Luận văn tốt nghiệp Trường ĐH Kinh Doanh và Công Nghệ Hà Nội
LỜI MỞ ĐẦU
Gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO là một sự kiện trọng đại của
Việt Nam, bởi nó thể hiện sự cố gắng nỗ lực rất nhiều của nước ta trong công
cuộc đổi mới kinh tế. Đồng hành với thời có lớn như vậy thì đối với toàn bộ nền
kinh tế nói chung và hệ thống Ngân hàng Việt Nam nói riêng phải chuẩn bị sẵn
sàng đáp ứng mọi điều kiện cho sự hội nhập toàn diện, vượt mọi thách thức đang
ở phía trước.
Cùng với sự vận động của nền kinh tế, Ngân hàng như một mắt xích quan
trọng thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Ngân hàng có nhiệm vụ tham gia bình ổn
thị trường tiền tệ, kiềm chế lạm phát thị trường ngoại hối, tạo công ăn việc làm
cho người lao động… và quan trọng hơn Ngân hàng là một trung gian tài chính
cung ứng vốn chủ yếu, hữu hiệu cho nền kinh tế. Với những thuận lợi mà hoạt
động sử dụng vốn của Ngân hàng thì việc nâng cao các dịch vụ cho vay, nâng
cao hiệu quả cho vay, giảm tối đa các rủi ro của hoạt động cho vay mang lại
đang là những vấn đề của các Ngân hàng thương mại đặt ra.
Xuất phát từ những vấn đề đặt ra ở trên, trong quá trình thực tập tại Ngân
hàng NHNo & PT NT Thành phố Vinh - trực thuộc NHNo & PTNT Việt Nam -
em đã tìm hiểu về các nghiệp vụ trong hoạt động cho vay của Ngân hàng để thực
tế hóa các kiến thức đã được học tại trường.
Dưới sự hướng dẫn của Ths Văn Hoài Thu cùng với sự giúp đỡ của các
cán bộ NHN0 & PTNT Thành phố Vinh em chọn đề tài: “ Giải pháp nâng cao
hiệu quả cho vay của NHNo & PTNT Thành phố Vinh” để tiến hành làm luận
văn tốt nghiệp.
Đề tài được trình bày theo 3 chương:
Võ Thị Ngọc Ánh 1 Lớp TC 11-14
Luận văn tốt nghiệp Trường ĐH Kinh Doanh và Công Nghệ Hà Nội
Chương 1: NHTM và hoạt động cho vay của NHTM.
Chương 2: Thực trạng về công tác cho vay tại NHNo & PTNT Thành phố Vinh.
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả cho vay tại NHNo & PTNT
Thành phố Vinh.
Do thời gian thực tập và nghiên cứu hạn chế trong khi các nghiệp vụ hoạt
động cho vay lại đa dạng nên luận văn của em không tránh khỏi những thiếu sót.
Em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của thầy cô, các cán bộ Ngân hàng
để luận văn của em tốt hơn cho quá trình nghiên cứu và công tác sau này.
CHƯƠNG 1
Võ Thị Ngọc Ánh 2 Lớp TC 11-14
Luận văn tốt nghiệp Trường ĐH Kinh Doanh và Công Nghệ Hà Nội
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 Khái quát về Ngân Hàng Thương mại.
1.1.1 Khái niệm về Ngân Hàng Thương mại.
Ngân hàng thương mại (NHTM)là một loại hình doanh nghiệp kinh doanh
trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng ngân hàng - một trung gian tài chính cung ứng
vốn chủ yếu, hữu hiệu cho nền kinh tế. Mỗi nước có một cách định nghĩa riêng
về NHTM. Ví dụ : Ở Mỹ: NHTM là một công ty kinh doanh chuyên cung cấp
các dịch vụ tài chính và hoạt động trong ngành dịch vụ tài chính. Ở Ấn Độ:
NHTM là cơ sở nhận các khoản kí thác để cho vay hay tài trợ đầu tư.
