Tải bản đầy đủ (.doc) (85 trang)

Giải pháp phát triển ngành công nghiệp bở trợ ngành dệt may Việt Nam đến năm 2020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (537.72 KB, 85 trang )

Báo cáo thực tập tốt nghiệp
LỜI MỞ ĐẦU
Ngành công nghiệp Dệt may là một ngành có truyền thống từ lâu ở Việt Nam.
Đây là một ngành quan trọng trong nền kinh tế của nước ta vì nó phục vụ nhu cầu
thiết yếu của con người, là ngành giải quyết được nhiều việc làm cho xã hội và đặc
biệt nó là ngành có thế mạnh trong xuất khẩu, tạo điều kiện cho kinh tế phát triển,
góp phần cân bằng cán cân xuất nhập khẩu của đất nước. Trong quá trình Công
nghiệp hoá- Hiện đại hoá hiện nay, ngành Dệt may đang chứng tỏ là một ngành mũi
nhọn trong nền kinh tế được thể hiện qua kim ngạch xuất khẩu liên tục tăng trong
mấy năm gần đây, các thị trường luôn được rộng mở,số lao động trong ngành ngày
càng nhiều và chiếm tỷ trọng lớn trong các ngành công nghiệp, giá trị đong góp của
ngành vào thu nhập quốc dân…. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được,
ngành dệt may Việt Nam đã và đang gặp những vấn đề cần khắc phục như chất lượng
tăng trưởng của ngành thấp, vốn đầu tư xây dựng không hiệu quả, mất cân đối giữa
hai ngành Dệt và May…Trở ngại lớn đối với sự phát triển của ngành Dệt May hiện
nay là tỷ lệ nội địa hóa còn rất thấp, sự phụ thuộc rất lớn vào nguyên phụ liệu nhập
khẩu. Điều đó là do ngành công nghiệp bổ trợ cho ngành DMVN chưa phát triển theo
kịp với sự phát triển của ngành dệt may. Do đó không thể đáp ứng nhu cầu của ngành
dệt may trong nước. Những tồn tại và hạn chế của ngành CNBT đã làm cho ngành
DMVN chưa phát triển một cách tương xứng so với tiểm năng thực sự của ngành.
Trong khi đó, mục tiêu phát triển của ngành công nghiệp dệt may Việt Nam đến
năm 2020 là trở thành một trong những ngành công nghiệp trọng điểm, mũi nhọn về
xuất khẩu, thoả mãn ngày càng cao nhu cầu tiêu dùng trong nước, tạo nhiều việc làm
cho xã hội, nâng cao khả năng cạnh tranh, hội nhập vững chắc kinh tế khu vực và thế
giới; từng bước đưa ngành Dệt May thoát khỏi tình trạng gia công sản xuất.
Do đó, để đạt được mục tiêu đã định, thì việc nghiên cứu thực trạng của ngành
công nghiệp bổ trợ ngành Dệt May Việt sẽ đóng góp một vai trò quan trọng. Nó phù
hợp với yêu cầu thực tế của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước cũng như yêu
cầu của sự phát triển ngành dệt may.
1
SV: Đoàn Thị Hoài Thương Lớp: Kế hoạch 48A


Báo cáo thực tập tốt nghiệp
Từ yêu cầu thực tế đó và mục đích tìm hiểu những vấn đề lớn liên quan đến ngành
CNBT ngành DMVN trong giai đoạn hiện nay và thử tìm một số giải pháp để khắc
phục những vấn đề đó, em đã quyết định lựa chọn đề tài
“ Giải pháp phát triển ngành công nghiệp bở trợ ngành dệt may Việt Nam đến
năm 2020”
Đề tài được thực hiện với mục đích nghiên cứu lý luận và ứng dụng vào thực
tiễn ngành công nghiệp bổ trợ ngànhdệt may Việt Nam qua đó xem xét thực trạng
phát triển của ngành công nghiệp bổ trợ ngành dệt may Việt Nam, những tồn tại, hạn
chế của ngành. Từ đó đề xuất các giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy sự phát triển cho
ngành công nghiệp bổ trợ ngành dệt may Việt Nam đến năm 2020.
Đây là kết quả của quá trình nghiên cứu với việc áp dụng một số phương pháp
nghiên cứu như: phương pháp phân tích - tổng hợp, phương pháp thống kê mô tả,
phương pháp hệ thống hoá và phương pháp suy luận logic.
Trên cơ sở mục đích, phạm vi và phương pháp nghiên cứu, nội dung của đề tài
nghiên cứu được chia là ba chương, cụ thể như sau:
Chương I: Một số lý luận về công nghiệp bổ trợ ngành dệt may
Chương II: Thực trạng phát triển công nghiệp bổ trợ ngành dệt may Việt
Nam
Chương III: Giải pháp phát triển ngành công nghiệp bổ trợ ngành dệt may
Việt Nam đến năm 2020
Tôi xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo PGS- TS
Nguyễn Ngọc Sơn đã giúp tôi hoàn thành đề tài này.
2
SV: Đoàn Thị Hoài Thương Lớp: Kế hoạch 48A
Báo cáo thực tập tốt nghiệp
CHƯƠNG I
MỘT SỐ LÝ LUẬN VỀ CÔNG NGHIỆP BỔ TRỢ NGÀNH DỆT MAY
I. Khái niệm chung về công nghiệp bổ trợ.
1.1. Khái niệm chung.

Công nghiệp bổ trợ (supporting industry) là ngành công nghiệp sản xuất những
sản phẩm trung gian có vai trò hỗ trợ cho việc sản xuất một loại sản phẩm cuối cùng
nhất định.
Tuỳ từng loại sản phẩm cụ thể cần sản xuất, những sản phẩm trung gian có thể bao
gồm nguyên liệu, vật liệu, linh kiện, phụ tùng, các bộ phận chi tiết lẻ, phụ liệu, bao
bì, nhãn mác, thuốc nhuộm, nguyên liệu để sơn, nhuộm, v.v., và cũng có thể bao gồm
cả những sản phẩm trung gian, những nguyên liệu sơ chế,… Nếu kể các sản phẩm
tương tự thì phạm vi sẽ rất rộng nhưng nếu thêm một đặc tính nữa sẽ thấy phạm vi rõ
ràng hơn: Sản phẩm CNBT thường được sản xuất với quy mô nhỏ, thực hiện bởi các
DN nhỏ và vừa. Những sản phẩm trung gian là một loại yếu tố “đầu vào” của quá
trình sản xuất công nghiệp. Do tính phức tạp của mối liên hệ sản xuất giữa các ngành
công nghiệp, việc xác định loại hình CNBT của một ngành nào đó cũng chỉ mang
tính chất tương đối.
Mỗi ngành công nghiệp đều phát triển theo chuỗi giá trị riêng biệt, song đều có
một điểm chung là được hình thành từ sự liên kết giữa 2 khu vực: khu vực thượng
nguồn (upstream) và khu vực hạ nguồn (downstream). Trong đó, khu vực thượng
nguồn thường được gọi là CNBT, làm nền tảng cơ sở để phát triển khu vực hạ nguồn.
Ngược lại, khu vực hạ nguồn là ngành công nghiệp chính, chỉ có thể phát triển khi
khu vực thượng nguồn phát triển, và khi khu vực hạ nguồn đã phát triển sẽ tạo “động
lực” thúc đẩy phát triển khu vực thượng nguồn.
1.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến công nghiệp bổ trợ.
Việc phát triển CNBT là một vấn đề rất phức tạp trong quá trình hoạch định
chiến lược phát triển công nghiệp của mỗi quốc gia. Với các nước đang trong quá
trình công nghiệp hoá, khi các nguồn lực còn hẹp, qui mô các ngành kinh tế còn nhỏ
3
SV: Đoàn Thị Hoài Thương Lớp: Kế hoạch 48A
Báo cáo thực tập tốt nghiệp
bé, việc giải quyết bài toán quan hệ giữa phát triển CNBT và khu vực hạ nguồn lại
càng khó khăn và phức tạp hơn. Do đó, phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến việc
phát triển CNBT sẽ tạo lập luận cứ khoa học nhằm lựa chọn chiến lược phát triển

