Tải bản đầy đủ (.pdf) (125 trang)

Đặc điểm báo xuân của việt nam giai đoạn 2011 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.63 MB, 125 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

THIỀU THU QUỲNH

ĐẶC ĐIỂM BÁO XUÂN CỦA VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 2011 - 2015

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Báo chí học

Hà Nội, 2016


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

THIỀU THU QUỲNH

ĐẶC ĐIỂM BÁO XUÂN CỦA VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 2011 - 2015

Chuyên ngành: Báo chí học
Mã số: 60 32 01 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ BÁO CHÍ

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS Phạm Thành Hƣng

Hà Nội, 2016



LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng
tôi, dƣới sự hƣớng dẫn của PGS. TS Phạm Thành Hƣng. Những số liệu
trong luận văn là trung thực. Kết luận khoa học của luận văn chƣa từng
đƣợc công bố trong bất cứ công trình nào khác.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Thiều Thu Quỳnh.


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin gửi lời cảm ơn trân trọng đến các giảng viên khoa Báo chí và
Truyền thông, trƣờng Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội đã tận
tình giảng dạy trong thời gian tôi học tại trƣờng!
Đặc biệt, tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành đến PGS. TS Phạm
Thành Hƣng đã tận tâm hƣớng dẫn tôi hoàn thành luận văn!
Xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến bạn bè, đồng nghiệp đã giúp đỡ, tạo
điều kiện để tôi hoàn thiện luận văn này!


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
1.

Lý do chọn đề tài ........................................................................... 1

2.


Tình hình nghiên cứu .................................................................... 4

3.

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................ 7

4.

3.1.

Mục đích nghiên cứu ............................................................... 7

3.2.

Nhiệm vụ nghiên cứu............................................................... 7

Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu................................................. 8
4.1.

Đối tượng nghiên cứu ............................................................. 8

4.2.

Phạm vi nghiên cứu................................................................. 8

5.

Phƣơng pháp nghiên cứu............................................................... 8

6.


Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài.......................................... 9

7.

6.1.

Ý nghĩa lý luận ........................................................................ 9

6.2.

Ý nghĩa thực tiễn ................................................................... 10

Cấu trúc của luận văn .................................................................. 10

Chƣơng 1: BÁO XUÂN TRONG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA VIỆT NAM
ĐƢƠNG ĐẠI ........................................................................................... 11
1.1 Báo Xuân trong đời sống của người Việt Nam ............................ 11
1.1.1 Tết Nguyên Đán trong đời sống văn hóa tâm linh người Việt11
1.1.2 Ý nghĩa của báo Xuân trong đời sống của người Việt Nam . 13
2.1 Đặc điểm nội dung thông tin chủ yếu trên báo Xuân ................. 23
2.1.1 Chủ đề chính trị..................................................................... 25
2.1.2 Chủ đề kinh tế - xã hội .......................................................... 38
2.1.2.1 Chủ đề kinh tế ................................................................ 38
2.1.2.2 Chủ đề xã hội ................................................................ 42
2.1.3 Chủ đề văn hóa – thể thao .................................................... 44
2.1.3.1 Chủ đề văn hóa.............................................................. 44


2.1.4 Chủ đề thể thao ................................................................ 60

2.2.1. Việc sử dụng một số thể loại chủ yếu .................................... 68
2.2.1.1 Phóng sự........................................................................ 69
2.2.1.2 Ghi chép ........................................................................ 72
2.2.1.3 Tùy bút .......................................................................... 75
2.2.1.4 Bút ký .............................................................................. 77
2.2.1.5 Tản văn.......................................................................... 79
2.3

Một số yếu tố Ma-két tiêu biểu .............................................. 81

2.3.1 Khuôn khổ của báo Xuân................................................. 81
2.3.2 Màu sắc ............................................................................ 82
2.3.3 Tranh, ảnh minh họa ........................................................ 82
3.1 Những vấn đề đặt ra.................................................................... 89
3.1.1 Hạn chế của báo Xuân .......................................................... 89
3.1.2 Thách thức và cơ hội của báo Xuân ..................................... 90
3.2 Những khuyến nghị để nâng cao hiệu quả thông tin của báo Xuân91
3.2.1 Đổi mới nội dung và h nh thức báo ...................................... 91
3.2.2 Đổi mới cách nh n và nâng cao năng lực người làm báo..... 96
3.2.3 Sáng tạo của nhà báo........................................................ 96
3.2.4 Cái tôi của tác giả............................................................. 99
3.2.5 Tri thức văn hóa của tác giả ........................................... 100
3.3

Thay đổi của cơ quan t a soạn báo ................................... 102

3.4

Tăng cường giải pháp để tiếp cận độc giả hiệu quả........... 104


KẾT LUẬN ............................................................................................... 110
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................... 114


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tết Nguyên Đán là ngày hội cổ truyền lớn nhất, lâu đời nhất, có
phạm vi phổ biến rộng nhất từ Mục Nam Quan đến Mũi Cà Mau và là ngày
lễ tƣng bừng, nhộn nhịp của cả dân tộc. Từ những thế kỷ trƣớc, từ đời Lý –
Trần – Lê, ông cha ta đã cử hành lễ Tết hàng năm một cách trang trọng. Tết
Nguyên Đán là khâu đầu tiên và quan trọng nhất trong hệ thống lễ hội Việt
Nam, nó mang đậm nét văn hóa dân tộc sâu sắc và độc đáo, phản ánh tinh
thần hòa điệu giữa con ngƣời và thiên nhiên theo chu kỳ vận hành của vũ
trụ. Đồng thời, Tết cũng là dịp để gia đình, họ hàng, làng xóm, ngƣời thân
xa gần sum họp, đoàn tụ thăm hỏi, cầu chúc nhau và tƣởng nhớ, tri ân ông
bà tổ tiên.
Về ý nghĩa nhân sinh của Tết Nguyên Đán, đó là Tết của gia đình,
Tết của mọi nhà. Ngƣời Việt Nam có phong tục hằng năm, mỗi khi năm
hết, Tết đến dù làm bất cứ nghề gì, ở bất cứ nơi đâu, kể cả ngƣời xa xứ
cách hàng ngàn ki-lô-mét vẫn mong đƣợc về sum họp dƣới mái ấm gia đình
trong ba ngày Tết, đƣợc khấn vái dƣới bàn thờ tổ tiên, nhìn lại ngôi nhà,
ngôi mộ, nhìn lại nơi mà một thời bàn chân bé dại đã tung tăng và mong
đƣợc sống lại với những kỷ niệm đầy ắp yêu thƣơng nơi chúng ta cất tiếng
khóc chào đời.
Theo quan niệm truyền thống của ngƣời Việt Nam, ngày Tết xuân là
ngày đoàn tụ, đoàn viên, mối quan hệ họ hàng làng xóm đƣợc mở rộng ra,
ràng buộc lẫn nhau thành đạo lý chung cho xã hội; tình thầy trò, bè bạn cố
tri, ông mai bà mối đã tác thành cho đôi lứa. Tết cũng là dịp đúc kết mọi
hoạt động liên quan đến một năm qua, chào đón một năm mới với hy vọng
tốt lành cho cá nhân và cho cả cộng đồng.

