Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

Quan điểm về phát triển kinh tế bền vững

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (124.51 KB, 11 trang )

Đề tài: Quan điểm của nhóm về việc phát triển bền vững gắn liền với bảo vệ
môi trường. Liên hệ thực tế.
Mục lục
Contents

I.
1.

Quan điểm của nhóm về phát triển bền vững gắn với bảo vệ môi
trường
Một số khái niệm

Trong báo cáo “ Tương lai chung của chúng ta” của Hội đồng thế giới về môi
trường và phát triển (WCED) của Liên Hợp Quốc, “ phát triển bền vững ” được
định nghĩa là sự phát triển đáp ứng được những nhu cầu ở hiện tại nhưng không
gây trở ngại cho đáp ứng nhu cầu của thế hệ mai sau.
Tuy nhiên, trong nội dung của bài thuyết trình này, nhóm chỉ xin đề cập tới một
khía cạnh của phát triển bền vững đó là phát triển kinh tế bền vững.
Phát triển kinh tế là quá trình lớn lên, tăng tiến mọi mặt của nền kinh tế. Nó
bao gồm sự tăng trưởng kinh tế và đồng thời có sự hoàn chỉnh về mặt cơ cấu, thể
chế kinh tế, chất lượng cuộc sống.
2.

Mối quan hệ giữa phát triển kinh tế bền vững với bảo vệ môi trường

Trong phần này, chúng ta đi trả lời cho câu hỏi, vì sao phải phát triển bền vững
gắn liền với bảo vệ môi trường

Trang 1



Giữa môi trường và sự phát triển có mối quan hệ chặt chẽ: Môi trường tự
nhiên là điều kiện cho nền kinh tế phát triển, còn kinh tế phát triển là cơ sở tạo
nên các biến đổi của môi trường. Cụ thể như sau:
2.1. Tác động của phát triển kinh tế tới môi trường
* Tác động tích cực
Thứ nhất, tự tăng trưởng kinh tế trên cơ sở áp dụng những thành tựu khoa
học, kỹ thuật và công nghệ hiện đại vào sản xuất đã phần nào đó loại trừ được
những hậu quả không mong muốn do sự tác động không kiểm soát được của con
người gây ra cho tự nhiên.
Thứ hai, phát triển kinh tế sẽ tạo điều kiện vật chất cho việc thực hiện các
hoạt động động bảo vệ môi trường. Một số lĩnh vực kinh doanh, như hoạt động
nhập khẩu và sản xuất thiết bị phục vụ công tác bảo vệ môi trường, có tác động
tích cực cho việc giải quyết các vấn đề môi trường. Ví dụ như sự phát triển của
công nghệ sinh học và gia tăng thương mại các sản phẩm của nó sẽ góp phần tích
cực giúp làm giảm áp lực lên khai thác và sử dụng các sản phẩm có nguồn gốc
thiên nhiên.
Thứ ba, việc phát triển ngành công nghiệp tái chế chất thải góp phần cải
thiện chất lượng môi trường và giải quyết tình trạng ô nhiễm môi trường do chất
thải.
*Tác động tiêu cực
Thứ nhất, hoạt động kinh tế phát triển làm tăng nhu cầu khai thác các nguồn
tài nguyên thiên nhiên.. Việc khai thác quá mức tài nguyên thiên nhiên để đáp ứng
nhu cầu ngày càng cao của hoạt động sản xuất, kinh doanh có thể tạo ra những
ảnh hưởng bất lợi cho môi trường. Bên cạnh đó, với các hệ thống dây chuyền
công nghệ cũ thì việc sử dụng kém hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên là
một hệ quả tất yếu.
Thứ hai, Hoạt động sản xuất, kinh doanh phát triển cũng làm phát sinh
nhiều yếu tố ảnh hưởng tới môi trường, nhất là vấn đề chất thải. Lượng chất thải
công nghiệp này dễ gây suy thoái, ô nhiễm môi trường xung quanh như môi
trường đất, môi trường nước, ảnh hưởng lớn tới sức khỏe của con người.

