Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

skkn một số biện pháp giáo dục học sinh cá biệt hiệu quả

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (137.68 KB, 17 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ
TRƯỜNG THPT NÔNG CỐNG II

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

"MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÁO DỤC HỌC SINH CÁ BIỆT
HIỆU QUẢ "

Người thực hiện : Nguyễn Thị Phương
Chức vụ : Giáo viên
SKKN thuộc lĩnh vực : Công tác chủ nhiệm

THANH HÓA NĂM 2016


MỤC LỤC
NỘI DUNG

TRANG

A. Mở đầu
2
B. Nội dung
1. Cơ sở lí luận .................................................................................................. 4
2. Thực trạng của vấn đề .................................................................................... 5
3. Một số biện pháp giáo dục học sinh cá biệt hiệu quả.................................... 6
3.1. Xây dựng quy chế thi đua và quy định về xếp loại hạnh kiểm riêng của
lớp theo nội quy của nhà trường, quy định của ban nề nếp ......................
6
3.2. Nhanh chóng nắm bắt thông tin, kịp thời tìm hiểu nguyên nhân các biểu
hiện của học sinh cá biệt ................................................................................... 7


3.3. Xây dựng tập thể lớp vững mạnh................................................................. 9
3.4. Sát sao, gần gũi và yêu thương.................................................................... 9
3.5.Kiên trì và tin tưởng.....................................................................................10
3.6. Tạo điều kiện để các em phát huy sở trường, đam mê............................... 11
3.7.Giáo viên không ngừng trau dồi chuyên môn, làm mới tiết dạy của mình...11
3.8. Tận dụng hiệu quả các tiết sinh hoạt, các buổi họp phụ huynh..................12
3.9. Phối hợp tốt với gia đình, giáo viên bộ môn, ban nề nếp và nhà trường....13
4. Kết quả đạt được ............................................................................................ 13
C. Kết luận, kiến nghị
15

2


A. MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài
Yếu tố đầu tiên cũng là yếu tố quan trọng nhất quyết định vị trí của một
quốc gia chính là con người. Trong điều kiện các cường quốc thế giới đang phát
triển như vũ bão thì con rồng nhỏ của châu Á - Việt Nam chúng ta cần phải nỗ
lực không ngừng. Giáo dục, đặc biệt là giáo dục trung học phổ thông đóng một
vai trò quan trọng trong sự phát triển ấy.
Một trong những mục tiêu của giáo dục phổ thông trong giai đoạn hiện nay
là“Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện thế hệ trẻ, đáp ứng yêu cầu phát
triển nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, phù hợp
với thực tiễn và truyền thống Việt Nam, tiếp cận trình độ giáo dục phổ thông ở
các nước phát triển trong khu vực và trên thế giới”. Dự thảo chương trình giáo
dục phổ thông tổng thể năm 2015 của Bộ giáo dục và đào tạo nêu rõ giáo dục
cấp THPT hiện hành ngoài mục tiêu củng cố và phát huy kết quả của giáo dục
THCS, còn giúp học sinh“có những hiểu biết thông thường về kĩ thuật và hướng

nghiệp, có điều kiện lựa chọn hướng phát triển và phát huy năng lực cá nhân".
Mục tiêu chương trình mới còn cụ thể hóa định hướng giáo dục:“giúp học sinh
hình thành phẩm chất và năng lực của người lao động, nhân cách công dân, ý
thức quyền và nghĩa vụ đối với tổ quốc…; có khả năng tự học và ý thức học tập
suốt đời, có những hiểu biết và khả năng lựa chọn nghề nghiệp phù hợp với
năng lực và sở thích, điều kiện và hoàn cảnh của bản thân…”.
Vai trò của người giáo viên trong nhà trường gắn liền với hai nhiệm vụ: vừa
gảng dạy vừa làm công tác giáo dục. Mục đích là đào tạo ra những học sinh vừa
có kiến thức văn hóa vừa có nhân cách làm người.
Gần đây, các phương tiện thông tin báo chí, truyền hình đã lên tiếng khá
nhiều về tình hình học sinh cá biệt. Vấn đề này đã trở thành mối quan tâm hàng
đầu, là mối lo ngại của xã hội, nhất là với gia đình và nhà trường. Học sinh cá
biệt trường nào cũng có. Học sinh cá biệt không nhiều, song lại là “lực cản” rất
lớn cho sự phát triển của nhà trường.
Giáo dục là khoa học nhưng cũng là nghệ thuật. Vấn đề học sinh cá biệt
ngày một gia tăng đặt ra nhiều câu hỏi : Làm thế nào để giảm thiểu số lượng học
sinh cá biệt? Làm thế nào để cảm hóa và giáo dục học sinh cá biệt? Làm thế nào
để giúp các em hòa nhập với tập thể? Làm thế nào để hình thành ở các em
những năng lực và phẩm chất của một công dân tốt? ... Vấn đề này đã và đang
trở thành một thách thức lớn với toàn xã hội nói chung và ngành giáo dục nói
riêng, trong đó chủ yếu là nhiệm vụ của các nhà trường.

2. Mục đích nghiên cứu
Từ thực tế làm công tác chủ nhiệm nhiều năm, qua học hỏi ở đồng nghiệp,
tham khảo phương pháp giáo dục trên các tạp chí giáo dục, trên truyền hình,
bản thân tôi cũng rút ra được một số kinh nghiệm trong công tác giáo dục học
sinh cá biệt. Với đề tài "Một số biện pháp giáo dục học sinh cá biệt hiệu quả",
3



tôi mong muốn thêm một tiếng nói góp phần ngăn chặn, giảm thiểu số lượng học
sinh cá biệt, nâng cao chất lượng nguồn lao động tương lai cho đất nước trước
hết về tư cách đạo đức.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Các học sinh cá biệt lớp 11A6 :
1. Em Nguyễn Hữu Cường
2. Em Hồ Chí Cường
3. Em Lê Văn Dương
4. Em Lê Công Nam
5. Em Lê Thị Lan Anh

4. Phương pháp nghiên cứu
- PP nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết
- PP điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin
- PP thống kê, xử lý số liệu