công nghiệp thích hợp, cụ thể:
- Một là, thị trường của khu vực hạ nguồn: Khả năng đảm bảo sự tương thích giữa qui
mô của các ngành bổ trợ và khu vực hạ nguồn phải đủ lớn để tạo ra thị trường ổn
định phát triển có hiệu quả các ngành bổ trợ. Nếu khu vực hạ nguồn có qui mô nhỏ,
sản xuất những sản phẩm có chủng loại đa dạng và sản lượng không lớn thì khối
lượng sản xuất của các ngành bổ trợ cũng sẽ nhỏ, do đó, giá thành chế tạo sẽ tăng
cao. Điều này sẽ vấp phải sự từ chối của chính khu vực hạ nguồn trong nước và gặp
khó khăn khi muốn xuất khẩu sản phẩm bổ trợ ra nước ngoài.
Thêm vào đó, cần chú trọng đến khả năng đảm bảo yêu cầu về chủng loại, chất lượng
và thời hạn cung ứng các sản phẩm bổ trợ cho các ngành hạ nguồn vì thông thường,
yêu cầu của các DN ở khu vực hạ nguồn rất khắt khe do họ phải đảm bảo những cam
kết với khách hàng, đặc biệt là những đơn hàng xuất khẩu.
- Hai là, tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ: Đây là nhân tố quan trọng không chỉ
đối với các ngành công nghiệp nói chung mà còn cả với CNBT nói riêng do tính chất
thường xuyên thay đổi để thích ứng với xu hướng phát triển của thế giới. Vì thế, một
mặt, việc áp dụng thành tựu mới của khoa học và công nghệ trong các ngành bổ trợ
ảnh hưởng có tính chất “dẫn dắt” sự phát triển khu vực hạ nguồn nhờ tạo ra những
chi tiết, bộ phận hoặc vật liệu mới, góp phần tạo ra sự thay đổi căn bản trong thiết kế
và chế tạo sản phẩm ở khu vực hạ nguồn; mặt khác, việc thiết kế và chế tạo các sản
phẩm mới ở khu vực hạ nguồn yêu cầu CNBT phải nghiên cứu và chế tạo những vật
liệu, phụ liệu, bộ phận hay chi tiết sản phẩm phù hợp.
Sự phát triển công nghệ thông tin và thương mại điện tử cho phép “làm các bên có
cung và có cầu gần lại với nhau” và giảm thời gian giao dịch giữa họ. Điều đó cho
phép mở rộng không gian tổ chức quan hệ giữa khu vực bổ trợ và khu vực hạ nguồn.
- Ba là, nguồn lực tài chính. Việc giải quyết mối quan hệ giữa CNBT và khu vực hạ
nguồn cũng chính là việc giải quyết mối quan hệ liên ngành công nghiệp. Đầu tư vào
các ngành bổ trợ bất lợi hơn so với đầu tư vào khu vực hạ nguồn do khối lượng vốn
4
SV: Đoàn Thị Hoài Thương Lớp: Kế hoạch 48A
Báo cáo thực tập tốt nghiệp

đầu tư lớn, công nghệ phức tạp, thời hạn đầu tư và hoàn vốn đầu tư dài, độ rủi ro
trong đầu tư cao. Từ đó cho thấy việc cân đối nguồn lực tài chính cho đầu tư phát
triển công nghiệp và chính sách huy động các nguồn lực ấy có vai trò hết sức to lớn
trong việc bảo đảm các ngành CNBT phát triển có hiệu quả và bền vững.
Bên cạnh đó, việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài là một vấn đề quan trọng
đòi hỏi phải được xem xét một cách toàn diện để thấy được vai tṛ cũng như tác động
của nó đến sự phát triển của ngành CNBT. Mối liên hệ giữa FDI và CNBT có thể chia
thành 3 giai đoạn:
Giai đoạn 1: Trước khi có FDI, nhiều công ty trong nước đã sản xuất sản phẩm
và CNBT cung cấp cho các công ty lắp ráp, gia công sản xuất sản phẩm chính cho thị
trường nội địa. Khi có FDI, một bộ phận những công ty sản xuất CNBT sẽ phát triển
mạnh hơn nếu đựơc tham gia vào mạng lưới chuyển giao công nghệ của các DN FDI.
Sự liên kết này không phải tự nhiên hình thành mà các công ty CNBT phải tỏ ra có
tiềm năng cung ứng linh kiện, nguyên phụ liệu với chất lượng và giá thành cạnh tranh
được với hàng nhập.
Giai đoạn 2: Đồng thời với sự gia tăng của FDI, nhiều DN trong nước ra đời
trong các ngành CNBT chủ yếu để phục vụ cho hoạt động của ngành công nghiệp
chính thông qua các DN FDI. Những DN này sớm hình thành sự liên kết với DN FDI
để được chuyển giao công nghệ và sẽ phát triển một cách nhanh chóng.
Giai đoạn 3: Sau một thời gian hoạt động của DN FDI với qui mô sản xuất ngày
càng mở rộng, tạo ra thị trường ngày lớn cho CNBT, nhiều công ty vừa và nhỏ ở
nước ngoài sẽ đến đầu tư.
Như vậy, mối liên hệ giữa CNBT và FDI có thể được hiểu: chừng nào các công ty
nước ngoài không thấy Chính phủ đưa ra các chính sách cụ thể và dài hạn để phát
triển CNBT theo hướng giai đoạn 1 và 2 cũng như không tạo điều kiện môi trường
kinh doanh ổn định như giai đoạn 3 thì môi trường thu hút FDI ở nước đó sẽ không
được đánh giá cao.
- Bốn là, mức độ bảo hộ thực tế. Mức độ bảo hộ thực tế là tỷ lệ % giữa thuế quan danh
nghĩa với phần giá trị gia tăng nội địa. Chính tỷ lệ này sẽ nâng cao thêm giá của một
5

SV: Đoàn Thị Hoài Thương Lớp: Kế hoạch 48A
Báo cáo thực tập tốt nghiệp
đơn vị sản phẩm cuối cùng. Tỷ lệ này nói lên mức bảo hộ thực tế cao hay thấp cho
các ngành sản xuất trong nước.
- Năm là, các quan hệ liên kết khu vực và toàn cầu, ảnh hưởng của các tập đoàn xuyên
quốc gia. Việc bảo đảm quan hệ giữa khu vực bổ trợ và khu vực hạ nguồn không thể
chỉ bó hẹp trong phạm vi từng quốc gia, mà cần được thực hiện trong phạm vi khu
vực và toàn cầu. Điều này đòi hỏi mỗi quốc gia phải cân nhắc thận trọng việc quyết
định mức độ đầu tư vào khu vực CNBT trong nước. Khuynh hướng cần tránh là đầu
tư khép kín theo kiểu khu vực hạ nguồn cần gì thì đầu tư phát triển khu vực bổ trợ
sản xuất cái đó.
Trong phát triển kinh tế thế giới hiện nay, các tập đoàn xuyên quốc gia có ảnh hưởng
to lớn đến sự phát triển kinh tế quốc tế. Với nguồn lực to lớn về tài chính, khoa học
và công nghệ, các tập đoàn này có mạng lưới sản xuất và phân phối rộng rãi với
chiến lược phát triển và thương hiệu thống nhất, các bộ phận trong mạng lưới đó
được chuyên môn hoá hợp lý nhằm khai thác lợi thế ở mỗi quốc gia và mỗi khu vực,
có những chi nhánh chuyên sản xuất một số loại chi tiết, bộ phận nhất định cung cấp
cho các chi nhánh khác ở phạm vi khu vực, thậm chí toàn cầu. Trong việc hoạch định
chiến lược phát triển các ngành CNBT, cần có các chính sách thu hút đầu tư trực tiếp
nước ngoài và kết hợp hợp lý giữa sản xuất trong nước với các chi nhánh của các tập
đoàn xuyên quốc gia ấy.
- Sáu là, cơ chế chính sách của Nhà nước liên quan đến phát triển CNBT. Sự ảnh
hưởng của nhân tố này thể hiện trên hai mặt chủ yếu. Một mặt, quan điểm của Nhà
nước về phát triển CNBT trong định hướng chiến lược phát triển công nghiệp. Mặt
khác, các chính sách hỗ trợ phát triển khu vực CNBT như chính sách nội địa hoá,
chính sách đầu tư phát triển CNBT, chính sách thuế đánh vào khâu nhập khẩu và
khâu sản xuất các sản phẩm bổ trợ, mức độ đầu tư của Nhà nước vào nghiên cứu
khoa học và công nghệ ở khu vực CNBT.
1.3. Vai trò công nghiệp bổ trợ đối với sự phát triển kinh tế
Mỗi quốc gia có cách thức riêng trong việc giải quyết mối quan hệ giữa khu vực

hạ nguồn và CNBT. Nếu được phát triển một cách hợp lý, CNBT sẽ có vai trò đặc
6
SV: Đoàn Thị Hoài Thương Lớp: Kế hoạch 48A
Báo cáo thực tập tốt nghiệp
biệt quan trọng trong phát triển công nghiệp của mỗi quốc gia. Vai trò ấy thể hiện trên
những mặt chủ yếu sau:
- Thứ nhất, CNBT là điều kiện quan trọng đảm bảo tính chủ động và nâng cao giá trị
gia tăng của ngành sản xuất sản phẩm của khu vực hạ nguồn. CNBT không phát triển
sẽ làm cho các công ty lắp ráp, gia công và những công ty sản xuất các thành phẩm
cuối cùng khác phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu. Dù những sản phẩm này có thể được
cung cấp với giá rẻ ở nước ngoài nhưng vì chủng loại quá nhiều, phí chuyên chở, bảo
hiểm sẽ tăng lên làm tăng chi phí đầu vào. Đó là chưa kể đến sự rủi ro về tiến độ, thời
gian nhận hàng nhập khẩu. Vì vậy, CNBT thiếu sẽ làm giá trị gia tăng thấp đi, ngành
công nghiệp chính thiếu sức cạnh tranh.
- Thứ hai, góp phần khai thác các nguồn lực trong nước, giảm xuất khẩu các sản phẩm
thô và nhập khẩu nguyên phụ liệu, nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm và đẩy
nhanh quá trình công nghiệp hoá theo hướng vừa mở rộng (broadening) vừa chuyên
sâu (deepening).
- Thứ ba, phát huy ảnh hưởng của tác động “lan toả” trong phát triển hệ thống công
nghiệp. Hệ thống này có thể liên kết theo chiều dọc hoặc chiều ngang, tạo thành các
cụm công nghiệp có mối quan hệ hữu cơ mật thiết với nhau. Do vậy, sự phát triển của
một ngành công nghiệp trong hệ thống đó sẽ có tác động mạnh mẽ đến các ngành
công nghiệp khác, kích thích các ngành này cũng phát triển theo sao cho đáp ứng
được yêu cầu của thời kì mới.
- Thứ tư, góp phần tạo thêm việc làm và thu nhập cho người lao động, thu hút lao động
dư thừa, đặc biệt là trong những ngành sử dụng nhiều lao động thủ công, giản đơn
như dệt may, chế biến nông sản…
- Thứ năm, mở rộng khả năng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào phát triển công
nghiệp. Từ những nhận định trên có thể thấy CNBT phải phát triển mới thu hút FDI,
đặc biệt là FDI trong những ngành sử dụng nhiều máy móc hiện đại. Tỷ lệ của chi phí