Thứ ba, hoạt động kinh doanh trong hội nhập kinh tế quốc tế có thể làm
phát sinh những vấn đề môi trường thông qua hoạt động nhập khẩu những sản
phẩm hàng hóa không thân thiện với môi trường vào Việt Nam, trong đó có thể là
những chất thải độc hại.
Trang 2


2.2. Tác động của môi trường tới phát triển kinh tế
* Tác động tích cực
Thứ nhất, các thành phần môi trường, đặc biệt là các nguồn tài nguyên, là
một trong những điều kiện để phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh. Các
nguồn tài nguyên đó là nguyên liệu phục vụ hoạt động sản xuất. Tùy vào nguồn
tài nguyên ở từng vùng mà ở đó sẽ phát triển những hoạt động sản xuất kinh
doanh khác nhau. Chẳng hạn như ở Quảng Ninh, ngành công nghiệp khai thác
than phát triển bởi đây là nơi có nhiều mỏ than với trữ lượng lớn...
Thứ hai, chất lượng môi trường phù hợp sẽ bảo đảm cho hoạt động kinh
doanh ổn định và bền vững thông qua sự ổn định về chất lượng sức lao động, chất
lượng nguồn nguyên, nhiên, vật liệu.
* Tác động tiêu cực
Thứ nhất, chất lượng môi trường có thể làm phát sinh những chi phí cho
hoạt động sản xuất, kinh doanh thông qua những vấn đề liên quan đến sức lao
động, chi phí ngoại ứng đối với nguồn nguyên, vật liệu và làm tăng giá thành sản
phẩm từ đó làm giảm khả năng cạnh tranh.
Thứ hai, chất lượng môi trường không bảo đảm sẽ ảnh hưởng tới tính bền
vững trong hoạt động kinh doanh. Những bất ổn này có thể là sự bất ổn về nguồn
cung cho sản xuất kinh doanh, những bất ổn phát sinh từ thiệt hại do ô nhiễm môi
trường gây ra cho các chủ thể kinh doanh.
Tóm lại, giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường tự nhiên vừa có sự
thống nhất, vừa có sự mâu thuẫn. Sự thống nhất và mâu thuẫn đó đều thể hiện ở
nền sản xuất xã hội. Con người không ngừng sản xuất ra của cải vật chất. Mọi của

cải vật chất mà con người sản xuất ra xét đến cùng bằng cách này hay cách khác
đều lấy vật liệu từ tự nhiên.
3.

Thực trạng phát triển kinh tế bền vững và vấn đề môi trường ở Việt
Nam trong những năm vừa qua

Tính đến hết tháng 7/2015, cả nước có 299 KCN được thành lập với tổng
diện tích đất tự nhiên gần 84 nghìn ha, trong đó diện tích đất công nghiệp có thể
cho thuê đạt 56 nghìn ha, chiếm khoảng 66% tổng diện tích đất tự nhiên, trong đó
212 KCN đã đi vào hoạt động với tổng diện tích đất tự nhiên 60 nghìn ha và 87
KCN đang trong giai đoạn đền bù giải phóng mặt bằng và xây dựng cơ bản với
tổng diện tích đất tự nhiên 24 nghìn ha. Tổng diện tích đất công nghiệp đã cho
thuê đạt trên 26 nghìn ha, tỷ lệ lấp đầy 48%.
Trang 3


Hình thành mạng lưới các KCN, khu kinh tế (KKT) đã thúc đẩy sản xuất
công nghiệp, dịch vụ phát triển, góp phần thúc đẩy tăng trưởng chung của cả nền
kinh tế, tạo kim ngạch xuất khẩu gần 20% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước.
Nhiều khu công nghiệp đã chú ý đến việc trồng cây để bảo vệ môi trường,
xây dựng các công trình xử lý chất thải, khí thải, nước thải…góp phần tích cực
vào việc bảo môi trường tại các khu công nghiệp. Tuy vậy, sự bất cập trong quy
hoạch xây dựng các khu công nghiệp là nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường các
khu công nghiệp ở nước ta hiện nay.
Trong những năm vừa qua, đã có rất nhiều vụ việc nổi cộm của các Công ty
như Vedan, Hyundai Vinashin hoạt động có quy trình xả thải vi phạm, trái phép,
ảnh hưởng nghiêm trọng tới môi trường tự nhiên và đời sống người dân xung
quanh. Dù đã được cư quan chức năng xử lý, song dấu hiệu các công ty vi phạm,
gây ô nhiễm môi trường vẫn không có dấu hiệu suy giảm.