4


B. NỘI DUNG

1. Cơ sở lí luận
Mục tiêu cải cách giáo dục của nước ta là "làm tốt việc chăm sóc và giáo
dục thế hệ trẻ ngay từ tuổi ấu thơ cho tới lúc trưởng thành, nhằm tạo cơ sở ban
đầu của con người Việt Nam mới, người lao động làm chủ tập thể và phát triển
toàn diện" (Nghị quyết số 14-NQ/TW). "Nền giáo dục của chúng ta có trách
nhiệm rất to lớn và nặng nề là góp phần đào tạo và bồi dưỡng thế hệ trẻ thành
những chiến sĩ kiên cường bảo vệ những giá trị và thành quả của cách mạng,
trung thành với Đảng và sự nghiệp của Tổ quốc và dân tộc, có khả năng biến

kiến thức thành niềm tin chỉ đạo cho hành động, có sức đề kháng mạnh mẽ
trước mọi ảnh hưởng của những tư tưởng độc hại đang xâm nhập, thẩm thấu,
làm biến chất thế hệ trẻ của chúng ta" (Một số vấn đề về nền giáo dục nước ta
trước yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, GS.TSKH Nguyễn
Hoa Thịnh, Đại học quốc gia Hà Nội).
Quan điểm giáo dục hiện đại đặc biệt nhấn mạnh nhiệm vụ "dạy người" song
song với mục tiêu "dạy chữ". Tuy nhiên, trong thực tế, "việc giáo dục tư tưởng,
đạo đức, lối sống cho học sinh chưa được chú ý đúng mức cả về nội dung và
phương pháp; giáo dục phổ thông mới quan tâm nhiều đến "dạy chữ", chưa
quan tâm đúng mức đến kỹ năng sống, đến "dạy người" cho thanh niên" (PGS,
TS. Nghiêm Đình Vỳ, Báo điện tử ĐCSVN).
Thực trạng học sinh cá biệt đang ngày một gia tăng đang gióng lên hồi
chuông báo động về sự xuống cấp lí tưởng, đạo đức, lối sống trong thanh thiếu
niên, đòi hỏi sự quan tâm, vào cuộc của toàn xã hội.
Trước hết, chúng ta cần hiểu đúng khái niệm học sinh cá biệt. Học sinh cá
biệt là một khái niệm để chỉ những học sinh có cá tính khác biệt so với số đông
học sinh bình thường, có sự bất thường về tính cách, không có động cơ học tập,
tâm lí dễ bị kích động, thường xuyên vi phạm nội quy của nhà trường...Thực tế,
có học sinh cá biệt về học tập và những học sinh cá biệt về đạo đức, lối sống.
Thông thường, học sinh cá biệt về đạo đức, lối sống sẽ dẫn đến yếu kém về học
tập.
Biểu hiện của học sinh cá biệt cũng vô cùng phức tạp. Có khi các em trốn học
đi chơi, lừa dối bố mẹ thầy cô, lảng tránh các hoạt động tập thể, dọa nạt bạn bè,
đánh nhau; thường xuyên giở những trò tinh nghịch để trêu chọc thầy cô, bạn
bè; nói năng, ăn mặc khác thường để gây sự chú ý; thích yêu đương, phân tán tư
tưởng; thậm chí xin tiền của bố mẹ nhưng không đóng góp cho thầy cô mà sử
dụng vào mục đích riêng; ăn cắp , ăn trộm, "cắm quán" tài sản không chỉ của
mình mà còn của bạn...
Học sinh cá biệt là mầm mống tội phạm của xã hội. Điều này ảnh hưởng
không nhỏ đến sự phát triển của nhà trường nói riêng và đất nước nói chung.

Vì vậy, chú trọng giáo dục đạo đức cho học sinh, đặc biệt là học sinh cá biệt
là nhiệm vụ vô cùng quan trọng của công tác giáo dục hiện nay.

5


2. Thực trạng của vấn đề
2.1. Thuận lợi
THPT Nông Cống 2 là ngôi trường có bề dày truyền thống hơn 40 năm.
Hằng năm, công tác giảng dạy và giáo dục của nhà trường đều đạt được những
thành tích đáng mừng. Giáo dục đạo đức cho học sinh cá biệt là một trong
những nhiệm vụ thiết yếu trong nhà trường, hạn chế được những đối tượng học
sinh yếu về mặt đạo đức là góp phần vào chất lượng giáo dục toàn diện của nhà
trường. Vì vậy, công tác này luôn được sự quan tâm của cấp ủy, ban giám hiệu
nhà trường.
Lớp 11A6 của tôi là một lớp có đầu vào ở mức độ trung bình. Nhiều học
sinh trong lớp ngoan, có ý thức học tập. Địa bàn sinh sống đa số ở gần trường,
gia đình thuần nông là chủ yếu nhưng nhiều phụ huynh khá quan tâm đến việc
học của các em.
Công tác trong ngành giáo dục 13 năm, bản thân tôi đã từng trải qua công
tác chủ nhiệm hơn 10 năm, tôi nhận thấy rằng không có học sinh nào xấu. Nếu
gần gũi các em, ta sẽ thấy rằng các em hoàn toàn có thể thay đổi theo chiều
hướng tích cực. Thậm chí, có thể là những đứa trẻ rất thông minh và một khi
được lắng nghe, vị tha và yêu thương, các em sẽ trở thành những đứa trẻ tốt.
2.2. Khó khăn
Biểu hiện của học sinh cá biệt thường rất phức tạp. Mỗi học sinh cá biệt có
những hành vi, biểu hiện không dễ nắm bắt. Vì vậy, việc tìm giải pháp thích hợp
với từng em để giáo dục cũng không hề đơn giản.
Mặt khác, theo quan điểm triết học của chủ nghĩa Mác- Lê nin: "Bản chất
con người là sự tổng hoà các mối quan hệ xã hội", như vậy những hiện tượng