CNBT cao hơn nhiều so với chi phí lao động nên một nước dù có ưu thế về lao động
nhưng CNBT không phát triển sẽ làm cho môi trường đầu tư kém hấp dẫn.Tuy nhiên,
cũng không phải CNBT phát triển đồng bộ rồi mới có FDI. Có nhiều trường hợp FDI
7
SV: Đoàn Thị Hoài Thương Lớp: Kế hoạch 48A
Báo cáo thực tập tốt nghiệp
đi trước và kéo theo các công ty khác (kể cả công ty trong và ngoài nước) đầu tư phát
triển CNBT, do đó có sự quan hệ tương hỗ 2 chiều giữa FDI và CNBT.
- Thứ sáu, là một trong những yếu tố quan trọng tạo nên lợi thế cạnh tranh của một
ngành công nghiệp, góp phần đẩy mạnh thực hiện chiến lược hướng về xuất khẩu.
Theo quan niệm của M. Porter năm 1990, khả năng cạnh tranh của một ngành công
nghiệp là khả năng sáng tạo và đổi mới của ngành đó. Khả năng này được hình thành
bởi 4 yếu tố, bao gồm: (1) điều kiện các yếu tố sản xuất, (2) điều kiện cầu, (3) các
ngành CNBT và các ngành liên quan, (4) chiến lược, cơ cấu và cạnh tranh nội bộ
ngành. Cả 4 yếu tố này tác động qua lại lẫn nhau tạo thành “mô hình kim cương
Porter” nhằm để chỉ khả năng chịu “va đập” của một quốc gia trước môi trường cạnh
tranh gay gắt. Trong đó, mối quan hệ 2 chiều giữa các yếu tố được thể hiện qua mô
hình sau:
Hình 1: Các yếu tố cấu thành khả năng cạnh tranh ngành công nghiệp
Điều kiện cầu
Điều kiện các yếu tố sản xuất
Chiến lược, cơ cấu và cạnh tranh nội bộ ngành
Các ngành CNBT và các ngành liên quan
Nguồn: Trung tâm thông tin kinh doanh và thương mại
II. Công nghiệp bổ trợ ngành dệt may.
2.1. Khái niệm công nghiệp bổ trợ ngành dệt may.
Ngành công nghiệp Dệt may là một ngành có truyền thống từ lâu ở Việt Nam.
Đây là một ngành quan trọng trong nền kinh tế của nước ta vì nó phục vụ nhu cầu
thiết yếu của con người, là ngành giải quyết được nhiều việc làm cho xã hội và đặc
8

SV: Đoàn Thị Hoài Thương Lớp: Kế hoạch 48A
Báo cáo thực tập tốt nghiệp
biệt nó là ngành có thế mạnh trong xuất khẩu, tạo điều kiện cho kinh tế phát triển,
góp phần cân bằng cán cân xuất nhập khẩu của đất nước. Nó đáp ứng các nhu cầu về
sản phẩm tiêu dùng bao gồm các loại quần áo, chăn ga, gối đệm, các loại đồ dùng
sinh hoạt trong gia đình như: rèm cửa, vải bọc đồ dùng, khăn các loại…Mặt khác, sản
phẩm của ngành dệt may cũng được sử dụng trong ngành kinh tế khác như vải kỹ
thuật dùng để lót đường, thi công đê điều, các loại vải làm bọc đệm ô tô, làm vật liệu
lọc vật liệu chống thấm. Sản phẩm của ngành dệt may không chỉ là quần áo, vải vóc
và các vật dụng quen thuộc như khăn bàn, khăn tắm, chăn mền, nệm, rèm, thảm, đệm
ghế, ô dù, mũ nón v.v. mà còn cần thiết cho hầu hết các ngành nghề và sinh hoạt: lều,
buồm, lưới cá, cần câu, các loại dây nhợ, dây thừng, dây chão, các thiết bị bên trong
xe hơi, xe lửa, máy bay, tàu bè (một chiếc xe hơi trung bình dùng đến 17 kí sợi vải),
vòng đai cua-roa, vỏ săm lốp, ống dẫn, bao bì, và nói chung mọi vật liệu dùng để
đóng gói, bao bọc, để lót, để lọc, để cách nhiệt, cách âm, cách điện, cách thuỷ, và cả
những dụng cụ y khoa như chỉ khâu và bông băng.
Bất cứ một ngành công nghiệp nào muốn phát triển mạnh mẽ đều phải dựa trên
một nền tảng vững chắc, cũng như có một mối quan hệ chặt chẽ, hỗ trợ lẫn nhau giữa
các ngành công nghiệp cả theo chiều dọc và chiều ngang. Đối với ngành dệt may,
quan hệ theo chiều dọc của ngành này được biểu hiện dưới dạng chuỗi giá trị như
sau:
Sản xuất nguyên liệu

Kéo sợi

Dệt vải

Nhuộm, in vải

Cắt may


Phân
phối hàng may
Trong chuỗi giá trị trên, các giai đoạn sản xuất nguyên liệu, kéo sợi, dệt vải,
nhuộm, in vải được gọi là khu vực thượng nguồn, hay đây cũng chính là các ngành
CNBT và có liên quan chặt chẽ đến ngành may. Còn các giai đoạn cắt may, phân phối
hàng may được gọi là khu vực hạ nguồn và là “động lực” thúc đẩy khu vực thượng
nguồn phát triển.
Để có được một sản phẩm dệt may cuối cùng cần trải qua một chuỗi các hoạt
động tạo ra giá trị. Theo hình trên ta thấy chuỗi giá trị của ngành dệt may bao gồm rất
nhiều công đoạn khác nhau từ sản xuất xơ đến khéo sợi dệt vải nhuộm in hoa, hoàn
tất cắt và may. Trong xu hướng toàn cầu hóa các hoạt động trong chuỗi giá trị toàn
cầu sẽ được phân bổ đến những nơi tạo ra giá trị gia tăng cao nhất và hoạt động hiệu
quả nhất.
9
SV: Đoàn Thị Hoài Thương Lớp: Kế hoạch 48A
Bỏo cỏo thc tp tt nghip
Hỡnh 2: Quy trỡnh sn xut hon tt sn phm dt may.
Ngun: Quy hoch phỏt trin DMVN n nm 2020

Trong thc t, mc dự khụng nht thit cn phỏt trin tt c cỏc khõu trong h
thng sn xut dt may mt cỏch ng u, song nu to ra c mi liờn h hu c
gia cỏc khõu trong nhng iu kin sn cú thỡ s cú tỏc ng ln lao vo vic m
bo tớnh ch ng, vic nõng cao hiu qu sn xut kinh doanh, tng sc cnh tranh
ca sn phm DMVN trờn th trng trong nc v th gii.
10
SV: on Th Hoi Thng Lp: K hoch 48A
Sản phẩm phụ trợ
Công nghệ dệt may Công nghệ phụ trợ
Phân bón, thuốc

phòng dịch bệnh
Công nghệ hóa dầu
Sản xuất
bông
Sản xuất xơ
sợi tổng hợp
Các laoij phụ tùng
kim khí và phi kim
loại
Các loại phụ tùng
kim khí và phi kim
loại
Các loại thuốc
nhuộm và hóa chất
phụ trợ
Các loại hóa chất
phụ trợ
Các loại phụ liệu
may
Công nghệ cơ khí,
chế tạo và điều
khiển tự động
Công nghệ cơ khí,
chế tạo và điều
khiển tự động
Công nghệ cơ khí,
chế tạo và điều
khiển tự động
Công nghệ cơ khí,
chế tạo và điều