Chỉ trong 6 tháng đầu năm 2016, cả nước đã có hơn 20 vụ ô nhiễm môi
trường gây bức xúc dư luận và có 225 quyết định xử phạt vi phạm hành chính với
tổng số tiền trên 30 tỷ đồng… Ngày 21/7, phát biểu tại hội nghị sơ kết công tác 6
tháng đầu năm 2016 của Tổng Cục Môi trường, Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và
Môi trường Võ Tuấn Nhân nhấn mạnh, ô nhiễm môi trường đang có xu hướng gia
tăng, đe dọa sự phát triển bền vững của đất nước.
Có thể kể đến như sự cố vỡ hồ chứa bùn thải của nhà máy chì, kẽm của Công
ty TNHH CKC ở Cao Bằng ngày 5/1/2016; các sự cố cá chết xảy ra tại một số
tỉnh thành như Đồng Nai, Thanh Hóa, Hà Nội, đặc biệt là sự cố môi trường xảy
ra tại 4 tỉnh miền Trung trong tháng 4 và tháng 6; vấn đề ô nhiễm tại Nhà máy
nhiệt điện Vĩnh Tân tại Bình Thuận; vấn đề khiếu kiện liên quan đến hoạt động
khai thác khoáng sản của Công ty Núi Pháo tại tỉnh Thái Nguyên; Công ty TNHH
Nhà nước MTV xử lý và chế biến chất thải Phú Thọ xả thải gây ô nhiễm; nước
mưa chảy tràn của Nhà máy sản xuất quặng đồng An Phú gây ô nhiễm môi
trường tại tỉnh Hòa Bình; Công ty TNHH Hapeco Hải Âu xả nước thải ra sông
Lạch Tray (Hải Phòng) gây ô nhiễm; Công ty CP Tập đoàn Khoáng sản Á Cường
xả trực tiếp nước thải không qua xử lý ra sông Cẩm Đàn (Bắc Giang)…. Tuy
nhiên, vụ việc nghiêm trọng và được biết tới nhiều nhất chính là việc Công ty
TNHH Gang thép Hưng nghiệp Formosa xả thải trái phép ra vùng biển miền
Trung
II.

Liên hệ thực tế với sự việc nổi cộm ở Việt Nam năm 2016

Có thể nói năm 2016 nổi lên với rất nhiều những bất cập về ô nhiễm môi
trường. Trong đó, nghiêm trọng nhất là sự việc cá chết hang loạt tại vùng biển
Trang 4


Vũng Áng( Hà Tĩnh) và lan ra các vùng biển Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa ThiênHuế. Nguyên nhân gây ra thảm họa ô nhiễm môi trường này được xác định là do

nguồn thải lớn từ tổ hợp nhà máy của Công ty TNHH gang thép Hưng Nghiệp
Formosa Hà Tĩnh chứa độc tố tạo thành một dạng phức hợp, di chuyển vào Nam
làm hải sản ở tầng đáy biển chết hang loạt.
1.

Giới thiệu ngắn gọn về Công ty TNHH Gang thép Hưng nghiệp Formosa
(Formosa Hà Tĩnh).