học sinh cá biệt được nêu trên đây không phải là một hiện tượng ngẫu nhiên
hoặc tình cờ mà có, tất cả đều có những nguyên nhân nhất định. Nguyên nhân
dẫn đến hiện tượng học sinh cá biệt thường rất khác nhau.
Nguyên nhân thứ nhất phải kể đến xuất phát từ gia đình. Gia đình thiếu sự
quan tâm hay quá tin tưởng, chiều chuộng các em; những éo le trong cuộc sống
gia đình cũng ảnh hưởng rất lớn đến đạo đức học sinh.
Nguyên nhân thứ hai là từ xã hội : Sự phát triển của công nghệ thông tin,
mặt trái của cơ chế thị trường đã đem đến nhiều cám dỗ, ảnh hưởng tiêu cực đến
học sinh.
Mặt khác, nhà trường chưa tạo được nhiều sân chơi, chưa tổ chức được đa
dạng các hoạt động ngoại khóa để các em tham gia mà chủ yếu là chú trọng giáo
dục tri thức.
Hơn thế nữa, bản thân học sinh lại ở giai đoạn tâm sinh lý có nhiều biến đổi,
từ tuổi thiếu niên chuyển sang tuổi thanh niên, học sinh muốn khẳng định mình
nhưng hiểu biết chưa hoàn thiện, đôi khi do bản năng hoặc a dua. Khi đạo đức
yếu kém thì học lực cũng tỉ lệ thuận với nó. Điều này sẽ dẫn đến hệ quả, các em
bị hổng kiến thức căn bản; điểm kiểm tra thấp so với các bạn cùng lớp làm các

6


em mặc cảm đưa đến hiện tượng sợ bị kiểm tra, tiếp theo là chán học và cuối
cùng nảy sinh bỏ học.
Những yếu tố trên tạo nên những khó khăn không nhỏ trong quá trình giáo
dục học sinh cá biệt.

3. Một số biện pháp giáo dục học sinh cá biệt hiệu quả
Như trên đã nói, giáo dục không chỉ là khoa học mà là một nghệ thuật,
người giáo viên không chỉ truyền dạy tri thức mà quan trọng hơn hết là giúp học
sinh hình thành những phẩm chất, những năng lực, những kỹ năng cần thiết. Bởi

người thầy là "kỹ sư tâm hồn" và " Mỗi đứa trẻ sinh ra như một chiếc hộp bí ẩn.
Có những mảnh ghép bên trong, một số mảnh bị vỡ, một số bị mất hoặc còn bị
giấu kín. Nhưng trái tim người thầy có thể sắp xếp lại chúng thành bức tranh,
tìm ra những mảnh ghép còn thiếu, chỉ ra cho đứa trẻ thấy nó tuyệt vời như thế
nào. Công việc của người thầy không chỉ truyền dạy tri thức như cách làm đầy
chiếc hộp bằng những mảnh ghép, mà là, ghép chúng lại với nhau thành một tác
phẩm nghệ thuật". Hơn hết, giáo dục học sinh cá biệt đòi hỏi người giáo viên
phải thực sự tâm huyết với nghề, phải kiên trì, phải thực sự có tấm lòng bao
dung, yêu thương và biết cảm thông. Trong quá trình làm công tác giáo dục học
sinh cá biệt, tôi luôn đảm bảo sự mềm dẻo, linh hoạt giữa nghiêm khắc và mềm
mỏng, giữa nguyên tắc và linh động trong nguyên tắc. Sau đây, tôi xin chia sẻ
một số kinh nghiệm mang lại thành công cho tôi trong việc cảm hóa các học
sinh cá biệt.
3.1. Xây dựng quy chế thi đua và quy định về xếp loại hạnh kiểm riêng của
lớp theo nội quy của nhà trường, quy định của ban nề nếp
Tôi cho rằng để đánh giá chính xác học sinh, cần phải có các quy chế, tiêu
chí xếp loại rõ ràng. Vì thế, ngay từ khi nhận học sinh vào lớp 10, tôi đã đưa ra
các quy chế riêng cho lớp phù hợp với các quy chế xếp loại hạnh kiểm học sinh
tring học phổ thông của ngành, các quy định, nội quy của nhà trường. Tôi thông
qua học sinh lớp chủ nhiệm trong buổi sinh hoạt đầu tiên, đồng thời in và dán
ngay trên bảng tin của lớp, yêu cầu học sinh ghi nhớ. Việc uốn nắn các em ngay
từ khi mới vào lớp có ý nghĩa quan trọng trong việc tạo nề nếp lớp học. Tôi xem
đó như một cách để "gò" các học sinh , nhất là học sinh cá biệt vào "khuôn khổ".
Tôi xây dựng các quy định như sau :
a. Quỹ điểm
Mỗi học sinh có 10 điểm/tuần. Thời gian tính điểm là 19 tuần thực học của
mỗi học kì. Quỹ điểm dành cho mỗi học sinh là 190 điểm/học kì.
b. Quy định về điểm thưởng
Học sinh có đóng góp cho lớp sẽ được cộng điểm(10 điểm/đóng góp), có
tiến bộ rõ rệt sẽ được cân nhắc khi xếp loại cuối kì, cuối năm.

c. Quy định về điểm trừ cho các lỗi vi phạm
Trừ 40 điểm/lượt vi phạm đối với trường hợp học sinh tham gia đánh nhau
hoặc trộm cắp tài sản của người khác.
7


