Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Một số biện pháp chỉ đạo thực hiện chương trình giáo dục mầm non ở trường mầm non thị trấn, thường xuân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (901.03 KB, 18 trang )

Mục lục
Mục lục........................................................................................1
1.2. Mục đích nghiên cứu:........................................................................2
1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:....................................................2
1.4. Phương pháp nghiên cứu:..................................................................2
2.4. Các giải pháp sử dụng để giải quyết vấn đề.....................................5
3.2. Kiến nghị...........................................................................................16

1. Mở đầu:
1.1. Lí do chọn đề tài
Giáo dục mầm non là bậc học đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân,
là nền tảng đầu tiên của ngành Giáo dục đào tạo. Chất lượng chăm sóc, giáo dục
trẻ ở trường mầm non tốt có tác dụng rất lớn đến chất lượng giáo dục ở bậc học
tiếp theo.
Bởi thế, sinh thời Chủ Tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đặc biệt đến sự
nghiệp giáo dục mầm non. Người đã dạy:“ Phát triển giáo dục mầm non tốt sẽ
mở đầu cho một nền giáo dục tốt”. Thực hiện di huấn của người, trong quan
điểm phát triển giáo dục của Đảng và Nhà nước ta cũng đã xác định: “Cần đẩy
mạnh việc chăm lo phát triển giáo dục mầm non”. Và chỉ rõ mục tiêu, nhiệm vụ
quan trọng của giáo dục mầm non là nhằm giáo dục toàn diện cho trẻ về thể
1


chất, tình cảm, đạo đức, thẩm mỹ, trí tuệ, là cơ sở để hình thành nên nhân cách
con người mới và chuẩn bị những tiền đề cần thiết cho trẻ bước vào trường tiểu
học được tốt.
Muốn nâng cao chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ ở trường mầm non thật
tốt thì một trong những yêu cầu đặt ra đối với người cán bộ quản lý là phải luôn
tích cực tìm tòi, nghiên cứu, khảo nghiệm thực tiễn để đưa ra các giải pháp tối
ưu nhằm nâng cao hiệu quả quản lý, chỉ đạo thực hiện chương trình giáo dục
trong nhà trường.


Hiện tại, công tác giáo dục trẻ ở trường mầm non Thị Trấn Thường Xuân
chúng tôi cũng đã thực hiện Chương trình giáo dục mầm non mới. Là một trong
những đơn vị đầu tiên ở địa bàn huyện miền núi Thường Xuân được tiếp cận với
chương trình giáo dục mầm non, trong gần 5 năm thực hiện, từ thực hiện thí
điểm đến thực hiện đại trà, bản thân tôi luôn trăn trở để tìm ra những hướng đi,
giải pháp, cách thức phù hợp với đặc điểm của đơn vị mình và bước đầu cũng đã
thu được kết quả như mong đợi. Đến nay, hướng đi trong việc thực hiện chương
trình đã tương đối rõ ràng, tạo tiền đề, điều kiện cho việc thực hiện mục tiêu
chăm sóc giáo dục trẻ phù hợp với điều kiện của một trường ở nông thôn vùng
cao. Việc thực hiện chương trình trong nhà trường đã được xây dựng theo tinh
thần đổi mới đồng bộ từ mục tiêu, nội dung, phương pháp, các hình thức tổ chức
hoạt động, cách thức đánh giá đến điều kiện thực hiện chương trình. Trong đó,
đổi mới mục tiêu, nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức hoạt động giáo dục
là yếu tố cốt lõi. Đây là chương trình mang tính chuẩn mực và có tính linh hoạt,
mềm dẻo làm cơ sở cho việc lựa chọn những nội dung giáo dục cụ thể, phù hợp
với kinh nghiệm sống và khả năng của trẻ. Song hiện nay, việc thực hiện chương
trình giáo dục mầm non mới trên thực tế chưa phát huy được thế mạnh của nó,
bởi vì trong tổ chức thực hiện chương trình dạy học ở mầm non còn tồn tại nhiều
nhận thức chưa thật tinh tế, toàn diện.
Vì thế là cán bộ quản lý trực tiếp chỉ đạo, triển khai việc thực hiện chương
trình giáo dục mầm non, tôi đã mạnh dạn chọn đề tài “Một số biện pháp chỉ đạo
thực hiện chương trình giáo dục mầm non ở Trường Mầm non Thị trấn, Thường
Xuân tỉnh, Thanh Hóa” làm đề tài nghiên cứu. Kết quả của Sáng kiến kinh
nghiệm này hy vọng sẽ giúp cho các nhà quản lý và giáo viên mầm non hiểu
nhiều hơn và thực hiên tốt hơn về chương trình giáo dục mầm non.
1.2. Mục đích nghiên cứu:
Nhằm đưa ra một số giải pháp góp phần nâng cao chất lượng chỉ đạo thực
hiện chương trình giáo dục mầm non ở trường Mầm non Thị trấn Thường Xuân,
góp phần nâng cao chất lượng giáo dục trẻ mầm non trong giai đoạn hiện nay.
1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:

Đề tài tập trung nghiên cứu thực trạng và đề xuất các biện pháp nhằm tiếp
tục đổi mới, nâng cao chất lượng chỉ đạo thực hiện chương trình giáo dục giáo
dục mầm non ở trường mầm non Thị trấn, Thường Xuân
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
- Nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết
2


- Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
+ Phương pháp điều tra
+ Phương pháp thống kê
+ Phương pháp tổng kết, rút kinh nghiệm
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lý luận:
Chương trình giáo dục mầm non mới được xây dựng theo quan điểm giáo
dục tích hợp, lấy trẻ làm trung tâm đảm bảo nguyên tắc đồng tâm phát triển, tạo
điều kiện cho mỗi trẻ được hoạt động tích cực, đáp ứng nhu cầu và hứng thú của
trẻ trong quá trình chăm sóc giáo dục. Đây là khung chương trình mở cho cho
phép giáo viên được chủ động, linh hoạt, sáng tạo trong việc vận dụng phương
pháp dạy học và hình thức dạy học, phát huy tính chủ động, tích cực của trẻ.
Nhằm phát triển toàn diện ở trẻ
Chương trình giáo dục mầm non thể hiện được mục tiêu giáo dục mầm
non: Cụ thể hoá các yêu cầu về công tác nuôi dưỡng chăm sóc trẻ ở từng độ
tuổi; quy định việc tổ chức các hoạt động nhằm tạo điều kiện cho trẻ phát triển
toàn diện về thể chất, tình cảm, thẩm mỹ, trí tuệ; hướng dẫn cách thức đánh giá
phát triển của trẻ ở lứa tuổi mầm non. Do đó, những người làm công tác chăm
sóc nuôi dưỡng giáo dục trẻ mầm non phải xác định được vị trí, vai trò, nội dung
và nhiệm vụ của mình trong công nuôi dưỡng chăm sóc trẻ, phải làm thế nào để
phát triển toàn diện về các mặt : “Thể chất, nhận thức, ngôn ngữ, tình cảm và kỹ
năng xã hội, thẩm mỹ”, tạo điều kiện cho trẻ phát huy khả năng sáng tạo của