Tập đoàn Formosa được thành lập năm 1954, là một tổ hợp công nghiệp đa
ngành của Đài Loan. Năm 2008, Formosa đã quyết định rót vốn 28.5 tỷ đô đầu tư
Dự án Khu liên hợp gang - thép và cảng Sơn Dương tại Khu kinh tế Vũng Áng
thông qua việc thành lập Công ty TNHH Gang thép Hưng nghiệp Formosa
(Formosa Hà Tĩnh).
Dự án này khởi công từ tháng 7.2008 với tổng diện tích hơn 3.300 ha, bao gồm
cả diện tích mặt biển Dự án này có tổng diện tích hơn 3.300 hecta, bao gồm cả
diện tích mặt biển tại cảng Sơn Dương với thời gian thuê đất là 70 năm.
Theo Hợp đồng cho thuê đất đã ký giữa Ban quản lý Khu kinh tế Vũng Áng và
Công ty TNHH Gang thép Hưng Nghiệp Formosa Hà Tĩnh, thời gian cho thuê đất
lên đến 70 năm và tiền thuê đất được miễn trong 15 năm
2.

Diễn biến sự việc

Ngày 20-4, khu vực bãi biển Bình An (xã Lộc Vĩnh, huyện Phú Lộc, Thừa
Thiên - Huế) nhiều người dân đổ xô ra biển lượm cá chết dạt, trôi lềnh bềnh trên
bờ biển. Hiện tượng cá chết lan ra Huế.
Thứ trưởng Bộ Khoa học và công nghệ Phạm Công Tạc cho biết đến ngày 264, các kết quả phân tích cho thấy đã đủ căn cứ khoa học để loại trừ hầu hết các
nhóm nguyên nhân tự nhiên từ địa chấn, sốc nhiệt, dịch bệnh.
Ngày 1-5, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc trực tiếp vào Hà Tĩnh chỉ đạo phải
tìm cho ra nguyên nhân cá chết.

Việc điều tra chia ra làm 3 nhóm triển khai: Nhóm thứ nhất là xác định nguyên
nhân, hình dung giải thích cái gì đang diễn ra trên biển 4 tỉnh miền Trung, tìm ra
cơ chế gì đang gây ra hiện tượng hải sản và sinh vật chết hàng loạt? Điều này rất
khó, phức tạp.
Nhóm thứ hai là xác định nguồn gây ô nhiễm. Hai nhóm độc lập nhưng có
quan hệ biện chứng, có mối liên hệ chặt chẽ.

Trang 5


Riêng ở nhóm 1, các cơ quan chức năng đã tập trung 100 nhà khoa học trong
và ngoài nước, trong các lĩnh vực sinh học, hóa học, vũ trụ học, hải dương học…
tiến hành nhiều việc liên quan nhiều đến các mẫu cá, nước, mẫu trầm tích, sinh vật
phù du…
Đồng thời thực hiện nhiều hoạt động khác nhau xác định từ các hình ảnh vệ
tinh bắt đầu diễn biến sự việc, hồi tố lại các sự việc từ trước khi phát hiện ra ô
nhiễm. Nhiều cán bộ khoa học căn cứ cả những hình ảnh vệ tinh, xuống biển tìm
theo các dấu vết ô nhiễm để xác định bản chất vấn đề là gì…
Các nhà khoa học, nhân viên đã lao động vất vả nguy hiểm, vẫn thận trọng,
phân tích hàng nghìn thí nghiệm khác nhau, cả các mẫu thí nghiêm độc tố vài tuần
có moi hiệu quả. Ngoài ra lấy ý kiến các nhà khoa học, phòng thí nghiệm để đối
chứng, nhiều thông số cần kiểm chứng bảo đảm tính pháp lý khi giải quyết.
Ngày 9-5, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc ký quyết định hỗ trợ khẩn cấp cho
người dân tại các tỉnh Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên - Huế bị
ảnh hưởng do cá chết bất thường.
Ngày 2-6, Bộ trưởng - Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Mai Tiến Dũng cho
biết đã tìm ra nguyên nhân cá chết nhưng chưa công bố vì chờ phản biện.
Theo đó, Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra nguồn thải lớn xuất phát từ khu vực
Vũng Áng, tỉnh Hà Tĩnh, chứa độc tố như Phenol, Xyanua, kết hợp với Hydroxit
Sắt, tạo thành một dạng phức hỗn hợp (Mixel), có tỉ trọng lớn hơn nước biển, theo