Ở Việt Nam Pháp lệnh ngân hàng ngày 23-5-1990 của hội đồng Nhà nước
Việt Nam xác định: NHTM là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu
và thường xuyên là nhận tiền kí gửi từ khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và
sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương
tiện thanh toán.
1.1.2 Vai trò của Ngân hàng thương mại tại Việt Nam.
Sau hơn 20 năm tiến hành công cuộc đổi mới đất nước làm thay đổi cơ
bản kinh tế với những chỉ số kinh tế ngày càng khả quan, hệ thống ngân hàng đã
đóng một vai trò quan trọng.
Thứ nhất, đóng vai trò quan trọng trong việc đẩy lùi và kiềm chế lạm phát,
từng bước duy trì sự ổn định giá trị đồng tiền và tỉ giá, góp phần cải thiện kinh tế
vĩ mô, môi trường đầu tư và sản xuất kinh doanh.
Thứ hai, góp phần thúc đẩy hoạt động đầu tư, phát triển sản xuất kinh
doanh và hoạt động xuất nhập khẩu. Đây là kết quả tác động nhiều mặt đổi mới
hoạt động ngân hàng, nhất là những cố gắng của ngành ngân hàng trong việc
huy động các nguồn vốn trong nước cho đầu tư phát triển, trong việc đổi mới
Võ Thị Ngọc Ánh 3 Lớp TC 11-14
Luận văn tốt nghiệp Trường ĐH Kinh Doanh và Công Nghệ Hà Nội
chính sách cho vay và cơ cấu tín dụng theo hướng căn cứ chủ yếu vào tính khả
thi và hiệu quả của từng dự án, từng lĩnh vực ngành nghề để quyết định cho vay.
Dịch vụ ngân hàng cũng phát triển cả về chất lượng và chủng loại, góp phần
thúc đẩy sản xuất kinh doanh.
Thứ ba, tín dụng ngân hàng đã đóng góp tích cực cho việc duy trì sự tăng
trưởng kinh tế với nhịp độ cao trong nhiều năm liên tục. Với dư nợ cho vay nền
kinh tế chiếm 35% - 37% GDP, mỗi năm hệ thống ngân hàng đóng góp trên
10% tổng mức tăng trưởng kinh tế của cả nước.
Thứ tư, đã hỗ trợ có hiệu quả trong việc tạo việc làm mới và thu hút lao
động, góp phần cải thiện thu nhập và giảm nghèo bền vững. Việc sử dụng
nguồn vốn ngân hàng cho mục đích này ngày càng có tính chuyên nghiệp, minh
bạch và hiệu quả, nhất là khi tín dụng chính sách được tác bạch với tín dụng
thương mại va giao cho Ngân hàng Chính sách xã hội đảm nhiệm.
1.2 Hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại.
1.2.1Khái niệm và vai trò của hoạt động cho vay.
a) Khái niệm về hoạt động cho vay.
Khái niệm về hoạt động cho vay là: cho vay của NHTM là việc chuyển
nhượng tạm thời một lượng giá trị từ NHTM (người sở hữu) sang khách hàng
vay (người sử dụng) sau một thời gian nhất định quay trở lại NHTM với lượng
giá trị lớn hơn lượng giá trị ban đầu. Hay có thể hiểu cho vay của NHTM là
quan hệ giữa một bên là người cho vay (NHTM) bằng cách chuyển giao tiền
hoặc tài sản cho bên người vay (khách hàng vay) để sử dụng trong một thời gian
nhất định với cam kết của người vay là hoàn trả cả gốc và lãi khi đến hạn. Cho
vay là quyền của NHTM.