mình có những thói quen hành vi tốt hình thành những cơ sở đầu tiên của nhân
cách con người mới xã hội chủ nghĩa: Khoẻ mạnh, nhanh nhẹn, cơ thể phát triển
hài hoà cân đối. Để thùc hiện được điều đó, đòi hỏi người cán bộ quản lý phải có
những biện pháp đổi mới trong công tác chỉ đạo thực hiện chương trình giáo dục
của nhà trường một cách khoa học và có hiệu quả, phù hợp với từng độ tuổi
nhằm nâng cao chất lượng giáo dục của nhà trường.
2.2. Cơ sở thực tiễn.
Trong những năm gần đây, với yêu cầu ngày càng cao của thực tiễn chăm
sóc giáo dục trẻ từ 0 - 6 tuổi. Thực tiễn đó đòi hỏi các trường mầm non phải tập
trung nâng cao chất lượng giáo dục trẻ. Đây cũng là nhiệm vụ, mục tiêu quan
trọng nhất của trường mầm non. Để thực hiện được tốt mục tiêu này thì cần phải
chỉ đạo và tổ chức thực hiện tốt chương trình giáo dục mầm non.
Tuy nhiên, việc thực hiện chương trình chăm sóc giáo dục trẻ hiện hành
còn bộc lộ những hạn chế bất cập. Nội dung giáo dục còn mang tính cứng nhắc,
chưa thích ứng với tình hình thực tế của địa phương cũng như khả năng tiếp cận
thực tế của trẻ, giáo viên tổ chức hoạt động còn máy móc, rập khuôn, chưa phát
huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của trẻ. Nhiều giáo viên khi lựa chọn
phương pháp dạy học và phương tiện dạy học để truyền tải nội dung chương
trình chưa linh hoạt nên có những nội dung dạy học chưa phù hợp với học sinh.
Dẫn tới khả năng gây hứng thú, thu hút trẻ vào tiết học chưa cao. Vì vậy việc
3


nâng cao chất lượng thực hiện chương trình giáo dục mầm non hết sức cần thiết
và quan trọng.
Với vai trò Hiệu trưởng của nhà trường, tôi đặc biệt quan tâm chỉ đạo xây
dựng kế hoạch thực hiện chương trình giáo dục trong nhà trường. Tôi luôn tập
trung chỉ đạo thực hiện kiểm tra, đánh giá sự việc thực hiện chương trình môn
học của giáo viên, tổ chức đánh giá phương pháp dạy của giáo viên qua từng
chương trình, đánh giá, khảo sát chất lượng giáo dục, xây dựng kỷ cương, nề

nếp trong nhà trường, phát huy tinh thần tự học, tự bồi dưỡng; nâng cao năng
lực sư phạm, chỉ đạo thực hiện giáo dục một cách khoa học nhằm thực hiện tốt
nhiệm vụ giáo dục trẻ.
Có thể nói, đối với mỗi người hiệu trưởng để thực hiên tốt chương trình
trong nhà trường cần đặc biệt quan tâm: Xác định rõ vai trò nhệm vụ để tìm ra
những biện pháp cụ thể, phù hợp nhằm nâng cao chất lượng thực hiện chương
trình giáo dục trẻ mầm non giúp trẻ được phát triển toàn diện. Là nền móng hình
thành nhân cách trẻ, làm cơ sở vững chắc cho các bậc học tiếp theo.
Từ thực tế trên, là người quản lý, cần xác định rõ việc nâng cao chất lượg chỉ
đạo thực hiện chương trình giáo dục chăm sóc trẻ mầm non là một trong những
nhiệm vụ quan trọng mà mình không được phép sao nhãng mà bằng mọi cách
phải xây dựng nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ được tốt hơn góp phần
vào việc xây dựng nền giáo dục xứng tầm với thời đại hiện nay.
2.3. Thực trạng việc thực hiện Chương trình giáo dục mầm non của
Trường mầm non Thị trấn, Thường Xuân
2.3.1. Đặc điểm tình hình chung
Trường Mầm non Thị trấn Thường Xuân là trường điểm trong cấp học
mầm non của huyện nhà. Đây là ngôi trường mầm non được Phòng GD&ĐT
Thường Xuân chọn làm thí điểm thực hiện chương trình giáo dục mầm non mới
từ năm 2008 - 2009 khi Sở giáo dục triển khai chuyên đề. Trong những năm qua
nhà trường đã có nhiều đóng góp tích cực vào sự nghiệp giáo dục của huyện
nhà, trường liên tục đạt danh hiệu tiên tiến xuất sắc và đã được các cấp khen
thưởng.
- Biên chế năm học: Năm học 2015 – 2016, Trường mầm non Thị trấn
Thường Xuân có tổng số nhóm lớp là: 16 lớp. Trong đó: Khu A có 8 lớp (4 lớp 4
- 5 tuổi, 4 lớp 5 - 6 tuổi, 4 nhóm trẻ 24-36 tháng); Khu B có 4 lớp 3 tuổi. Tổng
số trẻ là: 485 cháu. Trong đó, Nhà trẻ: 47 cháu, Mẫu giáo: 438 cháu. Trẻ nuôi
bán trú 485 cháu đạt tỷ lệ 100%
- Tình hình chất lượng đội ngũ giáo viên:
+ Tổng số CBGV: 45 đồng chí. Trong đó: Ban giám hiệu: 3 đồng chí,

Giáo viên: 33 đồng chí, Nhân viên: 9 đồng chí
+ Trình độ chuyên môn: Đại học: 23 đồng chí, Cao đẳng: 6 đồng chí,
Trung cấp: 14 đồng chí.
+ Trình độ lý luận chính trị: Trung cấp 2 đồng chí
- Tình hình công tác chỉ đạo thực hiệnchương trình giáo dục mầm non
của nhà trường
4