dòng hải lưu di chuyển theo hướng Bắc-Nam từ Hà Tĩnh đến Thừa Thiên-Huế là
nguyên nhân làm hải sản và sinh vật biển chết hàng loạt, nhất là ở tầng đáy.
Bản thân các hợp chất đó có nhu cầu hút ôxy, nên đi đến đâu trên biển thì lấy
ôxy đến đó, góp phần tạo độc tố gây ra cá chết. Toàn bộ sự việc này diễn ra vẫn
còn dấu vết.
Đoàn Khảo sát đã rà soát hàng trăm cơ sở có nguồn thải ra khu vực biển miền
Trung, tập trung vào 3 đối tượng như: Công ty TNHH Gang thép Hưng Nghiệp
Formosa Hà Tĩnh (FHS), Nhà máy nhiệt điện Vũng Áng, các khu công nghiệp Hà
Tĩnh.
Quá trình kiểm tra, đoàn kiểm tra đã hồi tố, thực hiện các phương pháp kiểm
toán chất thải, kiểm toán năng lượng, phát hiện ra nhiều sai sót và có bằng
chứng thuyết phục để nhà đầu tư chấp nhận nguồn thải từ lò luyện cốc Formosa.
Nhà đầu tư này phải thừa nhận quá trình vận hành thử nghiệm của FHS đã dẫn
đến nước thải từ Công ty xả ra biển có chứa các độc tố Phenol, Xyanua, Hydroxit
Sắt vượt quá mức cho phép.
Trang 6


Ngày 30-6, Chính phủ tổ chức họp báo công bố nguyên nhân cá chết là do
nước thải từ Fomosa. Công ty Formosa đã thừa nhận, xin lỗi nhân dân Việt
Nam và cam kết bồi thường 500 triệu USD để khắc phục hậu quả.
*Thiệt hại
Về kinh tế, riêng số hải sản chết dạt vào bờ được đánh giá khoảng 100 tấn.
Tuy nhiên, lâu dài, do các rạn san hô, phù du sinh vật cũng chết nên có nguy cơ
làm gián đoạn chuỗi thức ăn biển, khiến suy giảm đa dạng sinh học và nguồn lợi
thủy sản khu vực, ảnh hưởng đến sinh kế lâu dài của dân.
“Hệ sinh thái biển bị ảnh hưởng nghiêm trọng” - thừa nhận thực tế trên, Chính
phủ xác định có tới trên 17.600 tàu cá và gần 41.000 người đã bị ảnh hưởng trực
tiếp. Trên 176.000 người phụ thuộc bị ảnh hưởng theo.
Do không thể đánh bắt trong phạm vi từ bờ đến 20 hải lý, có tới 90% tàu lắp

máy công suất thấp và gần 4.000 tàu không lắp máy đã phải nằm bờ. Sản lượng
khai thác ven bờ thiệt hại khoảng 1.600 tấn/tháng.
Với hoạt động nuôi trồng thủy sản, có 9 triệu tôm giống bị chết, hàng ngàn
lồng nuôi cá cũng bị thiệt hại.
Hoạt động du lịch thì không chỉ gây thiệt hại cho doanh nghiệp ở 4 tỉnh miền
Trung vì theo Chính phủ, nhiều doanh nghiệp du lịch ở Hà Nội và TP.HCM cũng
bị thiệt hại khi khách dự định đến 4 tỉnh miền Trung hủy tour, khiến công suất sử
dụng phòng tại bốn tỉnh trên mất 40-50%.. Riêng Hà Tĩnh sau sự cố, công suất
phòng khách sạn chỉ còn 10-20%
3.