Trừ 30 điểm/lượt vi phạm đối với trường hợp học sinh : vô lễ hoặc lừa dối
giáo viên, CBCNV nhà trường, hút thuốc, sử dụng rượu bia khi tham gia các
hoạt động giáo dục trong nhà trường, tham gia các tệ nạn xã hội khác.
Trừ 20 điểm/lượt vi phạm đối với trường hợp học sinh mắc một trong các lỗi
sau: bỏ giờ, nghỉ học vô lí do (cả sáng và chiều), sử dụng điện thoại di động,
máy nghe nhạc trong giờ, gian lận trong kiểm tra, thi cử, không nộp bản tự kiểm
(khi bị phạt), không nộp các thông báo gửi về gia đình theo yêu cầu (sau khi có
chữ kí xác nhận của phụ huynh)
Trừ 10 điểm/lượt vi phạm đối với trường hợp học sinh vi phạm một trong
các lỗi sau: nộp bản tự kiểm, các thông báo gửi về gia đình chậm (tối đa là 2
ngày so với yêu cầu), bị ban nề nếp nhắc nhở khi tham gia các hoạt động chung.
Trừ 5 điểm/lượt vi phạm đối với trường hợp học sinh mắc một trong các lỗi
sau : đi học chậm, dẫn người lạ vào lớp hoặc vào trường, nhuộm hoặc cắt tóc
không đúng quy định, không học bài cũ, không đeo phù hiệu hoặc vẽ bậy lên
phù hiệu, không thực hiện các quy định về trang phục, bị ghi vào sổ đầu bài, vệ
sinh chưa tốt làm lớp bị trừ điểm, tập trung chậm, đổi chỗ…
c. Công thức tính điểm
Điểm thi đua = 190 + điểm thưởng - điểm trừ
d. Các hình thức xếp loại ( theo học kì )
- Từ 170 - 190 điểm : loại Tốt
- Từ 160 - 165 điểm : loại Khá
- Từ 150 - 155 điểm : loại Trung bình
- Còn lại
: loại Yếu

4 tổ trưởng trực tiếp theo dõi, tính điểm và nộp lại cho tôi sau mỗi tuần. Tôi
trực tiếp kiểm tra và kí xác nhận vào cuối mỗi trang. Cuối học kì, tôi cho mỗi
học sinh tự nhận số điểm mình đạt được. Sau đó, đối chiếu với kết quả theo dõi
của tổ trưởng, cân nhắc sự tiến bộ, tôi xếp loại hạnh kiểm cụ thể cho từng em.
3.2. Nhanh chóng nắm bắt thông tin và kịp thời tìm hiểu nguyên nhân các
biểu hiện của học sinh cá biệt
Không phải tự nhiên mà trẻ trở thành cá biệt, đó là hậu quả của các vết
thương tâm lý mà vô tình người lớn gieo vào đầu óc non nớt của trẻ lúc sống
trong môi trường gia đình như bố mẹ bỏ nhau, bố hay uống rượu đánh đập. Bên
cạnh đó, cũng có thể do gia đình khó khăn, do bố mẹ đi làm ăn xa hoặc quá chú
tâm vào việc kiếm tiền hay trẻ bị lôi kéo bởi những kẻ xấu, lông bông... Nắm rõ
hoàn cảnh gia đình của từng học sinh, nhất là học sinh cá biệt giúp chúng ta
nhanh chóng tìm ra giải pháp có hiệu quả hơn.
Tôi luôn tự nhắc mình rằng, thành công của người giáo viên chủ nhiệm là
tìm được những học sinh tin cậy để giao nhiệm vụ cán sự lớp. Chính cán sự lớp
sẽ là người cung cấp thông tin về các học sinh khác trong lớp, đặc biệt là học
sinh cá biệt cho giáo viên chủ nhiệm. Tất nhiên giáo viên chủ nhiệm cũng phải
thật khéo léo, tế nhị để học sinh cung cấp thông tin được "an toàn" trước những
ánh mắt hoài nghi của bạn bè.
8


Bên cạnh đó, giáo viên bộ môn đóng một vai trò cực kì quan trọng trong giáo
dục nhân cách học sinh.Việc nắm bắt thông tin kịp thời từ giáo viên bộ môn là
vô cùng cần thiết. Khi học sinh có các biểu hiện cá bệt, tôi trực tiếp gặp giáo
viên bộ môn để trao đổi, tìm hiểu.
Ngoài ra, tôi dành thời gian nhất định theo dõi mạng xã hội mà học sinh sử
dụng. Có một thực tế là học sinh cá biệt rất thích mạng xã hội. Các em xem đó
cũng chính là nơi để thể hiện mình qua những trạng thái được đăng và chia sẻ
công khai. Đôi khi mầm mống của những mâu thuẫn, những kế hoạch hay dự

định " nổi loạn" được thông báo mà không hề giấu giếm. Những thông tin này
giúp chúng ta có biện pháp ngăn chặn kịp thời các hành động sai trái, tránh được
những hậu quả đáng tiếc.
Tôi ghi vào sổ chủ nhiệm của mình hoàn cảnh và thường xuyên cập nhật
các biểu hiện của từng em. Ví dụ :
STT Họ và tên
Biểu hiện cá biệt
Hoàn cảnh
Ghi chú
1
Nguyễn
Hữu Hay bỏ học, xin tiền Bố mẹ đi làm xa, ở Cắm đồ
Cường
học rồi chi dùng vào với bà, lực học ngày
các mục đích riêng, kém
30/9/2014
cắm đồ, thậm chí
...
mượn đồ của bạn để
cắm...
2

Hồ Chí Cường

3

Lê Văn Dương

4


Lê Công Nam

5

Lê Thị Lan Anh

Hay bỏ học, nhất là Gia đình buôn bán,
các buổi chiều, mê bố mẹ ít có thời
chơi điện tử...
gian quan tâm, nhà
xa...
Hay bỏ học, không Là học sinh lưu
chịu
học
bài, ban, bố hay uống
thường xuyên sử rượu, mẹ bận công
dụng điện thoại, gây việc nên ít có thời
gổ đánh nhau...
gian quan tâm,
kinh tế khó khăn...
Chuyển sang từ lớp Bố mẹ quan tâm
11A1, lầm lì, ít hòa nhưng bố quá
đồng, bỏ học đi chơi cứng nhắc, thường
điện tử, vô lễ với phạt e bằng những
thầy cô
trận đòn rất đau
Hay nói chuyện,
hay sử dụng điện
thoại, trang điểm
lòe loẹt, bỏ học đi

chơi với người yêu
(ngoài trường)

Bỏ học
ngày 15/9
...
Đánh
nhau
ngày 3/10
...

