Tải bản đầy đủ (.doc) (7 trang)

Quá trình hình thành tỉnh Tây Ninh thời kỳ phong kiến, Pháp thuộc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (70.97 KB, 7 trang )

QUÁ TRÌNH THÀNH LẬP TỈNH TÂY NINH
THỜI KỲ PHONG KIẾN, PHÁP THUỘC
TS. Nguyễn Xuân Hoài
Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II
Tây Ninh – một trong những vùng đất địa đầu quan trọng của đất nước, đã
trải qua nhiều giai đoạn lịch sử khác nhau, gắn liền với quá trình mở cõi về phương
Nam của dân tộc. Trong lịch sử khẩn hoang vùng đất phía Nam, đứng trước thiên
nhiên hoang dã “con chim kêu phải sợ, con cá vùng phải kinh”, những lưu dân Việt
với nghị lực phi thường đã khai phá vùng đất mới thành nơi trù phú. Để đến năm
1698, Minh Vương Nguyễn Phúc Chu sai Thống Suất Nguyễn Hữu Cảnh vào Nam
kinh lược, chính thức xác lập đơn vị hành chính của Việt Nam tại vùng đất mới.
Trên cơ sở các vùng đất do lưu dân Việt khai phá, Nguyễn Hữu Cảnh “lấy đất
Nông Nại đặt làm phủ Gia Định, lập xứ Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng
dinh Trấn Biên; lập xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn: Mỗi
dinh đặt chức lưu thủ, cai bộ và ký lục để cai trị” (1). Sau khi đặt xong cơ sở hành
chánh, Nguyễn Hữu Cảnh chiêu mộ lưu dân nghèo khó, xiêu tán vào phủ Gia Định
lập nghiệp, làm cho dân cư ngày một đông đúc, phồn thịnh.
Năm 1744, chúa Nguyễn Phúc Khoát chính thức xưng vương, chia xứ Đàng
Trong làm 12 dinh. Theo đó phần đất phía Nam gồm 3 dinh và 1 trấn: dinh Trấn
Biên, dinh Phiên Trấn, dinh Long Hồ, trấn Hà Tiên. Năm 1788, sau khi củng cố
thành Gia Định chúa Nguyễn Phúc Ánh (Nguyễn Ánh) chọn vùng đất phía Nam
làm căn cứ lập nghiệp, gọi là Gia Định (2), chia ra làm bốn dinh: dinh Phiên Trấn,
dinh Trấn Biên, dinh Trấn Vĩnh, dinh Trấn Định. Theo sự phân chia đó, vùng đất
Tây Ninh ngày nay thuộc dinh Phiên Trấn, phủ Gia Định.
Năm 1802. sau khi lên ngôi lấy niên hiệu là Gia Long, đặt kinh đô ở Phú
Xuân (Huế), Nguyễn Ánh chính thức đổi dinh Phiên Trấn thành trấn Gia Định gồm
4 trấn, 4 phủ và 15 huyện, cộng thêm trấn Hà Tiên gồm 2 đạo và 2 huyện(3).
1

Trích “Gia Định thành thông chí”, Nhiều tác giả, 300 câu hỏi – 300 năm Sài Gòn – Thành phố Hồ Chí Minh, Nxb
Tp.HCM,


2
Đào Văn Hội, Lịch trình hành chánh Nam phần, 1961, vn.1528, TT LTQG II, tr.22
3
Đào Văn Hội, Lịch trình hành chánh Nam phần, 1961, vn.1528, TT LTQG II, tr.23

1


1

Trấn Phiên An (vùng Sài Gòn và Phủ Tân Bình
Bình Dương ngày nay)