100% nhóm lớp thực hiện Chương trình giáo dục mầm non mới. BGH
nhà trường đã triển khai đầy đủ, kịp thời các văn bản của Sở GD&ĐT, của
phòng GD&ĐT đến tận đội ngũ Cán bộ giáo viên trong nhà trường về thực hiện
chương trình Giáo dục Mầm non. Chỉ đạo, hướng dẫn sát sao việc lập kế hoạch
và thực hiện chương trình giáo dục mầm non tại các nhóm lớp. Hướng dẫn giáo
viên cách nghiên cứu tài liệu, cách lập kế hoạch hoạt động, cách thiết kế mạng
nội dung, mạng hoạt động. Chỉ đạo giáo viên dạy lớp 5 tuổi thực hiện tốt bộ
chuẩn trẻ 5 tuổi. Thường xuyên chỉ đạo các tổ chuyên môn đẩy mạnh công tác
xây dựng tiết mẫu, hội thảo, chuyên đề cấp trường, cấp cụm về đổi mới phương
pháp dạy học. Tạo cơ hội cho giáo viên biết chia sẻ, hợp tác chặt chẽ và thống
nhất với nhau để hoàn thành các nhiệm vụ trong quá trình thực hiện chương
trình giáo dục mầm non.
2.3.2. Những thuận lợi khó khăn:
- Thuận lợi:
Bắt đầu thực hiện chương trình giáo dục mầm non, nhà trường luôn nhận
được sự quan tâm chỉ đạo từ phía Phòng giáo dục, đặc biệt là bộ phận phụ trách
chuyên môn của ngành. Sự ủng hộ của các cấp, các nghành ở địa phương, các tổ
chức xã hội và nhân dân trên địa bàn cả về vật chất lẫn tinh thần, đã có những
biện pháp chiến lược, từng bước tháo gỡ những khó khăn, quyết tâm xây dựng
trường trở thành trường chuẩn quốc gia. Nhà trường có đội ngũ giáo viên yêu
nghề, mến trẻ, có trình độ chuyên môn chuẩn và trên chuẩn, có tinh thần học

hỏi, chịu khó, kiên trì trong công việc.
- Khó khăn:
Cơ sở vật chất nhà trường tương đối đầy đủ nhưng các trang thiết bị trong
lớp vẫn chưa đồng bộ, chưa đáp ứng được nhu cầu học tập và vui chơi của trẻ.
Khi thực hiện chương trình mầm non. Nguồn kinh phí được cấp chưa đáp ứng
được nhu cầu tổ chức các hoạt động dạy học.
Giáo viên phần đa mới ra trường một vài năm nên kinh nghiệm đứng lớp
chưa nhiều, tác phong lên lớp còn rụt rè, e ngại và chưa thực sự chú trọng đến
việc thay đổi phương pháp cũng như hình thức lên lớp. Nhiều giáo viên trẻ đang
trong độ tuổi sinh đẻ, nuôi con nhỏ…Nên đã ảnh hưởng không ít tới chất lượng
chung thực hiện chương trình giáo dục của trường. Đây là một chương trình
mang tính chất mềm dẻo, do đó đòi hỏi người giáo viên phải hết sức linh hoạt.
Điều này thì không phải ai cũng làm được, bởi đội ngũ giáo viên nhà trường
mặc dù có trình độ chuẩn và trên chuẩn 100% nhưng khả năng sư phạm của từng
người lại không đồng đều. Phần lớn được đào tạo chắp vá qua nhiều hệ, nhiều
loại hình đào tạo nên năng lực thực tế chưa tương thích với trình độ đào tạo. Có
1 số đồng chí còn lơ mờ khi thực hiện chương trình, chưa nắm vững bản chất
của các hoạt động. Có đồng chí còn nhầm các nội dung ở mục tiêu của chủ đề
với nội dung ở mạng hoạt động...
2.4. Các giải pháp sử dụng để giải quyết vấn đề
2.4.1. Bồi dưỡng nâng cao nhận thức và kỹ năng sư phạm cho đội ngũ
giáo viên về việc thực hiện chương trình giáo dục mầm non.
5


Chất lượng đội ngũ giáo viên là một trong những yếu tố quyết định
tiên quyết đến chất lượng thực hiện chương trình giáo dục. Ảnh hưởng của
giáo viên đối với chất lượng giáo dục là hết sức lớn. Giáo viên là người lựa
chọn nội dung, phương pháp, phương tiện dạy học. Là người trực tiếp thực
hiện chương trình chăm sóc và giáo dục trẻ. Để thực hiện tốt chương trình

giáo dục mầm non, điều quan trọng nhất ở đây là vấn đề nhận thức của giáo viên
đối với chương trình cũng như những kỹ năng sư phạm mà giáo viên có được để
thực hiện chương trình một cách mềm dẻo, sáng tạo cho phù hợp với đối tượng
học sinh và môi trường sư phạm.
Nhận thức rõ điều đó, trong quá trình quản lý nhà trường tôi luôn đẩy
mạnh công tác bồi dưỡng nâng cao nhận thức và kỹ năng sư phạm cho đội ngũ
giáo viên về việc thực hiện chương trình giáo dục mầm non trong nhà trường.
Để thực hiện có hiệu quả chương trình, ngay từ đầu năm học tôi đã xây
dựng kế hoạch bồi dưỡng nâng cao nhận thức và kỹ năng sư phạm cho đội ngũ
giáo viên. Tôi lên kế hoạch cử giáo viên đi đào tạo, bồi dưỡng các chương trình
để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ và lý luận chính trị.
Ngay từ đầu năm học, tôi đã phân công giáo viên dạy các lớp phù hợp với
yêu cầu của từng độ tuổi và lập kế hoạch chăm sóc giáo dục trẻ phù hợp vời tình
hình thực tế của địa phương, của nhà trường.
Để giúp giáo viên tiếp cận tốt với chuyên môn những vấn đề mới nhất và
những chuyên đề trọng tâm, nhà trường tổ chức cho giáo viên được tham gia các
lớp tập huấn chuyên đề do Phòng giáo dục và Sở giáo dục tổ chức. Sau mỗi đợt
học tập đó, nhà trường thường tổ chức thành các buổi sinh hoạt chuyên đề với
nội dung cụ thể để giáo viên thảo luận, trao đổi, dạy thực nghiệm để rút kinh
nghiệm. Tổ chức cho giáo viên làm bài tập thực hành theo tổ, nhóm nhỏ từ đó
giúp giáo viên hiểu sâu hơn những nội dung vừa tiếp thu và ứng dụng chúng vào
thực tế giảng dạy trẻ cho phù hợp.
Hàng tháng, tổ chuyên môn sinh hoạt từ 1- 2 lần. Qua các buổi họp giáo
viên thảo luận, nêu lên những vấn đề còn khúc mắc của mình trong quá trình
thực hiện chương trình trong từng tuần. Hơn thế nữa là có kinh nghiệm hay thì
chia sẻ với đồng nghiệp. Qua đó giúp giáo viên hiểu sâu hơn về những vấn đề
cần quan tâm đồng thời thực hiện được việc bồi dưỡng và tự bồi dưỡng, giải
quyết những thắc mắc về cách tổ chức các hoạt động cũng như việc thực hiện
chương trình. Trong các buổi họp này giáo viên sẽ được góp ý, giúp đỡ trực tiếp
cho từng giáo viên đứng lớp trong việc xây dựng kế hoạch cũng như quá trình

thực hiện quan sát, đánh giá trẻ.