khiển tự động
Công nghệ thiết kế
thời trang
Kéo sợi
Dệt vải mộc
Nhuộm - In hoa
Hoàn tất
Cắt may
Tiêu dùng
Báo cáo thực tập tốt nghiệp
2.2. Sự cần thiết phải tăng cường quan hệ giữa ngành dệt và ngành may.
Sự cần thiết phải tăng cường quan hệ giữa ngành dệt và ngành may được thể hiện
ở những khía cạnh cụ thể sau:
- Một là, liên kết giữa khâu dệt và khâu may có thể góp phần nâng cao chất lượng
nguyên liệu các DN may do ngành dệt có thể bám sát hơn nhu cầu của ngành may về
các loại nguyên liệu. Ngành may mặc, dù có kim ngạch xuất khẩu tăng nhanh, song
muốn tránh khỏi tình trạng gia công hàng hoá, đồng thời nâng cao giá trị gia tăng
thông qua xuất khẩu FOB thì cần chú trọng đến sự phát triển của ngành dệt. Bên cạnh
đó, những khó khăn về thương hiệu, nguồn vải và phụ liệu ổn định, kịp thời và đảm
bảo chất lượng cũng là một đòi hỏi cần thiết đối với các DN ngành may.
- Hai là, việc tăng cường liên kết dệt may sẽ tạo điều kiện giảm chi phí do giảm chi phí
trung gian, hạ giá thành sản phẩm may, tăng sức cạnh tranh của hàng may mặc do tỉ
lệ nội điạ hoá được nâng cao.
- Ba là, liên kết dệt - may giảm bớt nhu cầu nhập khẩu nguyên liệu nước ngoài, nâng
cao giá trị gia tăng, góp phần tăng ngân sách quốc gia.
- Bốn là, liên kết dệt - may góp phần tạo điều kiện cung cấp vải sợi ổn định, chủ động
cho may hàng xuất khẩu. Thực tế nhiều nước cho thấy, việc nhập khẩu vải sợi và phụ
liệu khiến các DN gặp nhiều bất lợi, không chủ động được tiến độ sản xuất cũng như
thời gian giao hàng. Có nhiều DN, do vải và phụ liệu nhập khẩu bị chậm trễ, chịu chi
phí bổ sung cao do vận chuyển bằng đường hàng không để đảm bảo thời gian giao

hàng và giữ chữ tín với đối tác. Tuy nhiên, việc làm này chỉ có thể là giải pháp tạm
thời, trong lâu dài sẽ khiến DN thua lỗ và bị phá sản. Vì vậy, nếu được cung cấp vải
và phụ liệu từ nguồn nguyên liệu ổn định trong nước các DN may sẽ giảm bớt rủi ro
xuất khẩu. Đồng thời, đây cũng là cơ hội để nâng cao tỉ lệ nội địa hoá trong nước,
đẩy mạnh phát triển ngành công nghiệp dệt.
- Năm là, liên kết dệt - may tạo điều kiện mở rộng thị trường ngành dệt, từ đó tăng qui
mô sản xuất để đạt lợi thế về qui mô, giảm giá thành, tăng sức cạnh tranh của hàng
dệt, thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, tăng tích luỹ để tiếp tục tái đầu tư cho công
nghệ mới nhằm đáp ứng yêu cầu của ngành may.
2.3. Các ngành công nghiệp bổ trợ cho ngành dệt may.
11
SV: Đoàn Thị Hoài Thương Lớp: Kế hoạch 48A
Báo cáo thực tập tốt nghiệp
2.3.1. Ngành sản xuất nguyên liệu.
Ngành sản xuất nguyên liệu cung cấp các nguyên liệu tự nhiên như bông len, tơ
sợi để xe sợi, chỉ. Ngành này thường là lợi thế của các nước có điều kiện khí hậu
thích hợp với sự phát triển của cây bông, đay và những ngành trồng dâu nuôi tằm.
Trung Quốc là nước có nghề trồng dâu nuôi tằm sớm nhất trên thế giới, sau đó
dâu tằm mới được phát triển và lan rộng đến các vùng khác trên thế giới. Cách đây 4-
5 nghìn năm người Trung Quốc đã biết nuôi tằm và thuần hoá giống tằm, cuốn Biên
niên sử
[
đã đề cập tới dâu tằm vào triều vua Châu Vương (2200 trước Công nguyên).
Tơ lụa thời đó được dành riêng cho vua chúa và hàng quí tộc, nó thể hiện sự thuần
phục của dân đối với vua. Bí mật của ngành dâu tằm tơ được người Trung Quốc giữ
kín rất lâu, phải gần 1000 năm sau ngành nghề này mới được để lộ và lan truyền sang
các nước lân cận bằng con đường tơ lụa.
Theo một số tài liệu khác cho rằng nghề dâu tằm được lan truyền sang Triều
Tiên vào khoảng năm 1200 trước Công nguyên, sau đó là Nhật Bản thế kỷ thứ 3
trước Công nguyên, Ấn Độ giữa thế kỷ 2 trước Công nguyên.

Theo các nhà lịch sử phương Tây, cây dâu được trồng phát triển ở Ấn Độ thông
qua Tây Tạng vào khoảng năm 1400 trước Công nguyên và nghề trồng dâu, nuôi tằm
bắt đầu ở vùng châu thổ sông Hằng. Theo các nhà lịch sử Ấn Độ, nơi nuôi tằm đầu
tiên ở đây là thuộc vùng núi Hymalaya. Khi người Anh đến Ấn Độ, do buôn bán tơ
lụa mà nghề dâu tằm được phát triển và lan rộng sang vùng khác như Mysore, Jamu,
Kashmir. Ả Rập do nhập trứng tằm và hạt dâu từ Ấn Độ nên cũng là một trong
những nơi sớm có nghề dâu tằm.
Vào thế kỷ 4, nghề dâu tằm được thiết lập ở Ấn Độ như là trung tâm của châu Á
và tơ lụa được xuất khẩu tới Roma (Ý), nhưng đến thế kỷ 6 người Roma đã học được
kỹ nghệ sản xuất tơ và tơ đã được sản xuất ở châu Âu, người Roma đã hoàn toàn
chiếm lĩnh trong lĩnh vực sản xuất này. Từ Ý, dâu tằm được phát triển tới Hy Lạp, Áo
và Pháp. Vì lợi ích kinh tế đem lại nên ngành dâu tằm tơ được nhiều nước quan tâm.
Ngày nay các nước có ngành sản xuất nguyên liệu dệt may phát triển chủ yếu là
các nước Mỹ la tinh,Trung Quốc, Ân Độ. Trong đó Brazil là nước cung cấp bông sợi
lớn thứ 5 thế giới.
12
SV: Đoàn Thị Hoài Thương Lớp: Kế hoạch 48A
Báo cáo thực tập tốt nghiệp
2.3.2. Ngành cơ khí.
Ngành cơ khí cung cấp các trang thiết bị máy móc cho ngành dệt may và các sản
phẩm dầu khí đốt tự nhiên để vận hành máy móc, hóa dầu tạo thành sợi tổng hợp.
Ngành cơ khí đóng vai trò rất quan trọng trong sự phát triển của ngành dệt may.
Cơ khí hóa ngành dệt may với các máy móc hiện đại sẽ làm cho năng suất lao động
tăng lên, chất lượng sản phẩm dệt may được nâng cao, tiết kiệm lao động và chuyên
môn hóa quá trình sản xuất sản phẩm dệt may.
Đặc biệt, ngành dệt đang có những định hướng mới trong việc áp dụng những
sản phẩm vải, nhưng không phải là quần áo, được gọi là vải kỹ thuật. Đây là lĩnh vực
có mức độ tăng trưởng nhanh nhất. Dự kiến các sản phẩm vải kỹ thuật sẽ có mức
tăng trưởng gấp đôi so với các sản phẩm dùng để may quần áo và chiếm khoảng hơn
50% toàn bộ sản phẩm dệt. Quá trình sản xuất các sản phẩm vải kỹ thuật đòi hỏi máy

móc hiện đại đắt tiền và công nhân có trình độ cao. Hiện tại lĩnh vực này tập trung ở
những nước phát triển với trình độ công nghệ và máy móc hiện đại, tiên tiến.
2.3.3. Kéo sợi.
Đây là giai đoạn từ các nguyên liệu thô ban đầu bằng các phương pháp hóa dầu
để tạo thành các sản phẩm nguyên vật liệu phuc vụ cho dệt may như chỉ, sợi và vải ,
mà nhiều nhất là tơ sợi tổng hợp. Công đoạn này do các công ty may đảm nhiệm. Có
nhiều loại tơ sợi khác nhau. Tơ sợi có nguồn gốc từ thực vật hoặc từ động vật được
gọi là tơ sợi tự nhiên. Tơ sợi được làm ra từ chất dẻo như các loại sợi ni lông được
gọi là tơ sợi nhân tạo. Do Hiệp định sợi đa phương được các nước công nghiệp phát
triển ký với vài nước đang phát triển năm 1974 cho phép giảm dần dần thuế quan
đối với hàng dệt và xóa bỏ thuế quan vào năm 2002-2005 nên Trung Quốc và các
quốc gia đang phát triển khác ở châu Á trở thành người khổng lồ trong lĩnh vực sản
xuất sợi và hàng dệt.
2.3.4. Ngành dệt vải.
Đây là quá trình dệt sợi thành tấm vải, cung cấp nguyên liệu cho ngành may.
Đặc điểm nổi bật nhất của ngành này là thu hút một lượng nguồn nhân lực rất lớn, tỷ
trọng lợi nhuận rất cao tương đối phù hợp với các nước đang phát triển.
2.3.5. Nhuộm, in vải.
13
SV: Đoàn Thị Hoài Thương Lớp: Kế hoạch 48A
Báo cáo thực tập tốt nghiệp
Trong ngành này có chuỗi dài các công đoạn sản xuất ướt, đòi hỏi nước, hóa
chất và các năng lượng đầu vào. Do đòi hỏi của lĩnh vực may thời trang nên ngành
này rất phong phú theo yêu cầu về chất liệu, màu sắc của vải.
III. Các nhân tố tác động đến sự phát triển của ngành CNBT ngành dệt may.
3.1.Thị trường.
Như đã nói ở trên, ngành CNBT có vai trò sản xuất các sản phẩm trung gian hỗ
trợ cho việc sản xuất một sản phẩm cuối cùng. Như vậy nếu có sự tương thích đủ lớn
thì sự phát triển của ngành công nghiệp chính sẽ tạo ra thj trường ổn định phát triển
có hiệu quả các ngành bổ trợ.