4 huyện:
- Bình Dương
- Tân Long
- Phước Lộc

2

Trấn Biên Hòa

- Thuận An
Phủ Phước Long
4 huyện:
- Phước Chánh
- Bình An
- Long Thành

3


Trấn Vĩnh Tường

- Phước An
Phủ Kiến An
3 huyện:
- Kiến Đăng
- Kiến Hưng

4

Trấn Vĩnh Thanh

- Kiến Hòa
Phủ Định Viễn
4 huyện:
- Vĩnh Bình
- Vĩnh An
- Tân An

5

Trấn Hà Tiên

- Vĩnh Định
2 đạo, 2 huyện:
Đạo Long Xuyên
Huyện Long xuyên
Đạo Kiên Giang
Huyện Kiên Giang


Năm 1808, vua Gia Long tiếp tục phân địa giới Việt Nam làm 2 miền gọi là
Bắc thành và trấn Gia Định gọi là Gia Định thành, vùng Thừa – Thiên gọi là Kinh

2


kỳ(4). Về tổ chức hành chính, vua Gia Long đặt Gia Định thành dưới quyền cai trị
của một Tổng trấn. Ở 5 trấn thuộc hạt thì đặt các quan Lưu trấn hay quan Trấn thủ.
Dưới có Cai bạ và Ký lục coi việc cai trị trong trấn. Dưới trấn là các phủ, huyện có
các quan Tri phủ và Tri huyện. Tại vùng đất Tây Ninh, Gia Long cho thiết lập các
đạo Quang Hóa, Quản Phong, Thuận Thành đặt trực thuộc trấn Phiên An5.
Năm 1832 (năm Minh mang thứ 13), sau khi Tổng trấn Gia Định Lê Văn
Duyệt qua đời, vua Minh Mạng đổi trấn làm tỉnh, chia toàn Nam kỳ làm sáu tỉnh:
Gia Định (Phan Yên), Biên Hòa (Đồng Nai), Định Tưởng (Mỹ Tho), Vĩnh Long,
An Giang, Hà Tiên với 18 phủ, 43 huyện(6). Trong mỗi tỉnh, Minh Mạng đặt chức
Tổng đốc, Tuần phủ, Bố Chính sứ, Án Sát sứ và Lãnh binh để lo việc nội an và
quân sự. Dưới tỉnh có các cấp hành chánh theo thứ tự: phủ - huyện - tổng - làng.
Đối với Tây Ninh, “một dải địa phương thành Quang Hóa, tỉnh Gia Định,
giáp giới các phủ Tuy Lạp, Tầm Đồn, Kha Lâm và Bà Nam thuộc thành Trấn Tây
địa thế rất là xung yếu”7. Triều đình cho “đặt đạo Quang Hóa và các thủ sở
Thuận Thành, Quang Phong, Quang Phục, Quang Uy, Kiên Uy để coi giữ; các trại
Phiêm, Chàm quy phụ kể có hàng ngàn….”8.
Năm Bính Thân, Minh Mạng thứ 17 (1836), “Kinh lược sứ Trương Minh
Giảng và Trương Đăng Quế, thân đến tận nơi, xem thấy từ cầu Tây Huê ngoài tỉnh
thành thẳng đến 1 con đường lớn phủ Kha Lâm, khoảng giữa có đồn Xỉ Khê (tức
chỗ ở của Chương cơ Cố trước) đất rộng, phẳng mà màu mỡ, người Kinh, người
Phiên ở xen nhau, làm ăn cày cấy. Bên tả có sông nhỏ ăn thông với sông Quang
Hóa (sông này nguyên từ phủ Ba Nam mà chảy đến); bên hữu có con đường bộ, ăn
thông đến sông Đục (Trọc giang – tg) (thuộc thủ sở Quang Phong, giáp giới hạt

Biên Hòa), hình thể khá đẹp. Bọn Giảng bèn dâng sớ xin đặt phủ lỵ ở đó, rồi tùy
địa thế liên lạc nên chia 2 huyện lệ thuộc vào. Lại đặt 1 đồn bảo ở bên sông Đục
để làm thế ỷ giốc với thành Quang Hóa, trong có thể làm phên giậu giữ vững cho