6


Nhà trường luôn đẩy mạnh công tác tổ chức thao giảng, dự giờ trong
trường. Tổ chức thao giảng thi giáo viên giỏi các cấp. Khi có các hoạt động sinh

hoạt chuyên môn theo chủ đề, chủ điểm thì chỉ đạo giáo viên dự giờ thăm lớp để
qua đó cọ sát chuyên môn, rút ra những kinh nghiệm hữu ích trong thực hiện
chương trình giảng dạy.
Để nâng cao chất lượng thực hiện chương trình giáo dục, tôi đã chỉ đạo
thành lập tổ thanh tra, giám sát chuyên môn. Tổ giám sát chuyên môn sẽ tổ chức
dự giờ theo định kỳ và cả dự giờ đột xuất. Tuy nhiên, việc dự giờ đột xuất kiểm
ít được báo trước những với giáo viên mới vào nghề được báo trước 1 ngày,
những giáo viên còn lại được báo trước từ 15 - 30 phút tuỳ từng hoạt động.
Sau mỗi hoạt động được dự giờ tổ chức cho giáo viên góp ý chỉ rõ những
ưu, khuyết điểm của hoạt động đó để giáo viên rút kinh nghiệm. Đối với những
giáo viên còn hạn chế về mặt chuyên môn, nghiệp vụ tôi sẽ phân công giáo viên
có kinh nghiệm vững vàng giúp đỡ chuyên môn. Và sẽ tổ chức cho đi dự giờ học
hỏi kinh nghiệm đồng nghiệp nhiều hơn. Sau đó sẽ thực hiện dự giờ các hoạt
động dạy học của các đồng chí đó để kiểm chứng sự tiến bộ của giáo viên trong
hoạt động này.
Tổ chức cho giáo viên được đi học tập, tham quan các mô hình dạy học ở
các trường mầm non trong huyện ,tỉnh. Để quan sát môi trường hoạt động trong
và ngoài lớp học ở các địa phương trong tỉnh. Từ đó, nâng cao kinh nghiệm thực
tiễn, giúp giáo viên ứng dụng sáng tạo trong việc trang trí vào trường, lớp mình
một cách sinh động, hợp lý. Ngoài việc học tập, học hỏi lẫn nhau giữa giáo viên,
thì việc trau dồi kiến thức qua tài liệu, sách vở cần được quan tâm. Thành lập tủ
sách, mua sắm, sưu tầm nhiều loại sách báo, tập san, tài lệu liên quan đến giáo

dục mầm non, nhất là giáo dục mầm non để giáo viên tham khảo, qua đó bổ trợ
thêm kiến thức và hiểu biết cho giáo viên về chương trình giáo dục mầm non.
7


2.4.2. Tổ chức hướng dẫn cho giáo viên lập kế hoạch thực hiện chương
trình giáo dục mầm non mới
Kế hoạch giáo dục giúp cho việc thực hiện mục tiêu một cách đầy đủ, có
hệ thống, giúp giáo viên dự kiến trước thời gian, nội dung để tổ chức chương
trình giáo dục một cách hiệu quả.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của việc xây dựng kế hoạch thực hiện
chương trình giáo dục mầm non mới trong nhà trường. Để lập kế hoạch chăm
sóc, giáo dục trẻ, tôi căn cứ vào thực trạng đã khảo sát về chất lượng trẻ và
hướng dẫn giáo viên xây dựng kế hoạch thực hiện chương trình cụ thể cho từng
độ tuổi, sau đó phổ biến cho giáo viên chủ nhiệm lớp làm căn cứ xây dựng kế
hoạch phù hợp với trẻ lớp mình phụ trác.
Với vai trò là hiệu trưởng tôi giao nhiệm vụ cho Ban chuyên môn phụ
trách xây dựng kế hoạch nhiệm vụ chung của năm học. Sau khi thu thập và xử lí
các thông tin, tập hợp số liệu và hình thành bản kế hoạch tổng thể thực hiện
chương trình. Khi đã hình thành bản kế hoạch tổng thể thực hiện chương trình
giáo dục nhà trường, tôi tổ chức họp công bố các chỉ tiêu, nhiệm vụ của năm học
đã được dự kiến và hướng dẫn giáo viên xây dựng kế hoạch cá nhân trên tinh
thần của kế hoạch nhà trường.
Đối với các kế hoạch thực hiện chương trình giáo dục của giáo viên. Tôi
luôn chấp nhận những kế hoạch giáo dục phù hợp với điều kiện nhà trường, đối
tượng giáo dục và phát huy tốt hoạt động giáo dục. Để kế hoạch giáo dục không
mang tính hình thức, tôi thường khuyến khích giáo viên thể hiện những ý tưởng
mới, sáng tạo, không khắt khe, gò ép theo khuôn mẫu. Kế hoạch giáo dục phải
của riêng giáo viên, không viết dài dòng, mang tính cá nhân.
Để giáo viên xây dựng đươc kế hoạch thực hiện chương trình giáo dục

cần đáp ứng được mục tiêu: nhằm cụ thể hoá nội dung trong chương trình, phù
hợp với đặc điểm của từng trẻ, phù hợp với điều kiện vật chất của lớp, của
trường và văn hoá của địa phương, từ đó giúp giáo viên chủ động trong việc tiến
hành tổ chức thực hiện các hoạt động giáo dục và giúp trẻ phát triển theo mục
tiêu yêu cầu đã đề ra.
Yêu cầu giáo viên khi lên kế hoạch thực hiện một chương trình giáo dục
nào cũng phải dựa vào mục tiêu cần đạt ở cuối độ tuổi mà mình đang dạy để xây
dựng kế hoạch giáo dục. Kết hợp với kết quả mong đợi trong chương trình giáo
dục mầm non, các tiêu chí đánh giá trẻ trong lớp mình và cơ sở vật chất có trong
lớp, trong trường. Từ đó cụ thể hoá nội dung và dự kiến chủ đề, thời gian thực
hiện. Nội dung trong chương trình là những vấn đề cơ bản, cốt lõi. Vì vậy giáo
viên phải cụ thể nội dung và xác định phương pháp, phương tiện dạy học phù
hợp với đặc điểm trẻ của lớp mình và phù hợp với địa phương.
VD: Trong lĩnh vực phát triển thể chất. Nội dung giáo dục dinh dưỡng của
trẻ 5 tuổi làm quen với một số thao tác đơn giản trong chế biến món ăn, thức
uống. Giáo viên phải lựa chọn món ăn, thức uống nào cho phù hợp với trẻ ở địa
phương như: Làm món trộn (nộm), rán trứng, làm muối lạc, vừng ... Pha nước
cam, chanh, làm nước hoa quả...những món ăn thức uống này phù hợp với trẻ từ
8


