hình sẽ ngày
càng gay gắt hơn.
Kinh nghiệm trong khai thác sử dụng nước những nước tiên tiến luôn xuất
phát từ những đặc điểm địa lý, tự nhiên, kinh tế xã hội, trình độ khoa học công
nghệ và truyền thống của từng nước theo những nguyên tắc chung.
Thực tế cuộc sống và những kinh nghiệm quốc tế là bài học quý giá để chúng
ta tham khảo, vận dụng vào điều kiện cụ thể của Đăk Nông nhằm xây dựng được
một hệ thống các giải pháp công trình và phi công trình nhằm phát triển và bảo vệ
tài nguyên nước, khai thác và sử dụng hiệu quả tài nguyên nước, hạn chế những
mâu thuẫn giữa các ngành, các địa phương phục vụ phát triển bền vững kinh tế xã hội ở tỉnh Đắk Nông và khu vực Tây Nguyên.

KIẾN NGHỊ
1.Tỉnh Đắk Nông cần sớm kiện toàn các cơ quan chức năng về quản lý tài
nguyên nước đủ mạnh, sớm có quy hoạch khai thác tổng hợp các lưu vực sông
trên địa bàn tỉnh.
2. Phải nhanh chóng xây dựng chiến lược về nước, lập quy hoạch, kế hoạch
khai thác, sử dụng, bảo vệ phát triển bền vững các nguồn nước.
3. Các tổ chức bộ máy về quản lý nước phải được sắp xếp, tổ chức sao cho
không chồng chéo lẫn nhau như hiện nay, các cơ quan, ngành, đoàn thể ở địa

phương phải có sự phối hợp nhịp nhàng để quản lý và bảo vệ tài nguyên nước.
4. Tăng cường công tác giao dục, đào tạo nhằm nâng cao ý thức trách
nhiệm của mỗi công dân về bảo vệ tài nguyên nước và các cán bộ chuyên ngành
được bồi dưỡng, nâng cao hơn nữa kiến thức về tài nguyên nước, pháp luật, bảo
vệ và quản lý nước.
5. Cần tổ chức tuyên truyền thông qua các hệ thông truyền thông đại chúng
vè công tác bảo vệ môi trường, phát triển tài nguyên nước gắn liền với yêú tố
chăm sóc sức khoẻ cộng đồng.



×