1


Tết Nguyên Đán là lễ hội truyền thống mang tính toàn dân. Vì vậy
vào những ngày cuối năm, mọi hoạt động đều hƣớng vào Tết, chuẩn bị cho
Tết. Các ngành, các cấp đều có kế hoạch cho ngày hội đặc biệt này. Đó
cũng là nét đẹp truyền thống văn hóa dân gian cần đƣợc giữ gìn và phát
huy.
Là một ấn phẩm xuất bản bản định kỳ, nhằm chuyển tải tất cả các
thông tin từ chính trị, kinh tế đến văn hóa, xã hội đến ngƣời đọc, báo chí đã
và đang phát huy vai trò của mình trong đời sống tinh thần của xã hội. Đã
thành thông lệ, cứ vào dịp Tết hàng năm, các báo, tạp chí đều cho ra những
số chuyên san, đặc san về Tết Nguyên Đán, đƣợc gọi là báo Xuân. Số báo
này đƣợc chuẩn bị rất công phu, lựa chọn bài vở kỹ càng từ hàng tháng
trƣớc nên có chất lƣợng rất cao. Báo Xuân, về nội dung và hình thức đều có
những nét khác biệt đáng kể so với những số báo thƣờng ngày. Báo Xuân
đƣợc trƣng bày, triển lãm tại Hội Báo Xuân, một sinh hoạt văn hóa đã trở
thành thƣờng niên mỗi dịp Tến đến xuân về. Báo Xuân dần dần đã trở
thành món quà Tết, quà xuân đầy ý nghĩa cho mọi nhà.
Phép biện chứng duy vật đã chỉ rõ, nội dung và hình thức luôn gắn
bó với nhau trong một thể thống nhất. Không có hình thức nào tồn tại thuần
tuý không chứa đựng nội dung, ngƣợc lại cũng không có nội dung nào lại
không tồn tại trong một hình thức xác định. Nội dung nào có hình thức đó.
Hình thức do nội dung quyết định, nhƣng hình thức có tính độc lập tƣơng
đối và tác động trở lại nội dung. Nếu phù hợp với nội dung thì hình thức sẽ
tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy nội dung phát triển; nếu không phù hợp với
nội dung thì hình thức sẽ ngăn cản, kìm hãm sự phát triển của nội dung.
Tác phẩm báo chí là một chỉnh thể, bao gồm hai yếu tố nội dung và
hình thức, chúng có mối quan hệ biện chứng, gắn bó hữu cơ, chi phối nhau
tạo nên hiệu quả thông tin. Tác phẩm báo chí đƣợc hiểu không phải chỉ bó

2


hẹp trong một bài báo, mà rộng hơn, đó là cả trang báo, số báo, tờ báo,
chuyên mục, chƣơng trình phát thanh, truyền hình.
Các yếu tố cấu thành hình thức thông tin bao gồm hình thức bên
trong đó là các thể loại báo chí, thông qua phƣơng pháp kết cấu, bố cục, sử
dụng các phƣơng tiện và biện pháp tu từ... Hình thức bề ngoài tác phẩm
báo chí đƣợc biểu hiện qua màu sắc trình bày, khổ chữ, kiểu chữ, thông qua
thiết kế mỹ thuật và tổ chức chuyên trang, chuyên mục.... Ngoài ra, hình
thức tác phẩm báo chí còn đƣợc bộc lộ qua việc sử dụng nhiều thủ pháp
nghệ thuật làm báo khác.
Báo Xuân, ở một khía cạnh là giai phẩm tinh thần góp một phần
mang không khí xuân, không khí Tết vào nhà. Báo Xuân không phải là tờ
báo thông tin thời sự mà nhƣ một tờ báo tổng kết năm, đồng thời có những
thông tin mà chỉ có năm hết, tết đến, xuân về mới có, những thông tin về
“xƣa” nhƣ một khoảnh khắc trở về nguồn cội văn hoá dân tộc, để tự hào, để
bảo tồn, để phát triển tinh hoa cho “nay”. Báo Xuân cũng không phải có thể
đọc ngốn ngấu, lƣớt qua mà là một sự “nhẩn nha” trong những phút thƣ
giãn của ngày Tết. Cho dù thời đại công nghệ cao, nhiều loại hình báo chí
nhƣ truyền hình, phát thanh, internet, kỹ thuật số… thì những trang báo in
vẫn có giá trị, nhƣ món quà xuân tặng độc giả.
Các ấn phẩm báo Xuân thƣờng có hình thức đẹp, đậm màu sắc xuân,
cung cấp cho bạn đọc thông tin về các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội, quốc phòng - an ninh; về không khí đón Xuân và những phong tục,
tập quán văn hóa đặc trƣng của mỗi vùng, miền, mỗi dân tộc trong cả nƣớc.
Mỗi số báo xuân là tinh hoa, đặc thù của từng tờ báo, làm cho bức tranh
báo chí cả nƣớc thêm rực rỡ. Tuy nhiên, những năm trở lại đây, các cơ
quan báo chí đã gặp không ít khó khăn nhƣ số lƣợng phát hành tụt giảm, lợi
nhuận quảng cáo thấp… Bên cạnh đó, sự phát triển mạnh mẽ của công
3