đó mới kích thích trẻ hoạt động tích cực, bởi những món ăn, thức uống này trẻ
đã được ăn, được uống thường xuyên.
Việc cụ thể nội dung sẽ tạo ra một bản kế hoạch năm mang nét riêng biệt.
Từ đó nội dung cụ thể của từng lĩnh vực, giáo viên dự kiến chủ đề và thời gian
thực hiện dựa vào gợi ý mà chuyên môn đưa ra.
Đối với việc xây dựng kế hoạch thực hiện chương trình giáo dục theo chủ
đề. Chúng tôi hướng dẫn giáo viên khi xác định nội dung chủ đề phải bám sát
vào nội dung chương trình đã được cụ thể trong bản kế hoạch giáo dục năm. Nội
dung của chủ đề là một phần nội dung của chương trình và phù hợp với nhu cầu

và hứng thú của trẻ. Việc chọn chủ đề chỉ là cái cớ để chuyển tải nội dung
chương trình. Do đó, nếu chỉ quan tâm đến nội dung chủ đề thì sẽ không có
điểm dừng và không đáp ứng được mục tiêu của chương trình.
Việc xây dựng mạng nội dung giáo viên có thể xây dựng mạng nội dung
bằng cách liệt kê những nội dung của các lĩnh vực trong kế hoạch giáo dục năm
có liên quan đến chủ đề, sau đó nhóm những nội dung tương tự nhau thành chủ
đề nhánh. Mỗi chủ đề nhánh được thực hiện trong khoảng từ 1- 2 tuần. Mỗi chủ
đề lớn thường có từ 2 - 4 chủ đề nhánh, thời gian của mỗi chủ đề lớn không nên
kéo dài quá 5 tuần để tránh nhàm chán cho trẻ.
Việc hướng dẫn giáo viên xây dựng kế hoạch thực hiện chương trình giáo
dục giáo dục trong tuần. Chúng tôi yêu cầu giáo viên xây dựng kế hoạch tuần
không dựa vào một thời khoá biểu cứng nhắc mà chỉ phụ thuộc vào mạng hoạt
động. Với cách tiếp cận “Lấy trẻ làm trung tâm” đòi hỏi giáo viên phải quan sát
và nắm vững khả năng của từng trẻ trong lớp, xác định các kiến thức, hệ thống
kỹ năng cần dạy cho trẻ để linh hoạt sắp xếp các hoạt động vào các thời điểm
trong ngày một cách phù hợp.
Khi lập kế hoạch tuần, giáo viên cần lưu ý: Các nội dung được thực hiện
thông qua hoạt động học là những nội dung (bao gồm kiến thức và kỹ năng) mới
và chưa biết đối với trẻ. Những nội dung mà trẻ đã biết và quen thuộc thì tố chức
ở các thời điểm khác trong ngày (đón trẻ, trả trẻ, hoạt động góc, hoạt động ngoài
trời...)
2.4.3. tổ chức môi trường hoạt động cho trẻ
- Tổ chức môi trường phát huy tính tích cực độc lập của trẻ. Trẻ ở độ tuổi
mầm non đã có những biểu hiện đầu tiên của tính tích cực. Chính điều này đòi
hỏi người giáo viên phải tạo cơ hội cho trẻ được thể hiện mình, tự khẳng định
khả năng của trẻ trên tất cả các hoạt động, tin tưởng vào ý kiến của trẻ, tránh áp
đặt ý kiến lên trẻ. Khi tổ chức các hoạt động yêu cầu giáo viên đặc biệt lưu ý
đến cách nhìn, cách nghĩ và sự hứng thú của trẻ.
Khi tổ chức hoạt động góc, giáo viên cần tạo nhiều cơ hội cho trẻ được
chơi, chuẩn bị nhiều đồ chơi, trò chơi. Trước khi chơi, cô thường trò chuyện với

trẻ những gì liên quan đến chủ đề, vai chơi của trẻ. Trong quá trình chơi, cô để
trẻ tự thể hiện những hiểu biết của mình, tự chọn vai mà trẻ thích, tự do giao lưu
với bạn trong nhóm chơi. Cô là người quan sát, theo dõi trẻ làm gì, nói gì, đồng
thời can thiệp đúng lúc để trẻ chơi một cách tự nhiên.
9


Ảnh: Hoạt động góc
- Tổ chức môi trường cho trẻ tìm kiếm, khám phá
Bên cạnh tính tích cực, ham hiểu biết, tò mò, trẻ còn rất hiếu động, ham
thích được hoạt động. Vì thế, để thu hút trẻ vào các hoạt động có tính chất tìm
kiếm, khám phá, giáo viên cần phải biết lựa chọn các hoạt động phù hợp với lứa
tuổi, chuẩn bị thật chu đáo các điều kiện để trẻ được hoạt động trải nghiệm và
gây hứng thú, tạo tình huống để trẻ tham gia hoạt động trải nghiệm một cách tự
nhiên, hứng thú nhất.
Điều này sẽ giúp cho trẻ khẳng định mình, biết hoạt động cùng nhau theo
nhóm, biết chia sẻ các ý tưởng để hoàn thành sản phẩm, ở các lễ hội này, trẻ
không còn “ Chơi” để mà chơi nữa mà là chơi thật trong cuộc sống.
2.4.4. Cung cấp kiến thức về việc khám phá một chủ đề cho giáo viên:
Để thực hiện tốt một chủ đề, lưu ý cho giáo viên những vấn đề sau:
Nắm chắc 3 bước để phát triển 1 chủ đề:
Chủ đề giống như một câu chuyện có mở đầu, phần giữa và phần kết thúc.
Cấu trúc này giúp giáo viên tổ chức hoạt động theo sự phát triển những mối
quan tâm của trẻ và môi trường cá nhân với chủ đề học. Trong kế hoạch chuẩn
bị, giáo viên sẽ lựa chọn chủ đề (dựa vào sự quan tâm của trẻ, dựa vào chương
trình...). Giáo viên cũng phải vận dụng kinh nghiệm, kiến thức và ý tưởng của
bản thân đưa chúng vào mạng chủ đề. Mạng này sẽ tiếp tục được bổ sung thêm
trong quá trình khám phá và dùng để khám phá chủ đề.
Bước 1: Bắt đầu chủ đề
Bước 2: Phát triển chủ đề

Bước 3: Kết thúc chủ đề:
Lựa chọn chủ đề:
Khi lựa chọn chủ đề cần đảm bảo những yêu cầu sau:
- Chủ đề gần gũi với trẻ
- Chủ đề có thể tạo kinh nghiệm cho trẻ
10