Giải quyết của Chính phủ trong vi phạm của Formosa

Formosa phải chuyển toàn bộ số tiền 500 triệu đô la Mỹ cho Chính phủ Việt
Nam để sử dụng khắc phục hậu quả, trước hết là bồi thường cho người dân bị thiệt
hại và hỗ trợ công ăn việc làm của họ
Formosa phải đệ trình lên Chính phủ hai văn kiện: Một là Phương án khắc
phục thiệt hại và khôi phục môi trường thiên nhiên, môi trường sống của người
dân Việt Nam ở bốn tỉnh miền Trung bị thiệt hại trở về trạng thái như trước khi
xảy ra sự cố; hai là Phương án công nghệ và kỹ thuật chứng minh họ đã có những
thay đổi về quy trình và thiết bị vận hành nhà máy để bảo đảm hai việc: xử lý toàn
bộ chất thải (rắn, lỏng, hơi, bức xạ) bảo đảm đạt tiêu chuẩn và yêu cầu của luật
pháp về môi trường của Việt Nam và quốc tế trước khi thải ra môi trường; xây

Trang 7


dựng hệ thống kỹ thuật và thiết bị quan trắc, phòng ngừa và xử lý sự cố đạt tiêu
chuẩn theo pháp luật Việt Nam và quốc tế
Chính phủ lên kế hoạch cụ thể nhằm hướng dẫn và giám sát Formosa thực hiện

các cam kết của họ. Trước hết triển khai việc khắc phục thiệt hại và khôi phục môi
trường, tiếp theo là sửa đổi công nghệ và thiết bị liên quan đến việc phòng chống
ô nhiễm môi trường; chỉ đạo các bộ, ngành và chính quyền địa phương hữu quan
xây dựng các kế hoạch và phương án bồi thường thiệt hại cho người dân, giúp dân
khôi phục, ổn định cuộc sống, việc làm, đồng thời tiếp tục phát triển kinh tế ở
những địa phương bị thiệt hại vừa qua.
Chính phủ thực hiện rà soát, thanh tra những sai phạm, khuyết điểm, nếu có,
trong việc cấp phép đầu tư và quản lý dự án đầu tư của Formosa vừa qua, xử lý
nghiêm những cán bộ, công chức do thiếu trách nhiệm hay có tiêu cực mà đã góp
phần gây nên thảm họa môi trường
III.
1.

Quan điểm của nhóm
Về cách giải quyết của chính phủ trong vụ việc Formosa

Thứ nhất, về số tiền đền bù 500 triệu USD
Dù chưa có (và cũng rất khó) để có thể thống kê chính xác số tiền thiệt hại mà
Formosa gây ra, nhưng theo ước tính của ông Nguyễn Hữu Hoài, Chủ tịch UBND
tỉnh Quảng Bình thì riêng thiệt hại tại tỉnh này đã lên đến con số 4900 tỷ đồng. Đó
mới chỉ là con số ước tính của 1 trong 4 tỉnh miền Trung chịu ảnh hưởng từ việc
xả thải sai quy định của Formosa. Nhìn lại những hậu quả mà Formosa gây ra cho
môi trường cũng như cuộc sống của người dân 4 tỉnh miền Trung thì 500 triệu đô
la đó chỉ là một góc của quá trình khôi phục sự cố. Thêm vào đó, số tiền 500 triệu
USD được tuyên bố dùng để bồi thường thiệt hại về kinh tế cho người dân, hỗ trợ
chuyển đổi nghề nghiệp, bồi thường xử lý ô nhiễm, phục hồi môi trường biển tại
bốn tỉnh miền Trung. Tuy nhiên, nhìn ở một góc khác có thế thấy, 500 triệu USD
là mức đền bù kỷ lục mà một doanh nghiệp nước ngoài phải nộp phạt cho hành vi
vi phạm pháp luật và lợi ích đất nước ở Việt Nam. Bên cạnh việc quan tâm số tiền
nộp phạt 500 triệu USD “nhiều hay ít”, phải chăng điều chúng ta cần quan tâm

hơn chính là: qua vụ việc này, Chính phủ Việt Nam đã phát thông điệp cứng rắn
và rõ ràng đối với các doanh nghiệp nước ngoài rằng, họ buộc phải quan tâm và
tuân thủ chính sách phát triển bền vững của Việt Nam khi vào nước ta đầu tư.
Thứ hai, về việc xử lý những cán bộ, công chức vi phạm việc quản lý môi
trường