nghệ - thông tin và các loại hình báo chí điện tử, trang mạng xã hội,
facebook… đã tác động ít nhiều đến công tác phát triển của các loại hình
báo chí truyền thống nói chung và báo Xuân nói riêng.
Sở dĩ ngƣời viết chọn đề tài: “Đặc điểm báo Xuân của Việt Nam
giai đoạn 2011 - 2015” vì báo Xuân là số báo khá độc đáo của báo chí Việt
Nam mà báo chí các nƣớc trên thế giới hầu nhƣ không có. Báo Xuân có ý
nghĩa quan trọng trong đời sống văn hóa tinh thần của ngƣời Việt, song từ
trƣớc đến nay hầu nhƣ có rất ít công trình khoa học đi sâu nghiên cứu về
nó. Một số bài viết về báo Xuân đăng trên Tạp chí Ngƣời làm báo, báo Nhà
báo và công luận,... chỉ mang tính chất giới thiệu, chƣa đi sâu tìm hiểu cả
về nội dung lẫn hình thức của báo Xuân, rút ra đặc trƣng, bản sắc riêng của
báo Xuân so với các số báo thƣờng ngày.
Mặt khác, chọn đề tài này, tác giả có điều kiện đi sâu khảo sát, tìm ra
những đặc điểm, bản sắc riêng của báo Xuân mà các số báo thƣờng ngày
không có đƣợc, thấy đƣợc ƣu điểm, và hạn chế của báo Xuân trong bối
cảnh xã hội hiện đại ngày nay. Hơn nữa, đây là dịp để ngƣời viết vận dụng
những lý luận báo chí đã học đƣợc để khảo sát nội dung và hình thức của
báo Xuân, nhằm có những so sánh, đánh giá, từ đó rút ra kết luận về tầm
quan trọng của báo Xuân, hƣớng đi của báo Xuân để phù hợp hơn với thời
đại mới.
2. Tình hình nghiên cứu
Giáo trình lịch sử báo chí ghi rõ, tờ báo quốc ngữ đầu tiên chính là
Gia Định báo, số ra đầu tiên ngày 15-4-1865 tại Sài Gòn và tồn tại suốt 44
năm nhƣng các giáo trình chƣa đề cập đến tòa soạn báo nào có sáng kiến ra
số báo Tết đầu tiên. Từ “Nam Phong tạp chí” với ấn phẩm đặc biệt ghi

4



ngoài bìa “Số Tết 1918” do Phạm Quỳnh khởi xƣớng đến nay, lịch sử báo
Xuân Việt Nam đã phát triển đƣợc 94 năm.
Qua khảo sát, đã có một đề tài khóa luận năm 2001 của tác giả Nguyễn
Thành Trung nghiên cứu về đề tài: “Nội dung và hình thức chuyển tải
thông tin trên báo Tết”. Tuy nhiên trong 15 năm trở lại đây không có một
nghiên cứu cụ thể và riêng biệt về đặc điểm của báo Xuân, nên đề tài
nghiên cứu sẽ không có sự lặp lại với những công trình nghiên cứu khác.
Bên cạnh đó, đã có một số bài báo đề cập tới báo Xuân và một số đặc
điểm của ấn phẩm báo chí đặc biệt này.
Đó là bài viết “Báo Tết và văn hóa Tết” của tác giả Nguyễn Hƣng Quốc
trên trang dactrung.com. Tác giả đã khẳng định “báo Tết trở thành một hiện
tƣợng nổi bật trong sinh hoạt mừng xuân của ngƣời Việt Nam”, là một hiện
tƣợng văn hóa. So với các món quen thuộc của Tết cổ truyền, vị thế của
báo Tết quan trọng hơn nhiều. Tuy nhiên, tác giả cũng cho thấy rằng, báo
Tết rất ít thay đổi về văn chƣơng, nghệ thuật, “mà ngƣời ta cũng ngại thay
đổi”, “Tết đồng nghĩa với truyền thống.
Còn trong bài “Báo Xuân: không thể thiếu” trên trang rfa.org năm 2012,
tác giả Nam Nguyên đã chứng minh trong gần 1 thế kỷ, số báo Xuân truyền
thống mỗi năm là sự kiện không thể thiếu vắng. Có thể nói báo Xuân là
một nét văn hóa riêng của nghề báo Việt Nam, là món ăn tinh thần hay một
thứ thân quen không thể thiếu trong ngày Tết Việt Nam. Vậy thì dƣới bất
cứ không gian nào, chế độ chính trị nào, ở đâu có làng báo Việt hay chỉ cần
có một tờ báo Việt thì ở đó có báo Xuân.
Trên Tạp chí than khoáng sản Việt Nam năm 2013 có bài “Ai là ông Tổ
của báo Xuân” đã cung cấp những thông tin quý báu về lịch sử báo Xuân
gần 100 tuổi. Bài viết khẳng định Nam Phong Tạp Chí là tờ báo đầu tiên
5



làm báo Tết và đó cũng là số báo Tết đầu tiên. Ngày nay, công nghệ làm
báo in có sự phát triển vƣợt bậc. Báo xuân đã liên tục cải tiến về nội dung
và hình thức qua thời gian. Báo chí hiện đại còn có thêm các loại hình mới.
Báo trực tuyến, báo nói, báo hình cũng vận dụng linh hoạt hình thức “báo
xuân” của cha ông trên các kênh thông tin của mình. Từng tờ báo xuân là
một bông hoa đẹp, là món ăn tinh thần có ý nghĩa của mọi ngƣời trong dịp
Tết.
Trong bài viết “Báo Tết: Đặc sản Việt Nam” trên báo Thể thao & Văn
hóa Cuối tuần năm 2013, của tác giả Văn Bảy có thể thấy Giai phẩm Xuân
(số riêng biệt cho ngày Tết) là “đặc sản” của nền báo chí Việt Nam từ đầu
thế kỷ 20, vì chƣa thấy nƣớc nào có. Hơn nữa, từ tinh thần “mới mẻ ngày
Tết”, trong gần một thế kỷ qua, giai phẩm Xuân đã nêu ra nhiều vấn đề gay
cấn, hoặc mang tính tiên phong, ví dụ nhƣ văn hóa và phản văn hóa, nghệ
thuật và phản nghệ thuật, mà đến các viện chuyên ngành cũng hiếm khi đề
cập trực tiếp.
Năm 2014, bài viết “Báo Xuân – Hƣơng vị đã trăm năm” của tác giả Hà
Anh trên trang tgvn.com.vn cũng cho thấy hành trình gần một thế kỷ của
báo Xuân Việt Nam và những đặc sắc của Lễ hội báo Xuân hiện nay. Tác
giả cũng nhận định: “Dƣờng nhƣ, với mỗi gia đình, bên cạnh những chậu
hoa rực rỡ sắc màu và những hƣơng vị đậm nét truyền thống, không thể
thiếu những ấn phẩm báo Tết. Hơn nữa, với tâm lý cái gì tốt nhất đều dành
cho ngày Tết, những ngƣời làm báo đều nỗ lực sáng tạo để có những trang
báo công phu với nội dung chọn lọc, đặc sắc nhất đƣa vào báo Xuân”.
Qua những nghiên cứu và bài báo trên, có thể thấy đề tài “Đặc điểm
báo Xuân của Việt Nam giai đoạn 2011-2015” là một đề tài không quá
mới nhƣng thực sự cần thiết trong bối cảnh thông tin hiện nay, nên tác giả
đã lựa chọn để nghiên cứu trong khuôn khổ luận văn Thạc sĩ của mình.
6



3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1.