- Gần gũi với các lĩnh vực xã hội
- Lựa chọn chủ đề phụ huynh có thể tham gia
- Liên kết các yếu tố tự nhiên, xã hội
- Có thể tạo hứng thú cho tất cả trẻ, chủ đề có thể phát triển bằng nhiều
cách khác nhau
- Chủ đề có thể ứng dụng nhiều kỹ năng cơ bản
- Phạm vi của chủ đề đúng mức, không rộng quá, không hẹp quá.
2.4.5. Tăng cường việc hướng dẫn giáo viên thực hiện tốt việc giáo dục
tích hợp các hoạt động một cách phù hợp.
Thực hiện chương trình giáo dục mầm non mới gắn liền với quan niệm “
Tích hợp”. Thế nhưng hiện nay, việc dạy theo hướng tích hợp vẫn còn bị nhiều
người quan niệm chưa thực sự đúng. Vì vậy, tôi luôn đẩy mạnh việc trang bị
quan điểm tích hợp cho giáo viên thực hiện chương trình giáo dục.
Việc giáo dục tích hợp cho trẻ không chú trọng vào việc trang bị kiến thức
mà chủ yếu nhằm phát triển toàn diện cho trẻ. Nếu giáo viên chú trọng việc
trang bị kiến thức thì khó có cơ hội giáo dục tích hợp. Đây là cách giúp giáo
viên tiết kiệm thời gian trong ngày để thực hiện các mục tiêu đã đặt ra.
VD: Khi dạy trẻ đánh răng, ngoài việc dạy cho trẻ thói quen vệ sinh, giáo
viên còn giúp trẻ học nhiều thứ khác như: Nhận biết đồ dùng, thiết bị vệ sinh, và
chức năng của chúng, cảm nhận, phân biệt được ướt, khô, quan sát được tuýp
đánh răng hết dần đi sau một thời gian, cảm nhận được tính chất của nước...
Giáo dục tích hợp luôn song hành với việc tổ chức học chủ động, tích cực

từ phía trẻ. Khi nào trẻ được khuyến khích chủ động hỏi, tự tìm hiểu, quan sát,
bày tỏ cảm xúc và thể hiện cách làm riêng... khi đó mới tạo cơ hội và tình huống
cho giáo viên mở rộng, tích hợp vào các nội dung giáo dục đã lên kế hoạch
trước.
Không nhất thiết lúc nào chúng ta cũng phải tích hợp. Có những hoạt
động đặc thù mà ở đó giáo viên cần phải hình thành những kỹ năng chuyên biệt
nào đó (ví dụ kỹ năng tạo hình ).

11


Tuy nhiên, giáo viên cũng nên bỏ một chút thời gian để trẻ tự mày mò
trước, sau đó hướng dẫn, làm mẫu những gì thực sự cần thiết và cho trẻ tự thực
hành càng nhiều càng tốt.
2.4.6. Tổ chức hướng dẫn cho giáo viên, cho trẻ cách làm đồ dùng, đồ
chơi phục vụ các hoạt động trong ngày
Thực hiện chương trình giáo dục mầm non, ngoài việc xây dựng kế
hoạch, xây dựng môi trường và tổ chức các hoạt động theo hướng tích hợp, nếu
không có sự đầu tư về đồ dùng, đồ chơi thì khó có thể thực hiện tốt các nội dung
của chương trình. Vì thế cần phát động phong trào làm đồ dùng đồ chơi đến mỗi
giáo viên, coi như đây là một tiêu chí đánh giá, xếp loại hàng tháng. Xuất phát
từ yêu cầu thực tế của từng khối lớp mà giáo viên tự sáng tạo, làm ra các loại đồ
dùng, đồ chơi từ các nguyên vật liệu phế thải, các loại nguyên liệu của địa
phương để tổ chức các hoạt động cho trẻ. Từ các loại đồ dùng, đồ chơi đó, trẻ
được khám phá các chủ đề các chủ đề theo nhiều hướng khác nhau, từ đó trẻ có
ham muốn khám phá và thích thú khi tham gia các hoạt động. Trong các buổi
sinh hoạt chuyên môn, mời những giáo viên có nhiều sáng tạo trong việc làm đồ
dùng, đồ chơi lên giới thiệu cách làm cũng như cách sử dụng các đồ chơi đó.
Các giáo viên khác trong trường có thể tham khảo hoặc góp ý thêm về phương
pháp, cách tổ chức, việc sử dụng đồ dùng, đồ chơi có hiệu quả hơn ở các độ tuổi

khác nhau.
Cùng với việc tổ chức hướng dẫn giáo viên làm đồ dùng, nhà trường cần
khuyến khích động viên giáo viên tổ chức, hướng dẫn cho trẻ làm đồ dùng, đồ
chơi sáng tạo. Để làm được điều này, giáo viên cần chuẩn bị các loại nguyên liệu
đa dạng, phong phú và cho trẻ tự lựa chọn, tự do suy nghĩ, nhứ lại và tự chọn ra
cách làm ra sản phẩm theo suy nghĩ riêng của mình. Trong quá trình thực hiện,
cô gợi sự hứng thú, sáng tạo và giúp trẻ những thao tác cần thiết để tạo ra sản
phẩm.( VD: Làm chuồn chuồn từ 1 thìa và giấy xốp, làm PTGT từ các vỏ hộp
sữa)
12


Ngoài ra, trong các dịp như: Họp phụ huynh, đầu chủ đề, ngày hội ngày
lễ... tuyên truyền, phát động cho các bậc phụ huynh làm đồ dùng, đồ chơi cho trẻ
chơi ở nhà hoặc mang đến lớp, đến trường cho bạn cùng chơi, nhất là các đồ
chơi dân gian, sử dụng các nguyên liệu địa phương. Qua đó tạo được mối quan
hệ khăng khít giữa nhà trường và gia đình trong việc làm đồ dùng, đồ chơi cho
trẻ thực hiện các chủ đề.
2.4.7. Tăng cường và khai thác hiệu quả các điều kiện về cơ sở vật chất,
thiết bị, đồ dùng, đồ chơi hiện có.
Ngay từ khi mới được đưa vào hoạt động, nhà trường đã nhận được sự
ủng hộ nhiệt tình của lãnh đạo Phòng giáo dục trong việc đầu tư mua sắm trang
thiết bị đồ dùng, đồ chơi. Ngoài ra, nhà trường đã vận động hội cha mẹ học sinh
ủng hộ nhà trường, mua sắm các loại trang thiết bị phục vụ cho công tác dạy và
học cũng như các hoạt động của trẻ trong ngày.
Cùng với việc mua sắm đồ dùng, đồ chơi mới nhà trường đã tổ chức rà
soát lại cơ sở vật chất hiện có của nhà trường và các nhóm lớp. Lên kế hoạch
mua bổ sung các thiết bị theo danh mục quy định, bổ sung các thiết bị như: Đèn
chiếu, máy tính sách tay, các đồ dùng phục vụ học tập, các loại sách phục vụ
công tác chuyên mon...