Vô lễ với
Gv dạy
môn tiếng
Anh ngày
5/10
...
Bố mẹ li dị, ở với Sử dụng
bố và mẹ kế
điện thoại
trong
giừo học
ngày 4/11
...
9


Nắm vững đặc điểm này, tôi có các biện pháp phù hợp để giáo dục đối với
từng học sinh.
3.3. Xây dựng tập thể lớp vững mạnh

Trong các biện pháp giáo dục học sinh, tôi luôn đề cao sức mạnh của tập
thể. Kinh nghiệm cho thấy, khi tập thể có tinh thần đoàn kết cao, có ý thức xây
dựng thì chắc chắn yếu tố "cá biệt" của học sinh sẽ bị "khống chế". Môi trường
nề nếp tốt sẽ có vai trò tích cực trong giáo dục học sinh cá biệt. Vì vậy, ngay từ
khi mới nhận các em vào lớp 10, tôi đặc biệt chú ý tới việc lựa chọn học sinh
làm cán sự lớp, đặc biệt là lớp trưởng. Tôi luôn xem đó là cánh tay đắc lực của
mình.
Bên cạnh đó, tôi cũng quan tâm đến việc sắp xếp chỗ ngồi, có sơ đồ chỗ
ngồi để giáo viên bộ môn theo dõi. Khi xếp chỗ ngồi cho các em, tôi luôn để
mỗi cán sự lớp ngồi cạnh và chịu trách nhiệm kèm cặp một học sinh cá biệt (tôi
đặc biệt chú ý đến sự phù hợp tính cách của các em). Ví dụ: tôi xếp Nguyễn Hữu
Cường ngồi cạnh lớp phó học tập là Nguyễn Thị Diệu Linh vì Linh học giỏi, có
khả năng thuyết phục người khác; tôi xếp Lê Thị Lan Anh ngồi cạnh tổ trưởng tổ
1 Lê Thị Minh Ánh vì Ánh điềm đạm, biết lắng nghe, chia sẻ; Lê Công Nam
ngồi cạnh Lê Thị Hồng - lớp trưởng - vì các em từng là bạn học cũ ở cấp 2, lại
gần nhà nhau ...
Với các hoạt động bề nổi của nhà trường, tôi luôn tạo điều kiện và khích lệ
các em tích cực tham gia. Cá nhân tôi cũng là người luôn quan tâm, tư vấn, giúp
đỡ các em trong các cuộc thi : Sáng tác báo tường chào mừng ngày 20/11, Kỹ
năng sống chào mừng 8/3, thi văn nghệ, thể dục thể thao chào mừng 26/3...Vì
thế, lớp tôi luôn đạt các giải cao trong các hoạt động này. Nề nếp cũng được xếp
ở tốp đầu của nhà trường.
Ngoài việc thưởng điểm để xếp loại hạnh kiểm, tôi còn đề xuất với phụ
huynh trích một phần quỹ lớp để mua quà thưởng cho học sinh đạt điểm cao
trong các đợt thi khảo sát, đạt giải trong các cuộc thi cấp trường, cấp tỉnh. Điều
này, có ý nghĩa khuyến khích học sinh rất lớn. Nhờ vậy, trong các đợt thi khảo
sát, kì thi liên môn, thi sáng tạo khoa học kỹ thuật... lớp tôi chủ nhiệm luôn có
học sinh tham gia và đạt giải.
3.4. Sát sao, gần gũi và yêu thương
Tôi cho rằng giáo viên chủ nhiệm phải như người chỉ huy luôn bám sát trận

địa của mình. Việc theo dõi sát sao học sinh là vô cùng cần thiết. Hơn nữa, cần
gắn bó với các em bằng tình cảm, bằng tình thương yêu. Tôi nhận thấy rằng, với
các học sinh cá biệt, việc áp dụng cứng nhắc các quy chế, quy định chỉ mang lại
kết quả trái ngược. Do đó, về giải pháp, trước hết vẫn phải là tình cảm yêu
thương học sinh thực sự, cố gắng giúp các em vượt qua những biến cố, vấn đề
xảy trong quá trình sống, thuyết phục học sinh bằng lời lẽ có lý, có tình, bằng
tình cảm và khen, chê đúng lúc; tìm cách tác động lên nhận thức và tình cảm
của học sinh thông qua trò chuyện, nêu gương tốt, thưởng việc tốt.
10


Tôi luôn dành thời gian để nói chuyện riêng với mỗi học sinh cá biệt có khi
trực tiếp, cũng có khi qua điện thoại. Tôi thấy rằng nói chuyện với các em bằng
tin nhắn là một trong những biện pháp đặc biệt hiệu quả để được các em chia sẻ,
đưa ra lời khuyên mà các em sẵn sàng tiếp thu. Đôi khi, tôi gọi các em đến nhà
với lí do "cô có chút việc cần em giúp" là tôi đã có cả buổi chiều để tâm sự, để
hiểu các em hơn, để các em có cảm giác được gần gũi. Thái độ trò chuyện chân
thành, xem các em như em, như con của mình đã giúp tôi đưa các em ra khỏi thế
giới ảo hoặc những buổi lang thang lêu lổng, các em biết lắng nghe, trở nên hòa
đồng hơn...
Tôi cũng sắp xếp thời gian cùng cán bộ lớp tới thăm gia đình các học sinh
cá biệt vào ngày cuối tuần. Với những học sinh khó khăn về kinh tế ( ví dụ như
em Lê Văn Dương) tôi cố gắng huy động sự ủng hộ từ nhiều phía để hỗ trợ . Tôi
cũng chia sẻ với phụ huynh về đặc điểm tâm lí lứa tuổi của các em để phụ huynh
gần gũi các em hơn.
Mặt khác, khi các em vi phạm nội quy, tôi luôn tạo cho các em cơ hội để
nhận "điểm thưởng". Các hoạt động tập thể luôn là "lá bài "để tôi kéo các em
đến gần hơn với các bạn, với mình. Khi được khen, khi những hoạt động các em
trực tiếp tham gia có kết quả tốt, các em vô cùng hào hứng . Nhiều GVCN cứ
phàn nàn rằng phải ép, phải bắt học sinh mới chịu tham gia các hoạt động tập thể