Mục đích nghiên cứu

Luận văn đi sâu nghiên cứu đặc điểm về nội dung và hình thức của
báo Xuân để thấy đƣợc đây là số báo đặc biệt trong năm, khác với các số
báo thƣờng. Từ những kết quả nghiên cứu, luận văn đƣa ra một cái nhìn
tổng quát về báo Xuân, rút ra đƣợc những nét đặc trƣng, cả những ƣu,
nhƣợc điểm và bản sắc riêng của từng tờ báo. Mặc khác, qua đề tài nghiên
cứu, tác giả sẽ tìm ra những bài học, phƣơng pháp, phƣơng thức, kinh
nghiệm nhằm áp dụng vào thực tiễn làm báo Xuân theo xu hƣớng hiện đại.
3.2.

Nhiệm vụ nghiên cứu

Sƣu tầm, phân loại, khảo sát, phân tích nội dung của các bài viết trên
5 tờ báo: Thanh niên, Lao động, Nông thôn ngày nay, Văn nghệ TP HCM,
Hải Phòng số Tết 2011, 2012, 2013, 2014, 2015.
Cùng với việc tìm hiểu, đánh giá những đặc điểm nội dung khu biệt
của các tờ báo đƣợc khảo sát, luận văn còn đánh giá cả về hình thức chuyển
tải thông tin của các bài báo đó. Từ đó chỉ ra phong cách, bản sắc riêng của
từng tờ báo trong hình thức chuyển tải thông tin.
Trên cơ sở phân tích ƣu, nhƣợc điểm của các tờ báo Xuân khảo sát,
dựa trên những kiến thức báo chí đã học, luận văn sẽ chỉ ra nét đặc biệt của
báo Xuân. Đồng thời, đƣa ra những khuyến nghị, đề xuất, tìm ra thủ pháp
để nâng cao chất lƣợng báo Xuân, và thu hút đƣợc độc giả trong bối cảnh
bị cạnh tranh bởi nhiều loại hình báo chí mạnh mẽ khác.

7



4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1.

Đối tượng nghiên cứu

Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn là các bài viết trên 5 tờ báo Xuân
tiến hành khảo sát trong 5 năm. Luận văn sẽ đi sâu nghiên cứu tất cả các
yếu tố nội dung và hình thức thể hiện của các bài viết trên báo Xuân, để
đƣa ra đặc điểm và thực trạng của các tờ báo Xuân hiện nay.
4.2.

Phạm vi nghiên cứu

Do nguồn tƣ liệu trong nhiều năm nên khó tìm kiếm đƣợc đầy đủ, và
trong khuôn khổ của một luận văn Thạc sĩ, tác giả xin đi vào nghiên cứu số
báo chào mừng Tết Nguyên Đán cổ truyền (Tết Âm lịch) và tập trung khảo
sát trên 5 tờ báo: Thanh niên, Lao động, Văn Nghệ TP HCM, Nông thôn
ngày nay, Hải Phòng.
Giới hạn đề tài nhƣ vậy, tác giả sẽ tiếp cận những đặc điểm báo
Xuân của Việt Nam. Cụ thể, đề tài sẽ đi sâu nghiên cứu các nội dung thông
tin về các lĩnh vực: chính trị, kinh tế - xã hội, văn hóa - thể thao, cùng với
một số thể loại báo chí chủ yếu và các yếu tố ma-két tiêu biểu để chuyển tải
nội dung thông tin trong các số báo Xuân nói trên.
Thời điểm khảo sát luận văn từ năm 2011 đến năm 2015. Đây là
khoảng thời gian gần nhất mà tác giả có thể có đủ tƣ liệu để nghiên cứu mà
vẫn đảm bảo theo sát sự phát triển của báo Xuân.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Các phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn gồm:

+ Phƣơng pháp nghiên cứu tài liệu: Đƣợc sử dụng với mục đích khái quát,
bổ sung hệ thống lý thuyết, lý luận cho đề tài. Đây chính là những lý thuyết
8


cơ sở cho việc đánh giá các kết quả khảo sát thực tế và tìm kiếm những giải
pháp khoa học cho vấn đề nghiên cứu.
+ Phƣơng pháp phân tích nội dung, kết hợp so sánh: Khảo sát 6 tờ báo
Thanh niên, Lao động, Nông thôn ngày nay, Văn Nghệ TP HCM, Hải
Phòng từ năm 2011 đến năm 2015 về cả nội dung và hình thức thể hiện.
+ Phƣơng pháp tổng hợp: tổng hợp kết quả khảo sát đƣa ra kết luận.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
6.1.

Ý nghĩa lý luận

Báo Xuân là “sản phẩm hàng hoá đặc biệt”. Dù hai chữ “đặc biệt”
đòi hỏi ngƣời làm báo không đƣợc phép chạy theo lợi nhuận bằng mọi giá,
mà phải luôn hƣớng tới tính chất xã hội, tính định hƣớng tích cực, thì báo
Xuân vẫn phải tuân theo quy luật cung - cầu để đến đƣợc với bạn đọc nhƣ
bao loại hàng hoá khác. Một yếu tố quan trọng để báo Xuân “đứng” đƣợc
trong cuộc cạnh tranh thông tin khốc liệt, chính là việc xây dựng “thƣơng
hiệu”. Một tờ báo Xuân có uy tín, đi vào lòng bạn đọc, đƣợc lựa chọn trên
sạp báo, sẽ thể hiện một “thƣơng hiệu” ổn định, có sức thu hút lớn.
Để cuốn hút bạn đọc, ngoài sự chính xác, hấp dẫn của thông tin, còn
cần đến sự mới mẻ, độc đáo, cần đến phong cách riêng của tờ báo Xuân đó,
từ nội dung đến hình thức. Việc đổi mới và hiện đại hoá nội dung và các
phƣơng thức chuyển tải thông tin trên báo Xuân là một vấn đề bức thiết cần
nghiên cứu. Trong khuôn khổ luận văn thạc sĩ này, tác giả muốn đề cập,
tìm hiểu về đặc điểm chung, những hạn chế của báo Xuân hiện nay và đề

xuất những biện pháp nâng cao hiệu quả thông tin của báo Xuân, nhằm giữ
gìn, bảo tồn và phát huy nét văn hóa báo chí riêng của ngƣời Việt.