Lập kế hoạch sử dụng tối đa và hiệu quả diện tích sân vườn, không gian
trong và ngoài lớp học, các phòng chức năng để phục vụ các hoạt động đa dạng
của trẻ và phù hợp với hoạt động của từng nhóm lớp. Xây dựng và điều phối lịch
sử dụng của toàn trường. Theo dõi việc thực hiện của các nhóm lớp, tránh tình
trạng “ Học đồng loạt, chơi đồng loạt” không tận dụng được không gian hợp lý.
Phân bổ kinh phí một cách hợp lý, dành một phần thích đáng cho việc
mua học liệu để thực hiện các hoạt động khám phá của trẻ, các nguyên liệu để
giáo viên làm đồ dùng, đồ chơi. Tránh tình trạng giáo viên mất nhiều thời gian
cho việc tìm kiếm những thứ này.
13


Để tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị, đồ dùng phục vụ công tác
nuôi dưỡng, chăm sóc giáo dục trẻ. Tôi đã tích cực tham mưu với BCH phụ
huynh làm tốt công tác xã hội hoá giáo dục, mỗi năm sẽ bổ sung mua sắm một
số loại, ít sẽ thành nhiều.
Tham mưu với chính quyền địa phương về việc tu sửa và mua sắm mới
một số đồ dùng dạy và học như: bình đựng nước cho trẻ uống có dung tích lớn,
đảm bảo để đủ nước uống cho trẻ uống mùa hè. Bàn, ghế, giá góc, quét vôi ve...
Kết quả địa phương đảm nhận mua với 30 bộ bàn ghế và 6 bộ giá góc.
Tôi đã tham mưu và chọn đúng mẫu theo mong muốn của nhà trường.
Trong quá trình thực hiện chương trình, CSVC chỉ đáp ứng một phần,
điều quan trọng là giáo viên đứng lớp phải có nguồn tài liệu đủ theo danh mục
để thực hiệm nhiệm vụ chuyên môn. Ngay từ khi Phòng giáo dục cho các trường
đăng ký tài liệu tôi đăng ký tài liệu cho nhà trường:
Đối với tủ tài liệu chuyên môn của nhà trường phải mua đủ mỗi độ tuổi 1
bộ hướng dẫn thực hiện chương trình, các tài liệu liên quan đến các chuyên đề
đang thực hiện, các sổ sách theo quy định của Sở GD&ĐT. Bổ sung các bộ tranh
thơ, truyện, tranh theo chủ đề cho các lớp, đặc biệt các sách tranh hướng dẫn
chuyên đề Phát triển vận động.

2.4. Hiệu quả của SKKN
Bằng kinh nghiệm thực tiễn sau một thời gian áp dụng các biện pháp trên
chất lượng nhà trường được nâng lên rõ rệt, đội ngũ giáo viên kịp thời nắm bắt
thông tin, bồi dưỡng thường xuyên về nội dung, phương pháp thực hiện chương
trình. Các nhóm lớp đáp ứng tốt về cơ sở vật chất và trang thiết bị phục vụ cho
việc chăm sóc giáo dục trẻ, trang bị cho lớp 5 tuổi tương đối đầy đủ trang thiết
bị, đồ dùng đồ chơi đáp ứng Phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi, ứng
dụng công nghệ thông tin trong giáo dục, xây dựng nguồn tư liệu cho chủ đề.
Môi trường cho trẻ hoạt động trong và ngoài lớp đảm bảo kích thích được tư
duy, suy nghĩ độc lập cuả trẻ thông qua nội dung bài tập ở các góc chơi trong
lớp. Cán bộ quản lý chuyên môn, giáo viên các khối lớp đã nâng cao hiểu biết về
Chương trình giáo dục mầm non, tạo điều kiện cho giáo viên chủ động xây dựng
kế hoạch phù hợp với khả năng và điều kiện của lớp, kiến thức của trẻ để tổ
chức các hoạt động giáo dục trẻ. Điều quan trọng là giáo viên biết cách, chủ
động lập kế hoạch giáo dục theo chủ đề khi sử dụng kế hoạch giáo dục năm học
của ban giám hiệu, sử dụng các loại tài liệu theo độ tuổi đặc biệt đối với 5 tuổi
giáo viên linh hoạt lựa chọn các chỉ số trong bộ chuẩn để đưa vào mục tiêu của
chủ đề, lựa chọn nội dung phù hợp với độ tuổi.
* Kết quả đạt được thể hiện qua các hội thi, các đợt thanh tra, kiểm tra,
đánh giá của các cấp:
- Hội thi giáo viên giỏi:
+ Hội thi giáo viên dạy giỏi ở các cấp được đánh giá theo đúng khả năng.
Cấp trường số giáo viên đang trực tiếp giảng dạy tham gia 100%. Dạy đúng, dạy
đủ theo chương trình, nhiều tiết dạy có đầu tư, sáng tạo.
+ Hội thi giáo viên giỏi cấp huyện có 6 đồng chí tham dự
14


Lần thi thứ nhất: Vòng thi điều kiện đạt 100%.
Lần thi thứ 2: Vòng thi năng lực mỗi giáo viên làm bài kiểm tra năng lực,

kỹ năng sư phạm liên quan đến Chương trình giáo dục mầm non có 5/6 đồng chí
đạt điểm yêu cầu vòng 2
Lần thi thứ 3: Thi thực hành nghiệp vụ trên lớp, mỗi giáo viên thực hiện
2 hoạt động. Ở phần thi này có 5/5 đồng chí đạt điểm theo yêu cầu trong đó có 3
đồng chí đạt số điểm cao nhất trong vòng thi được ban tổ chức đánh giá cao về
công tác chuẩn bị, áp dụng công nghệ thông tin, linh hoạt sáng tạo trong phương
pháp tổ chức hoạt động thu hút được sự hứng thú của trẻ và phát huy được tính
tích cực của trẻ như đồng chí Đỗ Thị Thuỳ, Lê Thị Hiền, Phùng Thị Hằng.
- Hội thi "Bé khoẻ - Bé khéo tay": nhà trường có 6 cháu tham dự cấp
huyện. Trong hội thi các cháu đã thể hiện xuất sắc bài tập EROBIC với đội hình
và các động tác khoẻ khoắn, đều đẹp. Các cháu có chiều cao, cân nặng và hình
thể cân đối, với bài tập đồng đội và bài tập cá nhân các cháu đã thể hiện kỹ năng
tạo hình rất sáng tạo được ban tổ chức đánh giá rất cao. Kết quả đạt giải nhất tập
thể và đạt các giải cá nhân: 4 giải nhất, 2 giải nhì, nhất tập thể.
- Kết quả xếp loại về hồ sơ, giờ dạy của giáo viên
Loại tốt
Loại khá
Tống
Nội dung
Số
Số
số
Tỷ lệ
Tỷ lệ
lượng
lượng
Xếp loại hồ sơ
30 bộ
20
66.6