Đối với ngành dệt may, nếu như ngành may có quy mô nhỏ, sản xuất nhưng sản
phẩm có chủng loại đa dạng và sản lượng không lớn thì khối lượng sản xuất bông,
vải, sợi...sẽ nhỏ, giá thành sẽ tăng cao. Điều ấy dẫn đến khó tiêu thụ sản phẩm của
ngành bổ trợ. Làm cho các ngành bổ trợ kém phát triển. Gây ảnh hưởng trực tiếp đến
ngành dệt may, đặc biệt là dệt may xuất khẩu.Do đó để ngành bổ trợ phát triển tương
xứng, đáp ứng được nhu cầu cảu dệt may trong nước thì cần một chính sách đầu tư
đồng bộ, liên kết chặt chẽ giữa các DN bổ trợ và DN khu vực hạ nguồn. Đảm bảo
được chất lượng sản phẩm bổ trợ và thị trường tiêu thụ.
3.2.Vốn.
Việc đầu tư vốn vào khu vực bổ trợ ngành dệt may bất lợi hơn so với khu vực
hạ nguồn do khối lượng vốn đầu tư lớn, công nghệ phức tạp, thời hạn đầu tư và hoàn
vốn dài, mức độ rủi ro cao. Do đó việc cân đối nguồn lực tài chính cho đầu tư phát
triển ngành công nghiệp dệt may và chính sách huy động phát triển các nguồn lực ấy
có vai trò rất to lớn trong việc bào đảm các ngành CNBT ngành dệt may phát triển có
hiệu quả và bền vững, đáp ứng được nhu cầu nguyên nhiêu liệu của ngành dệt may.
Bên cạnh đó việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành bổ trợ cũng
là một vấn đề quan trọng đòi hỏi phải được xem xét một cách toàn diện. Với sự gia
tăng của vốn FDI vào ngành công nghiệp dệt may, đồng thời nhiều DN bổ trợ cũng ra
đời và phát triển chủ yếu phục vụ cho hoạt động chính của ngành dệt may, cung cấp
14
SV: Đoàn Thị Hoài Thương Lớp: Kế hoạch 48A
Báo cáo thực tập tốt nghiệp
nguyên liệu cho ngành dệt may phát triển. CacsDN bổ trợ sẽ hình thành mối liên kết
với các DN FDI để chuyển giao công nghệ và phát triển một cách nhanh chóng. Khi
các DN bổ trợ của dệt may phát triển thì sẽ thu hút được nhiều hơn nữa các nhà đầu
tư nước ngoài vào đầu tư cho dệt may. Như vậy nhà nước cần phải có chính sách sử
dụng vốn đầu tư một cách hợp lý, tạo điềuk iện cho các DN bổ trợ dệt may phát triển.
Đó là cách hợp lý nhất để tiếp tục thu hút được lượng đầu tư FDI đối với ngành.
3.3. Khoa học kỹ thuật và Công nghệ.
Đây là nhân tố quan trọng không chỉ với ngành dệt may mà còn cả với CNBT

của ngành. Do tính chất khoa học công nghệ thường xuyên thay đổi và phát triển
không ngừng để theo kịp với xu hướng phát triển của thế giới. Vì vậy việc áp dụng
thành tựu mới của khoa học công nghệ vào các ngành bổ trợ cho ngành dệt may có
tính chất dẫn dắt sự phát triển của ngành dệt may, nhờ việc tạo ra những chất liệu vải
mới, đa dạng hóa các sản phẩm dệt may, làm thay đổi căn bản trong thiết kế và tạo
sản phẩm mới ở ngành dệt may. Ngược lại, sự phát triển của ngành may mặc đòi hỏi
ngành bổ trợ phải không ngừng phát triển để tạo ra những nguyên nhiên liệu mới, đáp
ứng nhu cầu của ngành. Sự phát triển của công nghệ thông tin và thương mai điện tử
làm cho mối liên hệ giữa ngành coongn ghiệp dệt may và ngành CNBT trở nên gần
nhau hơn. Giamr tối thiểu thời gian giao dịch, tiết kiệm chi phí, thúc đẩy được sự
phát triển của cả ngành dệt may lẫn ngành bổ trợ.
3.4. Các chính sách của nhà nước với phát triển CNBT.
Quan điểm của nhà nước về phát triển CNBT ngành dệt may trong đinh hướng
phát triển chung của ngành dệt may cả nước tác động trực tiếp đến quy mô, cơ cấu
của ngành CNBT dệt may. Mặt khác các chính sách hỗ trợ phát triển khu vực CNBT
như chính sách nội địa hóa, chính sách đầu tư phát triển ngành nguyên liệu, cơ khí...
phục vụ ngành dệt may, chính sách thuế đánh vào khâu nhập khẩu và xuất khẩu các
sản phẩm bông, tơ sợi...và mức độ đầu tư của nhà nước vào nghiên cứu khoa học
công nghệ, tất cả quyết định sự phát triển của ngành bổ trợ dệt may.
3.5. Các quan hệ liên kết khu vực và toàn cầu.
Ngành công nghiệp dệt may không phải là một ngành riêng lẻ, mà nó có một
chuỗi giá trị toàn cầu. Cùng với sự hội nhập kinh tế thế giới, mối liên hệ kinh tế giữa
15
SV: Đoàn Thị Hoài Thương Lớp: Kế hoạch 48A
Báo cáo thực tập tốt nghiệp
các quốc gia ngày càng trở nên mật thiết. Việc đảm bảo quan hệ giữa ngành dệt may
và các ngành bổ trợ không chỉ bó hẹp trong phạm vi một quốc gia mà cần thực hiện
trong phạm vi khu vực và thế giới. Điều đó buộc mối quốc gia phải cân nhắc mức độ
đầu tư vào ngành bổ trợ trong nước, không những chỉ dệt may trong nước cân gì thì
ngành bổ trợ mới sản xuất cái đó. Mà cần mở rộng xuất khẩu các sản phẩm bổ trợ dệt

may, và tăng cường tỷ lệ nội địa hóa sản phẩm dệt may để tạo được lợi thế cho các
mặt hàng hệt may xuất khẩu.
IV. Kinh nghiệm của các nước trong phát triển CNBT dệt may.
CNBT đóng vai trò rất quan trọng trong việc phát triển ngành công nghiệp
chính. Thực tế các nước phát triển trên thế giới từ lâu đã rất đầu tư chú trọng phát
triển ngành CNBT để ngành CNBT làm cơ sở cho việc phát triển ngành công nghiệp
chính. Có thể rút ra được rất nhiều kinh nghiệm quý báu từ sự phát triển CNBT dệt
may của các nước có ngành dệt may phát triển như Trung Quốc, ấn Độ, Nam Phi...
4.1. Kinh nghiệm của Trung Quốc.
Công nghiệp dệt may của Trung Quốc đã và đang phát triển mạnh trong 2 thập
kỷ qua. Hiện nay, Trung Quốc là quốc gia lớn nhất thế giới về sản xuất một số loại
sản phẩm dệt may, đồng thời cũng là quốc gia xuất khẩu hàng dệt may lớn nhất thế
giới. Quá trình phát triển công nghiệp dệt may của Trung Quốc được chia làm 3 giai
đoạn.
- Giai đoạn 1: nhận thức được mối quan hệ mật thiết giữa ngành dệt và may, Trung
Quốc đã coi ngành dệt là ngành hỗ trợ chủ đạo cho ngành may, và sự phát triển của 2
ngành công nghiệp này là đồng hành, song song cùng tồn tại, sự tăng trưởng của
ngành này là nền tảng cho ngành kia. Ngành dệt của Trung Quốc được bắt đầu từ
năm 1870. Từ năm 1870 cho đến 1940 là giai đoạn đầu phát triển ngành dệt. Trong
giai đoạn này, ngành dệt phát triển với tốc độ thấp, nguyên liệu tự cấp với chất lượng
thấp, thiết bị nhập khẩu. Hầu hết các nhà máy dệt là của tư nhân được bố trí ở dọc bờ
biển hoặc đường bộ để thuận tiện cho hoạt động chuyên chở và giao thương.
- Giai đoạn 2: tính từ năm 1949 đến cuối thập kỉ 70. Để đáp ứng nhu cầu may mặc của
nhân dân Trung Quốc, Chính phủ đã hết sức cố gắng mở rộng năng lực ngành dệt.
Đến cuối năm 1978, sản lượng sợi hoá học sản xuất ở Trung Quốc đạt 280000 tấn,
16
SV: Đoàn Thị Hoài Thương Lớp: Kế hoạch 48A
Báo cáo thực tập tốt nghiệp
sản xuất vải trước hết được ưu tiên cho nhu cầu thị trường nội địa. Do vậy, Trung
Quốc đã có các chiến lược ngắn hạn phát triển ngành dệt như là một trong những