b) Vai trò của hoạt động cho vay
Võ Thị Ngọc Ánh 4 Lớp TC 11-14
Luận văn tốt nghiệp Trường ĐH Kinh Doanh và Công Nghệ Hà Nội
* Hoạt động cho vay mang lại lợi nhuận lớn cho Ngân hàng và thúc đẩy
các hoạt động khác của Ngân hàng: Hoạt động cho vay là một trong những hoạt
động lớn của Ngân hàng, doanh thu từ những hoạt động này thường chiếm 70%
- 90% doanh thu của Ngân hàng. Nhờ có hoạt động cho vay mà các đơn vị kinh
tế có thể vay của Ngân hàng để đầu tư cho hoạt động sản xuất kinh doanh, lợi
nhuận thu được không những doanh nghiệp đủ tiền trả cho Ngân hàng mà còn
có tiền gửi vào Ngân hàng, nghĩa là làm tăng hoạt động huy động vốn của Ngân
hàng. Mặt khác, khi sản xuất kinh doanh phát triển thì các hoạt động dịch vụ của
Ngân hàng cũng phát triển.
* Hoạt động cho vay góp phần điều hòa cung - cầu dịch vụ hàng hóa: Ngân
hàng cho doanh nghiệp vay sẽ thúc đẩy sản xuất kinh doanh, thì sẽ có nhiều
hàng hóa. Ngân hàng cho người tiêu dùng vay sẽ thỏa mãn nhu cầu hàng hóa.
Như vậy hoạt động cho vay của Ngân hàng đã góp phần điều hòa cung cầu sản
phẩm dịch vụ cho nền kinh tế.
* Hoạt động cho vay góp phần điều tiết và phân phối các nguồn vốn: Ngân
hàng thương mại với vai trò là một trung gian tài chính đứng ra tập trung phân
phối lại tiền tệ, điều hòa cung và cầu vốn cho các doanh nghiệp, đã góp phần
điều tiết lại nguồn vốn, tạo điều kiện cho quá trình sản xuất kinh doanh của
Doanh nghiệp không bị gián đoạn.
* Hoạt động cho vay góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa: Bằng những công cụ tín dụng Ngân hàng, Ngân hàng
có thể cho vay với ưu đãi những ngành nghề cần thiết để phù hợp với chiến lược
phát triển kinh doanh của Đảng và nhà nước trong giai đoạn cụ thể.
* Hoạt động cho vay góp phần giúp các thành phần kinh tế mở rộng ứng
dụng công nghệ mới: Thông qua vốn vay của Ngân hàng, doanh nghiệp dung
đồng vốn này để đầu tư, tìm kiếm những công nghệ hiện đại, đổi mới dây
Võ Thị Ngọc Ánh 5 Lớp TC 11-14
Luận văn tốt nghiệp Trường ĐH Kinh Doanh và Công Nghệ Hà Nội
chuyền sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm thỏa mãn nhu cầu trong và
ngoài nước.
1.2.2 Chất lượng cho vay
a) Khái niệm của chất lượng cho vay.
Nhu cầu đáp ứng về vốn chính đáng cho khách hàng, phù hợp với sự phát
triển Kinh tế - Xã hội và đảm bảo sự tồn tại phát triển của các NHTM, được
khách hàng sử dụng vốn cho vay đưa vào quá trình sản xuất kinh doanh, dịch vụ
… để tạo ra một doanh thu lớn thông qua đó Ngân hàng sẽ thu được cả vốn lần
lãi đúng thời hạn, bù đắp được chi phí và có lợi nhuận.
b) Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng cho vay của NHTM
Hoạt động cho vay của NHTM là quan hệ giữa người cho vay (NHTM) và
bên người vay (khách hàng vay) nên chất lượng cho vay sẽ bị ảnh hưởng bởi 2
nhân tố chính đó là Ngân hàng và khách hàng.
+) Nhân tố từ phía Ngân hàng : Cho vay là quyền của NHTM bởi vậy NHTM là
bên quyết định mấu chốt cho chất lượng cho vay, một số nhân tố sau đã ảnh
hưởng trực tiếp đến thực trạng cho vay.
• Chính sách tín dụng: Mỗi Ngân hàng tự xây dựng một chính sách tín dụng
riêng phù hợp với mục tiêu và chiến lược của chính Ngân hàng đó trong từng
thời kỳ. Một chính sách tín dụng được xây dựng đúng đắn, hợp lý, linh hoạt,
đáp ứng được các nhu cầu đa dạng của khách hàng về vốn thì Ngân hàng đó sẽ
thành công trong việc tăng cường hoạt động cho vay.