9


6.2.

Ý nghĩa thực tiễn

Luận văn chỉ ra những đặc điểm chung về nội dung và hình thức
chuyển tải thông tin trên báo Xuân, cũng nhƣ phong cách riêng của những
tờ báo đƣợc khảo sát, với mong muốn chỉ ra điểm mạnh của mỗi tờ báo
trong việc thu hút độc giả.
Trên cơ sở phân tích những hạn chế của báo Xuân trong thời điểm
hiện nay, tác giả muốn góp thêm tiếng nói mang tính xây dựng về những
biện pháp giúp các tòa soạn nâng cao hiệu quả thông tin của báo Xuân, đặc
biệt là cách đƣa báo Xuân tiếp cận với đối tƣợng độc giả mới.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, phần chính của luận văn chia làm 3
chƣơng:
Chương 1: Vai tr

ý nghĩa của báo chí nói chung và báo Xuân nói

riêng trong đời sống văn hóa tinh thần.
Chương 2: Nội dung thông tin và h nh thức chuyển tải thông tin chủ
yếu trên báo Xuân.
Chương 3: Những vấn đề đặt ra và giải pháp nhằm nâng cao hiệu
quả thông tin của báo Xuân.


10


Chƣơng 1: BÁO XUÂN TRONG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA VIỆT NAM
ĐƢƠNG ĐẠI

1.1 Báo Xuân trong đời sống của người Việt Nam
1.1.1 Tết Nguyên Đán trong đời sống văn hóa tâm linh người Việt
Tết Nguyên Đán là ngày hội cổ truyền lớn nhất, lâu đời nhất, có
phạm vi phổ biến rộng nhất từ Mục Nam Quan đến Mũi Cà Mau và là ngày
lễ tƣng bừng, nhộn nhịp của cả dân tộc. Từ những thế kỷ trƣớc, từ đời Lý –
Trần – Lê, từ chốn cung đình thâm nghiêm đến nơi thôn cùng xóm vắng,
hàng năm, ông cha ta đã cử hành lễ Tết hàng năm một cách trang trọng. Tết
Nguyên Đán là khâu đầu tiên và quan trọng nhất trong hệ thống lễ hội Việt
Nam, nó mang đậm nét văn hóa dân tộc sâu sắc và độc đáo, phản ánh tinh
thần hòa điệu giữa con ngƣời và thiên nhiên theo chu kỳ vận hành của vũ
trụ. Đồng thời, tết cũng là dịp để gia đình, họ hàng, làng xóm, ngƣời thân
xa gần sum họp, đoàn tụ thăm hỏi, cầu chúc nhau và tƣởng nhớ, tri ân ông
bà tổ tiên.
Về ý nghĩa nhân sinh của Tết Nguyên Đán, đó là Tết của gia đình,
Tết của mọi nhà. Ngƣời Việt Nam có phong tục hằng năm, mỗi khi năm
hết, Tết đến dù làm bất cứ nghề gì, ở bất cứ nơi đâu, kể cả ngƣời xa xứ
cách hàng ngàn ki-lô-mét vẫn mong đƣợc về sum họp dƣới mái ấm gia đình
trong ba ngày Tết, đƣợc thắp nén hƣơng thơm lên bàn thờ tổ tiên, mong
đƣợc sống lại với những kỷ niệm đầy ắp yêu thƣơng nơi “chôn nhau cắt
rốn”.
Theo quan niệm truyền thống của ngƣời Việt Nam, ngày Tết xuân là
ngày đoàn tụ, đoàn viên, mối quan hệ họ hàng làng xóm đƣợc mở rộng ra,
ràng buộc lẫn nhau thành đạo lý chung cho xã hội; tình thầy trò, bè bạn cố

11


tri, ông mai bà mối đã tác thành cho đôi lứa.. Tết cũng là dịp đúc kết mọi
hoạt động liên quan đến một năm qua, chào đón một năm mới với hy vọng
tốt lành cho cá nhân và cho cả cộng đồng.
Tết Nguyên Đán là lễ hội truyền thống mang tính toàn dân. Vì vậy
vào những ngày cuối năm, mọi hoạt động đều hƣớng vào Tết, chuẩn bị cho
Tết. Các ngành, các cấp đều có kế hoạch cho ngày hội đặc biệt này. Đó
cũng là nét đẹp truyền thống văn hóa dân gian cần đƣợc giữ gìn và phát
huy.
Tết Nguyên Đán cổ truyền là một nét đẹp truyền thống của dân tộc
ta. Bản sắc văn hóa Việt Nam biểu hiện rõ nhất qua những ngày Tết. Tết là
mốc khởi đầu sinh hoạt văn hóa dân tộc trong một năm, phảm ánh sâu đậm
những triết lý nhân văn, đời sống tinh thần phong phú của ngƣời Việt.
Ngày Tết, ngƣời ta quên đi những lo toan thƣờng nhật để sống vui vẻ hơn.
“Bao nhiêu những điều không tốt đẹp đã lui trở lại với năm cũ để cho năm
mới đƣợc tinh hảo, đem lại cho con ngƣời toàn những điều hy vọng” [1; tr.
48]. Với tinh thần “chín bỏ làm mƣời”, ngày Tết xóa đi mọi điều xích
mích, mọi ngƣời khoan dung, hiểu biết, gắn bó với nhau hơn. Ngày Tết trở
thành dịp để tình cảm tốt đẹp của con ngƣời đƣợc củng cố và nâng cao.
Ngƣời dân Việt Nam rất thiết tha với Tết, nhất là ở nông thôn. Quanh
năm vất vả, bận rộn, Tết mới là dịp để con ngƣời nghỉ ngơi, vì vậy nhu cầu
giải trí cũng tăng lên. Bao nhiêu lo nghĩ đƣợc gác sang một bên để hƣởng
thú xuân trọn vẹn. “Ngƣời ta đón tết một cách nồng nàn, ngƣời ta đợi tết
một cách trịnh trọng, ngƣời ta vui Tết một cách náo nhiệt hân hoan.” [1, tr.
21]. Những sinh hoạt văn hóa ngày Tết rất đa dạng và độc đáo (phong tục,
lễ hội, trò chơi,...) từ lâu đã đi vào tâm khảm mỗi ngƣời, góp phần làm nên
bản sắc văn hóa Việt Nam. Vƣợt qua thời gian, cái tinh túy của mỹ tục cổ
truyền ngày Tết vẫn luôn dồi dào sức sống, vẫn làm cho Tết thêm ý nghĩa.