4

Trung tâm Khoa học Xã hội Tp. HCM, Lược sử 300 năm Sài Gòn – Thành phố Hồ Chí Minh (1698-1998), Nxb
Trẻ, tr.38
5
Viện Sử học, Đại Nam thực lục, tập II, Nxb Giáo dục, tr.79
6
Đào Văn Hội, Lịch trình hành chánh Nam phần, 1961, vn.1528, TT LTQG II, tr.24
7
Viện Sử học, Đại Nam thực lục, tập IV, Nxb Giáo dục, tr.988
8
Viện Sử học, Đại Nam thực lục, tập IV, Nxb Giáo dục, tr.988

3


Gia Định, ngoài có thể tăng thêm thanh thế cho Trấn Tây” 9. Chuẩn tấu lời tâu của
đình thần, vua ban dụ: “Nay đổi đặt đồn Xỉ Khê làm huyện Tân Ninh; đạo Quang
Hóa làm huyện Quang Hóa, gọi thành Quang Hóa là huyện thành. Lại đặt phủ
Tây Ninh kiêm huyện Tân Ninh. Nhân cái đồn bảo cũ, chữa cao rộng thêm, để làm
thành phủ thành. Đổi sông Đục là sông Thanh Lưu, đặt đồn, bảo Thanh Lưu, cho
lệ thuộc và huyện Tân Ninh”10. Tiếp đó, vua Minh Mạng chuẩn y lời tấu của
Nguyễn Văn Trọng “lấy 25 xã dân Phiên cùng với 6 xã, thôn dân Kinh ở 2 huyện
Thuận An, Bình Dương tiếp cận huyện Tân Ninh, chia làm 2 tổng cho lệ thuộc
huyện Tân Ninh. Lấy 30 xã dân Phiên cùng với 8 thôn dân Kinh ở huyện Thuận
An, giáp gần đạo Quang Hóa, chia làm 2 tổng, cho lệ thuộc vào huyện Quang

Hóa. Tổng đặt 1 cai tổng, chọn dân Kinh người nào mẫn cán cho làm. Hiện số dân
Phiên là 1.224 người, gọp với 15 người trong đội Gia hóa, nguyên quán dân Phiên
thuộc trong tỉnh hạt, cứ 5 đinh tuyển 1 làm lính, gồm hơn 400 người, dồn làm 4
đội: Nhất, Nhị, Tam, Tứ cơ Gia hóa. Đội, đặt 1 suốt đội, 4 đội trưởng và ngoại ủy
đội trưởng, 3 đội lệ thuộc phủ Tây Ninh, 1 đội lệ thuộc huyện Quang Hóa. Lại
phái thêm lính tỉnh đóng giữ ở phủ Tây Ninh 2 đội, ở huyện Quang Hóa 1 đội”11.
Năm 1859, vua Tự Đức một lần nữa có sự thay đổi địa giới hành chính vùng
đất Nam kỳ. Triều định chia Nam kỳ làm 3 quận, mỗi quận do một quan Tổng đốc
cai trị, dưới sự kiểm soát chung của quan Kinh lược. Theo đó, phủ Tây Ninh gồm 2
huyện Tân Ninh và Quang Hóa thuộc tỉnh Gia Định, quận Định Biên(12).
Ngày 2-2-1859, Rigault de Genouilly, chỉ huy quân Pháp tiến đánh Gia Định
và nhanh chóng chiếm được Nam bộ. Về hành chính, năm 1864, Đô đốc De la
Grandière chia miền Đông Nam kỳ làm 7 khu vực: Bà Rịa, Biên Hòa, Cần Giuộc,
Mỹ Tho, Sài Gòn – Chợ Lớn, Tân An – Gò Công và Tây Ninh. Ngày 9-11-1864,
Đô đốc De la Grandière chuyển chế độ hành chánh Nam kỳ từ quân sự sang dân sự
bằng việc thiết lập tòa “Thượng thơ” (Direction de L’Intérieur) cai quản 3 tỉnh
miền Đông Nam kỳ và thiết lập các Sở Tham biện (Inspection, còn gọi là hạt hoặc
tiểu khu) do các quan chức người Pháp cai trị. Năm 1865, có các Tham biện: Sài
9