• Thông tin tín dụng: Một Ngân hàng nắm bắt kịp thời những thông tin về
kinh tế, xã hội, thị trường thì Ngân hàng đó sẽ đưa ra những phương hướng
hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động cho vay nói riêng phù hợp.
Võ Thị Ngọc Ánh 6 Lớp TC 11-14
Luận văn tốt nghiệp Trường ĐH Kinh Doanh và Công Nghệ Hà Nội
• Chất lượng nhân sự và cơ sở vật chất thiệt bị: Trong tất cả các lĩnh vực, yếu
tố con người luôn là yếu tố quan trọng quyết định. Nhân viên Ngân hàng là lực
lượng chủ yếu truyền thông tin từ khách hàng, từ đối thủ cạnh tranh đến các nhà
hoạch định chính sách Ngân hàng. Cơ sở vật chất thiết bị cũng ảnh hưởng đến
hoạt động cho vay của Ngân hàng. Trang thiết bị đầy đủ, phù hợp với phạm vi
quy mô hoạt động sẽ giúp Ngân hàng tăng cường khả năng cạnh tranh, thực
hiện tốt mục tiêu tăng cường hoạt động cho vay.
• Chiến lược kinh doanh của Ngân hàng: Ngân hàng tồn tại, phát triển thì phải
có chiến lược kinh doanh. Chiến lược kinh doanh càng phù hợp thì hoạt động
cho vay ngày càng mở rộng.
+) Nhân tố từ phía khách hàng : Hoạt động tín dụng phát sinh mối quan hệ giữa
khách hàng và Ngân hàng, do đó đảm bảo khoản tín dụng được sử dụng có hiệu
quả, mang lại lợi ích cho Ngân hàng, góp phần làm tăng trưởng và phát triển
kinh tế. Một khách hàng tuân thủ những điều kiện mang tính pháp lý nhằm đảm
bảo việc trả nợ khi đến hạn sẽ nâng cao chất lượng tín dụng của Ngân hàng.
+) Các nhân tố khác
Bên cạnh 2 nhân tố quan trọng ở trên thì các nhân tố như: chính sách vĩ
mô của nhà nước, pháp luật, ổn định về chính trị xã hội…cũng như thiên tai, lũ
lụt, chiến tranh.. đều là nguyên nhân làm ảnh hưởng đến chất lượng cho vay.
1.2.3 Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng hoạt động cho vay.
a) Nhóm chỉ tiêu về tăng trưởng tín dụng:
- Doanh số cho vay: Là tổng vốn mà ngân hàng giải ngân cho khách hàng vay
theo hợp đồng tín dụng trong một niên độ kế toán, chỉ tiêu này phản ánh quy
mô tín dụng, khi doanh số cho vay tăng đồng nghĩa với quy mô tín dụng tăng.
- Dư nợ cho vay: Đây là chỉ tiêu phản ánh lượng vốn mà Ngân hàng đã giải
ngân cho các khoản tín dụng mà khách hàng đang còn nợ Ngân hàng tại một
thời điểm cự thể. Chỉ tiêu này cho biết một cách cụ thể về tình hình sử dụng
vốn của Ngân hàng tai một thời điểm nhất định, giúp cho Ngân hàng dễ dàng
đánh giá được chất lượng tài sản của mình.
Võ Thị Ngọc Ánh 7 Lớp TC 11-14
Luận văn tốt nghiệp Trường ĐH Kinh Doanh và Công Nghệ Hà Nội
- Doanh số thu nợ: Là tổng các khoản thu nợ, chỉ tiêu này phản ánh số lượng
cho vay đã được thu hồi trong một kỳ, đây là chỉ tiêu rất được các Ngân hàng
chú ý bởi chỉ tiêu này nói lên lợi nhuận thực mà Ngân hàng thu được trong
khoản tín dụng mà Ngân hàng đó đã cấp.