nhưng ở lớp tôi, các em tham gia rất nhiệt tình, hăng hái.
3.5. Kiên trì và tin tưởng
Tạo sự chuyển biến tích cực ở học sinh cá biệt không phải là điều dễ dàng,
cũng không thể nóng vội một vài lần trò chuyện không được là thẳng tay phạt
các em. Công tác giáo dục học sinh cá biệt đòi hỏi người giáo viên chủ nhiệm
phải thực sự kiên trì.
Đầu năm lớp 11, lớp tôi tiếp nhận em Lê Công Nam chuyển đến từ lớp
11A1 ( một lớp mũi nhọn của nhà trường). Đón em vào lớp, tôi cố gắng tạo
không khí thoải mái và dặn dò các học sinh khác giúp đỡ bạn nhưng thực lòng
tôi rất băn khoăn và lo lắng. Tôi tìm hiểu nguyên nhân em chuyển lớp bằng cách
gặp riêng em để trò chuyện, trao đổi với thầy chủ nhiệm cũ và mẹ em. Hôm
chuẩn bị cho lễ khai giảng, em không có mặt. Tôi gọi điện cho gia đình thì được
biết em đã đi nhưng không vào trường. Tôi gọi điện nhưng em không nghe. Tôi
nhắn tin nhưng em không trả lời. Tôi vẫn cố gắng kìm chế, nhẹ nhàng nhắn với
em rằng tôi chờ em vào lớp. Em chỉ trả lời ngắn gọn : "Thôi cô!" rồi tắt máy
luôn. Mẹ em bảo rằng đã đi tìm nhưng không thấy em.
Trở về nhà, lòng tôi nặng trĩu. Tôi nhắn tin cho em : " Nam ơi ! Mai đi
khai giảng em nhé! Cô và cả lớp chờ em". Phải tới tối, em mới trả lời : "Cô ơi!
Em xin lỗi". Tôi mừng muốn khóc. Và sáng hôm sau em đã tới trường.
Tuy nhiên, em vẫn tiếp tục bỏ học, thậm chí, có khi vô lễ với giáo viên. Tôi
cố gắng kiên trì phương pháp mềm mỏng. Cho tới hết kì I, em đã thực sự thay
đổi. Đôi khi em còn nhắn tin tâm sự với tôi về những vướng mắc của mình. Vốn

11


thông minh, kết quả học tập của em cũng tiến bộ trông thấy. Tôi cho rằng đó là
niềm hạnh phúc nhất của người giáo viên.
Hay như trường hợp em Nguyễn Hữu Cường. Trúng tuyển vào lớp 10 thuộc
diện "vớt", lực học của em đuối hơn các bạn. Mặt khác, em thường xuyên bỏ

học, cầm đồ. Khi tôi gặp riêng để trò chuyện, ban đầu em không mở lòng, chỉ im
lặng, dù tôi có nói gì cũng chỉ đáp "vâng", còn tôi hỏi vì sao thì không nói. Việc
em tái phạm khiến tôi rất nản nhưng vẫn nhắc mình phải cố gắng. Tôi thường
xuyên quan tâm đến em, nói với em rằng tôi tin em sẽ thay đổi được, thi thoảng
lại nhắn tin cho em để hỏi thăm, đến sinh nhật tôi tặng em một chiếc đồng hồ
báo thức kèm theo lời nhắn : "16 tuổi rồi đấy. Thời gian quý lắm em ạ. Tuổi mới,
đừng lãng phí thời gian nữa nhé!". Kết hợp với sự thuyết phục của Diệu Linh,
sự quan tâm của gia đình, cuối năm lớp 10, em không còn cầm đồ nữa. Sang lớp
11 em không còn bỏ học . Nhờ vậy, kết quả học tập của em cũng khả quan hơn...
Như vậy, giáo dục học sinh cá biệt là một quá trình, không thể một sớm một
chiều có thể thay đổi được. Điều này đòi hỏi giáo viên phải thực sự kiên trì và
tin tưởng học sinh .
3.6. Tạo điều kiện để các em phát huy sở trường, đam mê
Mỗi học sinh luôn có những thế mạnh riêng. Học sinh cá biệt cũng vậy. Phát
hiện và tạo điều kiện để các em được phát huy sở trường, đam mê của mình
cũng là một biện pháp giúp các em hòa nhập với lớp, tự tin hơn để khẳng định
bản thân. Ví dụ: ở lớp tôi, Lê Thị Lan Anh là một học sinh có năng khiếu hội
họa. Mỗi dịp lớp làm báo tường hay tập san, tôi luôn cử em phụ trách mĩ thuật.
Được tin tưởng, em đã làm rất tốt. Tôi cũng khích lệ em chọn khối M, H để xét
tuyển đại học . Tôi nhận thấy em phấn chấn hơn, tiến bộ hơn. Hay em Lê Văn
Dương có giọng hát rất hay, tôi đã đưa em vào đội văn nghệ của lớp, tham gia
các tiết mục văn nghệ ở nhà trường. Nhờ thế, em trở nên tự tin hơn, ngoan hơn.
Lê Công Nam là một học sinh vốn thông minh nhưng ham chơi. Tôi đã trò
chuyện với em, nói với em rằng "các thầy cô đều nhận xét em rất thông minh,
có điều còn lười học. Em hãy cố gắng để phát huy khả năng vốn có của mình".
Nhiều lần như vậy, tôi thấy em chăm học hơn. Những con điểm được nâng lên
cũng làm em vui hơn, dần tránh xa được các trò chơi ảo. Em Hồ Chí Cường vốn
sống tình cảm, chân thành với bạn bè. Tôi "tận dụng" ưu điểm này của em để
đưa em hòa nhập lại với lớp sau một thời gian đam mê trò chơi điện tử...
3.7. Giáo viên phải không ngừng trau dồi chuyên môn, biết làm mới tiết dạy

của mình
Giáo dục học sinh cá biệt còn một yêu cầu quan trọng khác là giáo viên phải
giỏi nghề. Nhận thức rõ điều đó, tôi luôn cải tiến, đổi mới phương pháp giảng
dạy để tiết sau “mới” hơn tiết trước. Sau một tiết học, trò học được nhiều tri thức
bổ ích tạo nên sự đam mê học hỏi, khám phá tự tin, khẳng định mình.
Là một giáo viên Văn, tôi không áp đặt suy nghĩ cho các em, không dạy các
em theo kiểu đọc chép. Trong các tiết học, tôi đặc biệt chú ý xây dựng hệ thống
12