hàng hoá tiêu dùng.
Bảng 1: Xuất khẩu hàng dệt – may Trung Quốc giai đoạn 2000 – 2004
Đơn vị: tỷ USD
Năm
Dệt May
Thế giới Trung Quốc % Thế giới Trung Quốc %
2000 158,95 13,83 8,70 181,28 31,80 17,54
2001 151,31 12,83 8,48 183,33 30,06 16,40
2002 147,92 13,04 8,82 186,03 30,08 16,17
2003 157,46 16,06 10,2 1998,94 36,07 18,13
2004 - 16,64 - - 36,54 -
(Nguồn: Tài liệu Hội thảo công nghiệp dệt may tổ chức tại Hàn Quốc-11/2005)
- Giai đoạn 3: cuối những năm 70, Chính phủ Trung Quốc đã ra các quyết sách nhằm
phát triển kinh tế đất nước theo hướng mở cửa thị trường quốc tế. Kể từ đó đến nay,
ngành dệt Trung Quốc đã có sự tăng trưởng vượt bậc và có sự thay đổi đáng kể. Chủ
sở hữu được đa dạng hoá, khu vực ngoài quốc doanh đã phát triển rất mạnh. Năng
lực sản xuất gia tăng đáng kể, đồng thời ngành dệt cũng được củng cố thêm nhờ đổi
mới công nghệ và sản phẩm dệt đã có khả năng cạnh tranh. Cũng trong giai đoạn này,
khi CNBT đã có một cơ sở vững chắc thì ngành may của Trung Quốc cũng có những
bước khởi sắc. Cùng với hàng dệt, kim ngạch xuất khẩu hàng may tăng đáng kể
(bảng 1)
Sau nhiều năm vừa cải cách vừa thực hiện, Trung Quốc đã xây dựng được ngành
dệt hoàn hảo, có khả năng sản xuất nhiều loại sản phẩm khác nhau, trở thành ngành
CNBT đắc lực đáp ứng mọi nhu cầu của ngành may trong quá trình thâm nhập thị
trường các nước trong khu vực và thế giới.
Để xây dựng được ngành dệt mạnh như vậy, bên cạnh chiến lược phát triển ngành
theo từng bước vững chắc, Nhà nước Trung Quốc cũng đã có những biện pháp hỗ trợ
như:
Về chính sách hỗ trợ xuất khẩu: năm 1986, hoàn trả thuế trung gian và VAT, năm
1988 hoàn trả thuế gián tiếp luỹ tiến ở các khâu, hình thành các quĩ hỗ trợ tín dụng

nhằm cấp tín dụng xuất khẩu, tín dụng cải tiến kỹ thuật,…để khuyến khích các DN
17
SV: Đoàn Thị Hoài Thương Lớp: Kế hoạch 48A
Báo cáo thực tập tốt nghiệp
dệt may đổi mới năng lực và hiện đại hoá công nghệ, thiết bị, dây chuyền sản xuất,
nâng cao chất lượng sản phẩm.
Về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài: xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng hiện
đại, đồng bộ và có những chính sách ưu đãi đặc biệt với các nhà đầu tư nước ngoài,
cụ thể ngày 11/10/1996 “qui định về khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài” đã
giảm mức thuế thu nhập từ 30% xuống còn 15% và cho các DN ở đặc khu kinh tế chỉ
còn 10%, miễn thuế 5 năm đầu cho các DN mới thành lập ở đặc khu, miễn thuế thu
nhập khi chuyển lãi ra nước ngoài, hoàn trả thuế thu nhập cho phần lợi nhuận dùng
để tái đầu tư…
4.2. Kinh nghiệm của Nam Phi
Từ năm 1994, Nam Phi đã đầu tư 1 tỷ USD để nâng cấp và hiện đại hoá ngành
công nghiệp dệt, may mặc và giày dép, giúp ngành này có thể cạnh tranh trên thị
trường quốc tế. Nhu cầu của thị trường Nam Phi ngày càng phản ảnh tính phức tạp
của một thị trường phát triển. Ngành dệt may của địa phương đã không ngừng lớn
mạnh để cung cấp cho thị trường một loạt các sản phẩm, từ sợi tự nhiên, sợi nhân tạo,
đến dệt, xe sợi, dệt kim, nhuộm…
Nhờ áp dụng những tiến bộ công nghệ, ngành dệt địa phương đã phát triển
thành một ngành dựa chủ yếu vào thiết bị sản xuất, trong đó sản xuất sợi nhân tạo
chiếm tỷ trọng ngày càng cao. Mặc dù có quy mô tương đối nhỏ, ngành công nghiệp
dệt của Nam Phi đã đạt được một số thành tựu đáng khích lệ trên thị trường thế giới:
- Nhà sản xuất sợi Sans Fibres cung cấp 80% chỉ khâu (may) sử dụng trong
ngành may mặc trên thế giới)
- Nhà máy dệt vải Gelvenor Textiles cung cấp hơn 50% nhu cầu của thế giới về
vải may dù (parachute fabrics
- Nhà sản xuất quần áo vét House of Monatic đã cung cấp cho thị trường Anh
sản phẩm thứ 1 triệu

Một số nhân tố khiến cho việc đầu tư vào ngành dệt may và giày dép tại Nam
Phi trở nên hấp dẫn hơn. Nam Phi có hiệp định thương mại với EU và Mỹ theo đó
Nam Phi được hưởng mức thuế nhập khẩu ưu đãi 17,5%. Tại thị trường Mỹ, xuất
khẩu dệt may của Nam Phi đã tăng 62% kể từ khi được hưởng ưu đãi theo đạo luật
18
SV: Đoàn Thị Hoài Thương Lớp: Kế hoạch 48A
Báo cáo thực tập tốt nghiệp
AGOA. Nam Phi cũng được hưởng ưu đãi về thuế mà các nước SADC dành cho theo
Hiệp định Thương mại tự do SADC, thực hiện hoàn toàn vào năm 2008.
Nam Phi có lợi thế về nguyên liệu thô (sợi tự nhiên).
- Bông: Nam Phi sản xuất 40000 tấn bông một năm. Sợi bông cũng có thể nhập
từ các nước SADC để phục vụ sản xuất hàng xuất khẩu sang Mỹ.
- Da: Nam Phi có đủ nguyên liệu thô cần thiết để sản xuất bất kỳ loại giày dép
nào. Da bò, đà điểu, cá sấu sông Nile, da thú rừng, dệt và nguyên liệu nhựa PVC …
có thể mua tại địa phương một cách dễ dàng.
- Sợi thực vật: Nam Phi đang triển khai khá thành công các dự án trồng và chế
biến sợi tự nhiên, chẳng hạn như cây lanh, cây gai dầu, nhằm đáp ứng nhu cầu ngày
càng tăng lên từ ngành công nghiệp ô tô và hàng không (nguyên liệu tự nhiên sản
xuất một số bộ phận của ô tô và máy bay không gây ô nhiễm môi trường).
- Len và lông cừu: Nam Phi là nước sản xuất lông cừu (mohair) lớn nhất thế
giới và sản xuất len lớn thứ năm trên thế giới.
Ngành dệt Nam Phi có 350 nhà máy, sản xuất 560 triệu mét vuông vải từ bông
trồng tại địa phương, sợi polyester sản xuất tại địa phương và sợi nhập khẩu. Giá trị
sản xuất vải đạt 12 tỷ rand năm 2005 và 191 triệu đơn vị sản phẩm may mặc, trị giá
11 tỷ rand năm 2005. Xuất khẩu hàng may mặc đạt 1,4 tỷ rand, hàng dệt đạt 2,5 tỷ
rand, chủ yếu sang thị trường Mỹ và EU. Sản phẩm may mặc chủ yếu sản xuất tại các
tỉnh Western Cape, Kwa-Zulu Natal, Gauteng và Eastern Cape.
Năm 2007, Nam Phi xuất khẩu sản phẩm dệt may đạt 5 tỷ rand. Nhập khẩu dệt
may khoảng 14 tỷ rand (Tỷ giá tham khảo 1 usd = 7,5 rand.
4.3. Kinh nghiệm của Ấn Độ.