- Tỷ trọng dư nợ cho vay:
Tỷ trọng dư nợ cho vay trung – dài hạn =
Các chỉ tiêu về tăng trưởng tín dụng chỉ mang tính chất đánh giá chung về
chất lượng tín dụng chưa phản ánh rõ bản chất về chất lượng tín dụng, để đánh
giá chất lượng phải xem xét đến tính an toàn và lành mạnh của các khoản tín
dụng.
b) Các chỉ tiêu về hiệu suất sử dụng vốn
Hiệu suất sử dụng vốn = * 100%
Chỉ tiêu này đánh giá mức độ sử dụng nguồn vốn
c) Tỷ lệ nợ quá hạn: Hoạt động cho vay của Ngân hàng là hoạt động có rủi ro
cao. Chính vì vậy chỉ tiêu về tỷ lệ nợ quá hạn của Ngân hàng là một chỉ tiêu
quan trọng. Theo quy định của NHNN: Ngân hàng có tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng
dư nợ
≥
7% NH yếu kém, NH có tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ
≤
5% là NH
có nghiệp vụ tín dụng tốt, chất lượng cho vay chấp nhận được. Các Ngân hàng
thường sử dụng tỷ lệ nợ quá hạn để đánh giá chất lượng tín dụng.
Tỷ lệ nợ quá hạn trung – dài hạn =
1.2.4 Đảm bảo an toàn trong hoạt động cho vay.
Đảm bảo an toàn trong hoạt động cho vay ở Ngân hàng gồm có 2 hình thức là
1. Cho vay đảm bảo bằng tài sản.
Võ Thị Ngọc Ánh 8 Lớp TC 11-14
Luận văn tốt nghiệp Trường ĐH Kinh Doanh và Công Nghệ Hà Nội
2. Cho vay không có đảm bảo bằng tài sản.
Chúng ta sẽ tiến hành phân tích từng hình thức trong đảm bảo an toàn trong
hoạt động cho vay của Ngân hàng.
+)Cho vay có đảm bảo bằng tài sản: Tín dụng có đảm bảo là hình thức cấp
tín dụng có tài sản đảm bảo trực tiếp hoặc có sự bảo lãnh của người thứ ba. Bởi
vậy trong hình thức cho vay đảm bảo này bao gồm có 2 hình thức đó là: Cho
vay đảm bảo bằng tài sản của người vay và cho vay có đảm bảo của người bảo
lãnh.
Không phải bất cứ một nghiệp vụ tín dụng nào cũng phải có đảm bảo.Trong
các nghiệp vụ đơn giản ít khi Ngân hàng đòi phải có đảm bảo đối với khách
hàng quen thuộc và có tín nhiệm cao. Tuy nhiên trong nền kinh tế thị trường
cũng như hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp luôn chứa đựng rủi ro, điều
này rất dễ kéo theo rủi ro của Ngân hàng cho vay vốn. Bởi thế đảm bảo thường
được coi là điều kiện tất yếu của mọi nghiệp vụ tín dụng, đảm bảo phải luôn đi
liền với nghiệp vụ tín dụng.
- Cho vay có đảm bảo bằng tài sản của người vay: Là hình thức cho vay qua sự
xác địng của tài sản mà khách hàng cầm cố hay thế chấp cho Ngân hàng khi vay
vốn. Tài sản cầm cố thế chấp đó có thể là động sản hoặc bất động sản. Cho vay
có đảm bảo bằng tài sản khách hàng vay chủ yếu được thực hiện bằng 5 hình
thức sau:
• Cho vay cầm cố bằng chứng khoán: Là hình thức cho vay mà khách hàng có
thể dùng một hay nhiều chứng khoán để đảm bảo cho một khoản nợ.