12


“Trên thế giới này, chẳng mấy nƣớc lại có cái Tết linh đình, trọng thể, vui
tƣơi, đậm đà tính truyền thống văn hóa nhƣ Tết ở Việt Nam ta” [37; tr. 60].
1.1.2 Ý nghĩa của báo Xuân trong đời sống của người Việt Nam
Là một ấn phẩm xuất bản bản định kỳ, nhằm chuyển tải tất cả các
thông tin từ chính trị, kinh tế đến văn hóa, xã hội đến ngƣời đọc, báo chí đã
và đang phát huy vai trò của mình trong đời sống tinh thần của xã hội. Các
cơ quan báo chí thƣờng có những số báo đặc biệt trong khoảng thời gian
mùa Xuân của năm. Trong đó, cứ vào dịp Tết hàng năm, các báo, tạp chí
đều cho ra những số báo đặc biệt về Tết Nguyên Đán. Số báo này đƣợc
chuẩn bị kỹ càng từ hàng tháng trƣớc Tết nên thƣờng đạt chất lƣợng rất cao
trên cả hai mặt nội dung và hình thức. Báo Tết không chỉ ổn định và đƣợc
nâng cao chất lƣợng mà còn có những nét khác biệt đáng kể so với những
số báo thƣờng ngày. Số báo này đƣợc trƣng bày, triển lãm tại Hội Báo
Xuân cùng với những số báo Xuân khác, đây là một sinh hoạt văn hóa đã
trở thành thƣờng niên mỗi dịp Tến đến xuân về. Báo Xuân dần dần đã trở
thành món quà Tết, quà xuân đầy ý nghĩa cho mọi nhà.
Cách gọi tên báo Xuân có chỗ chƣa thống nhất, nên nhiều ngƣời dễ
nhầm lẫn tên gọi giữa các loại báo Xuân khác nhau. Qua tìm hiểu, chúng
tôi có thể chia báo Xuân thành 4 loại: Báo số Tất niên, báo số Tết Âm lịch,
báo số Tết Dƣơng lịch, báo số Tân niên. Luận văn sẽ tập trung vào số báo
Xuân chào mừng Tết Nguyên Đán cổ truyền. Đây là số báo đón Tết,
thƣờng phát hành sớm, trƣớc Tết, nếu cơ quan báo chí có khả năng ra đƣợc,
với ý nghĩa mừng Tết và chào năm mới Âm lịch.
Để cho ra “lò” số báo Xuân, các cơ quan báo chí thực hiện khâu
chuẩn bị từ nhiều tháng trƣớc. Tùy vào điều kiện của từng cơ báo chí,
nhƣng thƣờng khoảng tháng 10, ban biên tập bắt đầu lên kế hoạch cho số
13



báo Xuân. Đầu tiên ban biên tập sẽ họp các phòng, ban trong tòa soạn để
bàn về ra số báo Xuân, ấn định ngày ra báo. Ban biên tập và trƣởng các
phòng, ban sẽ đƣa ra các chuyên trang, chuyên mục và chủ đề, đề tài cho số
báo Xuân. Ban biên tập cũng ấn định thời gian các phòng, ban trong tọa
soạn nộp bài về ban biên tập. Tiếp theo đó, các trƣởng, phòng ban chuyên
đề sẽ về họp phóng viên, nhà báo ở ban để lên kế hoạch tin, bài cụ thể cho
chuyên trang, chuyên mục theo chủ đề, đề tài đã định. Đồng thời tiến hành
đăng thông báo mời cộng tác cho báo Xuân trên số báo hàng ngày.
Các phóng viên, nhà báo sẽ tiến hành thực hiện bài viết tin, bài theo
kế hoạch và nộp tin bài về để trƣởng ban xem trƣớc. Sau đó, các trƣởng
phòng, ban sẽ đƣa bài lên Thƣ ký tòa soạn để biên tập lại tin bài. Bài vở
cộng tác cũng sẽ đƣợc chọn lọc, biên tập cho phù hợp. Thƣ ký tòa soạn sẽ
lên bản thảo gửi về ban biên tập duyệt tin bài và bản thảo số báo Xuân lần
cuối. Sau khi đƣợc ban biên tập duyệt, bản bông sẽ đƣợc đƣa đến nhà máy
in để in ấn. Cuối cùng số báo Xuân đƣợc phát hành theo đúng thời gian đã
định.
Từ sự phân tích trên, tác giả luận văn có thể đƣa ra khái niệm về báo
xuân nhƣ sau: Báo Xuân là số báo đặc biệt ở Việt Nam đƣợc phát hành vào
mỗi dịp Tết đến xuân về, bao gồm báo số Tất niên, báo số Tết Âm lịch, báo
số Tết Dƣơng lịch, báo số Tân niên với các chuyên trang, chuyên mục, bài
viết đặc biệt khác với số thƣờng ngày.
Trong luận văn này, tác giả chỉ tập trung vào tìm hiểu, khảo sát, phân
tích đặc điểm nội dung và hình thức của số báo Tết âm lịch, khảo sát tin bài
trên báo Thanh niên, Hải phòng, Lao động, Nông thôn ngày nay, Văn nghệ
TP. HCM.