Viện Sử học, Đại Nam thực lục, tập IV, Nxb Giáo dục, tr.988
Viện Sử học, Đại Nam thực lục, tập IV, Nxb Giáo dục, tr.989
11
Viện Sử học, Đại Nam thực lục, tập IV, Nxb Giáo dục, tr.989
12
Đào Văn Hội, Lịch trình hành chánh Nam phần, 1961, vn.1528, TT LTQG II, tr.24
10

4



Gòn, Chợ Lớn, Cần Guộc, Tây Ninh (gồm huyện Tân Ninh và Quang Hóa), Gò
Công, Tân An, Mỹ Tho, Cai Lậy, Biên Hòa, Thủ Dầu Một, Long Thành, Bảo
Chánh, Bà Rịa.
Năm 1867, chính quyền thực dân chia Nam kỳ làm 7 tỉnh với 24 Sở Tham
biện. Đối với Tây Ninh, chính quyền thực dân thiết lập hai Sở Tham biện:
Sở Tham biện Tây Ninh gồm châu thành Tây Ninh và huyện Tây Ninh;
Sợ Tham biện Quang Hóa gồm châu thành Trảng Bàng và hai huyện Quang
Hóa, Tân Ninh13.
Ngày 1-1-1868, thực dân Pháp đổi tên Sở Tham biện Quang Hóa thành Sở
Tham biện Trảng Bàng. Năm 1871, hai sở tham biện trên được sát nhập lại thành
Sở Tham biện Tây Ninh14.
Những năm sau đó, chính quyền thực dân nhiều lần thực hiện việc tách,
nhập và thay đổi về địa giới hành chính Tây Ninh. Năm 1871, Thống đốc Nam kỳ
quyết định tách xã Gia Lộc thuộc tổng Hàm Ninh Hạ, Tây Ninh thành hai xã Gia
Lộc và Lộc Hưng. Xã Lộc Hưng bao gồm phần đắt nằm giữa Suối Guy và sông Sài
Gòn15.
Năm 1872, Thống đốc Nam kỳ quyết định thành lập xã Phước Mi, thuộc
tổng Hạm Ninh Hạ (Tây Ninh)16. Và ngày 12-9-1872, ban hành quyết định sát nhập
các xã Long Ngân và Long Thuận thuộc tổng Giai Hòa thành xã Long Giang; các
xã Vinh Cu và Xuân Son thành xã Vinh Xuân, Khương Ninh và Khương Thạnh
thành Ninh Thạnh, Long Thạnh và Thanh Điền thành Long Tiên đặt thuộc tổng
Hòa Ninh17.
Năm 1876, Thống đốc Nam kỳ quyết định chia vùng đất Nam kỳ thành 4
Khu hành chính, do các Trưởng khu hành chính (Administrateur de la
circonscription) đứng đầu. Bên dưới, chính quyền thực dân vẫn duy trì các các Sở
Tham biện đặt dưới sự cai trị của quan Tham biện Vụ bản địa.

13


Đào Văn Hội, Lịch trình hành chánh Nam phần, 1961, vn.1528, TT LTQG II, tr.34
Đào Văn Hội, Lịch trình hành chánh Nam phần, 1961, vn.1528, TT LTQG II, tr.36
15
Quyết định số 761 ngày 21-10-1871 của Thống đốc Nam kỳ, hồ sơ IA 17/202, phông Phủ Thống đốc Nam kỳ
16
Quyết định của Thống đốc Nam kỳ năm 1872, hồ sơ IA 17/202, phông Phủ Thống đốc Nam kỳ
17
Quyết định số 1097 ngày 12-9-1872 của Thống đốc Nam kỳ, hồ sơ IA 17/202, phông Phủ Thống đốc Nam kỳ
14

5


1.