Một trong những yếu tố quan trọng nhất là tính thị trường, tức là Ngân hàng
phải nghiên cứu khả năng biến động về thị giá của chứng khoán trên thị trường
chứng khoán để xác định mức cho vay thích hợp cần phát mại chứng khoán. Các
chứng khoán do Chính phủ và do công ty, xí nghiệp lớn phát hành thường được
Võ Thị Ngọc Ánh 9 Lớp TC 11-14
Luận văn tốt nghiệp Trường ĐH Kinh Doanh và Công Nghệ Hà Nội
chi trả đầy đủ vốn gốc và lãi hoặc cổ tức cố định, có sự ổn định về giá cả và đã
thu được đánh giá trên thị trường chứng khoán sẽ tốt hơn các chứng khoán
không đáp ứng được tiêu chuẩn này.
Công trái nhà nước và tín phiếu kho bạc ít rủi ro và được bán một cách dễ
dàng vì thế thường được nhận cầm cố và mức cho vay của Ngân hàng có thể tới
90% giá thị trường của các chứng khoán đó; tương tự như vậy, những chứng
khoán (cổ phiếu, trái phiếu) do các công ty lớn và vững mạnh về mặt tài chính
phát hành cũng dễ được chấp nhận cầm cố và mức cho vay của Ngân hàng có
thể tới 80% giá thị trường của chứng khoán ấy. Ngược lại những chứng khoán
có dấu hiệu người phát hành không thể hoàn trả khi đến hạn hay không thể đáp
ứng các khoản chi trả lợi tức theo kỳ hạn hoặc người phát hành cổ phiếu không
thể duy trì cổ tức ổn định thì Ngân hàng không thể chấp nhạn cầm cố những
chứng khoàn ấy được.
• Cho vay cầm cố bằng thương phiếu: Khách hàng có thương phiếu nhưng
không muốn chiết khấu hoặc không nhận chiết khấu, trong trường hợp này
khách hàng có thể xin vay có cầm cố bằng thương phiếu. Cũng giống như
chứng khoán, Ngân hàng phải nghiên cứu phân tích để lựa chọn cầm cố những
thương phiếu có khả năng thanh toán, Ngân hàng phải xem xét trên các mặt:
Tính chất thương mại của thương phiếu, Tính chất pháp lý của thương phiếu và
khả năng thanh toán của người chịu trách nhiệm thanh toán thương phiếu.
• Cho vay cầm cố bằng hợp đồng thầu khoán.
Các công ty xây dựng hoặc các doanh nghiệp trong các lĩnh vực kinh doanh
khác sau khi trúng thầu đòi hỏi họ phải ứng vốn ra ban đầu với một khối lượng
lớn để tiến hành xây lắp hay cung cấp máy móc, thiết bị và các loại hàng hóa
theo hợp đồng thầu khoán. Sau khi hoàn thành toàn bộ hay từng hạng mục thì
họ sẽ được cơ quan tổ chức thầu khoán thanh toán. Trong trường hợp này các
Võ Thị Ngọc Ánh 10 Lớp TC 11-14
Luận văn tốt nghiệp Trường ĐH Kinh Doanh và Công Nghệ Hà Nội
doanh nghiệp đó có thể cầm cố hợp đồng thầu khoán – như một vật đảm bảo –
để vay vốn Ngân hàng.
Việc cho vay có cầm cố bằng hợp đồng thầu khoán là hình thức tín dụng có
đảm bảo tương đối chắc chắn, tuy nhiên trong thực tế vẫn có thể xảy ra rủi ro.
Bởi vậy, trước khi cho vay, ngân hàng phải đánh giá khả năng tài chính của cơ
quan chịu trách nhiệm thanh toán hợp đồng, đồng thời xem xét khả năng thực
hiện hợp đồng thầu khoán của người vay vốn.
• Cho vay cầm cố bằng hàng hóa: Là hình thức tín dụng ngắn hạn mà việc cấp
tín dụng được xác định căn cứ vào giá trị của hàng hóa thuộc quyền sở hữu của
người vay vốn đã được cầm cố cho Ngân hàng. Đây là nghiệp vụ có đảm bảo
được áp dụng phổ biến ở các Ngân hàng thương mại.