Trang 8


Cho đến nay, việc xử lý vi phạm của cán bộ, công chức có liên quan trong vụ
việc của Formosa vẫn chỉ dừng lại ở 9 dòng trong báo cáo trình Quốc hội. Tuy
nhiên, một sự việc nghiêm trọng như vậy, sự minh bạch trong thông tin là vô cùng
cần thiết, cho nên, theo quan điểm của nhóm, việc xử lý các cán bộ, công chức có
liên quan ở đây còn chưa triệt để và chưa đủ sức thuyết phục.
Thứ ba, về việc hướng dẫn và giám sát Formosa thực hiện các cam kết của họ
Chính phủ mới chỉ đưa ra những giải pháp khá chung chung mà không nêu rõ
hướng dẫn thế nào? Giám sát ra sao. Do đó, rất cần sự vào cuộc, giám sát sát sao
từ phía chính phủ và cả từ người dân bởi nếu những biện pháp giám sát này vẫn
lỏng lẻo như trước, không chắc rằng Formosa sẽ không còn tái phạm, hay sử dụng
những thủ đoạn tinh vi hơn trước để thực hiện những hành vi vi phạm môi trường.
Kết luận, các giải pháp của Chính phủ trong vấn đề Formosa dường như vẫn
chưa hoàn toàn thỏa đáng. Tuy vậy, ta vẫn nên hoan nghênh những nỗ lực của
Chính phủ trong việc xử lý sai phạm cũng như sự quan tâm kịp thời đến đời sống
của nhân dân 4 tỉnh miền Trung. Hy vọng trong tương lai gần, những kẻ liên quan
trong vụ việc Formosa sẽ bị xử lý nghiêm như đã tuyên bố, đồng thời, sẽ có thêm
nhiều chế tài cứng rắn hơn trong việc bảo vệ môi trường cũng như xử lý vi phạm
trong việc gây ô nhiễm môi trường để không còn xuất hiện những Formosa thứ 2,
thứ 3 nào nữa.
2.


Về vấn đề phát triển bền vững gắn với bảo vệ môi trường

Chúng ta đều biết rằng, phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường là hai việc vô
cùng quan trọng. Trong quá trình tăng trưởng kinh tế, một mặt chúng ta phải đảm
bảo cho sự phát triển, gia tăng đầu tư cho tăng trưởng kinh tế nhưng, đồng thời,
cũng phải chi phí cho vấn đề bảo vệ môi trường.
Tuy nhiên, việc kết hợp 2 khía cạnh phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường lại
là một việc làm không hề dễ dàng. , nhất là khi nước ta vẫn còn đang là nước đang
phát triển, công nghệ sản xuất ở Việt nam hiện nay so với thế giới phần lớn là
công nghệ cũ, tiêu hao năng lượng lớn, nhận thức của người dân và đạo đức kinh
doanh của nhiều doanh nghiệp còn thấp => đây là bài toán khó, và là vấn đề dài
hạn mới có thể nhìn thấy kết quả chính xác.
Do đó, theo quan điểm của nhóm,nếu buộc phải ưu tiên một khía cạnh thì
nhóm sẽ chọn phát triển kinh tế trước. Bởi 3 lí do sau:
Hiện tại, trình độ khoa học kĩ thuật của chúng ta còn chưa cao, dẫn đến các
máy móc, thiết bị còn chưa hiện đại, tiêu hao nhiều năng lượng. Bên cạnh đó, quy
trình xử lý các chất thải còn hạn chế, chưa thực sự hiệu quả. Như vậy, khi chúng ta
Trang 9