câu hỏi sao cho học sinh có điều kiện bộc lộ suy nghĩ, chính kiến của mình. Một
phương pháp dạy học tôi vô cùng tâm đắc là dạy học tích hợp. Các vấn đề của
đời sống được tôi đưa vào bài học một cách khéo léo để giáo dục học sinh. Ví dụ
khi dạy bài "Tôi yêu em" của Puskin, tôi đã cho các em thảo luận để bày tỏ quan
điểm của mình về tình yêu tuổi học trò. Từ đó, định hướng cho các em suy nghĩ
và quan niệm đúng đắn về tình yêu. Hoặc dạy bài "Luyện tập phỏng vấn và trả
lời phỏng vấn", tôi giao cho 4 tổ 4 chủ đề. Ví dụ: An toàn giao thông, Bạo lực
học đường, Bảo vệ môi trường, Nghề nghiệp trong tương lai. Sau đó, yêu cầu
các em xây dựng kịch bản và tiến hành phỏng vấn trong tiết học. Qua đó, một
mặt tôi khơi gợi được hứng thú của các em khi học môn Văn, mặt khác giúp các
em nhận thức được các vấn đề thường gặp trong đời sống, có các kỹ năng cần
thiết để phòng tránh và hành động tích cực...
Giáo dục học sinh cá biệt là một nghệ thuật, nghệ thuật dạy trẻ. Thầy, cô
đứng trên bục giảng phải đóng nhiều vai: Tác giả kịch bản, đạo diễn, diễn viên,
có khi là khán giả - tức như một học sinh ngồi nghe giảng trên lớp. Làm thầy,
nhưng phải hiểu trò đang nghĩ gì, làm gì trong giờ học. Bài giảng là một “món
ăn”, nếu nhàm chán, học trò sẽ bỏ ăn - bỏ học. Ngược lại, khi chúng ta làm cho
học sinh yêu mến môn học, yêu mến chúng ta thì việc uốn nắn các học sinh cá
biệt không còn là vấn đề khó khăn.
3.8. Tận dụng hiệu quả các tiết sinh hoạt, các buổi họp phụ huynh

Các tiết sinh hoạt lớp chủ nhiệm, tôi để cho lớp trưởng thực hiện công việc
tổng kết công tác tuần trước, thông qua các kết quả thi đua đã được đánh giá dựa
vào tiêu chí cho điểm, xếp loại. Sau đó, tôi sẽ đưa ra các hình thức thưởng phạt
hợp lí. Thông thường, khi các học sinh cá biệt vi phạm, tôi trực tiếp gặp gỡ các
em vào cuối tuần trước, trao đổi với các em, tìm hiểu nguyên nhân và để các em
được lựa chọn một hình phạt đưa ra vào tiết sinh hoạt đầu tuần sau. Như vậy,
các em sẽ chấp nhận chứ không phản kháng.
Trong các tiết sinh hoạt, tôi thường đưa ra các tình huống và yêu cầu các em
thảo luận để giải quyết. Đó có thể là những tình huống xảy ra trong thực tế, cũng
có thể là những câu chuyện tôi đọc được trong một cuốn sách, trên một trang
mạng nào đó. Những học sinh cá biệt thường được tôi lựa chọn để nêu quan
điểm đầu tiên. Tôi để các em được thảo luận nêu ý kiến của mình. Sau đó, nhẹ
nhàng uốn nắn suy nghĩ và hành vi của các em.
Đôi khi, tôi tổ chức các tiết sinh hoạt theo giới. Những vấn đề nổi cộm trong
mỗi giới được tôi đưa ra để khuyên bảo, nhắc nhở. Nhờ vậy, kỹ năng sống của
các học sinh cá biệt nói chung và của học sinh lớp tôi được trang bị khá tốt.
Bên cạnh đó, trước mỗi buổi họp phụ huynh tôi chuẩn bị nội dung rất kỹ
càng. Tôi cho mỗi học sinh viết một lá thư, nói lên suy nghĩ , nguyện vọng của
mình (nhưng nói rằng chỉ để mình tôi đọc) . Tôi bí mật đặt lá thư vào hộc bàn.
Khi phụ huynh đến, tôi yêu cầu phụ huynh ngồi theo sơ đồ trên bảng sao cho
đúng vào vị trí con em mình rồi nhận bức thư ấy và đọc. Nhờ vậy, phụ huynh

13


hiểu con mình hơn, quan tâm lắng nghe các em hơn. Các học sinh cá biệt khi
được bố mẹ quan tâm, lắng nghe thì cũng trở nên ngoan ngoãn hơn.
3.9. Phối hợp tốt với gia đình, giáo viên bộ môn, ban nề nếp và nhà trường
Trước hết, tôi gặp gỡ các giáo viên bộ môn, nói cho thầy cô nghe về đặc
điểm của từng học sinh cá biệt, nhờ thầy cô quan tâm tới các em, thông tin kịp

thời cho tôi các biểu hiện của các em.
Bên cạnh đó, tôi thường xuyên giữ liên lạc với gia đình. Bất kể một thông
báo nào mới của nhà trường về lịch học, lịch nghỉ, lịch thi, các khoản đóng
góp...đều được tôi thông báo đến phụ huynh bằng tin nhắn. Riêng những biểu
hiện cá biệt của học sinh được tôi trao đổi trực tiếp, cùng thảo luận với phụ
huynh để đề ra phương hướng giải quyết. Với các phụ huynh thiếu sự quan tâm
đến con em, tôi thẳng thắn phê bình và phân tích hậu quả. Nhờ vậy, phụ huynh
và các em có sự gắn kết nhiều hơn.
Ngoài ra, trước những vấn đề phức tạp, tôi luôn tìm sự cố vấn từ ban giám
hiệu, ban nề nếp của nhà trường. Sự đóng góp ý kiến của ban giám hiệu hay ban
nề nếp cũng góp phần lớn vào thành công của tôi trong công tác giáo dục học
sinh cá biệt.