14



Các nƣớc khác trên thế giới thƣờng không có số báo Xuân dù họ
cũng đón Tết Âm lịch nhƣ chúng ta. Có thể kể đến các quốc gia cũng đón
Tết Nguyên Đán nhƣ: Trung Quốc, Hàn Quốc, Mông Cổ, Lào, Campuchia,
Triều Tiên, Singgapore, Ấn Độ. Nếu các nƣớc có số báo đặc biệt thì chỉ là
số báo Tân niên (Tết Dƣơng lịch) và nhìn chung không khác so với số báo
thƣờng, không thể có hẳn một ấn phẩm báo Xuân riêng, mang tính phong
tục và gắn với văn hóa truyền thống nhƣ Việt Nam. Điều này không phải là
họ xem nhẹ văn hóa truyền thống, mà xuất phát từ quan niệm: báo thuần
túy là báo, là thông tin chứ không “lấn” sang sân của các ấn phẩm văn hóa
khác. Hơn nữa, báo Xuân Việt Nam gắn liền với Tết Nguyên Đán cổ
truyền, tục lệ chỉ có ở vài nƣớc châu Á, trong đó có Việt Nam. “Báo Xuân
có lẽ là một đặc trƣng duy nhất của báo chí Việt Nam, giàu bản sắc riêng,
một bản sắc rất Việt Nam” [37; tr. 60].
Trƣớc hết, báo Xuân đã trở thành một “món ăn” tinh thần lành mạnh,
bổ ích không thể thiếu bên cạnh những lịch, tranh, câu đối v.v… trong dịp
tết Nguyên đán cổ truyền. “Mỗi năm khi mùa xuân về, ngoài “Thịt mỡ dƣa
hành câu đối đỏ, cây nêu tràng pháo bánh chƣng xanh”, ngƣời Việt Nam đã
quen không thể thiếu một tờ báo Xuân, coi đó là món ăn tinh thần độc đáo
trong dịp đón năm mới”. Việc xuất bản và thƣởng thức báo Xuân đã thành
một yếu tố của phong tục ngày Tết, đƣợc “phong tục hóa”. Có thể nói giờ
đây báo Xuân đã biến thành một “tục lệ” mà nếu thiếu đi, ngƣời dân Việt
Nam, đặc biệt là ở các vùng đô thị sẽ cảm thấy niềm vui năm mới chƣa trọn
vẹn.
Mức sống của nhân dân ngày càng cao. Đời sống vật chất đầy đủ tạo
điều kiện cho đời sống tinh thần phát triển, nhu cầu thƣởng thức văn hóa
ngày càng lớn. Trong những ngày Tết, con ngƣời no đủ không chỉ vật chất
mà cả tinh thần: “Đói ba tháng hè, no ba ngày Tết”. Ngay cả khi còn khó
15



khăn, thiếu thốn thì trong ngày tết, ngƣời ta cũng cố gắng khắc phục để lo
cho đầy đủ: “Ta còn nghèo phố chợ nhà gianh. Nhƣng cũng đủ vài tranh
treo Tết” (Tố Hữu). Mặt khác, ngày Tết là dịp nghỉ ngơi, nhu cầu giải trí
đòi hỏi rất cao. Báo Xuân đã đáp ứng đƣợc các nhu cầu đó.
Những thông tin phong phú, sinh động trên báo Xuân còn cung cấp
cho bạn đọc kiến thức quý giá về mọi mặt trong đời sống xã hội của năm
qua, những dự báo, nhìn nhận bƣớc phát triển của năm tới. Đọc báo Xuân,
nhân dân thấy đƣợc những thành tựu phát triển kinh tế xã hội to lớn mà đất
nƣớc đã dành đƣợc trong năm qua. Đặc biệt trong chủ đề văn hóa với mảng
bài viết về các phong tục, lễ hội Tết cổ truyền, báo Xuân đƣợc ví nhƣ cuốn
“bách khoa toàn thƣ” về phong tục.
Đặc điểm nổi bật nhất ở các tờ báo Xuân chính là kiểu văn hóa nhìn
lại. Báo Xuân, thực sự là báo Tết, trong cảm quan của cả ngƣời viết lẫn
ngƣời đọc, bao giờ cũng là một sự nhìn lại, hoặc chủ yếu là một sự nhìn lại.
Nhìn lại một năm. Nhìn lại một giáp. Nhìn lại một thế kỷ. Nhìn lại những
thành công và những thất bại của một đất nƣớc hoặc một lĩnh vực nào đó.
Nhìn lại những nếp cũ, những tục cũ. Nhìn lại những vang bóng một thời.
Nhìn lại quá khứ.
Báo Xuân những năm gần đây thƣờng ra rất sớm. Khoảng hơn một
tháng trƣớc Tết, hầu hết các báo đều ra “lò” rực rỡ nhƣ những bông hoa
trên các sạp báo chào Xuân. Lần trong hành tranh của những ngƣời đi xa về
quê nhà đón Tết, thế nào cũng có một vài tờ báo xuân mua ở quầy báo lúc
đợi tàu, xe. Trên bàn làm việc của mọi ngƣời chắc chắn sẽ có những tờ báo
Xuân còn thơm mùi giấy mới. Báo Xuân đến với mọi gia định và với mọi
lứa tuổi, mọi ngành nghề khác nhau. Những ngƣời đứng tuổi, cán bộ công
nhân viên có tờ Nhân dân, Lao động, Hà Nội mới, các mẹ, các chị có tờ
Phụ nữ Việt Nam, thanh niên có tờ Tiền Phong, các nhà giáo dục thì đọc
16



Giáo dục và thời đại, còn những ngƣời nông dân trong cả nƣớc đƣợc
nghiền ngẫm Nông thôn ngày nay… Thậm chí, báo Xuân còn trở thành
món quà, một thứ quà tặng có ý nghĩa đầu xuân: “Chàng sinh viên học ở
Hà Nội, đến chơi nhà cô bạn học hồi phổ thông, nay đang học cao đẳng sƣ
phạm, quà tặng đầu xuân ý nghĩa nhất là một tờ báo Xuân Sinh viên Việt
Nam. Năm ngoái, đến thăm thầy giáo trƣớc khi về quê ăn Tết, tôi đã tặng
thầy món quà xuân bằng một tờ báo Xuân Thuốc và sức khỏe. Thầy nhận
mà vui mừng và cảm động vì món quà ý nghĩa của học trò” [19; tr. 53].
Nhiều gia định có thói quen mua nhiều báo Xuân, coi nhƣ tổ chức một họi
báo “mini” trong nhà. Đọc báo Xuân không phải đọc ngay lập tức hết tờ
báo mà đọc dần dần, “nghiền ngẫm” từ từ, vì dung lƣợng báo lớn, tính thời
sự không cao nhƣ các số báo bình thƣờng nên không cần phải đọc ngay để
biết tin tức.
Sự phát triển của báo Xuân Việt Nam những năm gần đây đƣợc đánh
dấu bằng các Hội Báo Xuân. Tất nhiên, ở đây nên hiểu “Hội báo Xuân”
không phải chỉ có “báo Xuân” mà cần hiểu là hội báo tổ chức vào ngày
xuân, mùa xuân. Hội báo Xuân , ngày hội trƣng bày các tờ báo Xuân đƣợc
xem là món quà quý giá nhất của giới báo chí Việt Nam mừng đất nƣớc
vào xuân. Những gì báo Xuân thể hiện chính là thực tế phát triển đất nƣớc
về kinh tế, văn hóa, xã hội nhƣ lời Tổng Bí thƣ Lê Khả Phiêu: “Báo Xuân,
báo Xuân đã phản ánh rất đủ, rất trung thực đời sống vật chất và tinh thần
của dân tộc ta” [53; tr. 12]. Qua Hội báo Xuân, nhân dân thấy đất nƣớc
mình đang khát khao, nỗ lực vƣơn lên; chứng kiến những nét độc đáo của
quê hƣơng cũng nhƣ những thành tựu chúng ta đạt đƣợc. Hội báo Xuân
cũng thể hiện rõ sự khởi sắc của báo chí, giúp ngƣời xem hình dung đƣợc
sự phát triển mới của các lạo hình báo chí Việt Nam. Hội báo Xuân là vƣờn
hoa báo Xuân đầy hƣơng sắc, là “bữa tiệc lớn” mà suốt một năm những
17