Khu Sài Gòn gồm: Sài Gòn, Tây Ninh, Thủ Dầu Một, Biên Hòa và
Bà Rịa;

2.

Khu Mỹ Tho gồm: Mỹ Tho, Tân An, Gò Công và Chợ Lớn

3.

Khu Vĩnh Long gồm: Vĩnh Long, Bến Tre, Trà Vinh và Sa Đéc;

4.

Khu Bassac gồm : Châu Đốc, Long Xuyên, Rạch Giá, Trà Ôn và
Sóc Trăng18.


Sau quyết định này, ngày 31-10-1877, Thống đốc Nam kỳ ban hành quyết
định phân chia lại các xã của Sở Tham biện Tây Ninh, cụ thể:
An Thanh tách thành hai xã: An Thanh và An Thuon;
Thanh Phước tách thành hai xã: Thanh Phước và Phước Thanh;
Long Dien tách thành hai xã: Long Thanh và Thanh Dien;
Phước Chi tách thành hai xã Phước Chi và Phươc Hưng19.
Ngày 20-12-1899, chính quyền thực dân Pháp ban hành nghị định đổi "các
hạt, tiểu khu trong các Khu hành chính ở Nam kỳ và tại các vùng thuộc sở hữu của
Pháp ở Đông Dương" "thành « tỉnh » bắt đầu từ ngày 1-1-1900”. Người đứng đầu
tỉnh gọi là Quan cai trị - Chủ tỉnh (Administrateur – Chef de Province) 20. Theo
quyết định này, tiểu khu Tây Ninh chính thức được đổi thành tỉnh, trực thuộc Khu
Sài Gòn.
BẢNG ĐỐI CHIẾU ĐƠN VỊ HÀNH CHÍNH MIỀN NAM VIỆT NAM
(1859-1945)(21)
LỤC TỈNH NAM KỲ (1859)
Định Tường Vĩnh Long An Giang
NAM KỲ THỜI PHÁP THUỘC
Mỹ Tho
Vĩnh Long Châu Đốc

Gia Định

Biên Hòa

Hà Tiên

Gia Định

Biên Hòa


Chợ Lớn

Bà Rịa

Bến Tre

Long Xuyên

Rạch Giá

Tân An

Thủ Dầu Một

Trà Vinh

Sa Đéc

Bặc Liêu

Tây Ninh

Cap-Saint

Sốc Trăng

Gò Công

Jacques


Cần Thơ

Hà Tiên

Tân Bình

18

Quyết định số 2 ngày 5-1-1876 của Thống đốc Nam kỳ, hồ sơ 2179 (SL), phông Thống đốc Nam kỳ.
Quyết định số 198 ngày 31-10-1877 của Thống đốc Nam kỳ, hồ sơ IA 17/202, phông Phủ Thống đốc Nam kỳ
20
Đào Văn Hội, Lịch trình hành chánh Nam phần, 1961, vn.1528, TT LTQG II
21
Đào Văn Hội, Lịch trình hành chánh Nam phần, 1961, vn.1528, TT LTQG II, tr.38
19

6


Như vậy, trên cơ sở khai phá của các cư dân Việt, từ cuối thế kỷ XVII, các
chúa Nguyễn chính thức xác lập chế độ hành chánh ở vùng đất Nam bộ. Tuy nhiên
đến năm 1836, dưới triều vua Minh Mạng, địa danh Tây Ninh lần đầu tiên xuất
hiện trên bản đồ hành chính Việt Nam. Trong những năm đầu xâm lược Việt Nam,
chính quyền thực dân nhiều lần thực hiện thay đổi cấp hành chính Tây Ninh, từ
phủ, huyện đến hạt (Sở Tham biện). Đến năm 1900, cùng các địa phương khác ở
Nam kỳ, Tây Ninh trở thành đơn vị hành chính cấp tỉnh. Sau đó, dù trải qua nhiều
giai đoạn thăng trầm của lịch sử, nhưng cấp hành chính này vẫn được giữ nguyễn
cho đến này nay.


7



×