4. Kết quả đạt được
Là một giáo viên nhiều năm liên tục làm công tác chủ nhiệm, tôi nhận thấy
rằng hiện tượng học sinh cá biệt ở các khóa sau thường nhiều hơn khóa trước.
Vấn đề này khiến tôi luôn trăn trở để tìm giải pháp.
Qua học hỏi bạn bè đồng nghiệp, bằng kinh nghiệm của bản thân, tôi đã áp
dụng các biện pháp trên trong quá trình làm công tác chủ nhiệm và giáo dục học
sinh cá biệt. Kết quả đạt được rất khả quan. Lớp tôi chủ nhiệm suốt hai năm qua
đã có những chuyển biến tích cực. Từ kết quả đầu vào không cao, từ việc luôn bị
phê bình nhắc nhở trong các buổi chào cờ đầu tuần bởi những vấn đề liên quan
đến nề nếp mà nguyên nhân chủ yếu từ các học sinh cá biệt, cho tới nay lớp đã
vươn lên xếp vị trí thứ nhất toàn trường về nề nếp, xếp vị trí thứ 3 của khối về
học tập, không còn hiện tượng học sinh bỏ giờ hay vô lễ. Trong các cuộc thi do
sở giáo dục và đào tạo, nhà trường, đoàn trường phát động, lớp luôn có học sinh
tham gia và đạt giải. Các phong trào bề nổi của lớp luôn được đánh giá cao, tạo
được hiệu quả tích cực trong việc khuyến khích học sinh phát triển các kỹ năng
sống, giúp học sinh cá biệt hòa đồng hơn và tiến bộ rõ rệt về học tập, rèn luyện.
Sau mỗi kỳ học, tôi luôn lưu lại trong sổ chủ nhiệm những kết quả mà cô trò gặt

hái được, xem đó là động lực để tiếp tục phấn đấu.
Bảng thống kê kết quả xếp loại theo từng thời điểm như sau :

Năm lớp
(45 học

Hạnh kiểm
( Số lượng : HS

Học lực
( Số lượng : HS
14


sinh)

Tỉ lệ : %)
Tốt

10 Học
kì 1
Học
kì 2
Cả
năm
11 Học
kì 1
Học
kì 2
Cả

năm

Khá

TB

Yếu

Tỉ lệ : %)
HS
CB

Giỏi

Khá

TB

Yếu

K

20
15
6
4
44,4% 33,3% 13,3% 8,9%

5
0

11,1% 0%

15
25
5
0
33,3% 55,6% 11,1%

30
8
6
2
66,7% 17,8% 13,3% 4,4%

2
4,4%

1
2,2%

20
22
2
44,4% 48,9% 4,4%

0

30
8
6

2
66,7% 17,8% 13,3% 4,4%

2
4,4%

1
2,2%

19
24
1
42,2% 53,3% 2,2%

0

31
10
3
68,9% 22,2% 6,7%

1
2,2%

1
2,2%

2
4,4%


22
21
0
48,9% 46,7%

0

39
6
0
86,7% 13,3%

0

0

2
4,4%

30
13
0
66,7% 28,9%

0

39
10
0
86,7% 13,3%


0

0

2
4,4%

30
13
0
66,7% 28,9%

0

Kết quả này thực sự là hạnh phúc lớn lao của tôi và tập thể lớp 11A6. Đó là kết
quả của tinh thần đoàn kết, của sự nỗ lực không ngừng của cá nhân tôi và mỗi
học sinh. Đó cũng là kết quả của sự quan tâm từ các phụ huynh, nhà trường và
thầy cô giáo bộ môn.

C. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
15


1. Kết luận
Giáo dục đạo đức, kỹ năng sống cho học sinh thực sự là yêu cầu cần thiết
trong nội dung giáo dục hiện đại. Trong đó, giáo dục học sinh cá biệt đóng vai
trò vô cùng quan trọng. Với đề tài "Một số biện pháp giáo dục học sinh cá biệt
hiệu quả", sáng kiến của tôi mong muốn góp thêm một tiếng nói, một kinh
nghiệm có ý nghĩa thực tiễn trong công tác giáo dục hiện nay.

Do hạn chế về thời gian, năng lực, đề tài của tôi chắc chắn không tránh
khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận được ý kiến đóng góp của bạn bè đồng
nghiệp, các quý thầy cô để bài viết được hoàn thiện hơn, đồng thời bản thân tôi
cũng có thêm được những kinh nghiệm quý báu trong công tác trồng người vinh
quang mà hết sức gian nan này.
2. Kiến nghị
Để công tác giáo dục học sinh cá biệt đạt kết quả tốt nhất, tôi xin được đưa
ra một số kiến nghị sau đây :
Nhà trường cần tăng cường và đổi mới các hoạt động tập thể, xây dựng môi
trường thân thiện, xây dựng cơ sở vật chất, khu vui chơi giải trí, thể thao, tổ
chức các buổi hoạt động tham quan dã ngoại để lôi cuốn học sinh.
Bên cạnh đó, cần tăng cường đưa giáo dục pháp luật, giáo dục giới tính,
giáo dục sức khỏe vị thành niên, giáo dục kĩ năng sống vào nhà trường để các
em có đủ hành trang bước vào cuộc sống. Khi gặp phải những tình huống bất
ngờ các em không bỡ ngỡ mà biết bình tĩnh xử lí một cách khéo léo, hiệu quả tốt
nhất.
Thanh Hóa, ngày 15 tháng 5 năm 2016
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Tôi xin cam đoan đây là SKKN
của tôi viết, không copy nội
dung của người khác

Nguyễn Thị Phương

TÀI LIỆU THAM KHẢO
16


1. Vũ Trọng Dung (2005), Giáo trình đạo đức học Mác - Lênin, NXB Chính trị

quốc gia, Hà Nội
2. Giáo trình phần III, Quyển 1 (2003), Quản lí GD&ĐT, Trường CBQLGiáo
dục và đào tạo, Hà Nội
3. Hồ Chí Minh (1983), Về đạo đức, NXB Chính trị quốc gia Hà Nội.
4. Báo Giáo dục và thời đại số, ngày 18 tháng 06 năm 2015
5. Báo điện tử Đảng cộng sản Việt Nam, ngày 05 tháng 10 năm 2015.

17



×