Âns Độ là một ví dụ điển hình cho năng lực và kinh nghiệm xây dựng CNBT
cho ngành dệt may ở Châu Á. Hiện nay, Ấn Độ đang là quốc gia có kim ngạch xuất
khẩu dệt may lớn trên thế giới. Xuất khẩu hàng may đã tăng lên nhanh chóng từ thập
niên 1970. Năm 1970-1971, ngành này mới đạt 3,9 triệu USD và tỷ trọng trong tổng
lượng xuất khẩu chỉ đạt 1,9%. Năm 1980-1981, kim ngạch xuất khẩu đã đạt 6,96
triệu USD và tương ứng thị phần là 8,2%. Từ năm 1997-1998, kim ngạch đã đạt tới
19
SV: Đoàn Thị Hoài Thương Lớp: Kế hoạch 48A
Báo cáo thực tập tốt nghiệp
3776 triệu USD, thị phần 9,6%, cho đến nay kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may đã
tăng đáng kể, giúp cho Ấn Độ trở thành quốc gia đứng thứ 3 trên thế giới về xuất
khẩu ngành hàng này. Vậy đâu là nguyên nhân tạo nên sự tăng trưởng vượt bậc đó?
Thứ nhất, do mức lương khá thấp ở Ấn Độ đã tạo nên lợi thế so sánh trong
ngành công nghiệp may mặc. Theo thống kê của Vinatex, mức lương trung bình trong
ngành dệt may của Ấn Độ hiện là 0,54 USD/h, thấp hơn 6,3 lần so với Hồng Kông,
1,6 lần so với Thái Lan.
Thứ hai, ngành may mặc Ấn Độ có nguồn vải phong phú với chất lượng đa
dạng và giá khác nhau, vì vậy đã đáp ứng được mọi yêu cầu cho ngành may mặc.
Hàng nghìn loại sợi đa dạng đều có nguồn cung cấp trong nước để thích hợp với sở
thích và thời trang của khách hàng.
Thứ ba, ngành may mặc xuất khẩu đã phát triển mạnh mẽ đặc biệt từ sau cải
cách theo chiến lược định hướng xuất khẩu. Điều quan trọng đối với các nhà xuất
khẩu là cần thay đổi sản phẩm để bắt nhịp với xu hướng thời trang, trên cơ sở đó, các
qui trình sản xuất được thực hiện sao cho linh hoạt, mềm dẻo trở nên hết sức quan
trọng.
Nhìn chung, ngành may xứng đáng là một trong những ngành chủ lực trong
chiến lược xuất khẩu của Ấn Độ. Đó cũng là một trong những ngành có thu nhập
ngoại tệ nhiều nhất ở Ấn Độ, chiếm gần 16% lượng hàng xuất khẩu của nước này.
Hàng may mặc của Ấn Độ được đánh giá cao tại các thị trường lớn ở Châu Âu, Mỹ,
các nước Bắc Âu và Úc. Chính sách tự do hoá nhập khẩu và hỗ trợ xuất khẩu thời kì

cải cách đã góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của các nhà sản xuất Ấn Độ về
năng suất, công nghệ và mẫu mã với các đối thủ Châu Á khá hùng mạnh như Thái
Lan, Trung Quốc, Hồng Kông, Hàn Quốc và Đài Loan.
4.4. Bài học kinh nghiệm.
4.4.1. Các đặc điểm chung của DMVN và dệt may các nước trên
Về vị thế ngành: Việt Nam và các nước trên đều xác định phát triển dệt may
thành ngành công nghiệp mũi nhọn của đất nước. Ngành dệt may đều chiếm vị trí
quan trọng trong kim ngạch xuất khẩu và GDP của đất nước. Đều thu hút lượng lớn
lao động tham gia vào ngành.
20
SV: Đoàn Thị Hoài Thương Lớp: Kế hoạch 48A
Báo cáo thực tập tốt nghiệp
Về thị trường: Ngành CNBT có thị trường tiêu thụ chủ yếu là ngành công nghiệp
dệt may trong nước, hàm lượng sản phẩm bổ trợ dệt may xuất khẩu còn thấp.
Về vốn: Chủ yếu sử dựng nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
Về cơ chế quản lý: Phát triển dưới sự định hướng của nhà nước. Đều được nhà
nước tạp điều kiện phát triển thông qua các chính sách khuyến khích phát triển cả
tầm vi mô và vĩ mô cả công nghiệp dệt may và bổ trợ
Về nguồn lực con người: Đều có nguồn nhân công dồi dào, chăm chỉ, chịu khó.
Chủ yếu là lao động phổ thông có tay nghề hạn chế làm việc với mức lương thấp.
Về điều kiện tự nhiên: Đều có khí hậu thuận lợi cho việc trồng bông, đay, nuôi
tằm. Đều có nguồn nhiêu liệu dồi dào, đa dạng và sẵn có trong nước.
4.4.2.Những chính sách và hướng phát triển hay của các nước có thể áp dụng
được ở Việt Nam.
Trên cơ sở phân tích những đặc điểm tương đồng của Việt Nam và các nước
trên, Việt Nam có thể học hỏi, áp dụng một số chính sách và hướng phát triển hay của
các nước đó.
- Tận dụng tối đa lợi thế so sánh của Việt Nam có được bới nguồn lao động dồi
dào và mức lương thấp so với các nước khác. Bên cạnh đó quy hoạch khai thác
những vùng có điều kiện tự nhiên thuận lợi cho việc trồng bông, dâu...Khai thác sử

dụng hiệu quả nguồn nguyên liệu sẵn có trong nước, mục tiêu nâng cao tỷ lệ nội địa
hóa trong các sản phẩm dệt may, tạo lợi thế cho mặt hàng dệt may xuất khẩu
- Chú trọng đầu tư xây dựng một ngành dệt hoàn hảo, phục vụ tốt cho ngành
may trong nước hướng tới xuất khẩu. Trong đó vai trò định hướng và các chính sách
của chính phủ rất quan trọng. Thông qua các chính sách khuyến khích đầu tư, hỗ trợ
xuất khẩu, chính sách thuế cho các ngành bổ trợ, thu hút đầu tư nước ngoài bằng cơ
sở hạ tầng hiện đại, môi trường đầu tư thuận lợi.
21
SV: Đoàn Thị Hoài Thương Lớp: Kế hoạch 48A
Báo cáo thực tập tốt nghiệp
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NGÀNH CÔNG NGHIỆP BỔ TRỢ NGÀNH
DỆT MAY VIỆT NAM.
I. Tổng quan về ngành DMVN.
1.1. Lịch sử hình thành và phát triển ngành DMVN.
Ngành Dệt - May VN có vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Ngành
cung cấp các mặt hàng thiết yếu cho xã hội, giải quyết việc làm cho một lực lượng
lớn lao động, đồng thời đã mang lại nguồn ngoại tệ lớn từ xuất khẩu và đóng góp một
nguồn thu cho ngân sách Nhà nước. Giá trị sản xuất công nghiệp của Ngành chiếm
bình quân trên 9% toàn ngành công nghiệp, kim ngạch xuất khẩu chiếm 14,6% so với
tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước và đã tạo việc làm cho gần một triệu lao động
công nghiệp.Quá trình hình thành và phát triển của ngành qua các giai đoạn như sau:
Từ 1954 - 1975 : Giai đoạn vừa xây đụng, vừa chiến đấu và chi viện cho tiền
tuyến lớn.
Được sự quan tâm, chăm lo phát triển của Đảng và Nhà nước, Ngành Dệt -
May đã phát triển nhanh chóng. Lực lượng sản xuất tăng nhanh với nhiều nhà máy
mới được xây dựng. Đội ngũ công nhân đông đảo hàng vạn người đã hăng say lao
động với tinh thần ''mỗi người làm việc bằng hai'' theo lời kêu gọi của Bác Hồ kính
yêu để tăng nhanh sản lượng hàng hóa nhằm đảm bảo nhu cầu cơ bản về sợi, vải
chăn, màn, bông băng y tế cho nhân dân và cho lực lượng vũ trang. Với khẩu hiệu

''Tất cả cho tiền tuyến - Tất cả để đánh thắng giặc Mĩ xâm lược'', mặc dù cuộc chiến
tranh phá hoại miến Bắc ngày càng ác liệt, nhưng công nhân quyết tâm bám ca, bám
máy với tinh thần đội bom để sản xuất liên tục, hoàn thành xuất sắc các chỉ tiêu kế
hoạch Nhà nước giao. Vì vậy, Ngành đã chi viện đầy đủ người và của cho tiền tuyến
lớn ''vải không thiếu một mét, quân không thiếu một người''. Từ phong trào thi đua
sản xuất và anh dũng chống chiến tranh phá hoại thời kì này, nhiều cán bộ, công nhân
Ngành Dệt - May đã được Đảng và Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lao
động và nhiều tổ đội lao động xã hội chủ nghĩa. Những thành tích này đã tô thắm lá
cờ truyền thống của Ngành Dệt - May Việt Nam trong một giai đoạn vẻ vang nhất
22
SV: Đoàn Thị Hoài Thương Lớp: Kế hoạch 48A
Báo cáo thực tập tốt nghiệp
của dân tộc ta.
Các DN Dệt – May lúc này hoàn toàn do nhà nước nắm giữ, gồm toàn bộ các
DN dệt, may lớn (sau này thuộc Tổng công ty Dệt – May Việt Nam ) đã sản xuất gần
100% sản lượng sợi, vải, quần áo, chăn màn, bông băng y tế đề cung cấp cho nhân
dân theo định lượng và bảo đảm đủ, kịp thời nhu cầu cho các lực lượng vũ trang với
hàng tỉ mét vải hàng trăm triệu bộ quần áo.
Từ 1976 - 1990: Thời kì xây dựng hoà bình và hợp tác toàn điện với các nước
XHCN.
Ngành Dệt - May Việt Nam đã phát triền nhanh chóng về năng lực sản xuất do
tiếp quản toàn bộ các nhà máy, xí nghiệp Dệt - May ở phía Nam và tiếp tục xây nhiều
nhà máy lớn trên cả nước như Nhà máy Sợi Hà Nội, Sợi Vinh, Sợi Huế, Sợi Nha
Trang, Dệt Kim Hoàng Thị Loan...
Trong các kế hoạch 5 năm (1976-1980, 1981-1985 và 1986- 1990), bằng nhiều
phong trào thi đua lao động sáng tạo, phát huy sáng kiến, cải tiến kĩ thuật, Ngành Dệt
- May VN đã hoàn thành xuất sắc trước thời hạn các chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước
giao, bảo đảm các nguyên liệu cho sản xuất, vải, quần áo, chăn màn... cho tiêu dùng
và là đầu mối xuất nhập khẩu, trao đổi hàng hoá theo nghị định thư hàng năm với các
nước xã hội chủ nghĩa, tạo việc làm và đổi về từ 55 - 60 ngàn tấn bông xơ mỗi năm