Để được chấp nhận là vật đảm bảo các hàng hóa phải thuộc quyền sở hữu
của người vay vốn, phải có đầy đủ giá trị và giá trị sử dụng, phải có tính thị
trường tức là hiện tạo và trong tương lai hàng hóa đó có thể tiêu thụ dễ dàng
đồng thời giá cả tương đối ổn định, hợp lý, mặt khác hàng hóa ấy phải được bảo
hiểm. Như vậy những vật tư hàng hóa chuyên dùng; những sản phẩm tươi sống,
dễ hư hỏng thường không được nhận làm vật đảm bảo.
• Cho vay thế chấp bằng bất động sản: Là hình thức cho vay mà khách hàng
phải dùng tài sản các bất động sản để đảm bảo cho khoản nợ, những tài sản cho
khách hàng giữ và có trách nhiệm quản lý còn Ngân hàng chỉ gửi giấy tờ xác
nhận quyền sở hữu và văn tự thế chấp tài sản đó. Các bất động sản được dùng
thế chấp cho một khoản vay thường là: đất đai, nhà cửa, công trình, kiến trúc
khác, tầu biển, máy móc thiết bị, lưu niệm…
Những tài sản thế chấp phải thuộc quyền sở hữu hợp pháp của khách hàng
vay vốn vì tài sản phải có tính thị trường tức là tài sản ấy có thể bán bất cứ lúc
nào trên thị trường với một giá cả tương đối ổn định.
Võ Thị Ngọc Ánh 11 Lớp TC 11-14
Luận văn tốt nghiệp Trường ĐH Kinh Doanh và Công Nghệ Hà Nội
- Cho vay có đảm bảo của người bảo lãnh: Là hình thức cho vay mà người
bảo lãnh đứng ra cam kết với người cho vay nếu người cho vay không trả được
nợ khi đến hạn.
Khi một khoản cho vay được bảo lãnh, Ngân hàng cho vay có thể cho rằng
người bảo lãnh sẽ cố gắng sử dụng ảnh hưởng của họ để giúp doanh nghiệp hoạt
động có kết quả nhằm có thể trả được nợ, hơn nữa Ngân hàng có thể nghĩ rằng
nếu người vay không trả được nợ khi đến hạn thì người bảo lãnh sẽ trả nợ thay
họ. Bởi vậy trước khi ký và thực hiện hợp đồng bảo lành Ngân hàng phải chú ý
những vấn đề:
* Người bảo lãnh có đầy đủ năng lực pháp lý.
* Người đứng ra bảo lãnh phải có đầy đủ năng lực tài chính hay tài sản dùng để
đảm bảo cho khoản nợ.
* Cần hồ sơ bảo lãnh phải được thiết lập phù hợp với luật định.
Ở trên ta đã nói về hình thức cho vay đảm bảo bằng tài sản, bên cạnh hình
thức này chúng ta còn có hình thức cho vay không đảm bảo bằng tài sản.
+) Cho vay không có đảm bảo bằng tài sản: Là việc tổ chức tín dụng cho khách
hàng vay vốn không có tài sản cầm cố, thế chấp hoặc không có bảo lãnh của
người thứ ba. Tổ chức tín dụng khi cho vay vốn chỉ dựa vào uy tín của khách
hàng để xem xét cho vay. Khách hàng có uy tín là khách hàng có năng lực tài
chính lành mạnh, trung thực trong kinh doanh, quản trị kinh doanh có hiệu quả,
có tín nhiệm với tổ chức tín dụng cho vay trong sử dụng vốn vay, hoàn trả nợ cả
gốc và lãi. Hiện nay theo nghị định 85/2003/NĐ-CP ngày 25/10/2003 của Chính
phủ thì những khách hàng có đủ những điều kiện sau đây:
- Sử dụng vốn vay có hiệu quả, trả nợ gốc, lãi vốn vay đúng hạn.
Võ Thị Ngọc Ánh 12 Lớp TC 11-14