ngƣời làm báo đã nổ lực để đến ngày “treo đèn kết hoa” trƣng bày “món ăn
tinh thần” mời mọi ngƣời cùng thƣởng thức.
Hơn mƣời năm nay, năm nào cũng ta cũng tổ chức Hội báo Xuân, và
năm sau quy mô lại lớn hơn, nội dung phong phú hơn nhiều so với năm
trƣớc. Số cơ quan báo chí tham dự cũng nhƣ số ngƣời đến xem đông đảo
hơn, từ 2 vạn, lên đến 7 vạn, 10 vạn ngƣời… Việc tổ chức Hội báo Xuân
toàn quốc ở Trung tâm hội chợ triển lãm; hình thành một khu liên hoàn
giữa Hội chợ Xuân và Hội báo Xuân, gắn thành tựu kinh tế - kỹ thuật với
thành tựu phát triển báo chí, tạo thuận lợi cho nhân dân chuẩn bị những sản
phẩm vật chất và tinh thần cho gia đình đốn Tết. Nhiều cuộc thi đƣợc tổ
chức trong Hội báo Xuân nhƣ thi bìa, thi ảnh, câu đối Tết trên báo Xuân,
báo Xuân, thi trình bày, lựa chọn những tờ báo hay và đẹp nhất. Toàn bộ số
báo tham gia trƣng bày, theo truyền thống từ nhiều năm nay, lại đƣợc gửi
tặng các chiến sĩ nơi biên giới, đảo xa - một việc làm vô cùng ý nghĩa với
những ngƣời đang ngày đêm canh giữ cho mùa xuân yên bình của Tổ quốc.
Đồng thời với Hội báo Xuân toàn quốc, nhiều tỉnh thành trong cả
nƣớc đã tổ chức trƣng bày, triển lãm báo Xuân, báo Xuân tại địa phƣơng để
phục vụ đông đảo quần chúng nhân dân trong cả nƣớc. Nhiều địa phƣơng
đã tổ chức thành công, thu hút hàng vạn lƣợt nhân dân đến thăm nhƣ:
Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Bắc Ninh, Bắc Giang, Hƣng Yên,
Quảng Ngãi…
Có thể nói, Hội báo Xuân đã thực sự trở thành một lễ hội đẹp mà
giới báo chí đã tạo dựng và cống hiến cho đời sống xã hội. Nhƣ vậy, chỉ
nhìn vào các Hội báo Xuân đƣợc tổ chức và đƣợc sự quan tâm của đông
đảo nhân dân trong cả nƣớc cũng thấy đƣợc vai trò, ý nghĩa của báo chí nói
chung và báo Xuân nói riêng trong đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân

18



ta. Báo Xuân là món quà Tết đầy ý nghĩa mà các tòa soạn đem đến cho các
gia đình.
1.2 Vài nét về báo Xuân Việt Nam
Có tác giả, thông qua việc khảo sát cách tổ chức nội dung, trang mục
của các tờ Phong Hóa, tờ Ngày Nay cho rằng, sáng kiến làm báo Xuân xuất
phát từ nhóm Tự Lực Văn Đoàn.
Một số ý kiến thì cho rằng, nhóm Tự Lực Văn Đoàn có công nâng
cao chất lƣợng nội dung, hình thức báo Xuân nhƣng không có công sáng
tạo ra cách làm báo Tết mà Phụ Nữ Tân Văn mới là tờ báo làm số báo
Xuân đầu tiên ở Việt Nam vào năm 1930.
Theo cuốn sách "Báo chí Việt Nam - những sự kiện đầu tiên và nhất"
do Nhà xuất bản Trẻ cho ra đời năm 2006, thì tờ báo xuân đầu tiên là tờ tạp
chí Nam Phong số Tết 1918 nhƣ là tờ báo Xuân đầu tiên. Tờ báo Tết ấy đã
nhích khỏi khuôn mẫu của những số báo bình thƣờng bằng lối trình bày mỹ
thuật, vui tƣơi hơn, các bài viết đều đƣợc đặt trang trọng trong khung hoa
với nhiều tranh minh họa, nội dung gồm nhiều bài văn xuân, thơ xuân, câu
đối tết.
Khởi sự từ tờ Nam Phong số Tết ấy cho đến các năm về sau, các nhà
làm báo đã bắt đầu lƣu tâm chăm chút hơn cho các số báo Xuân. Đến hẹn
lại lên, cứ mỗi độ Tết đến xuân về, báo Xuân lại nhƣ trăm hoa đua nở trên
các sạp báo. Tiêu biểu có thể kể đến số Xuân của các báo: Phụ Nữ Tân
Văn, Mai, Đuốc Nhà Nam, Cƣời Xuân, Sài Gòn, Điển Tín, Thần Chung,
Chị Cùng Em, Mới... ở Nam Kỳ, các báo Loa, Nhi Đồng Họa Bản, Tiểu
Thuyết Thứ Bảy, Trung Bắc Chủ Nhật, Hà Nội Hàng Ngày, Trăm Hoa... ở
Bắc Kỳ và đặc biệt là các số xuân của báo Phong Hóa, Ngày Nay, với lối
trình bày đẹp mắt, sáng tạo, luôn hấp dẫn ngƣời đọc.
19



×