tập trung nguồn lực phát triển kinh tế hơn 1 chút, sẽ tạo ra nhiều giá trị hơn. Kéo
theo đó là sự phát triển của công nghệ, kĩ thuật, từ đó có điều kiện hơn để cải tạo
môi trường
Khi nền kinh tế phát triển thì đồng thời nhận thức của người dân đc nâng cao
hơn. Đồng thời, khi đạt đến một trình độ phát triển nào đó, các doanh nghiệp sẽ
nhận ra tầm quan trọng của môi trường, từ đó, có những biện pháp bảo vệ môi
trường hợp lý hơn
Khi kinh tế phát triển thì doanh nghiệp sẽ hướng đến những cái lợi ích lớn
hơn, bền vững và lâu dài hơn.. Dẫn chứng: Các doanh nghiệp gây ảnh đến môi
trường hầu hết là do muốn tăng nhiều lãi, bớt đi phần chi phí vào việc xây dựng

các nhà máy thải.Như vậy, dù chúng ta có tìm mọi cách ngăn chặn những ảnh
hương tới môi trường mà vẫn không làm phát triển nền kinh tế mạnh thì DN lại
tìm mọi cách khác để tác động vào môi trường.
3.

Kết luận và khuyến nghị một số giải pháp

Phát triển kinh tế và vấn đề môi trường có lẽ là vấn đề nan giải mà bất cứ quốc
gia đang phát triển nào cũng gặp phải, trong đó có Việt Nam. Khi mà ngành côn g
nghiệp của chúng ta còn chủ yếu là công nghiệp khai thác, phụ thuộc rất lớn vào
tài nguyên sẵn có. Tuy nhiên, nguồn tài nguyên thiên nhiên là có hạn. Do đó,để
bảo vệ nguồn tài nguyên này, việc khai thác cần đi liền với bảo vệ, tránh hiện
tượng khai thác tràn lan, bừa bãi. Bên cạnh đó, cần hoàn thiện cơ chế và thường
xuyên rà soát quá trình xả thải tại các nhà máy, tránh xảy ra các sự cố nghiêm
trọng về môi trường.
Theo ý kiến cá nhân của nhóm 4, để gắn phát triển bền vững với bảo vệ môi
trường là một điều rất khó, song, cũng không phải là không thể thực hiện. Việc
này đòi hỏi sự phối hợp từ phía nhà nước và các doanh nghiệp. Trước tiên nhà
nước cần có những biện pháp quản lý sát sao,tránh hiện tượng ô nhiễm lan rộng
mới phát hiện ra, dẫn tới thiệt hại là vô cùng lớn.Bên cạnh đó, cần trang bị và áp
dụng qui trình ứng phó với thảm họa tiên tiến để giải quyết hậu quả một cách
nhanh nhất.Về phía các doanh nghiệp cũng cần có ý thức trong việc bảo vệ môi
trường sống xung quanh

IV.
1.

Nguồn tài liệu tham khảo
“Phát triển kinh tế”(2016), Wikipedia, truy cập ngày 14 tháng 2 năm 2017
từ ( />

Trang 10


2.

“Phát triển bền vững”(2016), Wikipedia, truy cập ngày 14 tháng 2 năm
21017 từ ( />%E1%BB%81n_v%E1%BB%AFng).

3. Ngoc Tuanz(2016), “[infoGraphics] Các con số đáng chú ý về
Formosa”,Đầu tư chứng khoán, truy cập lần cuối ngày 12 tháng 2 năm
2017, từ />4. C.K.V(2016), “Toàn cảnh vụ cá chết hàng loạt ở miền Trung”, Tuổi trẻ
Online, truy cập lần cuối ngày 12 tháng 2 năm 2017,từ
( />5.

Nguyễn Thanh Hải(2012), “ Doanh nghiệp với vấn đề bảo vệ môi trường”,
VnExpress, truy cập lần cuối ngày 13 tháng 2 năm 20167, từ(
/>
6.

Nhóm phóng viên(2016), “Làm cá chết hàng loạt, Formosa bồi thường 500
triệu USD”, zing.vn, truy cập lần cuối ngày 14 tháng 2 năm 2017 từ
( />
7. Nhóm PV(2016), “Họp báo Chính phủ chuyên đề tháng 6”, website Văn
phòng Chính phủ, truy cập lần cuối ngày 14 tháng 2 năm 2017, từ
( />
Trang 11




×