từ Liên Xô.
Cho đến năm 1990, Ngành đã có quy mô: về dệt có 129 DNNN, 1.979 HTX và
hộ cá thể về may có 166 DNNN, 620 HTX và hộ cá thể. Năng lực thiết bị có 860.000
cọc sợi và 2000 rô to, 43.000 máy dệt (kể cả khung dệt thủ công), 60.000 thiết bị và
máy may. Đã xây dựng 1 Viện công nghệ sợi dệt và 1 Trung tâm nghiên cứu may.
Toàn Ngành có trên 2.000 tiến sĩ, phó tiến sĩ và kĩ sư công nghệ dệt may.
Sản lượng thực hiện cuối năm 1990 đạt 50 ngàn tấn sợi và hơn 450 triệu mét
vải (khổ 0,80m), sản xuất 150 triệu sản phẩm may.
Từ 1991- 1999: Sản xuất kinh doanh trong cơ chế thị trường theo định
hướng XHCN
Tuy quy mô công suất thiết bị đã tăng lên nhanh chóng trong thời kì kế
23
SV: Đoàn Thị Hoài Thương Lớp: Kế hoạch 48A
Báo cáo thực tập tốt nghiệp
hoạch hoá, nhưng do mới chỉ làm ra được những sản phẩm chất lượng trung bình và
thấp nên khi chuyển sang cơ chế thị trường, Ngành Dệt - May VN đứng trước những
khó khăn hết sức gay gắt: Thiết bị công nghệ sợi, nhuộm, hoàn tất (khoảng 50%) cũ
kĩ, lạc hậu, đã sử dụng 30 - 40 năm (có nhà máy đã sử dựng 50 - 60 năm); Máy dệt đa
phần khổ hẹp, tiêu hao năng lượng và lao động cao; Thiếu vốn cho đầu tư đổi mới
công nghệ và thiếu kĩ năng quản trị DN trong cơ chế thị trường. Nhưng nhờ có
đường lối đổi mới đúng đắn của Đảng và Nhà nước, được sự phối hợp của các bộ,
ngành trong việc mở thị trường mới, cùng với tinh thần lao động sáng tạo của đội ngũ
cán bộ, công nhân, các DN đã mạnh dạn đầu tư nâng cấp thiết bị cũ và đầu tư công
nghệ mới để sản xuất ra những sản phẩm theo yêu cầu thị trường. Bên cạnh đó, với
luật khuyến khích đầu tư nước ngoài, các xí nghiệp liên doanh và 100% vốn nước
ngoài bắt đầu đầu tư vào lĩnh vực dệt may. Trong vòng 10 năm, có gần 170 dự án với
số vốn đăng kí hơn 1.600 triệu USD, đã góp phần làm cho Ngành Công nghiệp Dệt -
May VN có sự phát triển mới cả về quy mô, trình độ công nghệ, mẫu mã hàng hóa và
kim ngạch xuất khẩu. Vì vậy, đến cuối năm 1999, hơn 30% thiết bị dệt và 95% thiết
bị may đã được đầu tư bằng thiết bị, công nghệ tiên tiến. Công suất kéo sợi đạt 177

ngàn tấn, đã sản xuất gần 100 ngàn tấn, trong đó có các loại sợi chi số cao cho hàng
dệt kim và dệt vải cao cấp. Tổng sản lượng vải đạt khoảng 500 triệu mét (khổ 0,8m),
sản phẩm dệt kim đạt 34.000 tấn, khăn bông 10.000 tấn, mền chăn 1 triệu chiếc, thảm
len hơn 5 triệu m2, sản phẩm may khoảng 250 triệu sản phẩm. Tổng số lao động sử
dụng gần một triệu người, trong đó, số có trình độ kĩ sư trở lên hơn 3000 người. Có 2
viện và 1 trung tâm nghiên cứu, 4 trường đào tạo trung học và công nhân lành nghề.
Các Trường Đại học Bách khoa Hà Nội và Đại học Kĩ thuật thành phố Hồ Chí Minh
đều có khoa đào tạo kĩ sư công nghệ sợi, dệt, nhuộm.
Từ năm 1991 - 1999, Ngành Dệt - May VN đã có những thay đổi về chất rất
quan trọng, từ thiết bị công nghệ đến sản phẩm (nhất là công nghệ may và sản phẩm
may). Từ chỗ chỉ sản xuất phục vụ nhu cầu tiêu dùng của nhân dân trong nước và
thực hiện một phần theo Nghị định thư với Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu,
đầu vào, đầu ra do Nhà nước quyết định, các DN Dệt - May VN đã thực hiện từ khâu
đầu đến khâu cuối, tự chọn mua nguyên phụ liệu, tổ chức sản xuất đến tiêu thụ sản
24
SV: Đoàn Thị Hoài Thương Lớp: Kế hoạch 48A
Báo cáo thực tập tốt nghiệp
phẩm, tự định giá mua, giá bán... Đến nay, sản phẩm dệt may VN đã thoả mãn một
phần nhu cầu của người tiêu dùng trong nước và có kim ngạch xuất khẩu lớn sang
các thị trường khó tính trên thế giới như EU, Nhật Bản, Mĩ, Canađa...
Thời kỳ 1991 - 1999, toàn Ngành đạt tốc độ tăng trưởng bình quân khoảng
10%/năm. Kim ngạch xuất khẩu luôn đứng thứ hạng cao trong 10 mặt hàng xuất khẩu
chủ lực của cả nước, chỉ sau dầu thô nhưng dẫn đầu các ngành chế biến xuất khẩu,
đạt gần 1,7 tỉ USD (năm 1999), trong đó hơn 60% sản phẩm xuất khẩu sang thị
trường phi hạn ngạch, chiếm 14,6% kim ngạch xuất khẩu cả nước. Tạo việc làm cho
gần một triệu lao động công nghiệp, chưa kể số lao động sản xuất nguyên liệu trồng
bông, trồng đay, trồng dâu nuôi tằm).
Giai đoạn 2000 – 2006 : Chuẩn bị cho quá trình gia nhậpWTO
Từ năm 2000, ngành dệt may bắt đầu thực hiện chiến lược tăng tốc đầu tư,
nhằm đáp ứng mục tiêu đảm bảo phần lớn nguyên phụ liệu sản xuất trong nước cho

may xuất khẩu. Chỉ sau hơn 2 năm thực hiện, năng lực ngành sợi đã tăng gấp đôi, từ
1 triệu cọc được nâng lên 2 triệu cọc sợi. Trong đó có những DN đầu tư thiết bị kéo
sợi hiện đại như Phong Phú, Công ty 28, Sợi Phú Bài; đầu tư thiết bị sợi của Nhật
Bản như Đông Nam, Thành Công, Việt Thắng, Nam Định, Thắng Lợi… Trong giai
đoạn này, ngành dệt may đã có những bước tăng trưởng nhanh chóng, đóng góp đáng
kể vào nền kinh tế đất nước. Từ năm 2000 đến nay, ngành DMVN đã đạt mức tăng
trưởng bình quân trên 20%/năm, thu hút gần 2 triệu lao động, đóng góp 15% tổng
kim ngạch xuất khẩu cả nước. Nếu năm 2001, Việt Nam chưa có tên trong danh sách
25 nước xuất khẩu hàng may mặc hàng đầu vào thị trường Mỹ, thì đến năm 2002, sau
khi quy chế quan hệ bình thường Việt - Mỹ được thông qua, Việt Nam đã vươn lên vị
trí thứ 20 và giành vị trí thứ 5 vào năm 2003 khi đạt kim ngạch xuất khẩu vào Hoa
Kỳ 3,6 tỉ USD. Khi Hoa Kỳ áp dụng quota nhập khẩu đối với một số mặt hàng may
mặc của Việt Nam, hàng DMVN tụt xuống vị trí thứ 7. Nhưng đến năm 2006, hàng
DMVN đã trở lại vị trí thứ 5,phát triển thị trường nội địa tăng trưởng 15%, doanh số
bán lẻ ước đạt 2.05 tỉ USD; Xuất khẩu đạt 5.92 tỉ USD (tăng 24%); Giá trị sản xuất
công nghiệp ngành dệt may tăng trưởng 16%.
Từ năm 2006 đến nay: Giai đoạn Việt Nam gia nhập WTO.
25
SV: Đoàn Thị Hoài Thương Lớp: Kế hoạch 48A

×