10
33.3
Xếp loại giờ dạy

30 giờ

21

70.0

9

30.0

Loại TB
Số
lượng

Tỷ lệ

0

0

0

0

- Kết quả chất lượng chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục
+ Về chất lượng giáo dục

Số trẻ đạt
Độ tuổi

Nhà trẻ
Mẫu giáo

Tổng
số

Tốt

Khá

Trung bình

Số trẻ
chưa đạt

Số
lượng

Tỷ lệ

Số
lượng

Tỷ lệ

Số
lượng


Tỷ lệ

Số
lượng

Tỷ
lệ

47

17

40.4

23

45.0

7

14.6

0

0

438

179


41.0

205

46.8

54

12.2

0

0

Có thể nói rằng trong những năm qua tôi đã dự kiến những kinh nghiệm
của mình đúc rút từ thực tiễn và tự học, tự bồi dưỡng để có những kiến thức
quản lý chỉ đạo chuyên môn. Những minh chứng về công tác kiểm định chất
lượng giáo dục mầm non như các bộ hồ sơ chuyên môn, hồ sơ phổ cập, hồ sơ
15


nuôi dưỡng, hồ sơ gíáo viên, sản phẩm của trẻ, kết quả giáo dục...đã thể hiện
được kết quả thực hiện Chương trình giáo dục mầm non của Trường mầm non
Thị trấn Thường Xuân mà đoàn đánh giá ngoài của Sở giáo dục & Đào tạo
Thanh Hoá đánh giá đạt mức độ II (ngày 15 tháng 10 năm 2014).
3. Kết luận và kiến nghị
3.1. Kết luận
Qua một thời gian nghiên cứu về lí luận và thực tiễn công tác chỉ đạo giáo
viên thực hiện chương trình giáo dục trong trường Mầm non, tôi rút ra một số

kết luận về công tác này như sau:
Chỉ đạo giáo viên thực hiện tốt chương trình giáo dục mầm non là một
trong những yếu tố hết sức quan trọng để góp phần nâng cao chất lượng chăm
sóc, nuôi dưỡng và giáo dục trẻ trong nhà trường. Chỉ đạo giáo viên thực hiện
tốt chương trình giáo dục mầm non là một công việc hết sức cần thiết đối với
những người làm công tác quản lý. Đặc biệt là quản lý chuyên môn của trường
mầm non. Nếu tất cả giáo viên làm tốt công việc này thì một thế hệ măng non
của chúng ta sẽ được tiếp nhận sự chăm sóc giáo dục một cách đúng đắn, toàn
diện và khoa học. Trẻ có cơ hội để phát triển đầy đủ các mặt: Đức, trí, thể, mỹ,
lao động góp phần tạo nên con người mới, phù hợp với sự phát triển chung của
xã hội và toàn thế giới trong xu thế hội nhập hiện nay.
Như vậy, với thời gian thực hiện chương trình giáo dục mầm non. Nhà
trường chúng tôi đã từng bước đi sâu vào nội hàm của việc nâng cao chất lượng
của chương trình, từ đó có các biện pháp chỉ đạo hữu hiệu để cho giáo viên thực
hiện chương trình một cách tốt nhất, phát huy được tính chủ động sáng tạo của
từng giáo viên, rèn cho giáo viên cách tư duy độc lập, sáng tạo. Từ đó, chất
lượng giáo dục của nhà trường ngày càng được nâng lên một mức rõ rệt.
Để có được kết quả như vậy, nhà trường được sự quan tâm, chỉ đạo từ
phía phòng giáo dục, niềm say mê, lòng nhiệt tình, yêu nghề, mến trẻ của đội
ngũ giáo viên trong nhà trường, các cô đã không quản khó khăn vất vả để đem
đến cho trẻ nguồn tri thức của nhân loại.
3.2. Kiến nghị
Để đảm bảo yêu cầu chăm sóc giáo dục trẻ trong giai đoạn mới, đáp ứng
với xu thế hội nhập hiện nay, tôi xin mạnh dạn có một số những kiến nghị và đề
xuất sau:
Đối với UBND huyện
Chỉ đạo chặt chẽ, kịp thời công tác: hợp đồng giáo viên, cô nuôi, luân
chuyển giáo viên, để đảm bảo cân đối đội ngũ giáo viên trong các nhà trường.
Chỉ đạo các địa phương tăng cường chăm lo xây dựng CSVC, trang thiết
bị theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá, kiên cố hoá trường học.

Đối với Phòng GD&ĐT huyện:
Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, đánh giá chất lượng giảng dạy
của giáo viên mầm non.

16


Trên đây là một số kinh nghiệm của bản thân tôi với mong muốn nâng cao
chất lượng thực hiện Chương trình giáo dục mầm non ở Trường mầm non Thị
trấn Thường Xuân. Rất mong nhận được sự đóng góp, xây dựng ý kiến của các
cấp lãnh đạo, của Hội đồng khoa học các cấp và bạn bè đồng nghiệp để sáng
kiến kinh nghiệm của tôi được hoàn thiện và hiệu quả hơn.
XÁC NHẬN
Thường Xuân, ngày 10 tháng 3 năm 2016
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác.
Người viết
Lê Thị Bình

17


Tài liệu tham khảo
1. Bộ Giáo dục và đào tạo, Chương trình giáo dục mầm non, nhà xuất bản Giáo
dục Việt Nam tháng 10 năm 2011.
2. Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên giáo viên mầm non, Mô đun 36 Mô
đun 36 SKKN trong giáo dục mầm non.
3. Bộ Giáo dục và đào tạo, Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên cho cán bộ
quản lí giáo viên mầm non, nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam năm 2014.
3. Bộ Giáo dục và đào tạo, Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên cho cán bộ

quản lí giáo viên mầm non, nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam năm 2013.
4. Trần Thị Ngọc Trâm, Lê Thu Hương, Lê Thị Ánh Thu ( Đồng Chủ
biên), Hướng dẫn thực hiện chương trình giáo dục mầm non - mẫu giáo lớn
(5- 6 tuổi), nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam tháng 12 năm 2012.
5. Trần Thị Ngọc Trâm, Lê Thu Hương, Lê Thị Ánh Thu ( Đồng Chủ
biên), Hướng dẫn thực hiện chương trình giáo dục mầm non - mẫu giáo nhỡ
(4 - 5 tuổi), nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam, 2010.
6. Trần Thị Ngọc Trâm, Lê Thu Hương, Lê Thị Ánh Thu ( Đồng Chủ
biên), Hướng dẫn thực hiện chương trình giáo dục mầm non - mẫu giáo bé
(3- 4 tuổi), nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam, 2010.
5. Trần Thị Ngọc Trâm, Lê Thu Hương, Lê Thị Ánh Thu ( Đồng Chủ
biên), Hướng dẫn thực hiện chương trình giáo dục mầm non - nhà trẻ (25 - 36
tháng tuổi), nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam, 2010.

18



×